23 tháng 9 2011

Gắng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Vũ Khúc)


 

Tôi được giao nhiệm vụ biên tập các bản thảo gửi đến Tạp chí Địa chất đã được 20 năm nay (từ 1986, Phó Tổng biên tập). Ngay từ những tháng ngày đầu làm công việc này, trong tôi luôn vang lên câu nói mang tính kêu gọi của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: "Hãy gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt!". Trong hai mươi năm qua, tôi luôn cảm thấy tính thời sự, cũng như tính cấp thiết của lời kêu gọi này, ngay cả đến ngày nay, khi đã hình thành một thế hệ chuyên gia địa chất trẻ được đào tạo cẩn thận, đã trưởng thành và dần nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy nghiên cứu địa chất và điều tra khoáng sản ở nước ta. Nhưng các bản thảo gửi đến Tạp chí vẫn có nhiều điều phải nói đến, để sao cho Tạp chí ta luôn đi theo lời kêu gọi của Cố Thủ tướng.

I. Hãy tránh viết giọng văn dịch

Có lẽ do được đào tạo ở nước ngoài, hoặc đọc sách báo ngoại ngữ nhiều, lời văn ở bản thảo của một số tác giả do chính tác giả viết ra, diễn đạt một ý của chính mình, mà cứ như là dịch từ lời văn của người nước ngoài. Có thể lấy ví dụ: "Các phần của đứt gãy mà nó được phát triển trong pha thứ nhất…"; có lẽ tôi phải lấy danh dự ra mà đảm bảo là tôi đã trích dẫn nguyên si, thì các bạn mới tin là có tác giả đã viết như vậy. Cái đoạn "mà nó được phát triển" sao mà nặng nề và "tây" đến thế? Nó làm ta liên tưởng ngay đến cách viết: "that was developed…". Phổ biến hơn, các tác giả thường viết tính động từ đi kèm với từ "được" làm cho câu văn rất nặng, ví dụ như: "các mặt cắt lấy mẫu được phân bố dọc theo quốc lộ 6…", "sự nâng lên của khối này được xảy ra…", "đá bazan được lộ ra…", "bản đồ được thành lập bởi…", v.v. Dân ta vẫn thường nói: "Thịt bò ăn ngon quá!". Tất nhiên, ai cũng hiểu là chúng ta ăn thịt bò, và thịt bò được chúng ta ăn, nhưng các bạn xem, chẳng có ai nói là: "Thịt bò được ăn ngon quá!", càng không có ai nói: "Thịt bò được ăn bởi vợ tôi!". Có lẽ phải sang hay mới được nghe cách nói như vậy. Nếu chúng ta viết: "các mặt cắt lấy mẫu phân bố dọc theo quốc lộ 6…" hay "đá bazan lộ ra…", v.v. thì có đưa đến hiểu lầm gì đâu nhỉ? Mà câu văn rất thoát. Thêm nữa, ta nên quen với cách viết: "bản đồ do X và nnk. thành lập…", "phương pháp do Nagibian đưa ra…", chứ không nên viết: "bản đồ được thành lập bởi X và nnk.…", hay "phương pháp được đưa ra bởi Nagibian…". Về nghĩa không có gì khác nhau, nhưng câu văn kiểu thứ hai rất "tây" và nặng nề lắm. Đấy là giọng văn dịch, và là dịch vụng.
Ngoài ra, một vài thuật ngữ nước ngoài có nhiều nghĩa quốc ngữ, nhưng người viết chỉ dùng có một nghĩa, nên đưa đến các trường hợp rất sái. Ví dụ như một số tác giả rất hay dùng từ "lãnh thổ" không đúng chỗ, như "lãnh thổ Nam Trung Bộ", thậm chí " trong lãnh thổ tỉnh Điện Biên". Về trường hợp này, có lẽ các tác giả đó đã hiểu "territory" chỉ có một nghĩa là "lãnh thổ"; nhưng theo Từ điển Anh-Việt [5], "territory" có 2 nhóm nghĩa: 1) đất đai, địa hạt, lãnh thổ; 2) khu vực, vùng, miền. Như vậy, phải viết là: "miền " và "trong địa phận tỉnh Điện Biên" thì mới thích hợp. Vì theo Từ điển tiếng Việt [2], "lãnh thổ" là "đất đai thuộc chủ quyền của một nước". Việc hiểu theo một nghĩa làm ta lại nhớ đến một thời, có một số người ở nước ta hiểu (hay cố tình hiểu) "academy" chỉ có một nghĩa là "viện hàn lâm", mà báo chí đã từng nói đến nhiều. Nếu bạn đến số 7, Lý Thường Kiệt, Hà Nội sẽ thấy Học viện Tài chính có tên tiếng Anh là "Academy of Finance", mà ở đó chắc là chẳng có "Viện sĩ" nào. Khi ta dùng từ gì, nếu có chút ngờ ngợ, nên tìm hiểu kỹ nghĩa của từ đó trong các từ điển.

II. Hãy quan tâm tới văn phạm

Không hiểu sao, trong khoảng vài năm gần đây, một vài tác giả hay dùng một cách viết rất sai văn phạm, kể cả trong các nhật báo phổ thông. Đó là cách viết "Dựa vào các kết quả phân tích cho thấy…"! Hoặc là "Qua quan hệ địa tầng vừa trình bày cho thấy…"! Cái gì cho thấy? Rõ ràng là "các kết quả phân tích" hay "quan hệ địa tầng" không thể đóng vai trò chủ ngữ của "cho thấy", vì nó đã đứng sau và phụ thuộc "dựa vào" và "qua" để tạo nên một mệnh đề phụ cho câu. Tại sao lại không viết một cách đơn giản: "Các kết quả phân tích cho thấy…" và "Quan hệ địa tầng vừa trình bày cho thấy…"; hay là "Dựa vào các kết quả phân tích, ta thấy…" và "Qua quan hệ địa tầng vừa trình bày, ta thấy…", thì câu văn sẽ không có gì sai phạm. Tôi cho là trong trường hợp này, người viết đã không quan tâm tới vấn đề văn phạm của câu mình viết ra.
Cũng gần đây, thường xuất hiện cách viết kiểu này: "Trong vùng X lộ ra hai khối magma. Trong đó, khối nằm ở phía nam có thành phần axit". Cái dấu chấm đứng trước "Trong đó" sao mà vô duyên thế! Các bạn cứ thử đọc lại riêng một câu thứ hai, thì thấy nó rất cụt. Thực ra, đó chỉ là một câu "Trong vùng X lộ ra hai khối magma, trong đó khối nằm ở phía nam có thành phần axit", và "trong đó" là một liên từ thường không được dùng để mở đầu một câu, khác với "tuy nhiên", "tuy vậy", "nhưng"… Việc thay đổi một dấu ngắt trong câu cũng có ý nghĩa quan trọng, không nên xem thường.
Một số tác giả viết hoa một số từ chưa được đúng luật của quốc ngữ. Từ khi còn ngồi ghế nhà trường, chúng ta đã được dạy là chỉ có tên người và địa danh phải viết hoa toàn bộ, còn các loại tên khác chỉ viết hoa từ thứ nhất; ví dụ tên các cấp phân loại động vật: Tay cuộn, Bọ ba thuỳ,…; tên các cấp phân loại địa tầng: Cổ sinh, Trung sinh,…; tên các thiên thể: Thiên vương tinh, Mộc tinh, Trái đất,…; tên các tổ chức: (Bộ) Tài chính, (Tổng cục) Thống kê,… Tuy nhiên, vẫn có tác giả viết: "Đệ TamĐệ Tứ, Trái Đất",… Một số tác giả còn viết hoa cả các phương, như: "phía Đông sông Hồng, nằm ở Đông Bắc núi Ông,…". Rõ ràng các phương là danh từ chung, có phải là danh từ riêng đâu mà viết hoa? Chẳng có nước phương tây nào viết hoa các phương cả. Chỉ khi nào chúng trở thành địa danh mới viết hoa chúng, như: "miền Bắc, miền Tây Bắc Bộ, trũng Đông Phú Khánh, bể Côn Sơn…". Cả những danh từ chung khác, khi đã trở thành tên riêng cũng phải viết hoa, như: "đứt gãy Sông Hồng, khối granit Núi Pháo, khối nâng Núi Con Voi…". Đôi khi, có tác giả còn viết hoa cả các ký hiệu đã được quy định rõ ràng và dạy từ cấp tiểu học, như kilomet (km) cứ viết tắt là "Km".
Vất vả nhất đối với việc sửa bản thảo là việc sửa cách viết số lẻ, nhất là khi bài báo đưa ra các bảng thống kê dài dằng dặc. Theo kiến thức phổ thông thì dấu chấm dùng để biểu thị hàng nghìn và dấu phẩy để thể hiện số lẻ, ví dụ: bản đồ tỷ lệ 1:50.000, hay bán kính Trái đất ở xích đạo là 6.378,25 km. Đây là cách viết của các nước thuộc hệ ngôn ngữ Rôman. Nhưng ở các nước Anh, Mỹ thì ngược lại: dấu phẩy biểu thị hàng nghìn, còn dấu chấm để thể hiện số lẻ. Cho đến nay, theo truyền thống, nước ta vẫn dùng cách thứ nhất, thì các cá nhân đừng tự tiện thay đổi nề nếp chung, có thể dẫn đến hiểu lầm, mất chính xác không đáng có. Và chúng tôi phải sửa từng con số, vất vả lắm.
Về việc dùng i và y, gần đây có từ điển chủ trương dùng thống nhất i, trừ trường hợp đứng trong các vần -yên, -yết, -yêu (ví dụ, Từ điển Việt-Pháp của Lê Khả Kế và Nguyễn Lân [3]). Tất nhiên, khi đã viết "mì sợi, mí mắt" mà lại viết "mỹ nhân, mỹ thuật", hay viết "ti hí, tí ti" mà lại viết "tỷ lệ, tỷ trọng" thì thiếu tính thống nhất quá. Tuy nhiên, cuốn từ điển nói trên vẫn giữ cách viết "y nguyên, ý nghĩa", có lẽ do nếu viết là "i nguyên, í nghĩa" trông cộc quá. Như vậy, cách làm này vẫn chỉ là quy ước. Trong hoàn cảnh hiện nay, Nhà nước chưa đưa ra quy định gì về vấn đề này, nên chúng tôi vẫn giữ cách viết cũ, nghĩa là vẫn để "tỷ lệ bản đồ,  thuyết kiến tạo,…". Đáng chú ý là các từ vần -uy không có gì thay đổi, kể cả trong từ điển kể trên. Cách viết "qui hoạch, đá quí,…" chúng tôi coi là không thuận và phải sửa là "quy hoạch, đá quý".
Về địa danh, có thể nói là hiện nay trên các báo và cả trên mặt tivi còn viết rất lung tung, và Tạp chí Địa chính đang mở cuộc thảo luận nhằm đi đến một phương án viết thống nhất để đề nghị lên các cơ quan có thẩm quyền. Quan điểm của cá nhân tôi là các địa danh trên lãnh thổ Việt phải viết theo luật của chữ quốc ngữ; điều đó thể hiện chủ quyền của nước ta đối với vùng đất đó [7]. Không nên để một cái xã mà người dân gọi là Ya Mơ lại viết là "Ya Meur", viết như thế này đọc theo quốc ngữ không phải là Ya Mơ. Cũng như không nên lo tài nguyên của một tỉnh bị "cạn kiệt" mà viết tên tỉnh đó là "Bắc Kạn".
Trong tóm tắt tiếng Anh của bài báo, không hiểu sao khi viết tên riêng của mình và địa danh, các tác giả cứ bỏ hết cả dấu thanh. Trong quốc ngữ, dấu là một hợp phần không thể thiếu của một từ, vì nếu thay dấu thì từ đó thay đổi nghĩa hoàn toàn. "Ngô" đang là thứ ăn được mà thêm dấu sắc vào thì thành "ngố" ngay. Báo Việt Nam News, cơ quan chính thức của Nhà nước ta, luôn viết tên người và địa danh Việt đủ dấu. Tên của anh em trẻ chưa quen biết lắm trên mặt báo, hay địa danh các vùng sâu, vùng xa mà bỏ dấu đi thì rất khó nhận biết được tên thực, ví dụ: cô Uông Thị Đại, hay đảo Hòn Trứng Lớn mà viết bỏ dấu đi thì có Trời mà đoán được tên thật là gì!

III. Hãy cố gắng dùng tiếng Việt trong những trường hợp có thể

Việc mượn các thuật ngữ nước ngoài trong khoa học là chuyện khó tránh, nếu không muốn nói là "bất khả". Ngay các nước thuộc khối Anh ngữ cũng mượn "melange" (thể xáo trộn), "en echelon" (dạng bậc thang) của tiếng Pháp, và các nước thuộc khối Pháp ngữ cũng mượn "dyke" (thể tường) của tiếng Anh. Thế nhưng, đối với chúng ta là dân một nước phương đông, rất nên hạn chế việc này, và nếu bất đắc dĩ phải dùng cũng cần phải chuyển sang dạng viết của quốc ngữ theo nguyên tắc viết thế nào, đọc thế nấy, nghĩa là bỏ các nguyên âm và phụ âm câm (không đọc đến), ví dụ: granit, anđesit. Không nên bê nguyên si cách viết của nước ngoài (granite, andesite) vào (theo quy định của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trong các Quy chế đo vẽ bản đồ địa chất [1]). Vả lại, các thuật ngữ phải vay mượn nên hạn chế ở phạm vi khoáng vật, thạch học, vì chúng thường có gốc từ những từ ngữ, như La Mã, Hy Lạp, là ngôn ngữ gốc của quốc ngữ một số nước thuộc nhóm ngôn ngữ Rôman khá phổ biến ở Tây Âu.
Gần đây, tác giả các bài viết về động đất thường hay sử dụng nguyên si thuật ngữ "magnitude", mà thay vào đó, có tác giả dùng thuật ngữ quốc ngữ là "chấn cấp", "cấp độ" hay "cấp độ mạnh". Thuật ngữ này, theo từ điển Larousse, bắt nguồn từ tiếng Latinh "magnitudo" là "độ lớn". Theo chúng tôi, hoàn toàn có thể thay nó bằng một thuật ngữ quốc ngữ tương đương, và trong 3 phương án quốc ngữ kể trên nên dùng "chấn cấp", tức là "cấp độ chấn động", vì nếu dùng "cấp độ" thì chung chung quá, và "cấp độ mạnh" thì trùng nghĩa với "cường độ" (intensity), không phải là "magnitude" nữa.
Các tác giả viết về khoáng sản lại hay dùng cụm từ "các đai mạch". Từ "đai" ở đây là để phiên thuật ngữ "dyke", nhưng từ này ở Từ điển Anh–Việt Các khoa học Trái đất [4] cho 2 thuật ngữ tương đương là "thể tường, đaikơ". Tất nhiên, phiên là "đaikơ" không hợp lý, vì chữ -e cuối cùng là nguyên âm câm, ở các từ khác đã bị bỏ (như granit, ryolit [6]). Vậy thì chỉ còn cách dùng "thể tường, đaik", chứ nếu viết là "đai" thì trùng với một khái niệm khác, tương đương với "belt" (cấu trúc dạng dải kéo dài), như "đai Thái Bình Dương". Theo chúng tôi, nên dùng "thể tường".

IV. Đôi điều cần chú ý trong bản thảo

Như các bạn đã biết, bài báo gửi Tạp chí Địa chất bao giờ cũng phải có một tóm tắt nội dung bài báo. Tóm tắt này phải trình bày ngắn gọn những nội dung chính của bài báo, nhưng một số tác giả lại chỉ viết dưới dạng giới thiệu sơ lược, như: "Bài báo mô tả những tai biến địa chất xảy ra dọc sông Hồng ở đoạn phía nam Việt Trì và đề ra những biện pháp phòng tránh." Các tai biến đó gồm có những loại gì, các biện pháp phòng tránh như thế nào, nhất thiết phải trình bày ngắn gọn trong Tóm tắt. Tóm tắt bằng ngoại ngữ để ở cuối bài chính là bản dịch của Tóm tắt tiếng Việt ở đầu bài. Vậy, muốn cho đồng nghiệp nước ngoài biết nội dung công trình của mình, hãy viết tóm tắt đầy đủ như đề nghị bên trên.
Cuối bài báo, Tạp chí yêu cầu các tác giả lập danh sách Văn liệu tham khảo. Thời gian qua, chúng tôi khá vất vả trong việc hiệu đính mục này, do các tác giả không chú ý cách lập Văn liệu của Tạp chí Địa chất. Rất mong các tác giả chú ý các điều sau: 1) Chỉ đưa các văn liệu đã tham khảo và trích dẫn trong bài báo; 2) Xếp các văn liệu theo thứ tự chữ cái của họtác giả, hay họ tác giả đầu tiên trong tập thể tác giả (đừng xếp theo thứ tự của tên tác giả). Còn nội dung và cách diễn đạt từng văn liệu, xin tham khảo mục Văn liệu của bài báo này.
Chúng tôi cũng muốn lưu ý các tác giả là, khi các bạn đã gửi bản thảo của mình cho một xuất bản phẩm khác, xin đừng gửi tiếp cho chúng tôi. Đôi khi vì sơ xuất, không biết bài đó đã được đăng ở chỗ khác rồi, Uỷ viên biên tập của chúng tôi duyệt cho đăng bài đó và chúng tôi đăng, vô tình phạm lỗi. Xin tránh cho chúng tôi điều này.

Lời kết

Nhìn chung, trong thời gian qua, Tạp chí Địa chất đã ra mắt độc giả được đều đặn, với nội dung có chất lượng cao và hình thức đứng đắn của một tạp chí khoa học, được Cục Báo chí thuộc Bộ Văn hoá - Thông tin đánh giá cao. Có được điều đó, nhất định phải có sự cộng tác nhiệt tình và tín nhiệm của các nhà địa chất nước ta, gửi bài đều đặn cho Tạp chí, và mạng lưới Biên tập viên có trình độ chuyên môn sâu hoạt động trong Ban biên tập của Tạp chí. Bài báo của tôi cũng chỉ là một sự rút kinh nghiệm nội bộ giữa người làm báo và người viết, với lòng mong muốn chung là ngày càng nâng cao chất lượng và uy tín của Tạp chí. Rất mong được sự quan tâm của các bạn có bài gửi đến Tạp chí.

VĂN LIỆU

  1. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2001). Quy chế tạm thời về lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000. Bộ Công nghiệp, Hà Nội, 184 trang.
  2. Hoàng Phê (chủ biên, 1998). Từ điển tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 1130 trang.
  3. Lê Khả Kế, Nguyễn Lân (2001). Từ điển Việt–Pháp. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1280 trang.
  4. Nhà xuất bản Khoa học & Kĩ thuật (1978). Từ điển Anh–Việt Các khoa học Trái đất. 678 trangg.
  5. Viện Ngôn ngữ học (1975). Từ điển Anh–Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1960 trg.
  6. Vũ Khúc, Trần Văn Trị, Đào Đình Thục (1993). Tiến tới ổn định cách phiên thuật ngữ nước ngoài trong địa chất học. Tạp chí Địa chất, A/214-215, trang 51–58.
  7. Vũ Khúc (2005). Viết địa danh ở nước ta vẫn còn nhiều lộn xộn. Tạp chí Địa chính, 3/2005, trang 45–51.
 
 
Vũ Khúc

Nguồn: http://ngonngu.net/index.php?p=333 

[Youtube] - Kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển

Bạo loạn Quỳnh Lưu - Nghệ An 1956

Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất.
Ngay từ những ngày đầu được giải phóng, cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng địch tạm chiếm theo quy định của Hiệp định Giơnevơ.
Việc tiếp quản diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân. ở nhiều địa phương, Pháp và tay sai đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích động dân chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di cư vào Nam.
Có nơi chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây rối trật tự trị an như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). 

DẸP BẠO LOẠN Ở QUỲNH LƯU

LÊ VĂN HỐI

          Cùng với việc mở chiến dịch “tố cộng” ở miền Nam, Mỹ-Diệm chỉ huy bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng tự do tín ngưỡng xuyên tạc chủ trương sửa sai cải cách ruộng đất của ta, kích động giáo dân gây bạo loạn ở Quỳnh Lưu. Chúng lừa bịp cưỡng bức giáo dân từ Quảng Bình, Hà Tĩnh ra, từ Thanh Hóa vào, tụ tập ở nhà thờ Quỳnh Yên mấy chục nghìn người ăn uống bừa bãi hết đợt này đến đợt khác hàng mấy tháng trời, ảnh hưởng đến trật tự trị an và sản xuất.

          Nghiêm trọng hơn là chúng vu khống, khiêu khích, bắt giữ tổ công tác sửa sai của trung đoàn 269 Quân khu 4, giam họ trong nhà thờ Quỳnh Yên. Chính quyền ta đã nhiều lần giải thích, thuyết phục, nhưng chúng vẫn ngoan cố, không chịu trả tự do cho tổ công tác. Trước tình hình nghiêm trọng đó, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho sư đoàn 324 đang ở Thanh Hóa, cử ngay lực lượng hành quân cấp tốc vào Quỳnh Lưu cùng với lực lượng địa phương của Quân khu 4 giải quyết vụ Quỳnh Yên.

          Trung đoàn 93 đang tiến hành huấn luyện ở khu vực tây cầu Hang thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa được giao nhiệm vụ này. Phương châm chỉ đạo hành động là lấy tuyên truyền vận động quần chúng lao động, làm cho họ hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phân rõ đúng sai, phân rõ ranh giới giữa việc đạo và việc đời, phân hóa cô lập bọn đầu sỏ phản động. Không được nổ súng khi làm nhiệm vụ chống biểu tình. Vì vậy, chỉ cán bộ tiểu đoàn trở lên mới được mang súng ngắn tự vệ, còn cán bộ từ đại đội đến chiến sĩ chỉ được mang gậy và dây thừng, lương thực, thực phẩm và trang bị cá nhân. Toàn bộ súng đạn và trang bị khác để lại nơi đóng quân có người trông coi.

          Đoàn ô tô của Bộ chở trung đoàn 93 từ Tĩnh Gia vào Quỳnh Lưu. Ban đầu anh em không thông suốt lệnh không được nổ súng với lý lẽ “kẻ nào nói xấu Đảng, chống lại chính quyền là phải bị trừng trị”. Phải giải thích nhiều lần, anh em mới tạm thông.

          Hàng ngày, chính quyền ta dùng loa truyền thanh giải thích chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhưng chúng không những không trả tự do cho đội công tác mà còn huy động hàng nghìn giáo dân từ các hướng: Quỳnh Thanh, Quỳnh Yên lên, Nghi Lộc, Diễn Châu ra tập trung ở thị trấn Cầu Giát với ý đồ gây bạo loạn đập phá các cơ quan, cửa hàng và kho thóc của huyện Quỳnh Lưu. Mưu đồ của Diệm là lấy Quỳnh Yên, Quỳnh Lưu làm thí điểm. Nếu thành công sẽ gây ra nhiều nơi khác trên toàn miền Bắc.

          Trung đoàn 93 được giao nhiệm vụ giải tán các cánh quân biểu tình, không cho chúng hợp điểm tại Cầu Giát. Tiểu đoàn 5 chốt giữ ở bắc cầu thị trấn Cầu Giát, tiểu đoàn 6 chốt ở ngã ba xã Quỳnh Bá, cách nhà thờ Quỳnh Yên khoảng 1000m, tiểu đoàn 7 chốt giữ đường ở xã Quỳnh Đôi, giáp với xã Quỳnh Thanh là xã công giáo toàn tòng.

          Đồng bào bị chúng cưỡng ép từ Quỳnh Yên lên đông hơn nghìn người, đến cổng chắn đường (ba-ri-e) ở ngã ba Quỳnh Bá bị đại đội 6 chặn lại. Những tên phản động trà trộn trong đó, ngoan cố tràn qua cổng chắn, dùng gạch đá ném vào bộ đội ta. Chính trị viên Quang bị trúng vào đầu chảy máu. Tiểu đoàn 6 tăng cường thêm lực lượng đang ở trong các nhà dân quanh đó, dùng kèn xung phong uy hiếp chúng. Vừa nghe tiếng kèn xung phong, bọn phản động đã hoảng sợ, chạy tán loạn về lại Quỳnh Yên. Ta bắt hơn 10 tên đầu sỏ hung hăng nhất giao cho chính quyền địa phương xử lý.

          Ở hướng Quỳnh Thanh, khi cánh quân của chúng đến Quỳnh Đôi, những tên chống đối vẫn ngoan cố tràn qua cổng chắn do tiểu đoàn 7 chốt giữ. Tổ súng máy bố trí trên gò bắn chỉ thiên uy hiếp. Bọn chúng đánh trả, một trung đội trưởng và một  chiến sĩ ta hy sinh. Ta bắn uy hiếp dữ dội, chúng hoảng sợ chạy trở lại Quỳnh Thanh.

          Thế là hai cánh đi biểu tình từ Quỳnh Yên và Quỳnh Thanh lên đều bị giải tán. Còn cánh từ Diễn Châu ra đến nam cầu Giát bị lực lượng tiểu đoàn 5 dùng vòi rồng nước chặn lại. Nhưng những tên chống đối vẫn tràn qua cầu, vừa đi vừa hô khẩu hiệu phản động. Đến thị trấn Quỳnh Lưu, được tin hai cánh kia bị giải tán, không hợp điểm được, chúng kéo những người nhẹ dạ, cả tin đi một vòng trong thị trấn rồi tự động giải tán.

          Sau một tuần, được tin của cơ sở ta trong nhà thờ cho biết là chúng dự định thủ tiêu đội công tác, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh phải giải thoát tổ công tác, không cho chúng ám hại. Ngay trong đêm đó, trung đoàn 93 tổ chức tập kích, bố trí 3 tiểu đoàn thành 3 mũi tấn công. 3 giờ sáng, pháo hiệu tấn công phát lên, các tổ súng máy cả 3 hướng quanh nhà thờ đồng loạt bắn chỉ thiên uy hiếp, đồng thời lực lượng xung kích của ta nhanh chóng đột nhập thẳng vào nơi giam giữ, giải thoát được tổ công tác của ta an toàn. Trung đoàn 93 bắt giữ một số tên phản động cầm đầu giao cho chính quyền khu 4 xử lý. Số giáo dân các nơi bị lừa gạt, o ép được ta giải thích quay trở về quê.

          Do bị xuyên tạc, giáo dân khu vực quanh nhà thờ vẫn e ngại tiếp xúc với bộ đội ta nên các đơn vị vẫn phải căng lều bạt màn chiếu ăn ở ngoài trời, vừa làm công tác tuyên truyền giáo dục, vừa vận động nhân dân cùng làm sạch môi trường khu vực quanh nhà thờ Quỳnh Yên mà mấy tháng trước đó bọn chúng ăn uống phóng uế bừa bãi.

          Hai tuần sau, trung đoàn 93 được lệnh hành quân từ Quỳnh Lưu về Yên Thành. Trung đoàn 269 (Quân khu 4) tiếp tục làm công tác dân vận ở Quỳnh Lưu. Sau vụ Quỳnh Yên, sư đoàn bộ 324 và các đơn vị trực thuộc lần lượt di chuyển từ Thanh Hóa vào Nghệ An làm nhiệm vụ phòng thủ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch chiến lược của Bộ

Trích QĐND, ngày 25/10/04

 Giáo dân Quỳnh lưu nổi loạn, năm 1956, do Phan Quang Đông đao diễn

...Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với ngôi trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự trang nhã,....chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội....

....Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ?Nhỏ người dáng dấp thư sinh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh.....chính là ông Phan Quan Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những Điệp Vụ phía Bắc vĩ tuyến 17....một bông Hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam...

....Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này:
Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người nầy thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm thì cũng nghỉ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia với những Điệp Vụ phía bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một Bông Hồng hiếm quí của Tình Báo miền Nam.
(Biến Động Miền Trung - trang 6 – 7 - Liên Thành)

Đây là thông tin từ nhà văng Phạm Viết Đào MỘT VÀI THÔNG TIN VỀ CUỘC NỔI DẬY NĂM 1956 TẠI QUỲNH LƯU NGHỆ AN
Trích:
Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đa?ng CSVN về những đợt cải cách ruộng đất, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đa?ng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đa?ng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đa?ng viên cũ và đa?ng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị suy sụp, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.

Ở nông thôn, các đa?ng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đa?ng tố điêu nay bị sợ rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuệ. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách sai lầm của chính quyền. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân.

Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau :
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêụ
- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công.
- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.

Cán bộ chính quyền rất căm tức những lời kết án của dân chúng, lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi: Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, HồChíMinh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.

Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của Chính phủ để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Genevơ.

Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9/11/1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợị. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chặn xe lạị. 6 thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần. 

Sau đó, ngày 10/11/1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Nhưng ngay lúc đó, Chính quyền đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy rạ. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.

Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa đêm hôm dó. Chính quyền đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11/11/56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy…Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Chính quyền đã tỏ ra rất lo lắng biến cố này vì Nghệ An là quê quán của ông HồChíMinh; chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và Đa?ng. Chính quyền cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời:Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là 1 nhà tu hành. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đa?ng viên CS.

Ðêm 11 rạng ngay 12/11/1956, 1 số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3.000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, 1 Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.

Rạng ngày 13/11/1956, 1 cuộc biểutình lớn với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu đứng dậy đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :

Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta

Cuộc biểutình đã tuần hành tiến về Ty công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân… Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế…

Trước tình hình này, Chính phủ ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn sử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có gì thì đổ cho binh lính miền Nam nóng tính này.Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và quân chính phủ. Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp ứng cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13/11/1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực tính kế trường kỳ đấu tranh.

Ngày 14/11/1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quan được truyền đi:Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng... Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc nổi dậy này. Không bắt được ai, chính quyền đành thả bà con ra về, nhưng chính quyền tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói, Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.

Chính quyền bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không bằng lòng. Chính quyền đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phảnđộng này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

Dù nhà cầm quyền, vẫn cố tình che dấu, xuyên tạc…cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay; dù họ đã dùng bạo lực đàn áp trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.



Được đăng bởi Nhà văn Phạm Viết Đào vào lúc Thứ tư, tháng chín 21, 2011 
Mình đã lần ra cái nguồn của "MỘT VÀI THÔNG TIN VỀ CUỘC NỔI DẬY NĂM 1956 TẠI QUỲNH LƯU NGHỆ AN " mà nhà văng Phạm Viết Đào đăng gọn lỏn trên bờ nhốc của ông ta, nhà văng Phạm Viết Đào đã thuổng 1 đoạn trong bài viết tựa đề "Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu Nghệ An 1956" của tác giả nào đó có tên Cẩm Ninh, 1 tay chóng cọng chết bỏ.

Tóm Lược
Lịch Sử Giáo Phận Vinh

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

1. Giai đoạn phôi thai: 1533-1651
Ngày Lễ Thánh Giuse, 19.03.1627, khi Giáo sĩ Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đặt chân lên Cửa Bạng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngài đã cho dựng một tượng Thánh Giá vĩ đại tại cửa biển và bắt đầu công cuộc truyền giáo. Trong vòng 8 tháng trời giảng đạo, thuyền của cha Ðắc Lộ đã ghé vào những cửa biển ở Xứ Nghệ: Cửa Lò, Cửa Sót và Cửa Rùm. Ở Cửa Rùm ngài đã thành lập được một trung tâm Công Giáo rất sầm uất.
Hơn một năm sau, khi cha Ðắc Lộ phải rời Việt Nam để trở lại Âu Châu trong sự luyến tiếc của toàn thể giáo dân, con số giáo dân đã lên tới 30,000 người. Ngoài ra, cái công lớn nhất của cha Ðắc Lộ là ngài đã khám phá ra chữ Quốc Ngữ, và đã đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam quyển "Phép Giảng Tám Ngày", ấn hành năm 1651 bằng chữ quốc ngữ nguyên sơ, để dạy giáo lý cho tân tòng. Quyển sách này được coi là một bảo vật văn hóa quí giá, một di sản ngôn ngữ của người Việt Nam. Ngoài ra cha còn viết hai tác phẩm khác bằng tiếng Pháp, có liên quan đến lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Ðó là quyển: "Divers voyages et Missions" (Các Cuộc Hành Trình Truyền Giáo), xuất bản tại Paris năm 1653 và quyển "Histoire du Royaume de Tonkin" (Lịch Sử Nước Bắc Việt), xuất bản bằng tiếng Ý năm 1650, bằng tiếng Pháp năm 1651 và bằng tiếng La-tinh năm 1652.

2. Giai đoạn ổn định: 1659-1792
Nhận thấy công cuộc truyền giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, năm 1659 Tòa Thánh chính thức ban sắc lệnh thành lập 2 Giáo Phận mới: Giáo Phận Ðàng Ngoài, từ tỉnh Quảng Bình trở ra, được giao cho Ðức Cha Francois Fallu coi sóc, và Giáo Phận Ðàng Trong, từ Huế trở vào trong Nam, được giao cho Ðức Cha Lambert de la Motte coi sóc.
Sau đó, khi số giáo dân tăng rất nhanh, Giáo Phận Ðàng Ngoài lại chia ra thành 2 Giáo Phận mới nữa: Giáo Phận Ðông Ðàng Ngoài, gồm Hải Phòng và các tỉnh phía bắc, và Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài, từ Hà Nội cho tới Quảng Bình. Phần cực nam từ Thanh Hóa cho đến Sông Gianh được gọi chung là "Xứ Nghệ". Vì Xứ Nghệ cách Hà Nội quá xa, khoảng 500km, mà đường sá lưu thông lại khó khăn, nhất là đại đa số dân chúng còn quá nghèo nàn chất phác và có một giọng nói hoàn toàn khác hẳn ở phía Bắc, nên các vị thừa sai đã dành cho Xứ Nghệ một cơ chế hầu như độc lập. Vì thế, nếu ngoài phía cực bắc có Ðức Giám Mục, thì trong phía cực nam có Ðức Giám Mục phó. Và nếu "ở phía ngoài" có Chủng viện Vĩnh Trị, chung cho cả Ðông và Tây, thì "trong này" lại có Chủng viện Trang Nứa (sau được dời vào Hướng Phương). Còn Tòa Giám Mục được đặt tại Trang Ðen (Nam Ðàn), sau dời vào Thọ Kỳ (Thọ Ninh) vào thời Ðức Cha Hậu I, tức Ðức Cha De La Motte. Trên thực tế hầu như hai Giáo Phận độc lập vậy.

3. Giai đoạn phân chia Giáo Phận: 1792-1846
Khi Ðức Cha Hậu II, tức Ðức Cha Gauthier, dời Tòa Giám Mục từ Thọ Ninh ra đặt ở Xã Ðoài vào năm 1842, thì cũng vào thời gian đó Tòa Thánh quyết định tách Xứ Nghệ ra khỏi Hà Nội (Tây Ðàng Ngoài). Ngày 27.03.1846, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức Cha Hậu II, Phó Giám Mục của Ðức Cha Liêu Retord ở Hà Nội, vào làm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận mới Vinh.
Trong một bản tường trình gửi về Tòa Thánh, Ðức Cha Liêu Retord, Giám Mục Chính của Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài, ca tụng tinh thần giáo dân Xứ Nghệ như sau: "Ở tại Hà Tĩnh và Nghệ An có tới 45,364 bổn đạo. Trong hai tỉnh này, họ là những bổn đạo sốt sắng nhất trong Giáo Phận". Ðó chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy Ðức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô ra Sắc Chỉ "Ex debitu pastoralis", ngày 27.03.1846, thành lập Giáo Phận Vinh. Theo Sắc Chỉ trên, biên giới của Tân Giáo Phận Vinh được thiết lập như sau: Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam kéo dài đến tả ngạn sông Gianh, giáp huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình, phía đông là biển Nam Hải và phía tây là nước Ai Lao. Toàn thể Giáo Phận Vinh bao gồm 3 tỉnh Nghệ An + Hà Tĩnh (22,380 km vuông) và một phần tỉnh Quảng Bình (2,300 km vuông). Tổng cộng diện tích khá rộng lớn là 24,480 km vuông. Vì ở thị xã Vinh, tuy tiện trục giao thông, nhưng lại quá ồn ào náo động và nhất là đa số dân cư vào lúc bấy giờ ở thị xã Vinh còn là lương dân, thành thử Toà Giám Mục được dời về Xã Ðoài, cách thị xã Vinh khoảng 13 km. Bởi vậy, mới có trường hợp duy nhất ở Việt Nam là Tòa Giám Mục và Giáo Phận mang hai tên khác nhau: Giáo Phận Vinh, nhưng Tòa Giám Mục Xã Ðoài.
Ở Xã Ðoài tuy được ưu điểm là một miền quê yên tĩnh, nhưng lại thuộc miền đất phèn, không thích hợp cho việc trồng trọt hoa màu, nên rất nghèo nàn và không ai muốn đến lập nghiệp ở đó cả. Vì thế các cô thôn nữ đã thường ca thán với nhau:
"Cậu ra ba bữa cậu về,
"Ðồng chua nước mặn chớ hề ở lâu!"
Hiện nay, giáo xứ địa đầu phía bắc là Giáo xứ Hoàng Mai, trong một vùng lam sơn chướng khí. Còn phía cực nam kề biển là Giáo xứ Tân Thành; mé quốc lộ số 1 là Giáo xứ Mỹ Hòa, và mặt núi rừng là Giáo xứ Chày. Giáo xứ này nằm đối diện chênh vênh với Chùa Hang, tức Ðộng Phong Nha, một thắng cảnh danh tiếng thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

4. Giai đoạn thử thách: vào các năm trước và sau 1846
Theo lịch sử Giáo Hội, vào năm 1655, ở Miền Bắc (Giáo Phận Ðàng Ngoài) đã có 414 thánh đường, trong số đó nguyên ở các tỉnh Nghệ-Tĩnh-Bình đã chiếm 160 ngôi rồi. Lúc chia Giáo Phận (1846) từ Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài (Hà Nội), phần đất dành cho Giáo Phận Vinh gồm có 3 vị thừa sai, 35 Linh mục bản quốc, 75 thầy giảng, 69 đại chủng sinh, 290 tiểu chủng sinh, 270 nữ tu, 19 Giáo xứ với 345 Họ lẽ, và số giáo dân là 66,350 người. Giáo Phận có được một số vốn liếng dồi dào như vậy là nhờ được xây dựng trên máu của các tiền nhân tử đạo anh dũng của hai thế kỷ về trước.
Thật vậy, sau khi Ðức Cha Hậu nhận chức được 6 tháng thì vua Thiệu Trị mất và vua Tự Ðức lên kế vị. Thời cuộc chính trị trở nên rối ren, khiến triều đình Huế ra chính sách bách hại tàn bạo Ðạo Công Giáo suốt 36 năm trời, với 13 sắc chỉ cấm đạo, coi Ðạo Công Giáo là "Tả Ðạo", là dịch tệ, là lừa dối dân đen, v.v... Ðúng hai năm sau khi thiết lập, chủ chăn và đoàn chiên Giáo Phận Vinh phải sống lén lút và tản mát khắp nơi. Người ta có thể nói được rằng trong thời kỳ bắt đạo suốt mấy thế kỷ trước ở Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh là bị bắt bớ và chịu gian khổ nhiều nhất. Giáo Phận có khoảng 20 vị Linh Mục tử đạo trong thời cấm cách này, chưa được phong thánh. Năm 1868, Giáo Phận đã lập hồ sơ phong thánh cho các vị Tử Ðạo Vinh. Trong số 117 vị Tử Ðạo được Giáo Hội hoàn vũ tôn lên bậc Hiển Thánh vào ngày 19.06.1988, đã có 6 Thánh Tử Ðạo thuộc Giáo Phận Vinh, bị giết dưới thời Minh Mạng (5 vị) và thời Thiệu Trị (1). Danh sách các ngài như sau:
1. Thánh Phêrô Lê Tùy, Linh mục, tử đạo ngày 11.10.1833
2. Thánh Phêrô Borie Cao, Giám mục, 24.11.1838
3. Thánh Phêrô Vũ Ðăng Khoa, Linh mục, 24.11.1838
4. Thánh Vincente Nguyễn Thời Ðiểm, Linh mục, 24.11.1838
5. Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Thầy giảng, 10.07.1840
6. Thánh Phêrô Hoàng Khanh, Linh mục, 12.07.1842
Trong thời gian bắt đạo quá tàn khốc như thế, Ðức Cha Hậu và các cha thừa sai đành phải sang lánh nạn ở Hồng Kông một thời gian (1859-1862). Vào năm 1861 (Tự Ðức năm thứ 14) có cha Phêrô Nguyễn Bá Triêm được phúc tử đạo tại Quán Thầu Ðầu và hài cốt ngài hiện an nghĩ trong nhà thờ xứ Thanh Dạ. Trong nhà thờ Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu còn có hài cốt cha Phêrô Nguyễn Trúc, tử đạo. Cha Giacôbê Nguyễn Danh Thông cũng được phúc tử đạo, nhưng không biết hài cốt ngài hiện ở đâu.
Ngoài các vị tử đạo đã được ghi tên tuổi trong sổ vàng của Giáo Hội hoàn vũ và của Giáo phận như trên, còn có những vị tử đạo anh hùng trong thời hiện đại. Ở đây, người ta phải kể đến các vị tử đạo anh hùng của Liên Ðoàn Thanh Niên Công Giáo Việt Nam do Ðức Cha Lê Hữu Từ (Gp. Phát Diệm) thành lập vào năm 1946. Tuy phong trào chủ trương hoàn toàn đứng ngoài mọi hoạt động về chính trị và đảng phái, vì mục đích và tôn chỉ của Liên Ðoàn là phụng sự Thiên Chúa và tổ quốc trong tinh thần ôn hòa, nhưng sau khi hoạt động được hai năm thì Liên Ðoàn đã bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ đàn áp một cách dã man. Toàn ban chấp hành của Liên Ðoàn bị bắt và bị giết: Ông Phạm Tuyên, chủ tịch Liên Ðoàn, bị tử hình; ông Mạnh Trọng Niệm và em là Mạnh Trọng Tuệ bị tử hình; Ông Trương Văn Hứa bị tử hình; Còn các ông Bùi Quỳnh, Phạm Huy Châu, Lm Tuyên úy Trương Văn Liệu, Khánh Sơn, Trần Văn Trị, Sáu Tuyên và một số thành viên khác bị khổ sai chung thân; Lm Võ Viết Hiền bị chết rũ tù. Riêng cô Liên Phương chịu trách nhiệm về Nữ Giới, bị tra tấn tàn bạo đến chết. Ðặc biệt nhất là trong ngày xử tử anh hùng Phạm Tuyên, bà vợ của ông thay vì than khóc buồn sầu và đau khổ, bà đã đi mua sẵn mấy chục thước vải trắng tinh đưa về cắt ra làm mấy chục tấm theo số tuổi của chồng, và trong ngày xử, sau khi linh hồn ông bay về Thiên đàng hưởng mặt Chúa, thì bà đã dùng những tấm khăn trắng đó thấm từng giọt máu tử đạo của chồng đổ ra trên mặt đất và vui mừng đưa về nhà thờ kính.

5. Danh sách các Ðức Giám Mục cai quản Giáo Phận Vinh
a) Các Giám Mục thừa sai:
1. Ðức Cha Hậu (Gauthier), cai quản từ 1842-1877
2. Ðức Cha Phó Nghiêm (Masson), 1848-1853
3. Ðức Cha Hòa (Croc), 1868-1885
4. Ðức Cha Trị (Pineau), 1886-1910
5. Ðức Cha Thọ (Belleville), 1911-1912
6. Ðức Cha Bắc (Eloy), 1912-1947
Từ ngày 14.06.1951 Giáo phận Vinh được giao lại cho các Ðức Giám Mục bản quốc gốc Vinh coi sóc.
b) Các Giám Mục Việt Nam gốc Vinh:
1. Ðức Cha GB. Trần Hữu Ðức, cai quản từ 1951-1971
2. Ðức Cha Phó Phaolô Nguyễn Ðình Nhiên, 1963-1969
3. Ðức Cha Phêrô Nguyễn Năng, 1971-1978
4. Ðức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp, 1979- 2000
5. Ðức Cha Phaolô Cao Ðình Thuyên, 2000-

6. Nghệ-Tĩnh-Bình: Vùng đất anh hùng hào kiệt
Hễ nói đến vùng đất Nghệ-Tĩnh-Bình là không thể không nhắc đến tên tuổi của những người con ưu tú của dãy đất Miền Trung này, không thể không nhắc đến tên tuổi của những vị anh hùng dân tộc mang trong mình dòng máu Nghệ-Tĩnh-Bình được.
Nếu chúng ta đứng từ Bến Thủy thuộc Nghệ An nhìn sang đất Hà Tĩnh ở phía nam, chúng ta sẽ thấy một cảnh non nước tuyệt đẹp: Cảnh "Sông Lam, Núi Hồng", trải rộng mênh mông và xanh biếc một màu. Bên kia, vượt hàng cây xanh là quả núi Hồng Lĩnh bao phủ kín chân trời. Nhìn toàn cảnh mà du khách cứ muốn tìm đâu là Tiên Ðiền, đâu là Uy Viễn?
a) Các liệt sĩ và các nhà cách mạng
Vâng, bên trái Cửa Hội, cách khoảng 5km, là làng Uy Viễn, quê của vị quan nổi danh Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Doanh Ðiền Sứ của Triều Ðình, đã có công khai phá miền Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Phát Diệm) thành một miền đất trù phú như chúng ta thấy ngày nay. Còn bên trái, cách 6km, là làng Tiên Ðiền, quê của nhà văn hào dân tộc Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ "Ðoạn Trường Tân Thanh" mà dân gian thường gọi là Chuyện Kiều. Một nhà thi sĩ nổi tiếng khác là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, quê bà ở Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà là tác giả của những cuốn "Xuân Hương Thi Tập" và "Ðồ Sơn Bạt Vịnh", v.v... Cách thị xã Vinh 13km là đất Làng Sen, thuộc huyện Nam Ðàn. Qua một đầm sen, du khách theo một lối ngõ hoa dâm bụt, sẽ đến một căn nhà lá bạc màu. Trong nhà, một chiếc võng vắt ngay gian giữa, còn chiếc phản gỗ được kê ở gian bên, chiếc rương gỗ, giá sách tre, v.v... đó là tất cả gia sản của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Sinh Cung. Cậu bé chào đời năm 1890 và lớn lên thành nhà giáo Nguyễn Tất Thành. Vốn thông minh khác thường, giàu tinh thần cách mạng, mang nặng dòng máu Nghệ-Tĩnh yêu nước, nhà giáo Nguyễn Tất Thành đã bỏ nghề dạy học, xuất dương tìm đường cứu nước. Năm 1930, ông thành lập "Việt Nam Thanh Niên Ðồng Minh Hội" hay gọi tắt là "Việt Minh", sau đổi thành Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, dưới bí danh là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh... Nhưng nhắc đến tên Nam Ðàn người ta không thể quên được tên một vĩ nhân khác, đó là chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Cùng với Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp, Tăng Bạt Hổ, v.v... ông đã cho phổ biến "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" và đã làm chấn động cả nước. Ông cổ võ "Duy Tân Tự Cường" và phát động "Phong Trào Ðông Du". Nhưng trước khi bỏ đất Nghệ An, chúng ta không quên tên tuổi của một nữ tướng thời danh Bùi Thị Xuân (?-1802). Tuy được sinh ra tại Bình Ðịnh, nhưng gốc ở Triệu Phong (Nghệ An). Là một người phụ nữ có sức mạnh và lòng can đảm phi thường. Bà đã từng huấn luyện voi và điều khiển đội chiến tượng gồm 100 thớt voi ra Bắc Hà đánh bại quân Thanh. Bà là nữ tướng có công đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị và giải phóng được thành Thăng Long.
Tiếp đến, khi rời Nghệ An du khách sẽ đặt chân đến làng Ðông Thái, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ðó chính là quê hương của nhà đại cách mạng Phan Ðình Phùng (1847-1895). Ông nổi danh với cuộc nổi dậy chống Pháp ở Hương Khê thuộc tỉnh Hà Tĩnh, và kéo dài 11 năm. Ðịa bàn hoạt động của quân kháng chiến do ông lãnh đạo bao trùm các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong các tướng giỏi của ông có anh hùng Cao Thắng. Một danh sĩ khác, sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, cũng chứa chan một bầu nhiệt huyết yêu nước thương nòi, đó là Nguyễn Trường Tộ (1827-1871). Ông đã muốn dùng sự hiểu biết và du học của mình để dâng lên vua Tự Ðức mấy chục bản điều trần canh tân đất nước trong các lãnh vực: Chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, giáo dục, giao thông, vận tải, khai mỏ, khẩn hoang, v.v... Nhưng tiếc thay, các bản điều trần khẩn cấp của ông đã bị bọn nịnh thần xé bỏ, khiến cho những kiến nghị của ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc vô vọng. Nguyễn Trường Tộ vốn thuộc một gia đình theo đạo Công Giáo từ nhiều đời và là học trò của Ðức Giám Mục Gauthier. Nhưng ngoài Nguyễn Trường Tộ, là một giáo dân đã hết lòng vì đất nước, lịch sử Giáo Phận Vinh còn ghi nhớ một vị Linh mục Công Giáo, một người con của Giáo Phận, đã làm quan lớn dưới triều vua Tự Ðức. Ðó là cha Phaolô Nguyễn Hoằng (1839-1909). Cha Hoằng sinh tại xứ Phương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cùng với ông Petrus Ký, cha được tham gia phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp để điều đình vào các năm 1863-64. Ông Nguyễn Trường Tô, sống cùng thời, đến thăm và khen Linh mục Hoằng: "Người giỏi tiếng Tây, ngay từ khi ngài còn là giáo sĩ phó tế".
Rời đất Nghệ An đi qua Hà Tĩnh và du khách sẽ đặt chân lên đất tỉnh Quảng Bình, vùng đất của các bậc vĩ nhân. Trước hết, về phương diện văn thơ: Một trong những thi sĩ công giáo nỗi danh nhất là nhà thơ Hàn Mặc Tử, tên thật là Phan-xi-cô Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại Ðồng Hới. Ông là tác giả của những tập thơ nỗi danh và rất được giới yêu thơ quí chuộng như "Ðau Thương", "Xuân Như Ý", "Duyên Gấm Ngọc Trai", v.v... và là thần tượng một thời của giới sinh viên, học sinh trong cả nước. Năm 1940, một cơn bạo bệnh đã cướp đi người con tài hoa của vùng đất xứ Quảng. Tiếp đến, về phương diện xã hội chính trị: chí sĩ Ngô Ðình Diệm, Tổng Thống tiên khởi của Miền Nam Việt Nam, là người phải được xưng danh đầu tiên. Sau khi đã trục xuất tên thực dân Pháp cuối cùng ra khỏi lãnh thổ đất nước bằng con đường ngoại giao khéo léo, ổn định cuộc sống cho hơn một triệu người di cư từ Miền Bắc vào trong một hoàn cảnh cực kỳ phức tạp và khó khăn lúc bấy giờ, v.v... ông đã được đồng bào nhất mực tín nhiệm bầu vào chức vụ Tổng Thống. Tuy ông lớn lên ở Huế, nhưng quê gốc và dòng máu yêu nước hào hùng của ông là của người Quảng Bình. Năm 1963, trong một cuộc đảo chánh do một số tướng lãnh phản bội âm mưu, dưới sự lèo lái của người Mỹ, ông và hai người em trai ruột bị sát hại. Còn những nhà cách mạng khác trong lịch sử của một nước Việt Nam, là đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh hùng Ðiện Biên Phủ, v.v... Tất cả đều là những người con ưu tú của vùng đất Quảng Bình.
b) Các vị Linh Mục Công Giáo ái quốc
Tuy là Linh mục của Giáo Hội, nhưng các ngài cũng là những con dân Nghệ-Tĩnh-Bình, luôn sôi sục trong mình dòng máu cách mạng bất khuất. Trước hết phải kể đến Linh mục Mai Lão Bạng, trong Giáo Phận Vinh gọi ngài là "Ông Già Châu". Sinh ra và lớn lên ở Vinh. Ông rất căm phẩn trước cảnh thực dân Pháp dày xéo quê hương, nên rất tích cực hoạt động cho "Phong Trào Ðông Du" của Phan Bội Châu. Chí sĩ Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể rất mến phục ông. Cụ Phan Sào Nam cũng rất quí mến ông và đã tặng ông mấy chữ "Lão Bạng Minh Châu" Vào năm 1918 Linh mục Mai Lão Bạng bị sa lưới mật thám của Pháp ở Thái Lan. Ông để lại tập thơ cách mạng bất hủ: "Lão Bạng Phổ Khuyến Thơ". Nội dung là những lời kêu gọi đồng bào cả nước lương hay giáo hãy đoàn kết cứu nước và đừng để thực dân Pháp lợi dụng gây chia rẽ. Tiếp đến, đặc biệt nhất là ba Linh mục khác nắm giữ các địa vị then chốt trong Giáo Phận Vinh: Lm Nguyễn Văn Tường (Quản lý của Giáo Phận), Lm Nguyễn Thần Ðồng (cha sở Nhà Thờ Chính Tòa), và Lm Ðậu Quang Lĩnh (bí thư Tòa Giám Mục). Cả ba vị đều bị thực dân Pháp kết án 9 năm tù khổ sai biệt xứ và bị đày ra Côn Ðảo ngày 21.10.1909, vì văn hóa Ðông Du. Và cũng vì thái độ "bao che" cho ba vị Linh mục ưu tú trên mà Ðức Giám Mục Pineau Trị bị triệu hồi về Pháp và bị ép buộc phải ký tên vào đơn xin từ chức.
- Linh mục Nguyễn Văn Tường (1853-1915), sinh năm 1853 tại Văn Tường, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha Delignon, Tổng Ðại Diện Giáo Phận Saigon, năm 1909 được Ðức Cha Mossard, Giám mục Saigon, cử ra thăm ba vị ở Côn Ðảo và khi trở về đã báo cáo về cha Tường: "Người già nhất là cụ Tường, 56 tuổi, hơi hói đầu, đeo kiếng và mang một chòm râu hoa râm dưới cằm, trông giống như một ông quan, nhưng khuôn mặt trông rất hiền hậu". Nhờ tài khéo quản lý trong xứ và là người đáng tin cậy, nên Ðức Cha Pineau Trị gọi về Xã Ðoài và giao cho trọng trách quản lý toàn bộ tài chánh của Nhà Chung mà từ trước tới nay vẫn nằm trong tay các thừa sai người Pháp. Sự bổ nhiệm đã gây nên sự bất bình giữa các Linh mục thừa sai, nhất là nơi cha Tổng Ðại Diện Giáo Phận là Linh mục người Pháp tên Abgrall Ðoài. Chính cha Ðoài đã viết thư về Pháp cho Ðức Hồng Y Gotti và Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris để tố cáo Ðức Cha Pineau là kém khả năng quản trị Giáo Phận, về cả mặt tài chánh lẫn nhân sự. Trong một thư khác, cha Ðoài lại gọi các Linh mục Việt Nam là "bọn người đốn mạt". Khi biết được chuyện đó, Ðức Cha Pineau liền cách chức cha Abgrall Ðoài. Còn cha Tường từ trần tại Côn Ðảo vào năm 1915, trước khi mãn hạn tù khổ sai.
- Linh mục Nguyễn Thần Ðồng (1867-1944), sinh tại xứ Nhân Hòa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chịu chức năm 1902 và được bổ nhiệm làm Cha sở Nhà Thờ Chính Tòa Xã Ðoài. Ngài rất có lòng bác ái, thương người và tinh thần xã hội. Về cha Ðồng, cha Delignon đã mô tả: "người thứ hai là linh mục Ðồng, 43 tuổi, người bé nhỏ và mặc dầu ít cởi mở, nhưng vẫn sẵn sàng trò chuyện và tỏ ra là người có óc phán đoán tốt". Từ nhà tù Côn Ðảo cha Ðồng đã làm một bài thơ gửi cho một người bạn tri kỷ:
Cái buồn ai biết cái làm sao?
Vướng vít lòng ta đến nỗi nào!
Ðứng lững, ngồi lơ, nằm dở giấc
Sớm trông, chiều nhớ, tối chiêm bao!
Xa xa trên núi chòm vân phủ
Lộng lộng trước khơi ngọn thủy trào.
Mấy kẻ tri ân ai biết chăng?
Một mình càng nghĩ, nghĩ càng đau!
Sau khi mãn tù ở Côn đảo (1918), cũng như cha Ðậu Quang Lĩnh, cha Ðồng được Ðức Cha Mossard nhận về làm việc trong Giáo phận Saigon, vì cả hai bị án biệt xứ, cấm không được cư trú tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Ngày 26.12.1944, cha Nguyễn Thần Ðồng từ trần tại quê nhà, sau 9 năm khổ sai và 32 năm biệt xứ chỉ vì lòng ái quốc và mối thịnh tình với Phong trào Văn hóa "Ðông Du".
- Linh mục Ðậu Quang Lĩnh (1968-1930). Cha là người trẻ nhất trong ba vị. Sinh năm 1868 tại Yên Phú, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Linh mục Delignon đã nhận định về cha Lĩnh: "Cụ là một người cao lớn, chững chạc và xem ra rất thông minh". Bởi vậy, tuy trẻ nhất, nhưng ngài là trưởng nhóm của ba vị Linh mục cách mạng. Từ khi còn là chủng sinh, cha Lĩnh đã nổi tiếng là thông minh, rất giỏi Pháp văn, La văn và Hán ngữ, lại có khiếu về âm nhạc. Năm 1908 chịu chức Linh mục. Ðức Cha Pineau Trị gọi về Nhà Chung cử làm Thư ký Tòa Giám mục. Vì thế ngài luôn tháp tùng Ðức Cha Trị trong tất cả các cuộc kinh lý của Ðức Cha và đã nhìn thấy được những cảnh các Linh mục thừa sai đối xử thiếu nhân bản với các Linh mục Việt Nam, trong đó có cả ngài nữa. Nếu các Linh mục Tây mà còn đối xử như vậy với các Linh mục Việt Nam như thế, huống hồ là bọn thực dân Pháp còn đối xử tàn tệ thế nào nữa với người dân thường. Ðó chính là những điều luôn làm cha Lĩnh bức xúc và hết sức ủng hộ phong trào văn hóa Ðông Du. Từ trong tù Côn Ðảo ngài vẫn tiếp tục "làm văn hóa", trong đó có bài thơ ngài đã gửi về cho một người bạn:
Ngồi tính lần lần đốt ngón tay
Cách nhau trót đã bảy năm chầy
Tóc râu nay đã lem nhem bạc
Hình vóc trông ra móm mém gầy
Ngồi nghĩ nhớ nhà, nằm nhớ nước
Sớm ra trông bể tối trông mây
Ðông qua xuân tới xây vần mãi
Hội ngộ nay mai sẽ có ngày.
Sau khi mãn tù, cha Lĩnh được Ðức Cha Mossard cử làm Phó xứ Cái Mơn, sau lên làm Chánh xứ. Nhờ có tài đức lỗi lạc, cha đã được chọn làm Quản hạt, đồng thời làm Bề trên một Tu viện trên 200 Nữ tu. Cha Lĩnh qua đời năm 1930. Mộ phần của ngài còn nằm trong nhà thờ Tu viện Mến Thánh Giá ở Cái Mơn, Vĩnh Long.
- Linh mục Lê Sương Huệ. Ngoài "Bộ Ba Linh Mục Côn Ðảo" như đã nói trên, người viết lịch sử Giáo Phận Vinh sau này sẽ không thể bỏ qua được vị Linh mục thứ bốn là Linh mục Lê Sương Huệ. Theo gương các vị tiền bối, từng xả thân cho đại cuộc, góp sức đẩy mạnh công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân phong kiến, chống một lượt vừa ngoại xâm Pháp vừa Nhật trong suốt vùng đất Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình. Cha Huệ sinh năm 1888, tại làng Cây Khế, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Con một gia đình trung nông, và được hấp thụ một nền giáo dục thuần túy Công Giáo. Trưởng thành trên giải đất Nghệ-Tĩnh-Bình, nơi đã thấm máu của bao vị anh hùng cứu nước. Ngài được nuôi dưỡng thêm truyền thống bất khuất, cương quyết của giống nòi. Hoạt động của ngài bắt đầu từ năm 1942, lúc Âu Châu đang bị khủng hoảng dữ dội, Pháp hầu như bị ép buộc lép vế ở Ðông Dương. Ngài bắt đầu liên lạc với các nhà Ái quốc như chí sĩ Ngô Ðình Khôi, nhà cách mạng Ngô Ðình Diệm, để thống nhất ý chí hành động. Ngài bị mật thám Pháp bắt năm 1944 tại nhà xứ của ngài ở Lập Thạch và bị đày vào Trà Khê (Phú Yên). Vào tháng 3.1945, nhân cuộc đảo chính Nhật, cha Huệ được tha. Năm 1948, trên đường đi từ Saigon đến Vĩnh Long, ngài bị phục kích và bị sát hại.
Cả bốn vị Linh mục cách mạng nổi danh của Giáo phận đã nằm xuống. Nhưng sự hy sinh to lớn của các ngài đã không vô ích. Tố quốc của các ngài đã hoàn toàn được giải phóng. Nước Việt Nam nay là của người Việt Nam. Ðồng thời những dòng máu tông đồ nhiệt thành của các ngài cũng đã tô điểm cho Giáo Hội quê nhà thêm đông kẻ thờ phượng Chúa. Ðàng khác, máu của các ngài cũng như của hàng ngàn Kitô hữu đã đổ ra, nhuộm đỏ quê hương hình chữ S, chỉ vì lòng yêu nước thương nòi, chỉ muốn tranh đấu dành độc lập cho tổ quốc thân yêu khỏi tay ngoại bang xâm lược, là cả những lời minh chứng hùng hồn cho những lời kết án hồ đồ, cho người Công Giáo là theo Tây, là nối giáo cho giặc, v.v... Tóm lại, tất cả những đứa con ưu tú của quê hương Nghệ-Tĩnh-Bình, đồng thời là những vị anh hùng của toàn thể dân tộc Việt Nam, xưa kia cũng như ngày, đã khẳng định rằng dải đất Miền Trung này không phải cằn cỗi nghèo nàn, nhưng là dải đất đầy mầu mỡ hùng cường, dải "đất lành chim đậu", dải đất của các anh hùng hào kiệt khét tiếng cả giang sơn Việt Nam.

7. Biến cố di cư năm 1954
Sau khi cuộc chiến Pháp-Việt kéo dài 8 năm trời đã được chấm dứt với Bản Hiệp Ðịnh giữa đôi bên được ký kết tại thành phố Genève của Thụy Sĩ vào ngày 20.07.1954, tạm lấy Vĩ Tuyến 17 trên sông Bến Hải (Thạch Hản) làm biên giới phân chia giữa Bắc và Nam Việt Nam, cho tới ngày tổng tuyển cử sẽ được tổ chức sau đó, mọi người dân ở cả hai Miền được tự do lựa chọn khu vực sinh sống của mình. Thêm vào đó, lúc bấy giờ một cơn đói đang hoành hành khắp Miền Bắc đã khiến cho khoảng 1,300,000 người dân Miền Bắc mà đa số là người Công Giáo đã di cư vào Miền Nam lập nghiệp. Trong số đó có 57,868 người Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh. Số giáo dân Nghệ-Tĩnh-Bình di cư vào Nam đã phân tán mỏng ra như sau: Giáo Phận Huế: 1,320 người; Giáo Phận Ðà Nẵng: 4,966 người; Giáo Phận Qui Nhơn: 1,032 ngưới; Giáo Phận Nha Trang (và Phan Thiết): 21,792 người; Giáo Phận Kontum: 7,023 người; Giáo Phận Ðà Lạt: 5,390 người; Giáo Phận Cần Thơ: 817 người; Giáo Phận Long Xuyên: 2,753 người; Giáo Phận Saigon: 11,868 người. Còn số giáo dân hiện nay của Giáo Phận Vinh ở Miền Bắc là 406,023 người rải rác trên hai tỉnh Nghệ An, Hà tĩnh và một phần tỉnh Quảng Bình. So với số giáo dân di cư của các Giáo Phận khác thì các giáo dân gốc Nghệ-Tĩnh-Bình có thể được coi là đông vào bậc nhất nhì, nhưng vì người Dân Vinh di cư vào Nam muộn hơn người Bắc và vì các Linh mục Vinh lúc bấy giờ không được tháo vát, nên Dân Vinh đã bị đưa đi định cư rải rác ở các tỉnh lẽ và trên các vùng Cao nguyên hẻo lánh, chứ không được định cư vùng ngoại ô kế cận Saigon, cả đến một căn nhà nho nhỏ ở Saigon để làm Trụ sở giao dịch cũng không có. Mãi về sau, nhờ sự lo lắng của các Linh mục Trương Cao Khẩn và Nguyễn Viết Khai, Dân Vinh mới có căn phố số 32 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nơi gặp gỡ nhau.
- Giáo xứ Tân Bình
Cùng theo dòng thác di cư đó, ngày 10.02.1955, cha Nguyễn Văn Dũng và cha Nguyễn Quang Dung (hiện mộ cha già Dung đang nằm trong khuôn viên nhà thờ Tân Bình) đem một số giáo dân thuộc các xứ Hướng Phương, Hòa Ninh, Gia Hưng, Minh Cầm đi vào miền Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa lập thành hai trại định cư Tân Bình và Bãi Giếng, nay là Bắc Vĩnh. Ngày nay cả hai Giáo xứ Tân Bình cũng như Bắc Vĩnh đã trở thành một trong những Giáo xứ sầm uất và sinh động nhất của Giáo Phận Nha Trang (xin xem tiếp bài "Tân Bình Quê Hương Tôi" trong cuôn Kỷ Yếu này).
- Tu Viện Mến Thanh Giá Tân Bình
Có thể nói được rằng trong các Giáo xứ di cư gốc Nghệ-Tĩnh-Bình ở Miền Nam, không có một Giáo xứ nào được hân hạnh như Giáo xứ Tân Bình, là có một Tu Viện các Sơ Mến Thánh Giá ngay giữa lòng Giáo xứ. Vì thế không thể nói đến Giáo xứ Tân Bình mà lại không nhắc đến Tu viện của các Sơ Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình.
Năm 1955, khi cha Nguyễn Văn Dũng và một số giáo dân của ngài từ Quảng Bình vào tới Ðà Nẵng, ngài đã đi vào Nha Trang trước để nhờ cha Lê Công Khương hướng dẫn tìm một nơi định cư thật thuận lợi cho giáo dân của ngài. Cha Khương đã giới thiệu vùng đất tại xã Suối Vĩnh, quận Suối Dầu, nằm bên Quốc lộ số 1, gần núi và biển. Thấy quang cảnh quá hữu tình, cha Dũng đã vui vẽ lên hứng nói một câu rất chí lý: "Nhất cận thủy, nhì cận sơn". Sau đó ngài trở lại đưa 2,000 giáo dân, trong đó có 33 chị em Dòng Mến Thánh Giá Hướng Phương, vào Nha Trang. Nhưng khi các Sơ Mến Thánh Giá vào tới Nha Trang thì được Ðức Cha Marcel Piquet, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang cho ở tạm trong nhà các Sơ Saint Paul tại khu nhà số 1-3, đường Lê Thánh Tôn. Sau đó bà Bề trên Maria Nguyễn Thị Lan xin cho chị em được dời đi nơi khác thì Ðức Cha Piquet cho chị em ở tạm tại nhà các Sơ Dòng Ðức Mẹ Khiết Tâm Bình Cang. Ở Bình Cang đưọc 7 tháng thì Mẹ Bề trên Lan lại xin Ðức Cha Piquet cho phép chị em về Tân Bình định cư và Ðức Cha đồng ý. Thế là từ ngày 20.12.1955 chị em Mến Thánh Giá Hướng Phương Giáo Phận Vinh định cư tại Tân Bình dưới sự dìu dắt của Ðức Cha Marcel Piquet và cha xứ Tân Bình Nguyễn Văn Dũng. Ngày nay Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình đổi tên thành Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang. Từ những thử thách khó khăn tưởng như không thể vượt qua được ở buổi đầu, Nhà Dòng đã phát triển một cách mạnh mẽ trong mọi lãnh vực. Về nhân sự: từ con số 33 chị em còn quá khiêm tốn lúc mới vào định cư, nay đã tăng lên vượt mực. Tính đến năm 2006, số nhân danh của Nhà Dòng gồm có: 181 Sơ khấn trọn, 103 Sơ khấn tạm, 50 Sơ tập sinh, 30 Sơ thỉnh sinh và 300 em đệ tử. Về cơ sở vật chất: Các chị em đã cùng nhau chắt chiu tần tảo xây dựng được một cơ ngơi thật nguy nga đồ sộ. Những căn nhà mái tranh vách đất xiêu vẹo hay được lợp tôn chật chội và nóng bức năm nào, nay đã được thay thế bằng những ngôi nhà lầu bê tông cốt sắt trông rất hoành tráng, hoàn toàn bảo đảm an ninh cho đời sống tu trì và kinh nguyện hằng ngày của chị em. Ngoài ra chị em Mến Thánh Giá Nha Trang còn xây dựng được khắp nơi những trung tâm vừa để huấn luyện chị em vừa để làm bàn đạp truyền giáo. Vâng, đặc biệt nhất là vấn đề huấn luyện và đào tạo chị em: Ðó là mối quan tâm và nỗi bức xúc vô cùng quan trọng của Nhà Dòng, cốt sao có thể thích ứng được với những tiến bộ và đổi mới của não trạng con người ngày nay. Vì thế, ngoài việc cho các chị em trẻ có khả năng không chỉ theo học đủ các ngành khoa học trong nước, mà Nhà Dòng còn gửi các chị em ưu tú đi du học ở ngoại quốc. Ðó là những canh tân rất hợp thời và rất đáng khích lệ của chị em Dòng Mến Thánh Giá Nha trang hiện nay. Và đó cũng là dấu chỉ tích cực cho tương lai của Nhà Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang Tân Bình. Nhà Dòng là niềm hãnh diện của cả Giáo xứ!

Kết luận
Qua những dòng tóm lược Lịch Sử Giáo Phận Vinh trên đây, người ta phải khách quan công nhận rằng tất cả những người giáo dân gốc Vinh, đều có chung một niềm tự hào về tinh thần quật cường bất khuất của dòng máu Nghệ-Tĩnh-Bình anh hùng, trong tất cả mọi lãnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, tôn giáo. Dù sống trên vùng đất quê mẹ Nghệ-Tĩnh-Bình hay sơ tán trên khắp đất nước Việt Nam hoặc ở một chân trời nào trên thế giới, người Công Giáo Vinh luôn luôn giữ được bản sắc và những phẩm tính cao quí của mình. Ðó là chân thành, trung kiên, chịu khó, cần mẫn, cương quyết và luôn lấy chữ tín làm đầu, chứ không bao giờ lật lọng hay dua nịnh. "Trung thần bất nhị quân" - một người tôi trung không bao giờ phục vụ một lần hai chủ, luôn luôn là khí phách của người dân Nghệ-Tĩnh-Bình. Kính thờ Thiên Chúa và phục vụ Tổ Quốc luôn được người Dân Vinh đặt lên trên hết. Bởi vậy, đồng bào cả nước - lương cũng như giáo - luôn hướng nhìn về vùng đất Miền Trung Nghệ-Tĩnh-Bình với tất cả sự kính phục và cảm mến. Nghệ-Tĩnh-Bình muôn năm!

Tài liệu tham khảo:
- "Giáo Phận Vinh, Nghệ Tĩnh Bình", Lm Cao Văn Luận, Khai nguồn lịch sử, Saigon 1975.
- "Lược sử Giáo Phận Vinh", Hồ Ðức Hân, do nhóm thân hữu Nghệ Tĩnh Bình phát hành, Hoa kỳ 1989.
- "Kỷ Yếu Năm Thánh GP Vinh", Tòa Giám Mục Xã Ðoài, 1992.
- "Lịch sử biên niên Việt Nam", Thư viện Học Viện Viễn Ðông Bác Cổ Pháp, EPEO, Paris.
- "Di sản Hán Nôm Việt Nam, thư mục đề yếu", NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, gồm 3 Tập.
- "Việt Nam Giáo Sử", Lm Phan Phát Nguồn, quyển I, trang 356.
- "Les Annales des MEP".
- "Thám hiểm Phong Nha", Báo Lao Ðộng, số ra ngày 16.08.1994.
- "Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ", Lm Vũ Ðình Trác, (Luận án tiến sĩ, xuất bản ở Orange, CA. 1988).
- "Nguyễn Trường Tộ, Con Người và Di Thảo", Lm Trương Bá Cần, Tp. Saigòn, 1988.
- "Lịch sử Giáo Phận Vinh", Lm Cao Vĩnh Phan, Hoa kỳ, 1996.
- "Những bí mật đàng sau các cuộc Thánh Chiến tại Việt nam", Lữ Giang, HK 1994, trang 197.
- Nội san "Luyện Thép" của giáo dân Vinh di cư, số 4, năm 1956.
- Bài nghiên cứu của N.L. Hénard trong Tạp chí BEFEO (Bulletin de l'École Francaise d'Extrême Orient, số 75.

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy
(CHLB Ðức 2006)