Hiển thị các bài đăng có nhãn chínhtrịxãhội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chínhtrịxãhội. Hiển thị tất cả bài đăng

25 tháng 5 2014

Vì sao giá nông sản Mỹ rẻ?

Tờ “Kinh tế Trung Quốc” ngày 9/8/2013 có bài “Vì sao giá hàng nông sản phẩm của Mỹ rẻ hơn Trung Quốc nhiều?” của Tác giả Phan Thạch Ngất. Bài báo viết Trung Quốc là nước nông nghiệp, nhưng sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự cấp tự túc. Chính sách của Trung Quốc là lấy an ninh lương thực làm chỉ đạo, thậm chí còn chủ trương “Lấy lương thực làm cương lĩnh”, chú trọng tăng sản lượng, như mỗi mẫu đất cho sản lượng là bao nhiêu cân thóc. Với phương thức sản xuất này thì cho dù nhà nước có trợ cấp giá bao nhiêu thì giá lương thực vẫn chưa thể ổn định mà vẫn tăng, nhất là thời tiết không thuận.

Một thực tế là giá hàng nông sản ở các nước công nghiệp phát triển, điển hình là Mỹ rẻ hơn nhiều so với giá ở các nước nông nghiệp và đang phát triển. Nhiều người Việt Nam đi ra nước ngoài thích ăn rau nhất. Vì tin rằng nó sạch. Và ở nhiều nước chắc chắn là sạch. Trong đó có Mỹ. Rau chân vịt, rau xà lách mua từ siêu thị về khỏi cần rửa, ăn luôn. Trên bao bì đề rõ “Đã rửa ba lần”. Cũng hoàn toàn đáng tin, từ cái công ty chế biến nông sản cho tới những người nông dân đã trồng ra túi rau ấy. Nông dân là tầng lớp đáng tin số 1 ở Mỹ, bởi rất nhiều lý do, trong đó có việc họ nằm trong số những người nông dân sướng nhất và giàu có nhất thế giới, nếu không muốn nói họ chính là số 1, nên không thể phản bội lại những người tiêu dùng, và cũng chẳng cần gian dối chứ chưa nói tới cơ chế khó lòng dung dưỡng cho gian dối.

Mỹ là nước đại công nghiệp, nhưng họ vẫn lấy “Nông nghiệp là cơ sở của ngành chế tạo và thương nghiệp” và vẫn nhấn mạnh “Dĩ nông lập quốc”. Mỹ là nước sản xuất công nghiệp hàng đầu thế giới, nhưng cũng là nước sản xuất nông nghiệp hàng đầu thế giới và xuất khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới, như xuất khẩu thịt bò chiếm 1/4 thị phần thế giới, ngũ cốc, sữa bò, trứng chiếm 1/5 thị trường thế giới. Rõ ràng nước Mỹ đã giải quyết được bài toán về sản xuất nông nghiệp không phải tự cấp tự túc mà theo hướng kinh doanh và xuất khẩu. Phương thức sản xuất nông nghiệp của họ là lấy kinh doanh làm chủ đạo theo tiêu chí đầu vào cho một mẫu đất là một đồng thì đầu ra sẽ được bao nhiêu tiền, đồng thời luôn bám sát thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để đẩy mạnh xuất khẩu.

Để giải quyết bài toán này, chẳng những có phương thức kinh doanh đúng đắn mà còn có các phương tiện và biện pháp khoa học kỹ thuật giúp sức ở tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, như tự động hóa, cơ giới hóa, vệ tinh hóa, mạng số hóa. Một gia đình nông dân có 6 người, nhưng canh tác diện tích tới trên 1.000 héc-ta. Ngay từ năm 1987, giá trị bình quân một lao động nông nghiệp Mỹ đã đạt tới 55.300 USD/giờ, gấp 4 lần mức bình quân của các nước công nghiệp phát triển. Tố chất của người nông dân Mỹ cũng cao hơn, như trên 30% nông dân Mỹ có trình độ đại học, trong số này hơn 50% có trình độ trên đại học. Để hàng nông sản thực phẩm cạnh tranh giành được thị phần thế giới, rõ ràng giá cả phải rẻ và chất lượng phải đảm bảo, nhất là những thị trường khó tính như các nước công nghiệp phát triển Phương Tây và Nhật Bản.

Ngoài ra, nhà nước Mỹ cũng hỗ trợ đắc lực để hiện đại hóa và số hóa sản xuất nông nghiệp, như năm 2004, nhà nước hỗ trợ 196 triệu USD để nâng cấp mạng số hóa hệ thống Internet cho nông dân nhằm tìm thị trường và có thông tin nhanh nhạy để cạnh tranh trên trường quốc tế. Nhà nước còn hỗ trợ tới 6,2 tỉ USD cho bảo vệ môi trường nông nghiệp. Năm 2004, nhà nước đầu tư tới 74 tỉ USD để hoàn thiện các mạng lưới dịch vụ và hạng mục đầu tư nâng cấp khoa học ky thuật cho nông nghiệp. Riêng khâu an toàn lương thực thực phẩm được nhà nước hỗ trợ tới gần 900 triệu USD. Nhà nước Mỹ trợ cấp và hỗ trợ nông nghiệp để người dân Mỹ được hưởng giá hàng nông sản rẻ. Chính vì vậy mà giá hàng nông sản phẩm của Mỹ rẻ.

Thuần về kinh tế, chỉ có chừng 2% dân số Hoa Kỳ là còn hoạt động trong khu vực nông nghiệp, nhưng với sản lượng canh nông và lương thực cao nhất thế giới và còn dư để nuôi sống xứ khác. Ở Mỹ hiện có khoảng 4,5 triệu nông dân chiếm chưa đầy 2% dân số trong đó khoảng hơn 50 ngàn nông trại có doanh thu trên 1 triệu đô/năm và thu nhập hộ gia đình bình quân là 200 ngàn đô/năm (theo Bộ Nông nghiệp Mỹ - USDA), gấp đôi so với thu nhập của một luật sư hay bác sĩ. Hàng năm ngành nông nghiệp Mỹ chẳng những cung cấp lượng hàng nông sản thực phẩm tiêu thụ trị giá tới 547 tỉ USD cho hơn 250 triệu dân ở trong nước mà còn xuất khẩu một khối lượng lớn hàng lương thực thực phẩm các loại ra nước ngoài, như năm 2013 đạt trên 145 tỉ USD. Bình quân mỗi giờ người nông dân Mỹ đã tạo ra giá trị tới 6 triệu USD hàng xuất khẩu nông sản thực phẩm. Trong khi cả nền kinh tế chỉ tăng trưởng trên dưới 2%/năm trong thời gian qua thì thu nhập sau thuế của nông trại tăng 27%, bởi thế, trong khi bất động sản suy thoái suốt từ 2008-2012 thì đầu tư đất đai nông trại lại là lĩnh vực đầu tư béo bở nhất ở phố Wall.

Ngày nay, nói về "nông dân" nghĩa là các nông trại bạt ngàn có đầy thiết bị canh tác hiện đại với năng suất cực cao và đến các đại công ty kinh doanh về thực phẩm, chứ không phải các tá điền cầy cấy trên những thửa ruộng nhỏ, sau khi Tổng khủng hoảng xảy ra, Hoa Kỳ có gần bảy triệu nông trại, ngày nay chỉ còn hai triệu, tức là số dân sống trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm mạnh, nhờ tiến bộ về kỹ thuật canh tác và về sinh học, năng suất canh nông Hoa Kỳ đã tăng vượt bậc, gấp ba gấp bốn thời trước.

Mà không chỉ giàu, nông dân Mỹ còn sướng. Những người nông dân làm việc trong các trang trại có doanh thu trên 1 triệu đô sử dụng thiết bị vệ tinh định vị trong khi canh tác, nuôi trồng, và sử dụng máy tính để quản lý sức khỏe gia súc. Một hình ảnh tiêu biểu cho các trang trại quanh Thủ đô Washington (thuộc các bang lân cận như Virginia, Maryland...) là những người nông dân da trắng đứng bán hàng trong khi các nhân công làm thuê người gốc Mỹ Latin thong thả lái những chiếc máy cày máy kéo trên những cánh đồng bát ngát, nhờ tiến bộ về kỹ thuật canh tác và về sinh học, năng suất canh nông Hoa Kỳ đã tăng vượt bậc, gấp ba gấp bốn thời trước, nông dân Mỹ thật ra là doanh gia hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, với lợi tức đồng niên cao gần bằng sản lượng của cả nước Việt Nam, năm 2012 hơn 90 tỷ đô la, năm 2011 còn lên tới gần trăm tỷ.

Họ không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm (tương đối) an toàn và chất lượng cho thị trường nội địa Mỹ, mà mỗi năm còn xuất khẩu hơn 100 tỷ đô (bằng khoảng 2/3 GDP của Việt Nam). Chưa hết, nông dân Mỹ còn được hỗ trợ tối đa. Trợ cấp là "những lợi ích mà Chính phủ đem lại cho một đối tượng nhất định và có thể lượng hoá về mặt tài chính". Chính sách trợ giúp nông sản của Mỹ là trợ giá trực tiếp đối với sản xuất nông nghiệp và nông dân. Đặc điểm của trợ cấp nông nghiệp của Mỹ Hoa Kỳ, quốc gia công nghiệp tiên tiến và vẫn thường đề cao tự do mậu dịch trên thế giới.

Thuần về chính sách thì sau vụ Tổng khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933, từ năm 1935, người ta định chế hóa chính sách nông nghiệp trong ý hướng giúp đỡ nông gia khỏi bị thiệt hại vì biến động của thị trường. Sau đó, chính sách này còn nhắm vào nhiều mục tiêu khác. Năm 2008, Thượng viện cùng Hạ viện Mỹ đang chuẩn bị biểu quyết một đạo luật thay thế Đạo luật về canh nông và lương thực Hoa Kỳ, theo thông lệ là năm năm ban hành một lần. Đây là một văn kiện trị giá mấy trăm tỷ đô la do Bộ Canh nông quản lý và có ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực sinh hoạt của Mỹ lẫn nền ngoại thương của các nước khác.

Mới đây, Tổng thống Obama đã đặt bút ký ban hành Luật Nông trại trị giá 1 ngàn tỉ đô trị giá trong vòng mười năm. Có nhiều hạng mục bị cắt giảm trong bối cảnh khủng hoảng ngân sách, nhưng có một điều không thay đổi đó là chương trình trợ giá cho nông dân Mỹ. Tuy diện tích canh tác nói chung giảm, nhưng không nhiều bằng dân số sống về nghề nông, với kết quả là người ta có loại nông trại ngày một rộng. Tổng kết về phẩm và lượng thì số nông trại lớn, một năm đạt mức thương vụ trên 250 ngàn đô la, chỉ bằng 12% tổng số nông trại toàn quốc, nhưng sản xuất ra 84% nông sản Hoa Kỳ. Còn lại, 88% các nông trại là loại nhỏ và chỉ cung cấp 16% sản lượng. Khi nói đến trợ giúp nông gia người ta có thể quên rằng chính các nông trại lớn có doanh vụ rất cao lại được hưởng nhiều trợ cấp nhất, trong khi các gia đình có doanh vụ dưới 250 ngàn đô la một năm lại được ít hơn.

Trợ giá cho nông dân đã là một truyền thống, dù cho người ta có quyền cáo buộc nó là kết quả của những cuộc vận động hậu trường đầy mùi tiền thông qua những lần gây quỹ tranh cử cả ở cấp lập pháp lẫn hành pháp. Năm 2012, USDA cho biết nông dân Mỹ được trợ giá, trợ cấp tới 14 tỷ đô, tương đương 5% tổng doanh thu tiền mặt của toàn các trang trại Mỹ. Và dù được trợ cấp trợ giá rõ ràng như thế, nhưng bất cứ mặt hàng nông sản nào từ nước ngoài vào thị trường Mỹ nếu có nguy cơ đánh bại nông sản Mỹ, cũng có thể bị kiện cho tơi tả qua những vụ kiện bán phá giá, chống trợ cấp, giống như chuyện con cá tra hay con tôm Việt Nam vậy. Mà nông nghiệp mới chỉ cấu thành chừng chưa tới 1,5% GDP của nước Mỹ. Nếu là nước nông nghiệp thật, rau của Mỹ còn ngon, sạch cỡ nào, và nông dân Mỹ còn giàu nhường nào?

Nông nghiệp Mỹ được trợ cấp nhiều nhất thế giới: mình Mỹ trợ cấp nông nghiệp: 50 tỷ USD, EU: 129,8 tỷ USD. Năm 2002, Mỹ thực tế sử dụng 3,085 tỉ USD vào bảo hiểm nông nghiệp, dự toán bảo hiểm nông nghiệp năm 2004 là 2,938 tỉ USD. Thực ra, mỗi năm Mỹ trợ giá nông nghiệp 10-30 tỷ USD. Nhưng tiền phần nhiều không đến tay nông dân nghèo (theo tiêu chuẩn Mỹ), nó rơi vào tay các đại nông trại, các công ty giống, phân bón, công nghệ, các nhà băng.

Trợ giá nông nghiệp Mỹ bao gồm:

Hỗ trợ trong nước (Domestic support subsidies): Hỗ trợ trong nước là những lợi ích được Cphủ dành cho một hoặc một số đối tượng mà không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết quả XK của đối tượng đó.

Hộp xanh lá cây (Green box subsidies): gồm các chương trình chi trả trực tiếp nhằm hỗ trợ thu nhập của người nông dân nhưng không ảnh hưởng đến các quyết định SX (nói cách khác là không mang tính bóp méo thương mại). Hộp xanh lá cây bao gồm:
• Chương trình trợ cấp hồi hưu cho người sx nông nghiệp;
• Chương trình chuyển đổi nguồn lực;
• Chương trình bảo vệ môi trường;
• Chương trình hỗ trợ vùng;
• Dự trữ quốc gia vì mục đích an ninh lương thực;
• Chương trình trợ cấp lương thực trong nước;
• Một số hình thức hỗ trợ đầu tư;
• Dịch vụ chung của Nhà nước phục vụ cho: nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông; thông tin thị trường và CSHT nông thôn.

Hộp xanh lam - hộp xanh da trời (Blue box subsidies): Những biện pháp hỗ trợ thuộc loại này có thể có ảnh hưởng bóp méo sản xuất và thương mại nhưng chỉ ở mức tối thiểu. Hộp xanh lam gồm:
• Khoản chi trả trực tiếp trong chương trình hạn chế SX hoặc khoản chi trả cho chăn nuôi.
• Với nước đang phát triển: hỗ trợ được thực hiện thông qua các khoản hỗ trợ đầu tư của CPhủ.
• Hỗ trợ để khuyến khích việc chuyển từ cây trồng thuốc phiện sang các cây trồng khác.

Hộp hổ phách (amber subsidies) - Loại hỗ trợ mang tính bóp méo thương mại rõ ràng → không được miễn và buộc phải cắt giảm. Đề ra mức trần cho tổng mức hỗ trợ trong nước AMS (Aggregate Measurement of Support).
b)Trợ cấp xuất khẩu (Export Subsidies)
(1) Trợ cấp trực tiếp dựa trên thành tích XK.
(2) XK nông sản dự trữ với giá của sp tương tự trong nước.
(3) Thanh toán cho hàng nông sản XK thông qua hoạt động của Cphủ.
(4) Trợ cấp nhằm ↓ CFí XK nông sản gồm CFí bảo quản, nâng cấp, chế biến CFí vtải qtế;
(5) Bảo đảm hay ủy quyền bảo đảm vtải nội địa đv hàng XK với các đk ưu đãi vtải hàng trong nước;
(6) Trợ cấp cho nông sản dựa trên tỷ trọng trong sp XK.

• Có rất nhiều vấn đề không minh bạch về thống kê và pháp luật của các nước phát triển
• Những cam kết chưa đạt được tại vòng Urugoay trong NN vẫn tiếp tục phải giải quyết tại vòng Doha
• Mục tiêu tự do và bình đẳng, thực hiện theo cơ chế thị trường vẫn chưa đạt được

TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Vào những ngày đầu tiên của quốc gia này, hoạt động nông nghiệp đã giữ một vị trí chủ yếu trong nền kinh tế và văn hóa Hoa Kỳ. Tất nhiên, nông dân có một vai trò quan trọng trong bất cứ xã hội nào vì họ nuôi sống mọi người. Nhưng hoạt động nông nghiệp được đánh giá đặc biệt ở nước Mỹ. Trong giai đoạn ban đầu của đất nước, người nông dân được coi là khuôn mẫu cho những đức tính cần thiết trong hoạt động kinh tế như cần cù chịu khó, sáng tạo, và làm ăn tự chủ. Hơn thế nữa, nhiều người Mỹ - đặc biệt là những người nhập cư chưa bao giờ có một mảnh đất và chưa từng có quyền sở hữu đối với sức lao động và sản phẩm của chính mình - thấy rằng sở hữu một trang trại là chiếc vé để đi vào hệ thống kinh tế Mỹ. Ngay cả những người đã rời bỏ nông nghiệp cũng thường sử dụng đất đai như một loại hàng hóa rất dễ mua và bán để mở ra con đường kiếm lời khác.

Người nông dân Mỹ nhìn chung đều khá thành công trong việc sản xuất lương thực thực phẩm. Quả thực, đôi khi sự thành công của họ lại gây ra vấn đề rắc rối nhất: theo chu kỳ, lĩnh vực nông nghiệp phải chịu những đợt sản xuất thừa gây sức ép lên giá cả. Với những chu kỳ dài, chính phủ phải giúp giải quyết ổn thỏa tình trạng xấu nhất đó. Nông dân Mỹ có khả năng tạo ra sản lượng lớn do nhiều yếu tố. Thứ nhất, họ làm việc trong những điều kiện tự nhiên cực kỳ thuận lợi. Vùng Trung Tây nước Mỹ có đất đai màu mỡ nhất thế giới. Lượng mưa vừa đủ cho hầu hết các vùng của đất nước; nước sông và nước ngầm cho phép tưới rộng khắp cho những nơi còn thiếu.

Các khoản vốn đầu tư lớn và việc tăng cường sử dụng lao động có trình độ cao cũng góp phần vào thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền. Công nghệ sinh học đưa đến việc phát triển những loại giống chống được bệnh và chịu hạn. Phân hóa học và thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến (theo các nhà môi trường thì đã quá phổ biến). Máy tính đi theo hoạt động của trang trại, và thậm chí công nghệ vũ trụ được sử dụng để tìm ra những nơi tốt nhất cho gieo trồng và thâm canh mùa màng. Hơn thế nữa, theo định kỳ các nhà nghiên cứu lại giới thiệu các sản phẩm thực phẩm mới và những phương pháp mới để phục vụ nuôi trồng, chẳng hạn như các hồ nhân tạo để nuôi cá.

Tuy vậy, người nông dân vẫn chưa loại bỏ được một số qui luật cơ bản của tự nhiên. Họ vẫn còn phải chiến đấu với những thế lực nằm ngoài sự kiểm soát của mình - đáng chú ý nhất là thời tiết. Mặc dù khí hậu vùng Bắc Mỹ nhìn chung là ôn hòa nhưng đôi khi vẫn có lũ lụt và hạn hán. Những thay đổi về thời tiết làm cho nông nghiệp có chu kỳ kinh tế riêng của mình, và thường không liên quan đến nền kinh tế nói chung.

Những lời kêu gọi chính phủ trợ giúp xuất hiện khi có những yếu tố chống lại thành công của nông dân; đôi khi các nhân tố khác nhau cùng ập đến đẩy các nông trại đến bên bờ phá sản thì các yêu cầu xin giúp đỡ đặc biệt tăng mạnh. Ví dụ, trong những năm 1930, sản xuất thừa, thời tiết xấu, và cuộc Đại khủng hoảng kết hợp xuất hiện như một khó khăn không thể vượt qua đối với nhiều nông dân Mỹ. Chính phủ đã khắc phục tình hình bằng những cuộc cải cách nông nghiệp có ảnh hưởng sâu rộng - đáng chú ý nhất là hệ thống trợ giá. Sự can thiệp với quy mô lớn chưa từng thấy này kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990, khi Quốc hội dỡ bỏ nhiều chương trình hỗ trợ.

Chính sách nông nghiệp ban đầu

Trong thời kỳ thuộc địa của lịch sử nước Mỹ, Vương quốc Anh chia đất đai thành những khoanh lớn để ban cho các công ty tư nhân hoặc cá nhân. Những người được ban đất lại tiếp tục chia đất đai ra và bán nó cho những người khác. Khi giành được độc lập từ tay nước Anh vào năm 1783, những người sáng lập nước Mỹ thấy cần phải xây dựng một hệ thống phân phối đất đai mới. Họ thống nhất rằng tất cả đất đai chưa có người sở hữu sẽ thuộc quyền của chính phủ liên bang, lúc đó chính phủ có thể bán nó với giá 2,50 USD một a (6,25 USD một hecta).

Nhiều người bất chấp nguy hiểm và khó khăn để định cư trên những mảnh đất mới, đó là những người nghèo, và họ thường định cư như “những người lấn chiếm đất công” mà không có giấy tờ rõ ràng về mảnh đất của mình. Qua thế kỷ đầu tiên, nhiều người Mỹ cho rằng đất đai nên được trao không mất tiền cho những người định cư nếu họ vẫn sống và làm việc trên đó. Điều này cuối cùng được thực hiện thông qua Đạo luật về đất đai năm 1862, đạo luật đã mở ra những vùng đất đai rộng lớn miền Tây cho việc định cư dễ dàng. Một luật nữa cũng được thông qua cùng năm đó, giành riêng một phần đất đai liên bang để tạo ra thu nhập dùng vào việc xây dựng các trường đại học, còn gọi là các trường đại học được ban đất, ở các bang khác nhau. Việc cấp vốn cho các trường đại học thông qua Đạo luật Morrill tạo ra những cơ hội mới về giáo dục và đào tạo trong các lĩnh vực kỹ thuật thực hành, bao gồm cả kỹ thuật canh tác.

Mở rộng sở hữu tư nhân với các trang trại quy mô vừa phải chưa bao giờ là tiêu chuẩn ở miền Nam như đối với phần còn lại của Hoa Kỳ. Trước cuộc Nội chiến (1861-1865), những đồn điền lớn với diện tích hàng trăm hecta, nếu không muốn nói là hàng nghìn hecta, được thiết lập để sản xuất thuốc lá, gạo và bông với quy mô lớn. Các trang trại này được kiểm soát chặt chẽ bởi một số ít gia đình giàu có. Hầu hết người lao động ở trang trại là nô lệ. Với việc xóa bỏ chế độ nô lệ sau Nội chiến, nhiều nô lệ trước đây ở lại trên vùng đất đó như các nông dân làm thuê (còn gọi là người cấy rẽ) theo các thỏa thuận với những chủ cũ của họ.

Việc cung cấp rất nhiều lương thực thực phẩm cho công nhân trong nhà máy, công xưởng và các cửa hàng là yếu tố thiết yếu cho tiến trình công nghiệp hóa ban đầu của nước Mỹ. Hệ thống đường thủy và đường bộ phát triển đã mở ra khả năng vận chuyển nông phẩm trên các tuyến đường dài. Các sáng kiến mới như máy cày rẽ bằng thép (cần thiết cho các vùng đất cứng ở miền Trung Tây), máy gặt (một loại máy thu hoạch lúa hạt) và máy liên hoàn (một loại máy cắt, đập và quạt lúa) đã cho phép các trang trại nâng cao năng suất. Nhiều công nhân trong các nhà máy và công xưởng của quốc gia là những người con của các gia đình nông dân mà lao động của họ không còn cần thiết cho nông trại nhờ thành quả của những sáng kiến đó.

Vào năm 1860, hai triệu nông trại của quốc gia đã sản xuất dư thừa hàng hoá. Trên thực tế, các sản phẩm nông nghiệp chiếm 82% hàng hóa xuất khẩu của đất nước trong năm 1860. Với một ý nghĩa rất thực tế, ngành nông nghiệp đã tạo ra sức mạnh cho sự phát triển kinh tế Mỹ. Khi nền kinh tế trang trại phát triển, người nông dân ngày càng nhận thức được rằng các chính sách của chính phủ đã tác động đến kế sinh nhai của họ. Nhóm vận động chính trị cho nông dân đầu tiên, Nghiệp đoàn nông dân, được thành lập vào năm 1867. Nó phát triển rất nhanh chóng, và tiếp theo là các nhóm tương tự - như Liên minh nông dân và Đảng dân tuý. Các nhóm này nhằm mục tiêu vào các ngành đường sắt, thương nhân và ngân hàng - họ nhằm vào đường sắt vì cước vận chuyển cao, nhằm vào thương nhân vì những gì người nông dân cho là những khoản lợi nhuận vô lương tâm bị lấy đi bởi “những người môi giới”, và nhằm vào ngân hàng vì những hoạt động tín dụng quá chặt chẽ.

Sự khích động chính trị của nông dân cũng đem lại một số kết quả. Đường sắt và máy băng chuyền vận chuyển lúa được đặt dưới sự điều tiết của chính phủ, hàng trăm hợp tác xã và ngân hàng được hình thành. Tuy nhiên, khi những nhóm nông dân cố gắng định hình chương trình nghị sự chính trị của quốc gia bằng việc ủng hộ nhà hùng biện nổi tiếng thuộc Đảng Dân chủ William Jennings Bryan trong cuộc tranh cử tổng thống vào năm 1896, thì ứng cử viên của họ đã thất bại. Người dân thành phố và các nhóm lợi ích kinh doanh ở miền Đông nhìn những yêu cầu của nông dân với con mắt ngờ vực, sợ rằng các yêu cầu về vay lãi thấp và tín dụng dễ dàng có thể dẫn đến lạm phát tai hại.

Chính sách nông nghiệp trong thế kỷ XX

Bất chấp những thành tích chính trị không có gì nổi bật của các nhóm nông dân cuối thế kỷ XIX, hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX đã trở thành thời kỳ vàng son của ngành nông nghiệp Mỹ. Giá nông phẩm rất cao khi cầu về hàng hóa gia tăng và giá trị của đất đai tăng. Những tiến bộ kỹ thuật tiếp tục nâng cao năng suất. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã thành lập các trang trại thử nghiệm nhằm trưng bày các kỹ thuật mới có thể nâng cao sản lượng mùa màng; năm 1914, Quốc hội lập ra cơ quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển mộ một đội ngũ cán bộ để cố vấn cho nông dân và gia đình họ mọi việc, từ phân bón cho đến các dự án sửa chữa cải tạo của gia đình. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm tiến hành các nghiên cứu mới, phát triển những giống lợn tăng trọng nhanh hơn và đỡ tốn thức ăn hơn, những loại phân bón làm tăng sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.

Những năm tốt đẹp đầu thế kỷ XX chấm dứt khi giá cả giảm xuống sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nông dân lại kêu gọi sự giúp đỡ của chính phủ liên bang. Mặc dù vậy, những lời yêu cầu của họ đã bị bỏ ngoài tai khi mà phần còn lại của quốc gia - đặc biệt là những vùng đô thị - đang tận hưởng cuộc sống thịnh vượng của những năm 1920. Giai đoạn này, người nông dân gặp nhiều thảm họa hơn cả những thời kỳ khó khăn trước đây bởi vì họ không còn tự cung tự cấp nữa. Họ phải thanh toán bằng tiền mặt cho máy móc, hạt giống và phân bón cũng như cho hàng hóa tiêu dùng, trong khi thu nhập của họ tụt xuống cực kỳ thấp.

Tuy nhiên, không lâu sau cả quốc gia đã chia sẻ nỗi khó khăn của nông dân khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế sau sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán năm 1929. Đối với nông dân, cuộc khủng hoảng kinh tế còn trộn thêm cả những khó khăn nảy sinh do sản xuất thừa. Sau đó, khu vực nông nghiệp còn gặp phải những điều kiện thời tiết bất lợi cho hoạt động canh tác. Những đợt gió dai dẳng trong suốt mùa khô hạn kéo dài đã thổi mất đi những lớp đất mầu mỡ trên bề mặt của một vùng rộng lớn đã từng cho năng suất cao. Khái niệm “bão bụi” được đặt ra để mô tả những điều kiện xấu ấy.

Những chính sách “bảo vệ” nông nghiệp và thương mại thế giới

Sự can thiệp của chính phủ được mở rộng trong nền kinh tế nông nghiệp bắt đầu vào năm 1929, khi Tổng thống Herbert Hoover (1929-1933) thành lập Ban nông nghiệp liên bang. Mặc dù ban này không thể đáp ứng những thách thức gia tăng do cuộc Đại khủng hoảng mang lại, nhưng việc thiết lập tổ chức này thể hiện cam kết quốc gia đầu tiên nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế nhiều hơn nữa cho nông dân và đặt ra một tiền lệ về sự điều tiết các thị trường nông sản của chính phủ.

Từ năm 1932, Chính phủ Mỹ đã nhận định các khâu trung gian (doanh nghiệp kinh doanh, chế biến nông sản, vật tư nông nghiệp và xuất khẩu lương thực) chiếm lợi tức áp đảo, câu kết với các đối tác nước ngoài, khiến thu nhập của nông dân Mỹ giảm sút. Đạo luật Điều tiết nông nghiệp 1933 đã được chính phủ ban hành, đặt nền móng cho chính sách khuyến nông.

Vào mùa xuân năm 1933, khu vực kinh tế nông nghiệp đang trong tình trạng suy sụp. Điều đó khiến những người khởi xướng Chính sách kinh tế mới có cơ sở để thử nghiệm niềm tin của họ rằng việc điều tiết nhiều hơn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề của đất nước.

Năm 1933, Quốc hội đã thông qua Luật Điều chỉnh Nông nghiệp (AAA) nhằm trợ giúp kinh tế cho nông dân. AAA đề xuất tăng giá nông sản bằng cách trả cho nông dân một khoản trợ cấp đền bù cho phần sản lượng tự nguyện cắt giảm. Nguồn tiền cho những khoản trợ cấp này có được do số thu từ thuế đánh vào những ngành công nghiệp chế biến nông sản. Tuy nhiên, cho đến khi điều luật này chính thức trở thành luật, thì vụ gieo trồng đã diễn ra rồi, và AAA buộc phải trả cho nông dân một khoản tiền trợ cấp để họ phá bỏ các mảnh đất đã được gieo trồng. Việc cắt giảm sản lượng và trợ cấp nông nghiệp thông qua Công ty Tín dụng Nông sản - là công ty thu mua nông sản để cất trữ - khiến cho sản lượng trên thị trường giảm xuống và giá nông sản tăng lên.

Chính sách kinh tế mới (tiếng Anh là New Deal) là tên gọi của một tổ hợp các đạo luật, chính sách, giải pháp nhằm đưa Hoa Kỳ thoát ra khỏi cuộc đại suy thoái kinh tế 1929-1933. Chính sách kinh tế mới gắn liền với tên tuổi của vị tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ, Franklin Delano Roosevelt (gọi tắt là FDR).

Trong buổi lễ nhậm chức tổng thống của mình vào năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã tuyên bố chuyển đổi chính sách nông nghiệp quốc gia mạnh mẽ hơn so với sáng kiến của Hoover. Roosevelt đã đề xuất, và Quốc hội đã tán thành, các luật nhằm nâng cao giá cả nông sản bằng việc hạn chế sản xuất. Chính phủ cũng chấp nhận và thực hiện một hệ thống trợ giá để bảo đảm cho nông dân một mức giá “tương đương” gần bằng mức giá có thể có được trong thời kỳ thị trường thuận lợi. Trong những năm sản xuất thừa, khi giá cả nông sản thấp hơn mức giá tương đương, chính phủ chấp nhận mua lượng thừa đó.

Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã phải đối mặt với một tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng có trong lịch sử. Vào thời điểm ông nhậm chức, có khoảng 13 triệu người Mỹ - chiếm một phần tư lực lượng lao động - không có việc làm. Những hàng người chờ đợi được phân phát bánh mỳ là cảnh tượng thường thấy tại hầu hết các thành phố. Hàng trăm nghìn người lang thang khắp đất nước để tìm kiếm thức ăn, việc làm và nơi trú ngụ. Khi F.D. Roosevelt tuyên thệ nhậm chức tổng thống, hệ thống ngân hàng và tài chính của Mỹ đang trong tình trạng tê liệt.

Đầu tiên, các ngân hàng quốc gia nhanh chóng bị đóng cửa, và sau đó, chỉ được hoạt động trở lại khi chúng có khả năng chi trả. Chính quyền đã thực thi chính sách lạm phát tiền tệ vừa phải để tăng giá cả của hàng hóa và giúp cho các gánh nặng nợ nần nhẹ nhõm phần nào. Các cơ quan mới của chính phủ đã cấp những khoản tín dụng hào phóng cho nông nghiệp và công nghiệp. Công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) đã bảo hiểm tới 5.000 USD cho các khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Các điều luật Liên bang cũng được áp dụng cho hoạt động bán chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán.

Có những sáng kiến nữa của Chính sách mới để hỗ trợ nông dân. Quốc hội thành lập Ban quản lý điện khí hóa nông thôn nhằm mở rộng các tuyến truyền tải điện đến các vùng nông thôn. Chính phủ giúp đỡ xây dựng và duy tu hệ thống các đường giao thông từ trang trại đến thị trường để người nông dân cũng như hàng hóa của họ có thể tới được các thành phố và đô thị thuận lợi hơn. Những chương trình bảo toàn đất đai nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quản lý hiệu quả đất canh tác.

Bước đi đầu tiên nhằm giải quyết nạn thất nghiệp là hình thành Đội Bảo tồn Dân sự (CCC), một chương trình trợ giúp thanh niên từ 18 đến 25 tuổi. CCC tập hợp thanh niên không có việc làm thành những trại lao động do quân đội quản lý. Trong thập niên đó, đã có khoảng hai triệu thanh niên đã tham gia chương trình này. Họ hoạt động trong nhiều dự án bảo tồn: trồng cây chống xói mòn, bảo vệ các khu rừng quốc gia, loại bỏ ô nhiễm các dòng suối, xây dựng các khu bảo tồn cá, thú săn và chim, bảo vệ các vỉa than, mỏ dầu, đá phiến dẹt, mỏ khí đốt, mỏ muối natri và mỏ khí heli.

Cơ quan Quản lý các công trình công cộng (PWA) cung cấp việc làm cho những công nhân có tay nghề cao trong ngành xây dựng, chủ yếu làm việc trong các dự án lớn hoặc các dự án có quy mô vừa. Các công trình nổi tiếng trong giai đoạn này là đập nước Bonneville, đập Lớn Coulee tại miền Đông Bắc Thái Bình Dương, hệ thống cống ở Chicago, cầu Triborough ở thành phố New York, và hai tàu sân bay (Yorktown và Enterprise) cho Hải quân Mỹ.

Cơ quan Tennessee Valley (TVA), vừa là một chương trình tạo công ăn việc làm, vừa là một dự án quy hoạch các công trình công cộng, đã phát triển vùng thung lũng nghèo của sông Tennessee bằng cách xây dựng một loạt các đập nước nhằm kiểm soát lũ lụt và làm thủy điện. Bằng việc cung cấp điện với giá rẻ cho toàn bộ vùng Tennessee, cơ quan này đã thúc đẩy sự tăng trưởng nhất định về kinh tế, nhưng lại khiến các công ty điện lực tư nhân ghen ghét và thù địch. Các nhà kinh tế xã hội mới ca ngợi rằng đây là một ví dụ tiêu biểu về dân chủ cơ sở.

Cơ quan Phục hồi Quốc gia (NRA) được thành lập năm 1933 cùng với Đạo luật Phục hồi Công nghiệp Quốc gia (NIRA) đã chấm dứt cạnh tranh gay gắt bằng việc đưa ra các bộ luật về cạnh tranh công bằng nhằm tạo nhiều việc làm hơn và do đó sẽ làm tăng sức mua. Tuy lúc đầu, NRA rất được hoan nghênh, nhưng nó đã sớm bị phàn nàn vì đã điều tiết quá mức và khiến cho việc phục hồi công nghiệp không được hoàn thành. Cơ quan này đã bị tuyên bố là không hợp hiến vào năm 1935.

NIRA đã đảm bảo cho lao động quyền được thương lượng tập thể thông qua các tổ chức công đoàn đại diện cho tầng lớp công nhân. Tuy nhiên, NRA đã không vượt qua được sự phản đối mạnh mẽ của giới doanh nghiệp đối với chủ nghĩa nghiệp đoàn độc lập. Sau khi cơ quan này giải thể vào năm 1935, Quốc hội đã thông qua Luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Luật này đã khẳng định lại sự bảo đảm đó và cấm giới chủ lao động can thiệp vào hoạt động của Công đoàn. Quốc hội cũng lập ra Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) để giám sát các cuộc thương lượng tập thể, điều hành các cuộc bầu cử và bảo đảm cho công nhân quyền lựa chọn tổ chức đại diện cho họ trong việc thương lượng với giới chủ.

Cơ quan Xúc tiến Việc làm (WPA), một cơ quan hỗ trợ trọng yếu của Chính sách kinh tế mới lần thứ hai, là tổ chức cung cấp việc làm lớn nhất thời kỳ đó. Cơ quan này đã triển khai các dự án quy mô nhỏ trên khắp đất nước, xây dựng nhà cửa, đường sá, sân bay và trường học. Các diễn viên, họa sỹ, nhạc sỹ và nhà văn được làm việc cho các Dự án Nhà hát Liên bang, Dự án Nghệ thuật Liên bang và Dự án Nhà văn Liên bang. Ngoài ra, Cơ quan Thanh niên Quốc gia cũng đã cung cấp việc làm bán thời gian cho sinh viên, thiết kế các chương trình đào tạo và trợ cấp cho những thanh niên chưa có việc làm. WPA tính toán được khoảng ba triệu người thất nghiệp trong thời điểm đó; và cho đến khi bị bãi bỏ năm 1943 thì cơ quan này đã giúp đỡ được tổng cộng chín triệu người.

Sự tiến bộ lớn lao đạt được trong tổ chức lao động đã mang lại cho người lao động ý thức ngày càng tăng về những quyền lợi chung, và sức mạnh của các tầng lớp lao động đã tăng lên không chỉ trong công nghiệp, mà cả về mặt chính trị. Đảng Dân chủ của Franklin D.Roosevelt đã được lợi rất nhiều từ những tiến bộ này.

Trong suốt hơn 2 năm hoạt động từ 1933 đến 1935, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang (FERA) đã trực tiếp phân phát cứu trợ, chủ yếu dưới hình thức trả tiền trực tiếp cho hàng trăm nghìn người. Đôi khi, tổ chức này còn trợ cấp lương cho các giáo viên và nhân viên trong các cơ quan hành chính ở địa phương. Tổ chức này cũng đã triển khai nhiều dự án công cộng quy mô nhỏ cung cấp việc làm, cũng giống như Cơ quan Lao động Dân sự (CWA) từ cuối năm 1933 đến mùa xuân năm 1934. Đây bị chỉ trích là những việc làm giá trị, những công việc này có đủ loại, từ việc đào hào tới sửa chữa đường cao tốc và dạy học. Roosevelt và các quan chức nòng cốt của ông trong chính phủ đã lo lắng về các khoản chi phí dành cho những dự án cung cấp việc làm này, nhưng ông vẫn tiếp tục ủng hộ các chương trình chống nạn thất nghiệp, dựa trên nguyên tắc tạo ra công ăn việc làm chứ không phải là trợ cấp phúc lợi xã hội.

Trong những năm đầu thực thi, mặc dù Chính sách kinh tế mới đã thực hiện hàng loạt các sáng kiến lập pháp và đã làm sản lượng và giá cả tăng lên đáng kể, song nó vẫn không chấm dứt được thời kỳ suy thoái kinh tế. Khi nỗi lo sợ về cuộc khủng hoảng đã dịu đi, thì những nhu cầu mới lại xuất hiện. Các doanh nhân tiếc nuối vì chính sách không can thiệp không còn tồn tại nữa và bất bình trước những quy định của NIRA. Những cuộc khẩu chiến ầm ĩ cũng xuất hiện từ phía các phe phái chính trị cánh tả và cánh hữu, do những kẻ mơ mộng, những kẻ âm mưu và các chính trị gia mới nổi mang theo những phương thuốc phục hồi kinh tế thu hút sự chú ý của đông đảo dân chúng.

Tiến sỹ Francis E. Townsend đề xuất các khoản lương hưu hậu hĩnh cho người già. Cha Coughlin, một vị linh mục từng phát biểu trên đài phát thanh, kêu gọi các chính sách chống lạm phát và chỉ trích các chủ nhà băng quốc tế trong những bài diễn văn được tung ra tới tấp của ông, mang tư tưởng bài xích Do Thái và ả Rập. ấn tượng nhất là Huey P. Long, Thượng nghị sỹ bang Lousiana, một diễn giả nổi tiếng về tài hùng biện và sự thẳng thắn luôn ủng hộ cho những người bị thiệt thòi yếu thế, đã vận động cho chính sách tái phân phối thu nhập. Nếu không bị ám sát vào tháng 9/1936 thì Huey P. Long rất có thể đã là một thách thức đối với chiếc ghế tổng thống của Franklin D. Roosevelt vào cuộc bầu cử năm 1936.

Trước những áp lực này, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đưa ra một loạt những biện pháp mới về kinh tế và xã hội. Nổi bật nhất trong số đó là những biện pháp đấu tranh chống đói nghèo, mang lại việc làm cho những lao động đang thất nghiệp và xây dựng một mạng lưới an sinh xã hội. Theo Tổng thống Franklin D. Roosevelt thì nền tảng của Chính sách kinh tế mới là Đạo luật Bảo hiểm Xã hội năm 1935. Bảo hiểm Xã hội đã tạo ra một hệ thống phúc lợi do nhà nước quản lý, nhằm trợ cấp cho người tàn tật, người nghèo và người thất nghiệp dựa trên các khoản đóng góp của tiểu bang và liên bang. Nó cũng tạo ra một hệ thống bảo hiểm hưu trí quốc gia, rút tiền từ một quỹ tín thác do chủ lao động và người lao động tham gia đóng góp. Nhiều quốc gia công nghiệp khác cũng đã từng ban hành những chương trình như vậy, nhưng những lời kêu gọi cho sáng kiến này ở Hoa Kỳ trước đó bị bỏ qua. Ngày nay, hệ thống bảo hiểm xã hội là chương trình quốc nội lớn nhất do Chính phủ Mỹ quản lý.

Thêm vào đó, Franklin D. Roosevelt đã cho ra đời thêm các điều luật khác là Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia; Đạo luật Thuế thu nhập - nhằm tăng thuế thu nhập của người giàu; Đạo luật về các Công ty công ích - nhằm thống nhất các công ty điện lực thành các tập đoàn lớn; Đạo luật Ngân hàng - mở rộng quyền lực của Cục Dự trữ Liên bang đối với các ngân hàng tư nhân. Một động thái quan trọng khác là việc thành lập Cơ quan Điện khí hóa Nông thôn cung cấp điện cho các trang trại trên khắp đất nước.

Từ năm 1932 đến năm 1935, thu nhập của nông dân tăng hơn 50% nhưng chỉ phần nào là nhờ vào các chương trình liên bang mà thôi. Trong những năm đó, khi chủ đất được khuyến khích không dùng đất vào trồng trọt, thải hồi những người làm thuê và những người lĩnh canh, thì một trận hạn hán khắc nghiệt đã ập xuống các bang vùng Plains. Gió mạnh và những cơn bão cát đã tàn phá khắp vùng khiến miền này nổi danh là xứ bụi trong suốt những năm 1930. Mùa màng bị tàn phá và các nông trại bị phá hủy.

Cho đến năm 1940, khoảng 2,5 triệu người đã rời khỏi các bang vùng Plains, tạo thành dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong số đó, khoảng 200.000 người đã đến California. Những người di cư không chỉ gồm có nông dân mà còn bao gồm cả lao động chuyên môn, người bán lẻ và nhiều lớp người khác mà sinh kế của họ gắn với sự thăng trầm của các cộng đồng nông nghiệp. Nhiều người trong số họ cuối cùng đã phải tranh nhau tìm kiếm những công việc mang tính thời vụ như thu hái nông sản với đồng lương cực kỳ rẻ mạt.

Chính phủ đã ra tay cứu trợ bằng cách thành lập Cơ quan Bảo toàn Đất đai năm 1935. Những tập quán canh tác làm tàn phá đất đai đã làm cho ảnh hưởng của hạn hán càng trầm trọng thêm. Cơ quan này đã hướng dẫn nông dân các biện pháp làm hạn chế xói mòn. Ngoài ra, gần 30.000 km cây trồng đã được trồng lên để làm giảm sức mạnh của gió.

Tuy AAA phần nhiều là thành công, nhưng nó vẫn bị bãi bỏ vào năm 1936, khi các khoản thuế đánh vào các công ty chế biến thực phẩm bị Tòa án Tối cao cho là không hợp hiến. Quốc hội đã nhanh chóng thông qua một điều luật hỗ trợ nông dân, cho phép chính phủ trợ cấp cho những nông dân chấp nhận bỏ đất không gieo trồng nhằm mục đích bảo toàn đất đai. Năm 1938, với đa số thành viên ủng hộ Chính sách kinh tế mới tại Tòa án Tối cao, Quốc hội đã phục hồi điều luật AAA.

Cho tới năm 1940, gần sáu triệu nông dân đã nhận được trợ cấp liên bang. Các chương trình Chính sách kinh tế mới đã cấp các khoản vay cho những vụ gieo trồng tăng thêm, cung cấp bảo hiểm lúa mì và hệ thống cất trữ theo kế hoạch, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp lương thực ổn định. Cuối cùng, chính sách ổn định kinh tế cho nông dân cũng đã được hoàn tất, mặc dù chính phủ đã phải giám sát vô cùng chặt chẽ và bỏ ra những khoản chi phí khổng lồ.

Xét trên khía cạnh nào đó thì Chính sách kinh tế mới chỉ đơn thuần đưa ra những cải cách xã hội và kinh tế vốn đã rất quen thuộc đối với người châu Âu từ hơn một thế hệ nay. Hơn nữa, Chính sách kinh tế mới là cao trào của một xu hướng dài hạn nhằm tiến tới bãi bỏ chủ nghĩa tư bản không can thiệp, trở lại việc kiểm soát đường sắt vào những năm 1880, và đưa ra hàng loạt cải cách luật pháp bang và liên bang đã được khởi xướng trong kỷ nguyên tiến bộ thời các Tổng thống Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson. Tuy nhiên, điều thực sự mới mẻ trong Chính sách kinh tế mới là nó đã nhanh chóng đạt được những thành tựu mà trước đó phải mất nhiều thế hệ mới có được.

Tuy vậy, rất nhiều chương trình cải cách trong số này đã được khởi thảo một cách vội vã và được quản lý lỏng lẻo; một số khác thì lại mâu thuẫn với những mô hình cải cách còn lại. Hơn nữa, chính sách này chưa bao giờ thành công trong việc đem lại sự thịnh vượng. Tuy vậy, những hành động trong Chính sách kinh tế mới đã giúp đỡ hàng triệu người Mỹ, xây dựng nền tảng cho một liên minh chính trị hùng mạnh, và khiến mỗi công dân Mỹ lại thực sự quan tâm đến chính phủ.

Kéo dài suốt 63 năm (1933-1996) là một chương trình hỗ trợ nông dân thông qua hình thức cho trả nợ vay bằng sản phẩm. Theo đó, chính phủ cho nông dân vay vốn canh tác tương ứng theo sản lượng thu hoạch và “giá bán định trước” ghi vào hợp đồng vay vốn (gọi là “giá hợp đồng”). Nông dân giữ quyền thanh lý hợp đồng bằng cách bán lúa mì lại cho chính phủ theo giá hợp đồng.

Như vậy nông dân không sợ bị lỗ nặng nếu trúng mùa mà vẫn có quyền bán lúa mì cho thương lái với giá cao hơn để tích lũy lợi tức nhiều hơn.

Điểm đặc biệt của chính sách này là nguồn kinh phí không lấy từ ngân sách mà lấy từ một quỹ “bình ổn nguồn nông sản” do các công ty kinh doanh, chế biến nông sản, vật tư nông nghiệp và xuất khẩu lương thực đóng góp hằng năm theo công thức quy định cụ thể bằng luật. Chính sách này bị các doanh nghiệp kinh doanh lương thực chống đối nên Chính phủ Mỹ buộc phải trưng cầu ý dân hằng năm. Liên tiếp 63 năm luôn có trên 2/3 số hộ nông dân bỏ phiếu thuận cho thấy đây là chính sách rất hợp lòng nông dân.

Để tránh lãng phí và lạm dụng, mỗi hộ nông dân chỉ được vay một số vốn tính theo diện tích đất thực canh và năng suất bình quân ba năm gần nhất. Ngoài ra còn phải tuân thủ quy hoạch về sản lượng canh tác hằng năm của Bộ Nông nghiệp. Công cụ chính sách này giúp nhà nước quy hoạch kiểm soát sản lượng nông nghiệp, tránh tình trạng thừa cung làm rớt giá, đồng thời đề cao vai trò chia sẻ, trách nhiệm ổn định nguồn cung nông sản của các đơn vị kinh doanh trong chuỗi giá trị cung ứng.

Trước tình trạng dư thừa sản lượng đã khiến giá cả mất ổn định, chính sách “bảo tồn, dưỡng đất dự trữ” (Conservation Reserve Program - CRP) ra đời với mục đích chính nhằm đưa các vùng đất cằn cỗi, trồng trọt năng suất thấp nhưng chi phí lớn vào diện không khai thác để bảo dưỡng, bảo tồn và dự trữ.

Chương trình này chi trả tiền trực tiếp cho hộ nông dân chủ đất với phần diện tích đưa vào diện bảo tồn trong vòng 10 năm không được khai thác bất kỳ hình thức nào để đổi lấy tiền hỗ trợ từ “quỹ bảo tồn, bảo dưỡng, dự trữ đất”.

Chính sách thay đổi luân phiên cây trồng hoặc quy định hạn mức diện tích canh tác trước đây không hiệu quả. Do đó chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ đã đáp ứng yêu cầu quản lý sản lượng nông nghiệp để ổn định nguồn cung hợp lý, đảm bảo giá cả nông sản được duy trì cao, tạo thu nhập ổn định cho nông dân.

Suốt 40 năm, chương trình quy định một tổng số diện tích cụ thể các loại đất kém năng suất để đảm bảo kinh phí chương trình bảo tồn, bảo dưỡng đất không bị quá tải. Tiền hỗ trợ bảo tồn thường thấp hơn lợi tức canh tác ở vùng đất màu mỡ.

Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế trang trại một lần nữa lại phải đối diện với những thách thức của sản xuất thừa. Các tiến bộ công nghệ, chẳng hạn như việc đưa vào các máy móc chạy điện và xăng dầu cũng như việc sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu và phân hóa học, làm cho sản lượng trên mỗi hecta cao hơn bao giờ hết. Để giúp tiêu thụ các nông sản thừa gây sức ép lên giá cả và gây tổn thất tiền bạc của người đóng thuế, năm 1954 Quốc hội đã tạo nên một chương trình Lương thực vì hòa bình để xuất khẩu hàng hóa nông sản của Mỹ sang các nước có nhu cầu. Các nhà hoạch định chính sách lập luận rằng việc xuất khẩu lương thực như vậy có thể sẽ đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Những người theo chủ nghĩa nhân đạo coi chương trình này như là một cách để nước Mỹ chia sẻ sự dư dật của mình.

Quy mô nông nghiệp Hoa kỳ từ 1960-2012

Trong những năm 1960, chính phủ quyết định cũng sử dụng lương thực thừa để nuôi chính những người nghèo của mình. Trong Cuộc chiến chống đói nghèo của Tổng thống Lyndon Johnson, chính phủ đưa ra chương trình Tem phiếu thực phẩm cấp cho những người có thu nhập thấp các phiếu phân phối có thể dùng để thanh toán lương thực thực phẩm tại các cửa hàng tạp phẩm. Tiếp theo là các chương trình khác sử dụng hàng hóa nông sản thừa, chẳng hạn như các bữa ăn tại trường cho trẻ em có nhu cầu. Các chương trình lương thực như vậy đã giúp duy trì sự giúp đỡ của thành phố cho khu vực nông nghiệp trong nhiều năm, và những chương trình này vẫn là một dạng quan trọng của phúc lợi công cộng - giành cho người nghèo và theo một nghĩa nào đó cũng cho cả người nông dân.

Khi Tổng thống J. F. Kennedy đắc cử, chính phủ nhận thấy nông dân cần được hỗ trợ để ổn định thu nhập và chương trình chi trả trực tiếp cho nông dân để họ giảm diện tích canh tác tốn kém quá nhiều ngân sách. Do đó chính phủ đã đề ra chính sách cưỡng chế cắt giảm sản lượng toàn quốc nếu 2/3 số hộ nông dân đồng ý trong cuộc trưng cầu ý dân hằng năm. Mục đích là giảm sản lượng để giữ giá nông sản trong bối cảnh ngân sách còn hạn chế.

Thời gian đầu, chương trình này giúp giữ được giá nông sản ổn định ở mức cao song khi ngày càng hội nhập quốc tế, mức giá này khiến nông sản của Mỹ khó cạnh tranh và mất thị trường xuất khẩu. Sự cự tuyệt của thị trường đã tiếp lửa cho những ý kiến chống đối chương trình này mà đỉnh điểm là nông dân sử dụng quyền lực chính trị thông qua Quốc hội ra luật bãi bỏ quy định cưỡng chế giảm sản lượng. Sau năm 1963, một chương trình tự nguyện được thay thế.

Chương trình hỗ trợ nông dân trực tiếp được triển khai khi đạo luật Lúa mì - bông vải thông qua năm 1964. Theo đó, hộ nông dân nhận được một tín chỉ trị giá 75 xu Mỹ cho mỗi “thùng” lúa mì (giống như “giạ” ở VN). Sau khi tổng kết các hóa đơn bán sản lượng cho nhà máy chế biến, hộ nông dân sẽ đổi các tín chỉ trên lấy tiền mặt. Số tiền hỗ trợ này được trích từ một quỹ do các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh vật tư và nông sản đóng góp. Như vậy các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị đã đóng góp hoàn toàn số tiền hỗ trợ cho nông dân, thực chất là một hình thức tái phân phối lợi tức về lại cho nông dân.

Các chính sách hỗ trợ nông dân trực tiếp đã đưa quy mô nông nghiệp Mỹ phát triển từ 34 tỉ USD (năm 1960) lên đến 395 tỉ USD (năm 2012). Theo đó, tổng số tiền hỗ trợ cũng tăng từ 702 triệu USD (1960) lên đỉnh điểm 24 tỉ USD (2005) và giảm dần về 10,6 tỉ USD (2012). Thu nhập bình quân hộ gia đình nông dân cũng tăng ấn tượng, từ 4.054 USD (1960) lên 108.844 USD (2012), tức là gấp 25 lần so với năm 1960.

Nhưng khi sản xuất nông trại ngày càng tăng lên suốt trong những năm 1950, 1960 và 1970 thì chi phí của hệ thống trợ giá của chính phủ cũng tăng lên hết sức mạnh mẽ. Các nhà chính trị ở những bang không có sản xuất nông nghiệp đã đặt ra câu hỏi về tính khôn ngoan trong việc khuyến khích nông dân sản xuất nhiều hơn nữa khi đã đủ - đặc biệt là khi lượng dư thừa gây sức ép lên giá cả và do vậy lại yêu cầu sự giúp đỡ của chính phủ lớn hơn.

Chính phủ đã thử một sách lược mới. Năm 1973, nông dân Mỹ bắt đầu nhận được sự giúp đỡ dưới dạng những khoản tiền thanh toán “thiếu hụt” của liên bang, được thiết kế để vận hành giống như hệ thống giá tương đương. Để nhận được những khoản thanh toán này, người nông dân phải tách ra một số ruộng đất của mình không được sản xuất, do vậy sẽ giúp giữ giá thị trường. Một chương trình mới Thanh toán bằng hiện vật, được tiến hành vào đầu những năm 1980 với mục đích giảm chi phí tích trữ lúa, gạo và bông của chính phủ và nâng cao giá cả thị trường, đã bỏ không canh tác khoảng 25% đất trồng trọt.

Việc trợ giá và thanh toán thiếu hụt chỉ áp dụng cho những hàng hóa cơ bản nhất định như lúa, gạo và bông. Nhiều người sản xuất khác không được trợ cấp. Một vài nông sản, chẳng hạn như chanh và cam, bị lệ thuộc vào những hạn chế thị trường công khai. Dưới cái gọi là những đơn đặt hàng thị trường, lượng nông sản của cây trồng là mặt hàng tươi bị giới hạn theo từng tuần. Bằng việc khống chế lượng bán ra, những đơn đặt hàng như vậy nhằm mục đích nâng giá cho nông dân.

Các đạo luật nông nghiệp sau này (1970, 1973, 1981, 1985) đã tập trung khắc phục các phát sinh rủi ro chính sách tạo ra bởi các chương trình hỗ trợ nông dân và giữ giá nông sản. Bởi khi các chính sách hỗ trợ đi vào cuộc sống, chúng tạo nên tâm lý phụ thuộc vào các chương trình hỗ trợ, từ đó khiến các mức giá hỗ trợ đề ra trong chính sách trở thành “giá kỳ vọng” của nông dân, rồi thành “giá thị trường” trong nội địa.

Cơ chế thị trường điều tiết giá theo nguồn cung - cầu đã bị méo mó bởi các chính sách hỗ trợ này. Hậu quả ngoài ý muốn là nông dân có xu hướng tăng sản lượng thu hoạch khiến cho quỹ hỗ trợ ngày càng phình to và ngân sách phải bù lỗ. Mục đích ban đầu là khống chế sản lượng đã bị chệch hướng.

Khi thiên tai giáng xuống làm mất mùa, cộng thêm cuộc khủng hoảng tài chính - dầu hỏa của những năm 1970-1975, chi phí chương trình hỗ trợ và giữ giá vượt khỏi mức an toàn ngân sách và có nguy cơ bị đổ vỡ dây chuyền. Nông sản Mỹ mất dần thế mạnh vào tay các quốc gia khác trên thế giới vì giá cao.

Nông nghiệp: Một ngành kinh doanh lớn trong các thập kỷ 1980 và 1990

Vào thập kỷ 1980, chi phí của chính phủ (và cũng là của người đóng thuế) cho những chương trình như vậy đôi khi vượt quá 20 tỷ USD mỗi năm. Bên ngoài các khu vực nông trại, nhiều cử tri phàn nàn và biểu lộ bất bình về việc chính phủ liên bang thực tế thanh toán cho nông dân chứ KHÔNG cho nông trại. Quốc hội nhận thấy cần phải thay đổi đường lối.

Năm 1985, theo yêu cầu của Tổng thống Ronald Reagan về một chính phủ có quy mô hẹp hơn, Quốc hội đã thông qua một luật mới về nông trại nhằm mục đích giảm bớt sự phụ thuộc của nông dân vào hỗ trợ của chính phủ và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế đối với hàng hóa nông sản Mỹ. Luật này cắt giảm trợ giá và không canh tác từ 16 đến 18 triệu hecta đất trồng nhạy cảm với môi trường trong vòng từ 10 đến 15 năm. Mặc dù luật năm 1985 chỉ tác động vừa phải đến cơ cấu trợ giúp nông trại của chính phủ nhưng việc cải thiện các chu kỳ kinh tế đã giúp kiềm chế tổng số tiền trợ cấp.

Đạo luật An ninh lương thực năm 1985 đã căn cứ hiện trạng nền nông nghiệp, thu nhập nông dân và tình hình thị trường quốc tế, thay đổi cách tính tiền hỗ trợ từ linh động sang cố định để giảm bớt gánh nặng ngân sách. Chương trình hỗ trợ lãi suất cũng được cải tổ theo hướng không duy trì giá nông sản ở mức cao để đảm bảo thu nhập cao cho nông dân, mà chỉ đảm bảo một lợi tức hợp lý.

Quy định cho phép nông dân dùng sản lượng để trả nợ vay bị bãi bỏ, cắt giảm chi phí chính phủ phải mua lương thực tạm trữ. Thay vào đó là các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho nông dân như cho vay xây dựng kho tích trữ sản lượng tại chỗ để chờ giá thích hợp bán ra (marketing loan).

Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng của các thị trường thế giới đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo trên thế giới phải có cách tiếp cận mang tính hệ thống hơn để điều tiết việc buôn bán hàng hóa nông nghiệp giữa các quốc gia trong thập kỷ 1980 và thập kỷ 1990. Hầu hết mỗi quốc gia sản xuất nông nghiệp đều có một số hình thức trợ giúp của chính phủ đối với nông dân.

Vào cuối thập kỷ 1970 và đầu thập kỷ 1980, khi các điều kiện thị trường nông nghiệp trở nên thay đổi nhanh chóng, phần lớn các quốc gia có khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể đã tổ chức các chương trình hoặc đẩy mạnh các chương trình đang có để hỗ trợ nông dân của mình tránh khỏi những gì được xem là tình trạng tranh mua tranh bán của nước ngoài. Những chính sách này làm thu hẹp các thị trường quốc tế về hàng hóa nông nghiệp, làm giảm giá cả hàng hóa quốc tế và gia tăng dư thừa hàng hóa nông nghiệp trong các nước xuất khẩu. Theo một nghĩa hẹp, có thể hiểu được tại sao một nước cố gắng giải quyết vấn đề sản xuất thừa hàng nông nghiệp bằng việc tìm cách xuất khẩu lượng thừa đó một cách tự do trong khi lại hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế một chiến lược như vậy là không khả thi; các nước khác cũng miễn cưỡng một cách dễ hiểu trong việc cho phép nhập khẩu từ những nước không mở cửa thị trường của mình.

Vào giữa thập kỷ 1980, các chính phủ tiến hành giảm trợ cấp và cho phép buôn bán tự do hơn đối với hàng hóa nông sản. Tháng Bảy 1986, Hoa Kỳ công bố một kế hoạch mới nhằm cải cách buôn bán hàng hóa nông nghiệp quốc tế như là một phần của Vòng đàm phán thương mại đa phương Urugoay. Hoa Kỳ đã yêu cầu hơn 90 nước thành viên tổ chức thương mại quốc tế hàng đầu thế giới, lúc đó là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), thương lượng để xóa bỏ từng bước tất cả những tài trợ cho nông nghiệp và các chính sách khác bóp méo giá cả nông sản, sản xuất và buôn bán. Hoa Kỳ đặc biệt muốn có một cam kết xóa bỏ tận cùng các tài trợ cho nông trại châu Âu và chấm dứt chính sách cấm nhập khẩu gạo của Nhật Bản.

Tuy nhiên, khi thâm hụt ngân sách liên bang tăng cao suốt cuối thập kỷ 1980, Quốc hội phải tìm mọi cách cắt bớt chi tiêu liên bang. Năm 1990, Quốc hội thông qua luật khuyến khích nông dân gieo trồng những nông sản mà trước đây họ thường không được nhận các khoản thanh toán thiếu hụt, và giảm bớt diện tích đất trồng những loại nông sản mà người nông dân đã có thể được hưởng thanh toán thiếu hụt. Luật mới này duy trì trợ cấp giá cố định và cao cho những hàng hóa nhất định, và tiếp tục đẩy mạnh quản lý nhà nước đối với một số thị trường hàng hóa nông sản.

Đạo luật Lương thực, nông nghiệp và bảo tồn năm 1990 tiếp tục giảm số tiền trong các chương trình hỗ trợ vì thu nhập nông dân đã khá cao và cần giữ giá nông sản cạnh tranh trên thị trường thế giới. Từ chỗ nông nghiệp được bảo hộ suốt 60 năm qua, Chính phủ Mỹ quyết định giảm dần can thiệp của nhà nước vào cơ chế giá, để cơ chế thị trường hoạt động đầy đủ khi nền nông nghiệp Mỹ đã phát triển cao, công nghiệp hóa và hoàn toàn hội nhập quốc tế. Từ năm 1990 về sau, các chính sách nông nghiệp chỉ duy trì hỗ trợ, trợ giá ở mức tương đối thấp, còn lại tập trung đầu tư các chương trình dự trữ lương thực chiến lược quốc gia, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học nông nghiệp, công nghệ thông tin, dự báo thời tiết... để đảm bảo phục vụ hiệu quả thị trường nông sản và nông nghiệp quốc gia.

Các nước hoặc các nhóm nước khác đều đưa ra những đề nghị riêng khác nhau của mình, nhưng hầu hết đều thống nhất với ý tưởng xóa bỏ tài trợ làm bóp méo thương mại và hướng về những thị trường tự do hơn. Nhưng với các cố gắng ban đầu nhằm có được những hiệp định quốc tế về việc cắt giảm tài trợ cho nông nghiệp, đã chứng tỏ rất khó có thể đạt được bất kỳ một sự nhất trí nào. Tuy nhiên, lãnh đạo các nước công nghiệp hàng đầu phương Tây đã cam kết với nhau để đạt được cắt giảm tài trợ và những mục tiêu về thị trường tự do hơn vào năm 1991.

Vòng đàm phán Urugoay đã kết thúc vào năm 1995, với sự cam kết của các bên tham gia về hạn chế tài trợ cho nông nghiệp và xuất khẩu đồng thời tạo ra một số thay đổi khác nhằm hướng về buôn bán tự do hơn (chẳng hạn như chuyển đổi quota nhập khẩu thành các loại thuế quan dễ cắt giảm hơn). Họ cũng xem xét lại vấn đề này trong vòng đàm phán mới (tại Hội nghị bộ trưởng của Tổ chức thương mại thế giới ở Seattle vào cuối năm 1999). Trong khi các cuộc đàm phán này được tổ chức nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn tài trợ cho xuất khẩu thì các phái đoàn lại không đồng ý tiếp tục đi quá xa như vậy. Trong khi đó, Cộng đồng châu Âu chuyển sang cắt giảm tài trợ xuất khẩu và tình trạng căng thẳng thương mại đã giảm xuống vào cuối thập kỷ 1990.

Tuy nhiên, các cuộc tranh cãi về buôn bán nông sản vẫn tiếp tục. Theo quan điểm của Mỹ thì Cộng đồng châu Âu đã thất bại trong việc theo đuổi đến cùng cam kết giảm tài trợ cho nông nghiệp. Hoa Kỳ đã giành được các phán quyết có lợi của Tổ chức thương mại thế giới, là tổ chức kế tục GATT từ năm 1995, trong một vài kiện cáo về việc tiếp tục tài trợ của Cộng đồng châu Âu, nhưng các nước châu Âu đã không chấp nhận điều đó. Cùng lúc đó, các nước châu Âu gia tăng các rào cản đối với thực phẩm Mỹ được sản xuất với các hoóc môn nhân tạo hoặc biến đổi gien - đây là một thách thức nghiêm trọng đối với lĩnh vực nông nghiệp Mỹ.

Điều này đã thay đổi mạnh mẽ vào năm 1996. Một Quốc hội mới với đa số thuộc phái Cộng hoà, được bầu ra vào năm 1994, tìm cách làm cho nông dân từ bỏ dựa dẫm vào sự giúp đỡ của chính phủ. Đạo luật về quyền tự quyết đối với nông trại đã dỡ bỏ các chương trình trợ giúp về thu nhập và giá cả tốn kém nhất, đồng thời trao cho nông dân quyền tự chủ sản xuất đáp ứng thị trường toàn cầu mà không hạn chế họ cấy trồng bao nhiêu nông sản. Với luật này, người nông dân nhận được khoản trợ cấp cố định không quan hệ tới giá cả thị trường. Luật này cũng quyết định bãi bỏ việc thực hiện trợ giá bơ sữa.

Những thay đổi này xóa bỏ cơ bản các chính sách từ thời kỳ Chính sách mới nên nó đi vào cuộc sống không phải dễ dàng. Quốc hội tìm cách làm dịu bớt căng thẳng của quá trình chuyển đổi này bằng việc cung cấp cho nông dân 36 tỷ USD thanh toán trong 7 năm mặc dù giá nông sản ở thời điểm này đang ở mức cao. Việc trợ giá cho lạc và đường vẫn được giữ nguyên, và những trợ giá cho đỗ tương, bông và gạo thực tế còn tăng lên. Các đơn đặt hàng của thị trường về cam và một số nông sản khác rất ít thay đổi. Ngay cả khi có những nhượng bộ chính trị như vậy đối với nông dân thì câu hỏi vẫn được đặt ra là liệu có thể kéo dài hệ thống ít bị kiểm soát hơn này được không.

Vào cuối những năm 1990, nền kinh tế nông nghiệp của Mỹ vẫn tiếp tục chu kỳ lên xuống riêng của mình, tăng mạnh vào năm 1996 và 1997, sau đó lại bước sang giai đoạn đình trệ trong hai năm tiếp theo. Nhưng đó là một nền kinh tế trang trại khác hẳn so với nền kinh tế đã từng tồn tại vào đầu thế kỷ này. Những đám mây đen mới xuất hiện vào năm 1998 khi cầu về hàng hóa nông sản Mỹ sụt giảm ở những vùng châu Á đang bị khốn quẫn tài chính nghiêm trọng; xuất khẩu nông sản giảm mạnh, và giá nông sản, gia súc bị dìm xuống. Người nông dân tiếp tục cố gắng nâng cao thu nhập của mình bằng cách sản xuất nhiều hơn, dù cho giá cả có thấp đi. Năm 1998 và năm 1999, Quốc hội đã thông qua một loạt luật bảo lãnh nhằm tạm thời gia tăng tài trợ cho nông trại mà đạo luật năm 1996 đã bãi bỏ. Khoản tài trợ 22.500 triệu USD năm 1999 thực sự lập ra một kỷ lục mới.

Vào đầu năm 1999, Phó Tổng thống Mỹ Al Gore lại kêu gọi cắt giảm mạnh tài trợ nông nghiệp và biểu thuế quan trên toàn cầu. Nhật Bản và các nước châu Âu gần như từ chối các đề nghị này như họ đã từng bày tỏ trong Vòng đàm phán Urugoay. Trong khi đó, các nỗ lực hướng về thương mại nông nghiệp thế giới tự do hơn lại gặp thêm trở ngại do xuất khẩu giảm sút vào cuối thập kỷ 1990.

Nông dân Mỹ bước vào thế kỷ XXI với một số vấn đề giống như họ đã từng chạm trán trong suốt thế kỷ XX. Vấn đề quan trọng nhất trong số đó vẫn là sản xuất thừa. Một sự thật từ khi lập quốc là việc tiếp tục cải tiến máy nông nghiệp, hạt giống tốt hơn, phân bón tốt hơn, tưới tiêu tốt hơn và kiểm soát sâu bệnh hiệu quả làm cho nông dân ngày càng có nhiều thành công hơn trong những gì họ làm (trừ việc tạo ra lợi nhuận). Và trong khi người nông dân nhìn chung đều muốn giảm bớt sản lượng nông sản để chống đỡ lại giá cả thì họ lại do dự trong việc thu hẹp sản xuất của chính mình.

Cũng giống như một doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo ra quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và củng cố hoạt động của mình sao cho linh hoạt hơn. Sự thật, ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh nông nghiệp”, một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh nghiệp nông nghiệp và các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ gia đình cho đến các tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất đai lớn hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng.

Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang trại hơn nhưng các trang trại có quy mô lớn hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu bởi những cổ đông vắng mặt, các trang trại mang tính tập đoàn này sử dụng nhiều máy móc hơn và ít bàn tay của nông dân hơn. Vào năm 1940, có 6 triệu trang trại và trung bình mỗi trang trại khoảng 67 hecta. Đến cuối thập kỷ 1990, chỉ có khoảng 2,2 triệu trang trại nhưng trung bình mỗi trang trại có diện tích 190 hecta. Cũng chính trong khoảng giai đoạn này, số lao động nông nghiệp giảm rất mạnh - từ 12,5 triệu người năm 1930 xuống còn 1,2 triệu người vào cuối thập kỷ 1990 - dù cho dân số của Mỹ tăng hơn gấp đôi. Vào năm 1900, một nửa lực lượng lao động là nông dân nhưng đến cuối thế kỷ này chỉ còn 2% lao động trong các trang trại. Và gần 60% trong số nông dân còn lại đó đến cuối thế kỷ này chỉ làm việc một phần thời gian trên trang trại; thời gian còn lại họ làm những việc khác không thuộc trang trại để bù đắp thêm thu nhập cho mình. Chi phí đầu tư vốn cao - cho đất đai và trang thiết bị - khiến cho việc dành toàn bộ thời gian làm việc trên trang trại là cực kỳ khó khăn cho hầu hết mọi người.

Nông sản Mỹ chỉ chiếm 8% trong giá trị trao đổi trên thế giới, 2001, cường quốc công nghiệp số một đồng thời có nền nông nghiệp rất phát triển Mỹ thì nông nghiệp đóng góp 1,4% GDP. Hạt nhân của nền SX nông nghiệp hàng hóa là kinh tế trang trại gia đình. Lý do Mỹ trợ cấp cho nông nghiệp vì chi phí tiền lương cao, nông nghiệp rất quan trọng, ngay cả đối với các nước công nghiệp phát triển nhất như Hoa Kỳ

Bảo hộ cho một số ngành nông nghiệp: Mỹ là điển hình của tiêu chuẩn kép ← do đặc điểm của nền NN của Mỹ quyết định. Về trợ cấp trong nước, phụ thuộc vào sự vận động hành lang của các nhóm khác nhau. Trợ cấp xuất khẩu: không mong muốn các qui định của WTO về giới hạn việc sử dụng tín dùng hoặc bảo lĩnh tín dụng đối với xuất khẩu nông nghiệp. Biện pháp quan trọng trong trợ cấp của Mỹ là trợ giá: 2000, trợ giá: 22,9 tỷ USD, Đạo luật Farm Bill 8/5/2002, Chính quyền liên bang sẽ dành cho trợ giá nông nghiệp 190 tỷ USD trong vòng 10 năm. 2004: 13,3 tỷ USD, 2005, tăng 61% với 21,4 tỷ USD, 2006, gần đạt kỉ lục của năm 2000, bằng 22,5 tỷ USD.

Trong những năm gần đây, sự trợ giúp như vậy đã giảm xuống; điều này phản ánh mong muốn của chính phủ trong việc cắt giảm chi tiêu, đồng thời cho thấy lĩnh vực nông nghiệp đã giảm bớt ảnh hưởng về mặt chính trị. Với luật mới, sự giúp đỡ của chính phủ sẽ quay trở lại hệ thống cũ vào năm 2002 trừ phi Quốc hội hành động để giữ giá thị trường và các khoản thanh toán trợ giúp được tách ra. Đạo luật Canh nông Hoa Kỳ không đáp ứng yêu cầu của thế kỷ 21 mà sau nhiều năm tích lũy những quyết định của các thời đại khác nhau nên lại trở thành một văn kiện phức tạp, có đầy mâu thuẫn và năm năm lại một lần gây tranh luận lớn. Trong Đạo luật Canh nông có một con voi trắng lù lù nằm giữa mà không ai xoay chuyển nổi là chế độ trợ cấp lương thực cho dân nghèo hay "Food Stamp", tức là "Phiếu Thực phẩm". Nó chiếm gần 80% của ngân sách và là vấn đề cực kỳ nhạy cảm cho mọi người. Hiện nay, bình quân thì cứ bảy người Mỹ lại có một người được cấp cho phiếu lương thực và nói đến việc cắt giảm khoản trợ cấp này trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì ai cũng ngại.

Nhưng ngoài tệ nạn lạm dụng là điều xảy ra ở mọi nơi mọi thời trong mọi thành phần dân chúng, việc ỷ lại vào một nhà nước bao cấp cũng là vấn đề. Trong kế hoạch cải tổ chế độ an sinh xã hội thời Chính quyền Bill Clinton vào năm 1996, người ta đã nói đến việc khuyến khích người dân chịu khó kiếm việc làm để khỏi lệ thuộc vào sự trợ cấp của nhà nước. Ngày nay, vấn đề ấy cũng đang xảy ra và 80% dân Mỹ cho rằng những người sống nhờ an sinh xã hội nên cố gắng tự túc. Nhưng muốn như vậy thì phải cải tổ toàn bộ chế độ tem phiếu, là điều dễ gây hiểu lầm là cắt giảm trợ cấp cho dân nghèo. Lập luận này đang được triệt để khai thác trong cuộc bầu cử khi Hoa Kỳ đang bị bội chi ngân sách quá nặng.

Xứ Mỹ văn minh này còn nêu ra yêu cầu là bảo đảm cho các thiếu nhi đi học là phải có sữa tươi và cây trái trong một chế độ dinh dưỡng lành mạnh. Kết quả lại là nhiều chương trình trợ cấp sữa cho các trường học song song cùng việc đảm bảo là giá sữa khỏi sụt, nghĩa là lại tốn vài trăm triệu. Nhưng ít ai liên hệ chuyện ấy với tình trạng mập phì của thiếu nhi vì chế độ ăn uống thật ra cẩu thả của nhiều gia đình. Nghịch lý ở đây là càng nghèo lại càng dễ mập khiến cho một thành phố như New York đã phải đề nghị biện pháp kiểm soát nước uống có quá nhiều đường và ta không quên rằng đường cũng là một nông sản cần bảo vệ! Rốt cuộc thì Đạo luật Canh nông bao hàm nhiều tham vọng với hậu quả là cả chục mâu thuẫn giữa lý tưởng với thực tế. Khi kết hợp thêm vấn đề bảo vệ môi sinh, là một lý tưởng khác, thì ta có một con quái vật ít ai kiểm soát được.

Trợ cấp của Mỹ đối với một số ngành cụ thể

Trợ cấp NN của Mỹ mang tính bất công đối với cả trong và ngoài nước. Đặc điểm của trợ cấp NN của Mỹ Trợ cấp NN của Mỹ đối với một số ngành cụ thể
• Bông - 25.000 nông gia trồng bông. Nếu nói đến bông sợi thì Hoa Kỳ là kẻ đáng bị lên án nhất: Bông sợi của Hoa Kỳ từ năm 1997 đến 2003 được bán với giá bình quân thấp hơn 48,7% chi phí sản xuất. Nói cách khác, ngót một nửa sản lượng bông Mỹ xuất khẩu là phá giá. Hoa Kỳ đã tăng thị phần bông thế giới từ 17% lên 42% từ 1998 đến 2003. (2006) 2,5 -3 tỷ đô-la/năm và 10% nông gia trồng bông nhận 70% số tiền trợ cấp.

Sự cạnh tranh như vậy khiến Braxin khiếu nại lên tổ chức thương mại thế giới và Braxin đã thắng trong vụ kiện này. Thỏa thuận được xây dựng năm 2010, theo đó Mỹ chấp nhận bồi thường cho Brazil trước thời điểm quốc gia Nam Mỹ này tăng biểu thếu đánh vào các sản phẩm của Mỹ xuất sang Brazil trị giá lên tới 800 trăm triệu USD. Năm 2004, Brazil đã thắng kiện Mỹ liên quan đến vấn đề trợ cấp ngành bông tại WTO, cho phép Brazil áp đặt lệnh trừng phạt 830 triệu USD đối với sản phẩm của Mỹ. Mỹ hiện là nhà sản xuất bông hàng đầu thế giới với 28% thị phần toàn cầu, trong khi đó Brazil là nhà xuất bông lớn thứ 4 thế giới. Theo Uỷ ban Tư vấn Bông Quốc tế, giá bông thế giới niên vụ 2001/02 có thể cao hơn 26% nếu nông dân Mỹ không được nhận khoản trợ cấp hậu hĩnh tới 4 tỷ USD của chính phủ.

• Gạo - 9.000 nông gia sản xuất chừng 10 triệu tấn gạo tập trung trong sáu tiểu bang - 2003, trợ cấp các trang trại trồng lúa 1,3 tỷ USD, thực tế là ngân sách gánh chịu tới 72% giá thành sản xuất.

Ba chế độ trợ cấp cho nông gia như trực tiếp cấp tiền, trợ giá khi bị trái chu kỳ và tín dụng nhẹ lãi cho việc tiếp thị.
Chế độ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và thu mua để viện trợ lương thực cho các nước nghèo. Các loại viện trợ ấy thực tế giúp nông gia bán lúa cho nhà nước theo điều kiện ưu đãi. Các nước đang và kém phát triển. Giá gạo sút giảm trên thế giới từ 4 đến 6% và gây thiệt hại lợi tức cho hàng trăm triệu nông gia ở các nước nghèo. Các nước khó bán gạo vào Mỹ. Trợ cấp lúa gạo còn khiến giá gạo hết là tín hiệu có giá trị về cung cầu khiến nông gia Mỹ cứ tiếp tục sản xuất và được bảo vệ dù giá đã sụt trên thế giới Trợ cấp NN của Mỹ đối với một số ngành cụ thể.

Do nhu cầu bảo vệ môi sinh và giảm dần việc xe hơi tiêu thụ xăng dầu nên cứ gây ô nhiễm, người ta nghĩ đến việc chế cất nông sản như ngô bắp thành cồn cho xe chạy. Hậu quả bất lường của tinh thần phát huy công nghệ xanh là... gây thêm ô nhiễm vì muốn có một lượng cồn cho xe chạy thì các nhà máy phải chế biến rất nhiều nông sản và thải ra nhiều độc chất hơn nữa. Giới khoa học đã than phiền rằng các dự án phát triển loại năng lượng tái tạo gốc sinh học, tức là nông sản, lại gây thêm ô nhiễm môi trường. Nhưng tai hại hơn vậy là vì yêu cầu môi sinh bên trong, kinh tế Mỹ thu mua ngô bắp hay đậu nành, là thực phẩm cho người và gia súc ở xứ khác, nên mới đẩy giá lương thực và thương phẩm trên thế giới. Vì vậy mới gặp phản ứng từ nhiều định chế quốc tế như Ngân hàng Thế giới hay Cơ quan Lương nông của Liên Hiệp Quốc.

Hậu quả tai hại thứ nhì là vì yêu cầu chế cất ra cồn bên trong nội địa, người ta lập hàng rào bảo vệ và thí dụ như gây thiệt hại cho kỹ nghệ trồng mía để làm ra cồn của Brazil. Tổ chức Thương mại Thế giới WTO phải thụ lý nhiều hồ sơ khiếu nại về chuyện này. Nói chung, hình ảnh mà nước Mỹ toả ra ngoài có những điều đi ngược với lý tưởng hay giá trị đạo đức Hoa Kỳ. Thí dụ như vì muốn bảo vệ nông gia hay môi trường trong lành của mình, Hoa Kỳ có thể gây khó khăn cho xứ khác về giá nông sản và lượng lương thực.

Đầu năm 2014, sau hơn 1 năm tranh cãi, Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự luật ngân sách trợ cấp cho các nông trại trong đó có một điều khoản gây khó khăn cho mặt hàng cá da trơn xuất khẩu vào Mỹ. Theo đó, các sản phẩm xuất khẩu vào Mỹ phải dán nhãn xuất xứ nơi nuôi trồng, xây dựng kế hoạch thú y thủy sản quốc gia và đặc biệt phải là quốc gia được Mỹ công nhận được phép xuất khẩu thực phẩm thịt vào nước này. Quốc hội Mỹ cũng chuyển chức năng giám sát cá da trơn trong đó có cá tra và ba sa của Việt Nam đang do Cục Quản lý Thực phẩm & Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) quản lý, sang Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Nghĩa là, thay vì kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm, sẽ còn kiểm soát cả các vùng nuôi cá của Việt Nam. Như vậy, để được xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, các vùng nuôi cá da trơn của Việt Nam phải nâng cấp để đạt tiêu chuẩn giống như các vùng nuôi cá hiện nay ở Mỹ đang áp dụng.

Như những số liệu trên đã cho thấy, “trang trại gia đình” Mỹ - một khái niệm ăn sâu trong lịch sử dân tộc và được ca tụng trong huyền thoại về người tiểu chủ hùng mạnh - đang phải đối mặt với những thách thức kinh tế lớn lao. Người Mỹ ở vùng đô thị hay ven đô tiếp tục biểu lộ lòng ngưỡng mộ về những ngôi nhà thô sơ ngăn nắp và những cánh đồng được canh tác của phong cảnh miền quê truyền thống, nhưng vẫn còn chưa chắc chắn là liệu họ có sẵn sàng trả giá - hoặc là giá cả thực phẩm cao hơn hoặc tiền tài trợ của chính phủ cho nông dân - để duy trì hình tượng trang trại gia đình đó.


Tài liệu tham khảo:
Bộ Nông nghiệp Mỹ http://www.ers.usda.gov/
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 2/2001; Christopher Conte, nguyên biên tập viên và phóng viên của Wall Street Journal; Albert R. Karr, nguyên phóng viên của Wall Street Journal
Tạp chí Ngoại thương, Số 36/2004
http://object.cato.org/sites/cato.org/files/serials/files/cato-handbook-policymakers/2009/9/hb111-18.pdf
Trong này nói là trợ giá 956 tỷ: http://www.economist.com/news/united-states/21595953-congress-passes-bill-gives-bipartisanship-bad-name-trillion-trough





13 tháng 12 2013

Nghĩ về "Nghĩ về một tập san quân đội"


Hôm rồi có bạn gửi cho cái đường link có tên "Nghĩ về một tập san quân đội". http://www.procontra.asia/?p=3776





Đọc qua cười khành khạch và cảm thấy thương hại cho sự ngu dốt của tác giả, thật đấy!

Cái ngu thứ nhất, lồ lộ ra ngay là tác giả đi so sánh báo điện tử QĐ với những tập san như Journal Militaire của Pháp hay Militär-Wochenblatt của Đức (toàn là tập san từ 1942 trở về trước nhá) và chê trách báo QĐ "không chú trọng chức năng trí tuệ" vì đã không như những tập san kia đưa các bài về "xạ thuật", "chiến thuật", "học thuyết chiến tranh", "phương pháp đối phó với xung đột",...


Ôi zời ơi là zời, ngu không để đâu cho hết, ngu hết phần thiên hạ rồi.

Trước hết, những tập san mà tay tác giả dẫn ra để so sánh ở trên không phải là báo, tay tác giả lại phong cho tờ báo điện tử QĐ - vốn chỉ mang tính chất truyền tải thông tin phổ thông tới người đọc cũng phổ thông nốt - là "Tập san Quân đội Nhân dân Việt Nam", một kiểu đánh tráo khái niệm, nhằm cố làm cho lập luận ngu dốt của hắn thêm phần chắc chắn.


Báo là hình thức thông tin mang tính thời điểm, còn cái thể loại như những tập san kia nó là những bài viết mang tính học thuật và ở VN bây giờ nó là tạp chí.

Riêng trong QĐ hiện có hàng chục đầu tạp chí của Lục quân, Phòng không-Không quân, Hải quân, ... và những thứ mà tác giả gọi là "trí tuệ" đều nằm cả trong đó, có điên người ta mới mang lên báo cho bàn dân thiên hạ và cả địch cùng xem.

À, nhưng cũng có thể thông cảm 1 điều, cái thằng tác giả kia làm sao mà tiếp xúc được với những tạp chí của QĐ?

Cái ngu thứ hai, tác giả khẳng định "phương châm “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn” chỉ là khẩu ngữ viết cho tranh cổ động" và "Ngay trong chiến tranh Việt- Pháp, Quân đội Nhân dân luôn dụng nhiều đánh ít".

Ngu thật, nhưng cũng có thể thông cảm được vì chắc tác giả cóc phải sĩ quan nên kiến thức quân sự chỉ đựng vừa trong muỗng cafe.

Cái này thì tranh luận nhiều và từ lâu rồi, suốt từ thời ttvnol.com sang đến VMH,... nên chả muốn giải thích dài dòng.

Vấn đề là những thằng ngu luôn mồm kêu gào QĐNDVN sử dụng chiến thuật "biển người" không hiểu thế nào là "tạo thế, tạo lực".

QĐNDVN từ trước đến nay thường chiến thắng vì họ được học và áp dụng linh hoạt nguyên tắc "tập trung lực lượng cho hướng tiến công chủ yếu, trận đánh then chốt", chính vì thế những trận đánh mà tay tác giả nêu ra làm ví dụ lực lượng QĐNDVN bao giờ cũng lớn hơn đối phương mặc dù xét tổng thể thì bao giờ QĐNDVN cũng kém xa đối phương cả về nhân lực lẫn vật lực.

Nói chung là ngu toàn tập, còn nhiều nữa nhưng chả muốn phân tích nữa.

Nói chung, những thằng đã không có kiến thức quân sự mà lại đi viết về quân sự toàn là những thằng bại não!

Đông A Đoàn

27 tháng 7 2013

Mộ bia nhiều như nấm


Những năm trước 1975, Trịnh Công Sơn qua tiếng hát của Khánh Ly như một lời kêu gọi khẩn thiết về hòa bình. Những ca khúc đó còn là sự ủi an, chia sẻ với những phận người vô tội. Khát vọng hòa bình là một mạch chảy trong “Ca khúc da vàng”.

Sự xuất hiện của Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trong giai đoạn của cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã được giới truyền thông nước ngoài ví như đôi danh ca Bob Dylan và Joan Baez ở Mỹ với những ca khúc kêu gọi chấm dứt chiến tranh làm rung động bao triệu trái tim người Việt Nam, nhất là tầng lớp thanh niên, là những người sẽ phải đối diện với chiến tranh, với cái chết hơn ai hết. 

Bao nhiêu thanh niên Việt Nam mê nhạc Trịnh, thuộc nhạc Trịnh vì lời ca ông viết ra là những con chữ đã xoáy xoay vào tâm thức tuổi trẻ trong giai đoạn đất nước có nhiều nghịch lí.

Cùng với phong trào sinh viên đấu tranh, ca khúc của Trịnh Công Sơn đi vào công chúng, tạo thành làn sóng phản chiến mạnh mẽ đến nỗi chính quyền Sài Gòn coi ông như một phần tử nguy hiểm. 

Trong bút ký “Như con sông từ nguồn ra biển”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại chi tiết ông nhận được bài báo đưa từ Sài Gòn lên rừng, trong đó có mẩu đối thoại giữa nhân vật Giao (Trịnh Công Sơn) với cảnh sát:
- Tại sao anh lại làm bài hát ca ngợi hòa bình vào lúc này?
- Ủa, thế chẳng lẽ ông lại bảo tôi ca ngợi chiến tranh?
- Nhưng anh có biết rằng lúc này, ai nói hòa bình là trung lập, trung lập là cộng sản không? Tôi nhắc lại cho anh rõ: Sắc luật ngày 7.5.1965 của chính phủ đã đặt hòa bình ra ngoài vòng pháp luật.
- Chính vì các ông đặt hòa bình ra ngoài vòng pháp luật của các ông, nên nó phải đi vào trong tiếng hát của chúng tôi.

Lời nói đó như một cam kết của đời mình, với đất nước, và Trịnh Công Sơn đã thực hiện với tất cả trách nhiệm công dân cùng với tấm lòng và tài năng của một nghệ sĩ.


Ca khúc “Tôi sẽ đi thăm”, Trịnh Công Sơn mang niềm hân hoan về sự thống nhất: “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng. Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam, tôi đi chung cuộc mừng. Và mong sẽ quên, chuyện non nước mình”.

"Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm, tôi sẽ đi thăm, đi thăm nhiều nghĩa địa buồn. đi xem mộ bia nhiều như nấm"

"Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, Mẹ già lên núi tìm xương con mình"


Tôi sẽ đi thăm - Trịnh Công Sơn

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, một phố đầy hầm,
đi thăm một con đường nhiều hố
Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, cầu gẫy vì mìn,
đi thăm hầm chông và mã tấu.
Khi đất nước tôi không còn giết nhau
Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường.

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng
Sài gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam,
tôi đi chung cuộc mừng
và mong sẽ quên chuyện non nước mình.

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm,
đi thăm nhiều nghĩa địa buồn
đi xem mộ bia nhiều như nấm 


Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Mẹ già lên núi tìm xương con mình


Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, làng xóm thành đồng
đi thăm từng khu rừng cháy nám
Khi đất nước tôi không còn giết nhau
Mọi người ra phố mời rao nụ cười

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng
Sài gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam,
tôi đi chung cuộc mừng
và mong sẽ quên chuyện non nước mình.



VIET NAM REVISITED

When my land has peace
I shall go visiting,
I shall go visiting
Along a road with many foxholes.
When my land is no longer at war
I shall visit the green graves of my friends.
When my land has peace
I shall go visiting
I shall go visiting
Over bridges crushed by mines,
Go visiting
Bunkers of bayonets and pungi sticks;
When my people are no longer killing each other
The children will sing children's songs
Outside on the street.

Trinh Cong Son
"I Shall Go Visiting"
in Don Luce, John C. Schafer, and Jacquelyn Chagnon
We Promise One Another (1971:92).

29 tháng 6 2013

Bức tường Berlin - Câu chuyện về hình thành và sụp đổ


Bức tường Berlin, từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là “Tường thành bảo vệ chống phát xít”, là một phần của biên giới nội địa nước Đức. 

Nó chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989, với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin. 

Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. 

Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người.

Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt, nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta, do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp) kiểm soát và quản lý. Berlin, đã là thủ đô của Đế chế Đức, cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây cũng đã bắt đầu trên nhiều bình diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa các cơ quan tình báo của cả hai phe. 

Trong năm 1948, cuộc phong tỏa Berlin của Liên bang Xô Viết là một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Lạnh.


Cuộc phong toả Berlin kéo dài từ ngày 24 tháng 6, 1948 đến ngày 11 tháng 5 năm 1949, là một trong những cuộc khủng hoảng quốc tế chính đầu tiên của Chiến tranh Lạnh và là cuộc khủng hoảng đầu tiên gây ra tổn thất.


Năm 1948, Stalin muốn giành toàn bộ thành phố Berlin cho Đông Đức nên đã ra lệnh phong tỏa tất cả đường bộ từ phía Tây Đức đến Tây Berlin nhằm bỏ đói dân Tây Berlin để họ phải đầu hàng Đông Đức. 

Phương Tây không vừa, họ thiết lập một cầu không vận, vận chuyển 1,5 triệu tấn lương thực, thuốc men, nhu yếu phẩm,... cho người dân phần Tây Berlin, tính ra trên 120.000 chuyến bay đến thành phố này trong vòng 10 tháng. Phong tỏa Berlin thất bại.

Trong năm 1949, khi nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập trên ba vùng chiếm đóng ở phía tây. Ngay sau đó nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập trong vùng phía đông do Liên bang Xô Viết chiếm đóng. 

Biên giới bắt đầu được cả hai bên tăng cường củng cố và canh phòng. Hai quốc gia được thành lập đã tạo nền tảng cho việc chia cắt nước Đức về chính trị. Đầu tiên, chỉ có cảnh sát biên phòng và lực lượng quân đội biên phòng được giao nhiệm vụ canh gác giữa Đông Đức và Tây Đức. 

Sau đấy Đông Đức bắt đầu xây dựng nhiều rào chắn. Về mặt hình thức, Berlin mang thể chế của một thành phố bao gồm bốn khu vực và là thành phố phi quân sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một thành phố độc lập so với cả hai quốc gia Đức – nhưng thật ra điều này không còn giá trị trong thực tế. 

Trên nhiều phương diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ như việc có đại diện (nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức (Bundestag). Đi ngược lại hiệp định đã được ký kết, Đông Berlin trở thành thủ đô của nước Đông Đức.


Lính gác ở bức tường Berlin

Khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang dẫn đến nhiều việc như cấm vận kỹ thuật cao COCOM cho khối Đông Âu, chiến tranh ngoại giao liên tục và đe dọa về quân sự, phía Đông đã tăng cường đóng kín biên giới. Biên giới này không còn chỉ là một biên giới giữa hai phần nước Đức mà đã trở thành biên giới giữa Hội đồng Tương trợ Kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối Warsaw, tức là giữa hai thế lực khác nhau về tư tưởng chính trị, kinh tế và văn hóa, đã chính thức đối mặt thù địch nhau trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. 

Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất canh phòng có chiều ngang 10 m. Trong khi đó tại Berlin, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân từ Đông chạy qua Tây Berlin. 

Từ 1949 cho đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. 

Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt, nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cho sự tồn tại của quốc gia này.

Thêm vào đó khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. 

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1961, Hội đồng thành phố Đông Berlin ban quy định bắt buộc những người này phải đăng ký và phải trả tiền nhà cũng như những phí tổn phụ (điện, nước) bằng tiền Mark của Tây Đức (Deutsche Mark). 

Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng Công an Nhân dân của Đông Đức tại Đông Berlin cũng đã kiểm soát nghiêm ngặt các con đường và phương tiện giao thông đi qua phần phía tây của thành phố để ngăn chặn những người “chạy trốn cộng hòa” và “buôn lậu”. 

Ngược lại, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây Berlin đã dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. 

Qua đó hệ thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi. 

Bức tường được xây dựng để phục vụ cho ý định của những người cầm quyền Đông Đức, là đóng kín cửa biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách bình dân là “bỏ phiếu bằng chân”, hay nói cách khác là người dân rời bỏ “quốc gia công nông xã hội chủ nghĩa”.

Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands – SED), dưới sự bảo vệ và canh phòng của lực lượng Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân Quốc gia, và trái với những lời cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước của Đông Đức, Walter Ulbricht. 

Ông này là người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông Berlin vào ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ nhà báo Tây Đức Annamarie Doherr:
Tôi hiểu câu hỏi của bà là có hay không những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động công nhân xây dựng tại thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường? 
Tôi không biết có một ý định như thế, vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn lực của họ để xây chủ yếu nhà dân cư. 
Không một ai có ý định dựng lên một bức tường cả!
Vậy là, Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức tường trong việc này – hai tháng trước khi nó được dựng lên.

Sau đó, theo thông điệp chính thức được phát ra ngày 12/8/1961 của Nước cộng hòa dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Republik – DDR): 

«Để dễ dàng cho việc kiểm soát sự di cư của người dân Đông Đức, chúng ta sẽ đặt ra một dạng đường biên giới ngay phần đất giới hạn của DDR và SED, qua đó xác định được số người dân qua lại, khi mà họ sử dụng đường bộ hành.»

Vào buổi sáng ngày chủ nhật 13/8/1961, những dây thép gai và cột gỗ được chuyển đến vùng đất ranh giới giữa Đông và Tây Đức, trong khi cảnh sát ngăn cản người dân băng qua biên giới: hàng rào được tạo nên từng bước một.

Sau đó, dây thép gai được thay thế bằng một bức tường đá với kích cỡ khá to, những cánh cổng và cửa sổ của các khu nhà phố Bernauer (Bernauer Straße) ở đấy cũng góp phần vào việc phân chia rõ biên giới. 

Những lề đường thuộc về quận Wedding (thuộc Đông Đức) trong khi các khu nhà lại thuộc về quận Mitte (nằm ở địa phận Tây Đức). 

Người dân ở đấy nếu muốn đi vào nhà họ thì đầu tiên phải được phép đi qua các cửa khẩu để qua phía bên kia biên giới. 

Ngày hôm trước họ còn nói chuyện với người hàng xóm, ngày hôm sau đã không được phép sang thăm nhau nữa vì ngôi nhà đó thuộc về một đảng phái chính trị khác.

Trong suốt năm 1961 và sau đó, có rất nhiều nhà ở vùng biên giới bị bắt phải dọn đi.

Tuy quân đội Đồng Minh phía Tây đã có thông tin về kế hoạch của “những biện pháp cứng rắn” nhằm để phong tỏa Tây Berlin thông qua những người tin cậy, nhưng họ vẫn ngạc nhiên về thời điểm cụ thể và quy mô của rào cản này. Do quyền ra vào Tây Berlin không bị cắt xén nên phương Tây đã không can thiệp bằng quân sự. 

Cơ quan tình báo Liên bang Đức (Bundesnachrichtendienst – BND) cũng đã nhận được nhiều thông tin tương tự ngay từ giữa tháng 7. Sau khi Ulbricht viếng thăm Nikita Sergeyevich Khrushchyov trong thời gian của cuộc họp cấp cao các nước trong khối Warsaw tại Matx-cơ-va từ 3 tháng 8 đến 5 tháng 8, báo cáo hằng tuần của BND vào ngày 9 tháng 8 đã ghi lại:

Thông tin cho thấy chế độ Pankow đang cố gắng đạt được sự đồng ý của Mátxcơva để tiến hành nhiều biện pháp ngăn cản có hiệu quả hơn – thuộc vào trong số đó đặc biệt là việc thắt chặt biên giới của các khu vực chiếm đóng ở Berlin và làm gián đoạn giao thông tàu điện ngầm và tàu nhanh ở Berlin
Trong tuyên bố của các quốc gia thành viên trong hội nghị của khối Warsaw đã có lời đề nghị:
phải chặn đứng các hoạt động phá hoại ngấm ngầm chống lại các nước phe xã hội chủ nghĩa tại biên giới Tây Berlin, và phải đảm bảo canh gác và kiểm soát có hiệu quả vùng Tây Berlin.
Vào ngày 11 tháng 8 Quốc hội của Đông Đức chấp thuận kết quả của hội nghị Matx-cơ-va và ủy nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng tiến hành tất cả các biện pháp tương ứng. 

Ngày 12 tháng 8 Hội đồng Bộ trưởng quyết định sử dụng các «lực lượng vũ trang» để canh phòng biên giới với Tây Berlin và để xây dựng rào chắn biên giới.

Trong ngày thứ Bảy 12 tháng 8, cơ quan BND nhận được thông tin từ Đông Berlin, rằng:
vào ngày 11 tháng 8 năm 1961 đã có cuộc họp các bí thư các nhà xuất bản thuộc Đảng và các cán bộ Đảng khác tại Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức. 
Tại đấy, ngoài những việc khác là tuyên bố: Do tình hình dòng người di tản tăng liên tục, việc khóa kín phần phía đông của Berlin và khu vực chiếm đóng phía đông cần phải thực hiện trong những ngày sắp đến – một thời điểm cụ thể không được nêu ra – chứ không như theo kế hoạch là đến 14 ngày nữa.“
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 8 năm 1961 Quân đội Nhân dân Quốc gia, người của Cảnh sát biên phòng (tiền thân của Lực lượng Biên phòng sau này), người thuộc Công an Nhân dân và người thuộc lực lượng công nhân vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. 

Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.

Erich Honecker vào thời điểm đó dưới cương vị là bí thư trung ương Đảng về an ninh, đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng chịu trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức tường. 

Ngay trong cùng ngày Thủ tướng Liên bang Konrad Adenauer đã kêu gọi qua đài phát thanh yêu cầu người dân hãy bình tĩnh và thận trọng, nhắc đến việc sẽ phối hợp cùng với lực lượng Đồng Minh để có phản ứng tiếp theo. Mãi hai tuần sau khi bức tường được xây dựng ông mới viếng thăm Tây Berlin. 

Chỉ riêng thị trưởng Berlin đương nhiệmWilly Brandt đã cực lực phản đối, nhưng cuối cùng ông cũng bất lực trước việc xây bức tường bao quanh Tây Berlin chia cắt thành phố. 

Ngay trong năm đó, các tiểu bang Tây Đức đã thành lập Trung tâm Thu thập của Hành chánh Tư pháp Tiểu bang (Zentrale Erfassungsstelle der Landesjustizverwaltungen) tại Salzgitter để ghi nhận lại các vi phạm về quyền con người trên lãnh thổ Đông Đức. 

Vào ngày 16 tháng 8 năm 1961, Willy Brandt và 300.000 người dân Tây Berlin đã biểu tình trước Tòa thị chính Schöneberg.

Đồng Minh phía tây phản ứng rất chậm chạp: mãi 20 tiếng sau đó, lực lượng quân sự mới xuất hiện tại biên giới. 

Sau 40 tiếng một bức thư mới được gửi đến Ban chỉ huy quân sự Xô Viết Berlin, và mãi đến 72 tiếng sau đó, để cho đầy đủ về mặt hình thức, các phản đối mang tính ngoại giao của phe Đồng Minh phía tây mới được gửi đến Matx-cơ-va. 

Có nhiều tin đồn cho rằng trước đó Liên bang Xô Viết đã bảo đảm với phe Đồng Minh phía tây là Liên bang Xô Viết sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của họ ở Tây Berlin. 

Trên thực tế, từ kinh nghiệm của Cuộc phong tỏa Berlin, trong mắt của Đồng Minh phía Tây, thể chế của Tây Berlin luôn luôn bị đe dọa. 

Việc xây bức tường chính là tuyên ngôn bằng hiện vật của nguyên trạng đương thời, cái mà giờ đây chỉ được xây nền tảng bằng bê tông theo đúng nghĩa đen của nó. 

Có thể thấy rõ rằng Liên bang Xô Viết đã từ bỏ yêu cầu về một thành phố Berlin “tự do”, phi quân sự được thể hiện trong tối hậu thư của Khrushchyov năm 1958.

Phản ứng quốc tế năm 1961:

* “Một giải pháp không hay lắm nhưng vẫn tốt hơn chiến tranh hằng ngàn lần.” John F. Kennedy, Tổng thống Mỹ.

* “Người Đông Đức chận dòng người tỵ nạn lại, và cố thủ sau một bức màng sắt dầy hơn. Điều đấy không có gì là phạm pháp cả.” Harold Macmillan, Thủ tướng Anh.

Tuy vậy Tổng thống John F. Kennedy cũng đã đứng sát cạnh với “thành phố tự do” Berlin. Ông gửi thêm lực lượng quân sự gồm 1.500 người đến Tây Berlin và tái động viên tướng Lucius D. Clay. Vào ngày 19 tháng 8 năm 1961 Clay và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson đến thăm Berlin.

Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và Xô Viết xảy ra vào ngày 27 tháng 10 năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên đường Friedrich (Friedrichstraße) khi 10 chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối diện nhau ngay trước vạch ranh giới. 

Thế nhưng vào ngày hôm sau cả hai nhóm tăng đều được rút về, cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối cùng là đi đến một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Từ ngày 1 tháng 6 năm 1952 dân cư trong Tây Berlin không còn được phép tự do vào Đông Đức. Sau nhiều cuộc thương lượng kéo dài Hiệp định giấy thông hành (Passierscheinabkommen) được ký kết năm 1963, tạo điều kiện cho hằng trăm ngàn người Tây Berlin thăm viếng họ hàng trong phần phía đông của thành phố vào dịp cuối năm.



Cấu trúc hệ thống bảo vệ biên giới tại Berlin

Biển cảnh báo tại vùng biên giới (Vùng biên giới, chỉ được phép vào với giấy phép đặc biệt.)

Bức tường Berlin được hoàn thiện bằng nhiều công trình rộng khắp ở cạnh biên giới với Tây Đức. 

Cũng như phần biên giới nội Đức còn lại, Bức tường Berlin được củng cố với nhiều hệ thống rộng lớn bao gồm hàng rào kẽm gai, hào, vật cản xe tăng, đường tuần tra và tháp canh. 

Chỉ riêng chó đặc nhiệm đã có khoảng 1.000 con đã được sử dụng cho đến đầu thập niên 1980. 

Các hệ thống này được liên tục mở rộng qua nhiều thập niên. Các ngôi nhà gần bức tường đều bị giật sập, dân cư trong các ngôi nhà đó đã bị bắt buộc di chuyển sang nơi khác trước đấy. 

Ngay cả Nhà thờ Hòa giải trên đường Bernau (Bernauer Straße) cũng bị giật sập vào ngày 28 tháng 1 năm 1985. 

Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia trong mùa xuân 1989, hệ thống chung quanh Bức tường Berlin bao gồm:

* 41,91 km tường có chiều cao 3.60 m

* 58,95 km tường có chiều cao 3,40 m

* 68,42 km hàng rào bằng kim loại có chiều cao 2,90 m làm “vật cản trước”

* 161 km đường đi có hệ thống chiếu sáng

* 113,85 km hàng rào có hệ thống báo động

* 186 tháp canh

* 31 cơ sở chỉ huy
Lính Liên Xô đứng gác bức tường Berlin 1989

Trong tổng số 156,4 km biên giới với Tây Berlin, 43,7 km nằm trong thành phố Berlin và 112,7 km nằm trong tỉnh Potsdam. Có 63,8 km chạy qua khu vực có công trình xây dựng, 32 km xuyên qua vùng có rừng, 22,65 km qua đồng trống và 37,95 km nằm cạnh sông hay hồ.

Vào thời gian cuối, hệ thống bảo vệ biên giới bao gồm (từ hướng của Đông Đức):

* Tường bê tông hay rào sắt cao khoảng từ 2 đến 3 mét

* Dưới đất là hệ thống phát tín hiệu báo động khi chạm vào

* Rào sắt cao hơn đầu người có gắn kẽm gai và dây báo động

* Ngoài ra nhiều đoạn còn có chó đặc nhiệm, hào cản xe cơ giới và cản xe tăng, chỉ được hủy bỏ sau khi Tây Đức cho vay hằng tỉ đồng DM.

* Đường đi có chiếu sáng về đêm cho lực lượng biên phòng

* Tháp canh (tổng cộng 302 tháp vào năm 1989)

* Bức tường Berlin

* Trước đấy là vài mét lãnh thổ của nước Đông Đức.

Hệ thống bảo vệ biên giới này có chiều ngang tổng cộng khoảng từ 30 m đến khoảng 500 m (ở Quảng trường Potsdam) tùy thuộc vào địa hình. Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức.

Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia (Đông Đức), lực lượng biên phòng của khu vực biên giới với Tây Berlin bao gồm 11.500 quân nhân và 500 nhân viên dân sự. 

Ngoài bộ tham mưu đóng ở Berlin-Karlshorst lực lượng này bao gồm 7 trung đoàn đóng tại Berlin-Treptow, Berlin-Pankow, Berlin-Rummelsburg, Hennigsdorf, Groß-Glienicke, Potsdam-Babelsberg và Kleinmachnow cũng như là 2 trung đoàn tập huấn tại Wilhelmshagen và Oranienburg.

Mỗi trung đoàn có 5 đại đội biên phòng, ngoài ra là mỗi một trung đội của các binh chủng công binh, truyền tin, vận tải, súng cối và pháo binh, súng phóng lửa và một đội chó đặc nhiệm. 

Ngoài ra còn có thể có một đại đội thuyền hải quân.

Lực lượng canh phòng biên giới có hơn 567 xe bọc thép chở quân, 48 súng cối, 48 đại bác chống tăng, 114 súng phóng lửa cũng như là 156 xe bọc thép hay xe công binh và 2.295 xe cơ giới khác, 992 chó đặc nhiệm.

Vào một ngày bình thường có khoảng 2.300 quân nhân nhận nhiệm vụ canh phòng trực tiếp tại biên giới và vùng cận biên giới.

Tại Bức tường Berlin có 25 nơi qua biên giới, 13 cửa khẩu cho đường ô tô, 4 cho tàu hỏa và 8 cửa khẩu đường sông, chiếm 60% tất cả các cửa khẩu biên giới giữa Đông Đức và Tây Đức. Sau khi hai nước Đức thống nhất tiền tệ vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, toàn bộ các cửa khẩu biên giới nội địa Đức được hủy bỏ, một vài phần còn lại được giữ làm kỷ niệm
Một góc của bức tường


Bắt từ đầu thập niên 1970 với chính sách tiếp cận giữa Đông Đức và Tây Đức do Willy Brandt và Erich Honecker mở đầu, biên giới của hai quốc gia được mở rộng hơn một ít. 

Đông Đức bắt đầu cho phép đi du lịch dễ dàng hơn, đặc biệt là cho những nhóm người “phi sản xuất” như những người đang nghỉ hưu và cho phép công dân Tây Đức thăm viếng một cách đơn giản hơn từ những vùng gần biên giới. 

Một quyền tự do du lịch rộng rãi bị Đông Đức gắn liền với việc công nhận thể chế là một quốc gia độc lập và với yêu cầu trao trả các công dân Đông Đức đi du lịch nhưng không muốn trở về nữa, Tây Đức đã không muốn thỏa mãn các yêu cầu này vì hiến pháp không cho phép.

Trong tuyên truyền, Đông Đức đã gọi bức tường này cũng như toàn bộ việc bảo vệ biên giới là “bức tường thành chống phát xít” (antifaschistischer Wall), bảo vệ nước Đông Đức chống lại việc “di dân, xâm nhập, gián điệp, phá hoại, buôn lậu, bán tống bán tháo và gây hấn từ phương Tây“.

Lý do dẫn đến việc mở cửa bức tường, một mặt là vì các cuộc biểu tình tuần hành rộng lớn và yêu cầu tự do đi lại trong Đông Đức trước kia, mặt khác là vì việc “bỏ trốn Cộng hòa” (Republikflucht) liên tục của một số lớn người dân từ Đông Đức sang Tây Đức theo cách vòng qua nước ngoài như Hungary – nước đã mở cửa biên giới với Áo từ ngày 11 tháng 9, hay trực tiếp từ Tiệp Khắc từ đầu tháng 11, hoặc qua các đại sứ quán Đức tại các thủ đô của các quốc gia ở Đông Âu, trong đó là các đại sứ quán tại Praha và Warsaw.

Sau khi bản dự thảo cho Luật đi lại mới (Reisegesetz) được công bố vào ngày 6 tháng 11 vấp phải phản đối cực lực, và bị lãnh đạo Tiệp Khắc ngày càng phản đối mạnh mẽ bằng con đường ngoại giao về việc công dân Đông Đức bỏ đi thông qua lãnh thổ Tiệp Khắc, Bộ chính trị của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức quyết định thay đạo luật mới bằng một quy định về việc ra nước ngoài. 

Một bản dự thảo cho quyết định này, có thêm phần về việc xuất ngoại để thăm viếng, được Bộ chính trị xác nhận và chuyển tiếp đến Hội đồng Bộ trưởng. 

Tại đấy, theo như dự tính thì bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng cần được hoàn thành và thông qua ngay trong ngày, để có thể được công bố bắt đầu từ lúc 4 giờ ngày hôm sau qua hãng thông tấn xã nhà nước ADN. 

Thế nhưng trong quy trình thông qua đã có ý kiến phản đối từ Bộ Tư pháp. Song song với việc này, bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng được đưa ra bàn thảo vào buổi chiều ngày hôm đó trong Ủy ban Trung ương Đảng và được sửa đổi nhỏ. 

Phiên bản này của dự thảo được Egon Krenz trao cho thành viên của Bộ Chính trị Günter Schabowski, người vắng mặt trong các cuộc họp trước đó của Bộ chính trị và Ủy ban Trung ương Đảng, trước khi Schabowski tổ chức họp báo về kết quả của lần họp Ủy ban Trung ương Đảng.

Cuộc họp báo với Günter Schabowski trong Sở Báo chí/Trung tâm Báo chí Quốc tế trên đường Mohren (Mohrenstraße) số 38 tại Đông Berlin (hiện nay là một phần của Bộ Tư pháp Liên bang) được truyền hình trực tiếp và được nhiều người theo dõi, và chính là ngòi nổ mở cửa bức tường. 

Vào cuối cuộc họp báo vào lúc 18 giờ 57, gần như là việc phụ, Schabowski đọc từ tờ giấy được đưa cho ông bản dự thảo dành cho Hội đồng Bộ trưởng:
Có thể làm đơn xin du lịch cá nhân ra nước ngoài mà không cần có điều kiện như lý do xuất ngoại hay quan hệ họ hàng. 
Giấy phép sẽ được cấp trong thời hạn ngắn. Các ban phòng có thẩm quyền về hộ chiếu và khai báo cư trú của các cơ quan Công an Nhân dân cấp huyện trong nước Đông Đức có thể nhanh chóng cấp giấy thông hành ra nước ngoài thường xuyên theo như chỉ thị.  
Có thể liên tục ra nước ngoài tại tất cả các cửa khẩu biên giới giữa nước Đông Đức và Tây Đức.

- “Khi nào? Ngay lập tức?” Một nhà báo, Peter Brinkmann phóng viên thường trực của báo Bild tại Đông Đức, hỏi.

Schabowski (lục lọi trong chồng giấy tờ của ông): - “Theo như tôi biết – thì ngay lập tức, không chậm trễ”.

(Trích dẫn theo Hans-Hermann Hertle, Katrin Elsner trong quyển “Mein 9. November”, NXB Nicolai, Berlin,1999)

Dựa trên thông tin từ các đài truyền thanh và truyền hình của Tây Đức và Tây Berlin dưới tựa đề được diễn giải một cách sai lầm là “Bức tường đã mở!” hằng ngàn người dân Đông Berlin đã kéo đến các cửa khẩu và yêu cầu mở cổng. 

Vào thời điểm này, không những lực lượng biên phòng mà ngay cả các đơn vị kiểm tra hộ chiếu chịu trách nhiệm về thủ tục thuộc Bộ An ninh Quốc gia cũng hoàn toàn không được thông báo gì về vấn đề này. 

Dưới áp lực của số đông quần chúng, ngay sau 23 giờ, cửa khẩu biên giới tại đường Bornholmer (Bornholmer Straße) ở Berlin được mở đầu tiên mà không có lệnh hay chỉ đạo cụ thể, sau đấy là các cửa khẩu khác trong thành phố Berlin cũng như tại biên giới nội địa Đức. 

Ngay tối khuya đó, nhiều người đã theo dõi việc mở các cửa khẩu biên giới qua truyền hình và một phần đã bắt đầu ra đi. “Cơn bão” bắt đầu vào sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng 11 năm 1989, vì rất nhiều người vẫn còn đang ngủ khi biên giới được mở vào giữa đêm khuya.

Công dân Đông Đức đã được người dân Tây Berlin đón chào nồng nhiệt. 

Phần lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho uống bia không phải trả tiền và trên đại lộ Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp còi diễu hành, những người hoàn toàn xa lạ ôm choàng lấy nhau. 

Khi có thông tin về việc bức tường được mở cửa, Quốc hội Liên bang đã tạm ngừng phiên họp về ngân sách quốc gia và các nghị sỹ đã tự phát hát quốc ca.

Cho đến tháng 9 năm 1961, chỉ riêng từ lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ sang Tây Berlin, ngoài ra là khoảng 200 lần chạy trốn thành công của tổng cộng 400 người. 

Mãi mãi không quên là các bức ảnh nổi tiếng chụp những người chạy trốn được thả xuống từ các ngôi nhà lân cận bằng dây làm từ tấm vải trải giường hay của người cảnh sát biên phòng trẻ tuổi Conrad Schumann đang chạy qua hàng rào kẽm gai trên đường Bernauer (Bernauer Straße).

Thông tin về con số những người chết tại Bức tường Berlin chứa nhiều mâu thuẫn và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa chắc chắn, năm 2000 Viện công tố Berlin cho biết con số có thể minh chứng được của những nạn nhân đã chết vì bạo lực tại Bức tường Berlin là khoảng 100 người. 

Từ tháng 8 năm 2005 một dự án được Hội Bức tường Berlin (Verein Berliner Mauer) cùng với Trung tâm nghiên cứu lịch sử đương đại Potsdam tiến hành với mục đích điều tra con số chính xác của những nạn nhân bức tường và lịch sử của những nạn nhân này. 

Theo một công bố vào ngày 8 tháng 8 năm 2006, 125 người chết trong số 268 vụ việc điều tra đã có thể được minh chứng rõ ràng, 62 vụ việc có trong nhiều danh sách nạn nhân có thể được loại bỏ vì không đúng và 81 vụ việc cần phải được tiếp tục điều tra thêm. 

Một nửa nạn nhân đã chết trong vòng 5 năm đầu tiên sau khi bức tường được xây dựng, khoảng 2/3 trong thời gian cho đến năm 1969, phần lớn nạn nhân là nam giới dưới 30 tuổi. 

Tiếp theo sau công bố này tranh cãi đã bùng nổ gay gắt về con số nạn nhân và về các phương pháp điều tra những vụ việc đã xảy ra tại bức tường. 

Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 (Arbeitsgemeinschaft 13. August), tổ chức với một danh sách có tổng cộng 262 nạn nhân, cho rằng dự án này đã cố tình “tính toán” số nạn nhân nhỏ đi vì lý do chính trị. 

Ngược lại Cộng đồng Ngày 13 tháng 8, tổ chức không có chuyên gia về lịch sử tham gia vào trong các điều tra, bị cho rằng đã đưa vào trong danh sách nhiều trường hợp không rõ ràng, không được minh chứng có liên quan trực tiếp đến các vụ việc xảy ra tại biên giới hay ngay cả những vụ việc mà hiện nay đã bị phản chứng.

Nạn nhân đầu tiên của Bức tường là Ida Siekmann, người đã tử nạn khi nhảy từ cửa sổ của một căn nhà trên đường Bernau (Bernauer Straße) xuống vào ngày 22 tháng 8 năm 1961

Vào ngày 24 tháng 8 năm 1961 các phát súng đầu tiên đã bắn chết Günter Litfin, 24 tuổi, trong khi anh cố chạy trốn ở gần Nhà ga trên đường Friedrich. 

Một năm sau khi tường Berlin được xây dựng, Peter Fechter, khi đó 18 tuổi, cùng bạn là Helmut Kulbeik quyết định chạy trốn khỏi nước Đông Đức để đến Tây Đức, chỉ cách nhau một bức tường cao gần 2m có dây thép quấn ở trên. 

Trưa ngày 17 tháng 8 năm 1962, họ trốn trong xưởng của một thợ gỗ để theo dõi các lính biên phòng Đông Đức.


Khi cả 2 người cùng chạy ra và leo lên tường, họ bị lính biên phòng Đông Đức cùng nhắm bắn. 

Kulbeik nhảy được qua bên phía kia, nhưng Fechter bị bắn trúng vào lưng trước sự chứng kiến của nhiều nhân chứng, cậu rơi xuống lại bên phía đông bức tường, vướng trong dây thép gai, Fechter khóc và kêu cứu, nhưng lính Đông Đức bỏ mặc cậu. 

Sau khi bị để cho chảy máu đến chết trong 1 giờ đồng hồ, tiếng kêu khóc nhỏ dần và Fechter chết trong lúc nhân dân Tây Đức thành lập một cuộc biểu tình hàng trăm người ở bên kia bức tường và hét to “Lũ giết người!”.

Trong lúc người phía Tây không thể sang cứu do súng chĩa vào họ, một sĩ quan Mỹ ở Tây Đức cũng nhận được lệnh của thượng cấp “không được hành động”, phía Đông thì chỉ ra dọn xác chết cả giờ đồng hồ sau đó vì sợ bốc mùi thối.

Sau khi Peter Fechter chết, mọi người mới bắt đầu tỏ ra thương tiếc, nhưng đa phần chỉ có phía Tây tỏ ra thương tiếc. Tỉnh trưởng Tây Berlin ông Herbert Frahm (Willy Brandt) đi đặt vòng hoa, mặc dù họ đã chẳng làm gì để cứu. Sau khi Đông Đức sụp đổ, một nơi tưởng niệm được lập ra ngay tại nơi Fechter bị bỏ mặc đến chết.


Trong năm 1966 hai trẻ em 10 và 13 tuổi đã bị bắn chết bởi 40 phát súng. 

Nạn nhân cuối cùng bị bắn chết là Chris Gueffroy vào ngày 6 tháng 2 năm 1989.
Bức tường Berlin

Tháng 7-1965, Tây Đức phát hành một con tem diễn tả cảnh người Đông Đức chạy sang miền Tây: 

Name:  01.jpg
Views: 131
Size:  97.5 KB

Đây là một bì thư dán con tem trên gửi từ Tây Đức đi Frankfurt đúng ngày phát hành: 

Name:  02.jpg
Views: 130
Size:  47.1 KB


Con tem được hủy hoàn toàn theo nghĩa đen; dấu "Zuruck" (Trả lại người gửi) được đóng lên mặt trước. 

Name:  03.jpg
Views: 128
Size:  58.8 KB

Mặt sau có hai dấu "Không thấy phố ở Frankfurt " và "Tìm không được."

Nước Đức có hai Frankfurt, Frankfurt trên sông Main thuộc về Tậy Đức, thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, thành phố này được dự định chọn làm thủ phủ Tây Đức, nhưng sau đó lại chọn Bonn.
Còn Frankfurt trên sông Oder thuộc về Đông Đức, khoảng những năm 1980 tại Việt Nam có cuốn tiểu thuyết "Mùa xuân trên sông Ô đe" được dịch từ tiếng Nga, sông Ô đe (Oder) là con sông chảy qua thành phố Frankfurt/Oder.


Hãy phá đổ bức tường này” (Tear down this wall) là bài diễn văn nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan tại Cổng Brandenburg, bên cạnh Bức tường Berlin vào ngày 12 tháng 6 năm 1987. 

Ông đã thách thức nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Sergeyevich Gorbachyov hãy phá bỏ Bức tường Berlin, để biểu hiện sự ước muốn của Gorbachev trong việc gia tăng sự tự do tại khối Xô Viết. Hoa Kỳ luôn xem Xô Viết phải có trách nhiệm phá vỡ Bức tường Berlin, vì tất cả quyền hành trong chính phủ Đông Đức đều cho Xô Viết kiểm xoát.
General Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization, come here to this gate. Mr. Gorbachev, open this gate. Mr. Gorbachev, tear down this wall!
"Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông muốn tìm hòa bình, nếu ông muốn tìm thịnh vượng cho Liên Xô và Đông Âu, nếu ông muốn tìm giải phóng, hãy đến tại cổng này. Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá đổ bức tường này!"
Có nhiều tranh cãi về sức ảnh hưởng về sự thách thức Tổng thống Reagan mang đến, có nguồn cho rằng bài diễn văn là điểm bắt đầu cho sự thay đổi và sự sụp đổ Bức tường Berlin, những nguồn khác thì cho rằng bài diễn văn của Reagan chỉ đơn giản cùng chung một thời điểm. 

Tuy nhiên, không ai nghi ngờ sự chống đối cương quyết của Reagan với giới lãnh đạo Xô Viết là một yếu tố chính trong việc lật đổ các chính thể cộng sản, điều này đã xảy ra trong hai năm ngay sau khi ông rời nhiệm sở tại Nhà trắng.

Vào ngày 18 tháng 10 năm 1989, nhà lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker từ chức. 

Các lãnh đạo mới của Đông Đức nới lỏng hạn chế cho dân Đông Đức rời khỏi quốc gia, ngay lập tức đánh dấu sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11, 1989. 

Bức tường sụp đổ trong đêm thứ Năm ngày 9 tháng 11, rạng sáng ngày thứ Sáu ngày 10 tháng 11 năm 1989,sau hơn 28 năm

Bức tường chính thức được phá vào ngày 13 tháng 6 năm 1990. Nhiều người tham gia với sự khởi đầu của 300 người lính biên phòng RDA và 600 lính Bundeswehr. Nhiều thiết bị khác như 13 xe máy ủi, 65 chiếc cần cẩu và 175 xe camion đã san bằng bức tường phân đôi Berlin vào ngày 30-11, để lại 6 phần với mục đích tưởng niệm.

Sau khi Cộng hoà Dân chủ Đức giải tán tháng 10 năm 1990, vợ chồng Honecker ở với gia đình vị mục sư Lutheran Uwe Holmer. 

Sau đó Honecker sống trong một bệnh viện quân sự Liên xô gần Berlin trước khi bỏ trốn với Margot Honecker tới Moscow, để tránh bị truy tố vì các trách nhiệm tội ác thời Chiến tranh Lạnh. 

Sau sự sụp đổ của Liên xô tháng 12 năm 1991, Honecker vào tị nạn trong đại sứ quán Chile tại Moscow, nhưng đã bị chính phủ Yeltsin trục xuất về Đức năm 1992. 

Sau khi thống nhất nước Đức, các vụ án xử những người ra lệnh bắn kéo dài cho đến mùa thu năm 2004. 

Theo nhiều dự tính, khoảng 75.000 người đã phải ra tòa án trong Đông Đức vì tội chạy trốn, tội mà theo điều 213 Bộ Luật hình sự nước Đông Đức có thể lãnh án đến 8 năm tù, những ai giúp đỡ chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân.
Thuộc vào trong số những người chịu trách nhiệm bị xử án là Erich Honecker, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và người kế nhiệm Egon Krenz, các thành viên của Hội đồng Quốc phòng Erich Mielke, Willi Stoph, Heinz Keßler, Fritz Streletz và Hans Albrecht, bí thư tỉnh Suhl, cũng như là một vài tướng lãnh như cựu chỉ huy lực lượng biên phòng (1979-1990), đại tướng Klaus-Dieter Baumgarten. 

Tổng cộng có 35 người được trắng án, 44 người bị tù treo và 11 người lãnh án tù, trong đó Albrecht, Streletz và Kessler cũng như là Baumgarten đã lãnh án từ 4 năm 6 tháng đến 7 năm 6 tháng tù giam. Trong tháng 8 năm 2004 Hans-Joachim Böhme và Werner Lorenz, cựu thành viên của Bộ Chính trị, đã nhận án treo từ Tòa án Berlin (Landgericht Berlin).

Ông Honecker bị chính phủ Đức buộc tội liên quan tới những cái chết của 192 người Đông Đức tìm cách bỏ trốn trái phép sang Cộng hoà Liên bang Đức. 

Tuy nhiên, khi phiên toà chính thức mở ra đầu năm 1993, Honecker đã được thả ngày 13 tháng 1 vì sức khoẻ kém. Ông sang Chile sống cùng con gái Sonja, cùng người chồng người Chile Leo Yáñez, và con trai Roberto. Ông chết trong cảnh lưu vong vì ung thư gan tại Santiago ngày 29 tháng 5 năm 1994.

Honecker sinh tại Max-Braun-Straße ở Neunkirchen, hiện là Saarland, con trai một người thợ mỏ, Wilhelm và Caroline Catharina Weidenhof. 

Ông gia nhập Liên đoàn Cộng sản Thanh niên Đức (KJVD) năm 1926 và giới trẻ của Đảng Cộng sản Đức (KPD) KPD năm 1929. Từ 1928 tới 1930 ông làm thợ lợp nhà, nhưng không qua được bậc học nghề. Sau đó ông sang Moscow để học tại Trường Quốc tế Lenin và trong suốt cuộc đời còn lại luôn làm một chính trị gia chuyên nghiệp.

Ông quay trở lại Đức năm 1931 và bị bắt giữ năm 1935, hai năm sau khi phe Phát xít lên nắm quyền. Năm 1937, ông bị kết án mười năm tù vì các hoạt động cộng sản và tiếp tục ở tù cho tới khi Thế chiến II chấm dứt. 

Sau khi chiến tranh kết thúc, Honecker nối lại các hoạt động trong đảng dưới sự lãnh đạo của Walter Ulbricht. 

Năm 1946, Honecker trở thành một trong những thành viên đầu tiên của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands, SED), được hình thành sau sự hợp nhất của KPD và Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) trong vùng chiếm đóng Xô viết của Đức.

Sau chiến thắng của SED trong cuộc bầu cử tháng 10 năm 1946, Honecker trở thành một những lãnh đạo đầu tiên của SED trong nghị viện Đông Đức thời hậu chiến, Đại hội Nhân dân Đức (Deutscher Volkskongress). 

Cộng hoà Dân chủ Đức được tuyên bố thành lập ngày 7 tháng 10 năm 1949 với việc thông qua hiến pháp mới, thành lập một hệ thống chính trị giống với hệ thống chính trị Liên xô. Năm 1958, ông đã là một thành viên đầy đủ của Bộ chính trị.

Năm 1961, Honecker, với tư cách thư ký Ủy ban Trung ương về các vấn đề an ninh, chịu trách nhiệm xây dựng Bức tường Berlin. 

Năm 1971, ông khởi động cuộc đấu tranh quyền lực với sự hỗ trợ của Liên xô, dẫn đến việc hay thế Walter Ulbricht trong chức vụ Thư ký thứ nhất Uỷ ban Trung ương SED và chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. 

Năm 1976, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (Vorsitzender des Staatsrats der DDR) và trên thực tế là lãnh đạo quốc gia.

Dưới thời Honecker, Cộng hoà Dân chủ Đức tiến hànhchương trình “chủ nghĩa xã hội tiêu dùng,” dẫn đến sự cải thiện đáng kể tiêu chuẩn sống vốn đã cao trong các nước thuộc khối Đông Âu. 

Ông đặt chú ý nhiều vào sự sẵn có của hàng tiêu dùng, và việc xây dựng nhà cửa được đẩy nhanh, với lời hứa của Honecker “đặt vấn đề nhà cửa như một vấn đề của xã hội.” 

Tuy thế, dù có tiêu chuẩn sống được cải thiện, sự bất đồng nội bộ không được khoan dung. Khoảng 125 công dân Đông Đức đã bị giết hại trong giai đoạn này khi tìm cách vượt biên trái phép vào Tây Đức hay Tây Berlin.

Về quan hệ nước ngoài, Honecker từ bỏ mục tiêu thống nhất nước Đức và chấp nhận một quan điểm “phòng thủ” của ý thức hệ Abgrenzung (phân chia ranh giới). Ông kết hợp sự trung thành với Liên xô cùng sự mềm dẻo với tình trạng giảm căng thẳng, đặc biệt trong quan hệ với Tây Đức. 

Tháng 9 năm 1987, ông trở thành lãnh đạo nhà nước đầu tiên của Đông Đức viếng thăm Tây Đức.

Cuối thập niên 1980, lãnh đạo Xô viết Mikhail Gorbachev đưa ra các cải cách “glasnost” và “perestroika”, để tự do hoá chủ nghĩa Cộng sản. Tuy nhiên, Honecker và chính phủ Đông Đức từ chối áp dụng các cải cách tương tự tại Cộng hoà Dân chủ Đức.

Theo thông báo Honecker đã nói với Gorbachev: “Chúng tôi đã tiến hành cải tổ của mình, chúng tôi chẳng có gì phải cơ cấu lại.” Ông còn cho rằng: “Bức Tường sẽ đứng trong 50 thậm chí 100 năm, nếu các lý do cho nó không được giải quyết.” (Berlin, 19 tháng 1 năm 1989) (Nguyên văn: “Die Mauer wird in 50 und auch in 100 Jahren noch bestehen bleiben, wenn die dazu vorhandenen Gründe noch nicht beseitigt sind”)

Tuy nhiên, khi phong trào cải cách lan rộng khắp Trung và Đông Âu, những cuộc tuần hành lớn chống chính phủ Đông Đức diễn ra, đáng chú ý nhất là cuộc tuần hành thứ 2 năm 1989 tại Leipzig. 

Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự, các đồng chí trong Bộ chính trị của Honecker kết luận cần phải thay thế ông. Honecker khi ấy đã già và ốm yếu bị buộc phải từ chức ngày 18 tháng 10 năm 1989, và được thay thế bởi Egon Krenz.
Bức tường Berlin ở Đức sau khi bị phá đổ năm 1989 đã không còn dấu vết. Công trình Đường mòn Bức tường Berlin đã hoàn thành để gợi lại một thời kỳ lịch sử của nước Đức. Dọc theo tuyến đường là những biển báo chỉ dẫn các di tích lịch sử.

Theo chính trị gia M.Cramer tại Berlin và cũng là người đưa ra ý tưởng xây dựng đường mòn:
Bức tường Berlin là một phần của quá khứ và chúng ta không thể xóa bỏ nó. Đó không chỉ là lời nhắc nhở về sự chia cắt mà còn là ký ức về chuyện bức tường đã bị phá đổ một cách hòa bình như thế nào”.
Viện bảo tàng Bức tường Berlin tại Checkpoint Charlie ngay tại biên giới nội địa Đức ngày trước được nhà sử học Rainer Hildebrandt khai trương trong năm 1963 và do Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 chịu trách nhiệm vận hành. 

Viện bảo tàng là một trong những viện bảo tàng có du khách đến tham quan nhiều nhất của Berlin. Viện trưng bày hệ thống bảo vệ biên giới, tư liệu về các cuộc chạy trốn thành công và các phương tiện đã được sử dụng để bỏ trốn như khinh khí cầu, ô tô hay một tàu ngầm nhỏ. Giám đốc hiện nay là góa phụ của người sáng lập, bà Alexandra Hildebrandt.

Khu tưởng niệm Bức tường Berlin tại đường Bernau được hoàn thành vào cuối thập niên 1990 bao gồm đài tưởng niệm, Trung tâm tư liệu Bức tường Berlin và ngôi nhà thờ hòa giải.

Đài tưởng niệm xuất phát từ một cuộc thi đua do Liên bang tổ chức và được khánh thành vào ngày 13 tháng 8 năm 1998 sau nhiều cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài. 

Trung tâm tư liệu do một hiệp hội vận hành và được khai trương vào ngày 9 tháng 11 năm 1999. 

Nhà thờ hòa giải của Cộng đồng hòa giải Tin Lành được khánh thành vào ngày 9 tháng 11 năm 2000 và được xây dựng trên nền móng của Nhà thờ hòa giải đã bị giật sập trong năm 1985.


Phần còn lại của bức tường


Các con số lấy từ Wikipedia, tài liệu được tổng hợp từ nhiều nguồn.