Khoằm

29 tháng 5 2012

QUAN HỆ VIÊT-TRUNG: NHỮNG ĐIỀU KHÔNG THỂ KHÔNG NÓI RA

QUAN HỆ VIÊT-TRUNG

 “NHỮNG ĐIỀU KHÔNG THỂ KHÔNG NÓI RA”.

                                                                                               Tiến sĩ Vũ Cao Phan
Có thể khẳng định, quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc là một mối quan hệ đặc biệt. Nó đặc biệt ở sự gần gụi, tương đồng. Không chỉ tương đồng về chế độ chính trị, về phương thức tổ chức xã hội và phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại mà trước hết ở sự gần gụi láng giềng, ở sự gần gụi văn hóa, lịch sử. Ít  nhất mối quan hệ này đã tồn tại từ khi lịch sử thành văn được ghi lại, hơn hai ngàn năm trước. Một ví dụ là ngay từ thời Tần Thủy Hoàng đã lưu truyền câu chuyện về tướng Lý Ông Trọng, một người to lớn dị thường và có tài thao lược của đất Giao Chỉ, làm đến chức Tư lệ hiệu úy của nước Tần, giúp Hoàng đế dẹp loạn miền Tây Vực khiến quân Hung nô còn khiếp oai ngay cả khi ông đã nằm xuống.
Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà những sự tranh chấp về lợi ích lãnh thổ có nguy cơ vượt khỏi tầm kiểm soát và phủ mây đen lên mối quan hệ ấy. Trong tinh thần đó, chúng tôi hoan nghênh loạt bài viết dưới mái chung: “Những điều không thể không nói ra” mà Tạp chí“Tri thức thế giới” của Trung Quốc đăng tải vào dịp này năm ngoái. Đó là các bài: “Lịch sử và sự thật: Diễn biến quan hệ Trung – Việt trước năm 1949” (Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu lịch sử biên cương, Viện KHXH Trung Quốc) – “Quan hệ Trung – Việt từ 1949 đến nay” ( Vu Hướng Đông, Giám đốc Học viện Chủ nghĩa Mác, Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) – “Những biến thiên trăm năm qua trong chiến lược ngoại giao với các nước lớn của Việt Nam” ( Tôn Hồng Niên, Vương Thâm, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) – “Viện trợ Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ” (Lục Đức An, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) và “Vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng Đông Nam Á” (Trương Minh Lượng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Tế Nam).
ất cả được đăng trong số 14, ra tháng 7 năm 2011. Như cách đặt vấn đề và như chúng tôi có thể hiểu, các tác giả muốn vẽ lên một bức tranh chân thực về những gì diễn ra trước hết trong quan hệ Việt – Trung, và sau nữa là trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, qua đó góp phần điều chỉnh nhận thức của người này người khác, ở phía bên này hoặc bên kia.Ý định ấy là tốt và cần thiết. Lời lẽ trong các bài viết cũng tương đối vừa phải, trừ vài ngoại lệ.
Chú thích: Những chữ để nghiêng trong bài này là trích từ “Những điều không thể không nói ra” hoặc từ các cuốn sách xuất bản ở Trung Quốc (TG).
 Tuy nhiên, hoặc do quan điểm, nhận thức, hoặc do nguồn tư liệu dựa vào thiếu khách quan, nhiều nội dung trong loạt bài này đã không phản ánh sự thật, làm hỏng mục đích mà người viết có thể muốn đặt ra.
Vì một số lý do, trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chưa có ý định trao đổi toàn bộ và triệt để các vấn đề mà “Những điều không thể không nói ra” đã đề cập. Chúng ta còn có nhiều dịp và nhiều cách để cùng nhau tìm đến sự thật.
*
*   *
1.  Lịch sử thành văn của nước Việt – nghĩa là những điều được ghi lại trên giấy trắng mực đen – xuất hiện khá muộn, hàng ngàn năm sau công nguyên. Hai lý do chủ yếu: chữ viết xuất hiện muộn và cả một thiên niên kỷ mất độc lập được gọi là “thời kỳ Bắc thuộc” – một ngàn năm Bắc thuộc. Lịch sử Việt Nam trong những năm tháng này còn là một phần lịch sử Trung Hoa, điều dù muốn hay không cũng phải thừa nhận. Và dù muốn hay không cũng phải thừa nhận, với Việt Nam một ngàn năm ấy là một ngàn năm không bình yên, nói một cách khiêm tốn. Liệu có cần thiết phải nhắc lại những chuyện “ sát phu, hiếp phụ”, “bỏ xác cho hổ đói lên rừng bắt chim chả, chặt ngà voi; chịu để giao long ăn thịt xuống biển mò ngọc trai, kiếm đồi mồi” cung phụng các quan cai trị? Rồi một ngàn năm độc lập, những cuộc xâm lược từ phương Bắc đã để lại những gì tưởng chỉ cần nhắc đến một câu của thi hào Nguyễn Trãi thế kỷ thứ XV, “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ dưới hầm tai họa”, viết trong “ Đại cáo bình Ngô”. Những cuộc xâm lược của Tống, Nguyên, Minh, Thanh trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam đều hết sức khốc liệt, đâu có phải quan hệ giữa hai nước trong thời kỳ này“trên tổng thể là hòa bình, hữu nghị”. Tác giả của “Diễn biến quan hệ Việt – Trung trước năm 1949”chỉ thừa nhận một cuộc xâm lược đến từ phía Bắc, đó là cuộc xâm lược của nhà Nguyên trong thời kỳ này (và lịch sử chính thống của Trung Quốc cũng chỉ thừa nhận như vậy) còn thì “phần nhiều những cuộc xung đột và chiến tranh giữa hai nước là do giới phong kiến Việt Nam quấy nhiễu biên giới Trung Quốc gây ra”. Cần phải nói rõ những điều này. Một, chỉ một lần duy nhất nhà nước phong kiến Việt Nam có cuộc Bắc phạt và cũng chỉ với một mục đích duy nhất là phá cuộc chuẩn bị xâm lược Việt Nam của nhà Tống. Đó là vào ngay thời kỳ đầu sau Bắc thuộc, năm 1075, nhà Lý (Việt Nam) phát hiện nhà Tống (Trung Quốc) lập các tiền đồn tích trữ  binh lương ở Quảng Tây nhằm chuẩn bị tiến đánh “Giao Châu” (nước Việt) nên đã xuất quân, đánh xong lập tức rút ngay về phòng ngự mà vẫn không tránh khỏi cuộc tiến quân ồ ạt sau đó của nhà Tống. Hai, có lẽ chỉ dựa vào chính sử do các triều đại phong kiến Trung Quốc để lại mà các tác giả của “Những điều không thể không nói ra” không thừa nhận có các cuộc xâm lược Việt Nam của Tống, Minh, Thanh. Bởi vì “chính sử” luôn tìm cách mô tả đấy là những cuộc hành binh khôi phục trật tự, lập lại ngôi vương chính danh được các triều đình phong kiến Trung Quốc thừa nhận (nhưng là những phế để, phế triều đã bị sóng triều lịch sử Việt Nam gom về bến rác). Sự thực như thế nào? Lấy ví dụ cuộc tiến quân dưới danh nghĩa “phù Trần, diệt Hồ” của nhà Minh đầu thế kỷ XV. “Phù Trần diệt Hồ” ở chỗ nào khi diệt xong cha con Hồ Quý Ly rồi liền bắt các kỳ hào, bô lão ký vào một tờ biểu dâng lên rằng: “Nay họ Trần không còn ai nữa, vả đất An Nam vốn là Giao Châu ngày trước, xin được đặt lại quận huyện như cũ” (theo “Minh sử”). Nhưng có một thực tế là con cháu nhà Trần vẫn nổi lên ầm ầm chống lại quân Minh, lập nên một triều đại được lịch sử gọi là “kỷ Hậu Trần” thì người Minh lại gọi là “giặc” và phái binh đàn áp! Một thời kỳ “Bắc thuộc mới” kéo dài 20 năm với chính sách đồng hóa quyết liệt (tất cả sử sách nước Nam đều bị thu hết về Kim Lăng), với sưu cao thuế nặng, bắt phu khai mỏ vàng mỏ bạc rồi “chim chả, ngà voi” tận thu tận diệt khiến dân tình vô cùng khổ sở. Phải một cuộc kháng chiến gian khổ máu xương dằng dặc 10 năm của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cuối cùng mới đưa được “cuộc phù Trần” về bên kia biên giới. Làm sao có thể nói trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam ở thiên niên kỷ thứ hai, “giới thống trị Trung Quốc bấy giờ hoàn toàn không chủ động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam” được? Và ngay trong thời kỳ được coi là giao kết hòa hiếu giữa hai nước trong quan hệ “tông phiên” thì các triều đình phong kiến Việt Nam vẫn luôn bị sách nhiễu, áp lực. Chỉ riêng việc đòi hỏi cung phụng, cống nạp – nhất là những sản vật quý hiếm – cũng trở thành gánh nặng tài chính cho nước Việt, gánh nặng khổ ải cho thứ dân, không thể nói là “không đáng kể”, “tổng giá trị (của các đồ cống nạp) luôn thấp hơn đồ “hồi tặng”(từ phía triều đình Trung Quốc)” được.
Năm 1950, khi đích thân tiếp và tiễn đoàn cố vấn quân sự của nước Trung Hoa nhân dân sang giúp Việt Nam kháng Pháp, Chủ tịch Mao Trạch Đông căn dặn: “Các đồng chí phải nói với nhân dân Việt Nam rằng tổ tiên chúng ta đã có lỗi với Việt Nam, chúng ta xin tạ tội và nguyện một lòng một dạ ra sức giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp” (trích Hồi ký bằng tiếng Hán của các Cố vấn Trương Quang Hoa, Vũ Hóa Thẩm, Đặng Kim Ba). Thủ tướng Chu Ân Lai trong lần đầu tiên sang thăm Việt Nam năm 1955, việc đầu tiên mà ông làm là đến thắp hương Đền thờ Hai Bà Trưng, những nữ tướng Việt Nam kiệt xuất trong thế kỷ thứ nhất cầm quân nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán và đã anh dũng hy sinh. Thiết nghĩ không cần phải dẫn thêm những ý kiến phát biểu của các nhà lãnh đạo khác như Diệp Kiếm Anh, Vi Quốc Thanh … xung quanh vấn đề này.
Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, mối quan hệ tổng thể giữa hai nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc suốt mấy ngàn năm lịch sử không phải là một bức tranh tối màu, nhất là quan hệ dân gian. Trong sự phát triển và trưởng thành của mình, người Việt, nước Việt đã tiếp thu và học tập được nhiều từ nền văn hóa – văn minh Trung Hoa. Đấy cũng là một trong nguyên nhân dẫn đến sự gần gụi, hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Đấy cũng là thực tế hiển nhiên không thể phủ định. Không thể có chuyện giới nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong trăn trở tìm về nguồn cội lại bỏ qua những giá trị xác định để thay bằng những lập luận“khoác lác”“hư cấu”? Càng không thể tưởng tượng ra rằng nó có mục đích “đưa vào nội dung giáo dục quốc dân” để làm băng hoại quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc.

2.    Nửa sau của thế kỷ trước (thế kỷ XX), Việt Nam đã phải liên tục chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh không cân sức: Kháng Pháp và kháng Mỹ. Cùng với nhân dân toàn thế giới, Trung Quốc đã có sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả về cả vật chất lẫn tinh thần cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Vào thời kỳ cao điểm, khi Mỹ trực tiếp đổ quân vào tham chiến – có lúc lên đến hơn nửa triệu – nhiều chính phủ và tổ chức nhân dân trên thế giới đã tuyên bố sẵn sàng gửi quân chí nguyện đến giúp đỡ Việt Nam, nếu được phía Việt Nam chấp nhận. Với tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính và cũng xét tới các hệ lụy, Chính phủ Việt Nam không chủ trương nhận quân tình nguyện chiến đấu, đặc biệt là bộ binh, và đã bày tỏ sự cảm ơn chân thành của mình đến thiện chí năm châu. Những quân nhân nước ngoài có mặt ở phía Bắc Việt Nam lúc ấy bao gồm một số lượng hạn chế các cố vấn và chuyên gia quân sự Liên Xô trong các binh chủng kỹ thuật (tên lửa phòng không, không quân …), một vài biên đội không quân của CHDCND Triều Tiên mà lãnh đạo nước này mong muốn được đưa sang để thực tập chiến đấu. Chính phủ Trung Quốc cũng đã nhiều lần bày tỏ thiện chí sẵn sàng gửi quân tình nguyện đến Việt Nam trong các tuyên bố công khai cũng như trong những lần gặp gỡ trực tiếp lãnh đạo Việt Nam. Kết quả là đã dẫn tới các ký kết giữa hai nước về việc đưa bộ đội hậu cần (công binh) của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vào giúp việc khắc phục giao thông bị phá hoại bởi cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở Miền Bắc. Trung Quốc cũng đề nghị đưa vào cả bộ đội pháo cao xạ để bảo vệ lực lượng công binh tác nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến lực lượng này. Người yêu cầu các nhà lãnh đạo Quân đội Việt Nam không đưa bộ đội Trung Quốc đến những vùng quá khó khăn ác liệt vì bạn chưa quen. Thời kỳ đó, không quân Mỹ chia chiến trường Bắc Việt Nam thành ba vùng tác chiến: Vùng đánh phá tự do suốt ngày đêm từ Thanh Hóa trở vào vĩ tuyến 17, là vùng ác liệt nhất. Vùng thứ hai, vùng đánh phá có trọng điểm bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các vị trí chiến lược phía nam đường số 5. Vùng thứ ba, đánh phá có chọn lọc, là các tuyến giao thông phía bắc đường số 5. Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ đội Trung Quốc đã được bố trí tác nghiệp trong vùng từ phía bắc đường số 5 đến biên giới Việt – Trung. Các lực lượng chí nguyện Quân Giải phòng Trung Quốc đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, quên mình vì nghĩa lớn, đồng cam cộng khổ với nhân dân Việt Nam, không chỉ góp phần khắc phục đường sá bị phá hoại, giúp Việt Nam làm mới nhiều con đường, nhiều công trình mà còn tham gia chiến đấu, trực tiếp bắn rơi hơn 100 máy bay Mỹ. Tổng cộng đã có hơn 310.000 lượt bộ đội Trung Quốc có mặt trên chiến trường miền Bắc Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 (nói chung, 6 tháng thay quân một lần) trong đó hơn 1000 chiến sĩ hy sinh (hơn 4000, bao gồm cả các chiến sĩ bị thương). Theo đề nghị của phía Trung Quốc, các liệt sĩ Trung Quốc đã được chôn cất tại trên 40 nghĩa trang ở Việt Nam và hiện nay vẫn được chính quyền và nhân dân các địa phương coi sóc, tu tạo.
3. Phía Trung Quốc từng xuất bản một cuốn sách công bố 7 lần xuất quân ra nước ngoài của Quân Giải phóng Nhân dân từ sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, trong đó quá nửa là xuất quân sang Việt Nam. Điều đau lòng là, hầu hết những lần xuất quân đến Việt Nam ấy đều được mô tả là để “đánh trả”, “trừng phạt” cái quốc gia mà Trung Quốc từng coi là anh em (đến bây giờ có lẽ vẫn là “anh em” vì lãnh đạo hai bên nói chung vẫn ôm hôn nhau theo kiểu “các nước anh em” thường làm).
Chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây bản chất các cuộc “đánh trả” và “trừng phạt” ấy – xin trở lại một dịp khác, nếu cần thiết – mà chỉ xin trao đổi những gì liên quan được nêu ra từ các bài viết trong “Những điều không thể không nói ra”.
Thứ nhất, phải khẳng định rằng, trừ cuộc “tiến quân” trong giai đoạn 1965 -1968 nhằm chi viện nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà tôi vừa đề cập, tất cả các cuộc tiến quân khác (1974: đánh chiếm Hoàng Sa – Trung Quốc gọi là Tây Sa; 1979: Chiến tranh biên giới Việt – Trung; 1983 - 1984: đánh chiếm các điểm cao chiến lược ở tỉnh Hà Giang - Trung Quốc gọi là Lão Sơn (và xung quanh); 1988: đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa – Trung Quốc gọi là Nam Sa) đều do Trung Quốc âm thầm khởi binh rồi bất ngờ đánh úp, nhằm lúc đối phương chưa sẵn sàng chuẩn bị. Tất cả đều giống nhau, không ngoại lệ. Làm gì có cái gọi là “sự xâm lăng, khiêu khích từ phía Việt Nam”? Mưu kế chiến tranh từ thời Tôn Tử đã chẳng lạ gì phương sáchmà sau này L.Hart và nhiều tác gia quân sự đông tây phải ngả mũ, “Nguyên cớ ư ? Ở ta!”
 Thêm nữa, sau năm 1975, mặc dù giành được nguyện vọng ngàn đời là độc lập dân tộc, thống nhất non sông, Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ bởi ba mươi năm chiến tranh (nền kinh tế Việt Nam bị tụt đến đáy trong thập niên 75 - 85 là một minh chứng). Lo ăn, lo mặc cho dân mình còn chưa xong lẽ nào Việt Nam còn muốn mang sức kiệt đi đánh nước người? Mà đó lại là quốc gia hùng mạnh Trung Quốc và còn hơn thế nữa, một đất nước đã có sự ủng hộ to lớn cho Việt Nam trong kháng chiến! Ơn vừa mới đó mà đã quên được ư? Trọng ơn là truyền thống của dân tộc này, không ai có thể bới ra được chứng cứ ngược lại!
Và do đó phải thừa nhận là Việt Nam đã bị bất ngờ khi cuộc chiến tranh tháng 2/1979 xảy ra. Có thể có xung đột cường độ thấp nhưng là cả một cuộc chiến tranh với sự tiến quân ồ ạt của hàng chục sư đoàn đối phương trên toàn tuyến biên giới là điều chưa được phía Việt Nam tiên liệu.
Thứ hai, cần phải nói rõ một điều: Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) là của một quốc gia nào khác ngoài Việt Nam. Và càng không có việc Việt Nam đã “hoàn toàn thay đổi lập trường” về vấn đề này. Câu chuyện như sau: Năm 1958, sau khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về lãnh hải 12 hải lý, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng hộ tuyên bố ấy, chỉ đơn giản như vậy. Sự ủng hộ đó là thiện chí nếu tính tới cuộc xung đột giữa nước Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ. Còn trong năm 1974, khi xảy ra sự việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (Tây Sa), chính các bên đang quản lý thực tế vùng biển này là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối.
Thứ ba. Bắt đầu từ sự xâm lược của thực dân Pháp thế kỷ XIX lập nên xứ Đông Dương thuộc Pháp rồi tiếp đến là cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra giữa thế kỷ XX mà mà vận mệnh của ba nước Đông Dương gắn chặt với nhau: chung một kẻ thù, chung một mục đích giải phóng và độc lập dân tộc. Trong cuộc đấu tranh chung, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia anh em và Việt Nam cũng hết lòng vì đất nước và nhân dân bạn. Làm theo lời dạy đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là giúp mình”, hàng chục vạn chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã không tiếc xương máu chiến đấu quên mình trên đất nước Lào và đất nước Campuchia, không nhằm một mục đích tiểu bá, đại bá hay Liên bang Đông Dương nào hết. Một khi chiến tranh kết thúc, tình hình yên ổn trở lại và được nhân dân bạn cho phép, tất cả các lực lượng này đã rút hết về nước, bao gồm cả những liệt sĩ đã nằm xuống trên đất Lào, Campuchia cũng được quy tập về đất mẹ Việt Nam (con số được quy tập đến nay đã là gần 50.000 liệt sĩ). Việt Nam, Lào, Campuchia ngày nay lại cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển đất nước mình, với tư cách là những quốc gia độc lập, có chế độ chính trị riêng biệt, điều mà cả thế giới đều thấy rõ.
Đáng ngạc nhiên là trong bài “Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á”, tác giả gợi lại vấn đề không có thực là “lãnh thổ K.K.K” và “một phần đất đai Campuchia bị mất vào tay Việt Nam”. Với mục đích gì vậy? Tác giả có biết rằng trong tháng 8 năm 2012 vừa qua chính đại diện của nước CHND Trung Hoa tại Liên Hợp quốc đã bỏ phiếu bác bỏ yêu cầu được có tiếng nói tại tổ chức quốc tế này của cái gọi là “phong trào K.K.K”? Sự trung thực cộng sản – nếu có thể gọi như vậy – là ở chỗ nào?
 Thứ tư. Có những sự thực ít người biết đến, nhưng chẳng lẽ những người chủ trì một tạp chí có tên tuổi trong ngành như “Thế giới tri thức” lại ở trong trường hợp như vậy? Tôi muốn đề cập câu chuyện về điểm cao khống chế 1509 mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Trong bài “Quan hệ Việt – Trung từ năm 1949 đến nay”, tác giả đã mô tả những trận đánh đẫm máu, ác liệt để giành khu vực này vào năm 1984 như là cuộc chiến đấu vinh quang chống lại sự xâm lược của quân đội Việt Nam. Hơn nữa, chúng tôi còn được biết, nơi đây nay đang trở thành một điểm du lịch của phía Trung Quốc với những trưng bày và thuyết minh bất chấp chân lý, bất chấp mọi sự nhẫn nhịn, trên thực tế phá hoại quan hệ Việt-Trung mà các bạn bày tỏ muốn vun đắp. Liệu có cần phải đánh thức “sự thật lịch sử”?
Cuối cùng, về câu chuyện hoang đường “Việt Nam bắt nạt Trung Quốc”, “Việt Nam luôn áp dụng phương châm đối đầu trực diện với Trung Quốc, một bước không lùi”, để thay lời kết luận, tôi xin kể hai chuyện nhỏ : Tháng 1/1979, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch phản công đánh trả cuộc xâm lấn toàn diện của chế độ Pôn Pốt với một tốc độ tiến quân mà các hãng thông tin trên thế giới mô tả là nhanh như điện sẹt, các mũi tiến công và vu hồi đã sẵn sàng khép chặt biên giới Campuchia – Thái Lan trong “tích tắc”, thì lập tức nhận được lệnh buông lỏng, nhờ đó mà bộ sậu lãnh đạo Khơme đỏ chạy thoát. Nhưng mục đích đã đạt được: Không để một ai trong số hàng ngàn chuyên gia cố vấn quân sự và dân sự “người nước ngoài” bị kẹt lại hoặc bị bắt giữ. Câu chuyện thứ hai là tháng 2 năm ấy (1979), bị bất ngờ bởi cuộc tấn công của Quân đội Trung Quốc, các lực lượng phòng ngự Việt Nam tạm thời bị đẩy lui khỏi tuyến biên giới. Nhưng ngay sau cuộc phòng ngự, bộ đội Việt Nam đã tổ chức phản công và một chiến dịch – chiến lược tiến công quy mô với lực lượng mạnh cả xung lực lẫn hỏa lực nhằm vào đối phương đang tập trung ở một thành phố biên giới đã được triển khai. Mọi sự đã sẵn sàng và đây chắc chắn là một đòn giáng trả mạnh mẽ, gây thương vong nặng nề. Chỉ ít giờ trước thời điểm nổ súng, chiến dịch được hủy bỏ khi phía Trung Quốc tuyên bố bắt đầu cuộc triệt thoái.
Thẳng thắn và mà nhìn nhận, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bản chất là một mối quan hệ tích cực và cần phải như vậy. Xin được đề cập đến vào một dịp khác. Bài viết này của tôi không có mục đích tranh luận, ngay cả về phương diện học thuật. Nó đơn giản chỉ là “những điều không thể không nói ra”, không thể không làm rõ vậy thôi.





MẸO CỨT GÀ « NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG VINH- CU VINH

http://nguyencuvinh.wordpress.com/2012/01/01/m%e1%ba%b9o-c%e1%bb%a9t-ga/
Trên blog của mình, cu Vinh từng khoe về cái  MẸO CỨT GÀ của 1 người bạn: “Có hôm vào phòng làm việc của nó, mình thấy nó treo rất nhiều ảnh, đóng khung đẹp, tầng tầng lớp lớp mà mình gọi là “ ảnh bắt tay”. Thôi thì ở trong nước Việt yêu dấu, không có bác nào, chú nào làm chức to mấy mà nó không mần được cái ảnh chung, nhìn rất chi là đằm thắm. Chỉ nhìn ảnh, người yếu bóng vía khiếp, chắc thằng này quan hệ tởm lắm mới được thế, toàn chụp chung với các Cụ không à. Nó cười, mày thấy chưa, đó cũng là mẹo cứt gà.”

Cu Vinh đã được bạn tập huấn về “cái mẹo cứt gà” và ngay lập tức mang lại thành công vang dội qua vụ Tiên Lãng. 

14 tháng 5 2012

HAN TIMES: GHI CHÉP Ở HẢI PHÒNG

http://www.hantimes.com/2012/02/ghi-chep-o-hai-phong.html

Ai về thành phố Hạ Long
Vòng qua thị xã Hải Phòng mà xem




(Ngạc chặt kình băm nom lởm chởm nay thành nhà máy khai thác đá làm xi măng - photo by Sông Hàn)

Do Sông Hàn đổi từ .com thành .info nên link cũ không vào được, vì vậy copy cả bài của Sông Hàn vào đây, đoạn thơ trên đầu bài không phải của Sông Hàn.

----------------- Từ đây xuống là bài của Sông Hàn -----------------

GHI CHÉP Ở HẢI PHÒNG

Thứ ba, ngày 28 tháng hai năm 20122nhận xét



Hải Phòng có nhiều điều rất tuyệt.

Ở đây có dãy núi đá vôi Tràng Kênh mà khi hòa hợp với Bạch Đằng giang, sông Cấm, v.v.. tạo nên một cảnh quan tuyệt vời (Bây giờ dãy núi ấy đang được đục ra để… làm ximang, nghe nói mấy nhà máy này một năm lãi ròng vài trăm tỷ vnđ)
(Ngạc chặt kình băm nom lởm chởm nay thành nhà máy khai thác đá làm xi măng - photo by Sông Hàn)
Ở đây có đồng bằng với ruộng lúa xanh thẳm.

Ở đây có đảo Cát Bà, Bạch Long Vỹ, những viên ngọc của biển Đông Bắc, một phần không thể tách rời khỏi vịnh Hạ Long một kỳ quan thiên nhiên thế giới

Ở đây có cảng biển, cảng sông, giao thông thuận lợi với đường hàng không, đường sắt, đường thủy và đường bộ.
(Cảng Hải Phòng - st Internet)

Quan trọng hơn Hải Phòng là cái then cửa của vùng Đông Bắc và nếu nhìn rộng ra, đây có thể thông lên vùng Tây Nam- Nam Trung Quốc.

Con người mạnh mẽ, quyết liệt. Cứ ra chợ ở thành phố này mà xem, ta sẽ thấy người Hải Phòng lúc nào cũng hăm hở, bặm trợn thậm chí là như chực gây gổ với bất cứ ai đó. Có lẽ cũng vì lẽ ấy mà giang hồ Hải Phòng nổi danh khắp Nam Bắc.

Và còn rất nhiều lợi thế khác.

Mặc thế vẫn chưa phát triển xứng với tiềm năng lợi thế sẵn có: Thành phố không có lấy một công trình kiến trúc điểm nào cho nó hoành tráng, các cây cầu (ngoại trừ cầu Bính) đều được xây dựng một cách thô lậu và quê mùa. Sân bay Cát Bi giờ đang lọt dần vào nội thành (quận Hải An), điều đó làm hạn chế rất nhiều việc xây dựng các tòa cao ốc.

Ngày nay Hải Phòng đang có tới mười mấy ngàn doanh nghiệp, phần đa là kinh doanh dịch vụ và ngành vận tải biến đang nổi lên. Tuy nhiên vừa qua do kinh tế suy giảm các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn.

“Ai về thành phố Hạ Long
Vòng qua thị xã Hải Phòng mà xem”

Nói thế để biết rằng mấy chục năm về trước, Hải Phòng là một trong ba trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước. Còn bây giờ, nó thua Hạ Long một thành phố trẻ (mới nâng cấp từ thị xã lên Thành phố chưa lâu).

Nhưng Hải Phòng là một điểm sáng trong việc xây dựng Chính phủ điện tử, thiết lập mạng lưới giao dịch qua nternet. Mà quận Ngô Quyền là một ví dụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng khá cao.

Trong bối cảnh đó, Hải Phòng có những con người rất mạnh mẽ và quyết liệt trong cách nghĩ, việc làm của mình. Tôi đã quen với Hải Đồ Cổ (Bùi Xuân Hải), con người này đã thiết lập nên một trong những doanh nghiệp tư nhân đầu tiên của thành phố và cũng có thể là của cả miền Bắc. 
Hải đồ cổ - nguồn st Internet

Thời thịnh đạt ông ta có 5 nhà máy với 4000 công nhân chuyên sản xuất gốm sứ xuất khẩu và góp phần không nhỏ vào việc phục hưng làng gốm sứ Bát Tràng. Những năm 90 của thế kỷ trước ông ta là Đại gia số một của đất Bắc.

Nhưng mấy lần vào tù vì những lý do rất lãng xẹt, ông ta mất tới khoảng 1000 tỷ. Ngoài ra còn có những lý do cũng vô cùng lãng xẹt (như việc tiên phong tháo gỡ nhà máy khi nhà nước làm đường 5) đã đưa đến kết cục Hải Đồ Cổ gần như trắng tay. Ông còn lại 2,1 ha đất, ba bề bốn bên đều là mặt đường, oái oăm là ở chỗ vì "có lý do" nên khu đất này không được cấp giấy “quyền sử dụng đất”. Doanh nghiệp của Hải Đồ Cổ đang "giẫy chết" theo đúng nghĩa của từ này (từ chỗ có 4000 công nhân tới nay còn 40 và số này cũng đang nghỉ việc)

Nhiều lá đơn, nhiều lời kêu gọi khẩn thiết đã được Hải Đồ Cổ gửi tới lãnh đạo thành phố nhưng biệt vô âm tín (đến giờ là gần 15 năm rồi). Bực quá, ông ta lên một cái lịch, trong đó ghi rõ ngày nào đi đòi nợ thành phố, ngày nào lên gặp Thủ tướng trình bày rõ cái nguyện vọng của một doanh nghiệp đang bên bờ… tuyệt vọng…

Sự vụ có thể kéo dài như bất tận và nếu là như vậy thật, thì Hải Đồ Cổ sau thời gian tung hoành trên đất Cảng và trong cả nước có thể sẽ thêm một lần nổi tiếng vì… chính sự phá sản của mình.

Ông ta gọi tất cả những điều đó là “sự bất công ghê gớm” mà doanh nghiệp của mình đã phải gánh chịu. (Có thể đọc thêm về con người này qua loạt bài: Những người dấn thân: Chuyện đời doanh nghiệp tư nhân đầu tiên ở Hải Phòng, đăng trên Viet Nam Net tháng 10 -2007)

Mặc thế con người nay đã 66 tuổi này vẫn “bui một tấc lòng ưu ái cũ”, ông ta hiến rất nhiều kế sách làm kinh tế lên lãnh đạo thành phố. Hải Đồ Cổ tuyên bố "ngông cuồng" và đầy kiêu hãnh rằng: “nếu các ông dùng 1/3 năng lực của tôi thì thành phố này đã tiến gấp 3 gấp 5 lần rồi”.

Ông đã gửi những bức tâm thư của mình lên lãnh đạo thành phố và mong người ta xét đến… một tấm lòng mà dùng mình một cách hữu ích

Ông ta còn xây dựng một dự án mang tầm quốc gia và có thể là cả thế giới là tái tạo lại Hồng Kông trên vùng đất Hải Phòng mà đảo Cát Hải là  trung tâm của thành phố đó. Mục đích là đưa đến cho Việt Nam một tốc độ tăng trưởng siêu tốc và bên vững, hy vọng rằng trong 30 năm tới sẽ vươn lên ngang hàng với các quốc gia công nghiệp hóa trong khu vực và có thể cạnh tranh được với Nam Hàn, Trung Quốc.

Vốn đầu tư cho dự án lên tới… 450 tỷ USD và tiến hành từ nay tới năm 2030 thì cơ bản hoàn thành. Nguồn vốn được lấy từ FDI, vốn tư nhân thông qua sự thông thoáng tối đa về các cơ chế (thể chế một quốc gia hai chế độ- lưỡng thể về mặt kinh tế)

Như tôi được biết, dự án đã được đưa ra hội thảo tại thành phố, một số Bộ trưởng, các chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam (Trần Đình Thiên) đã có trong tay bản phác thảo dự án tiền khả thi: Cát Bà- Hồng Kông Việt Nam thành phố địa đàng đầu tiên trên Thế giới - Họ đánh giá cao về tính khả thi của dự án. Hải Đồ Cổ nói ông đã dành 15 năm để xây dựng dự án này. Và như Hải Đồ Cổ nói, nếu dự án này thành hình, ông ta sẽ thành tỷ phú USD.

Tuy nhiên trong thực tế, ông ta đang là một … người sắp phá sản vì sự ương ngạnh, cứng đầu cứng cổ và những lý do rất… trời ơi đất hỡi khác. Nhưng 66 tuổi, Hải Đồ Cổ đang làm lại, tìm lại tất cả những gì mình đã có! Ông trời và con người vốn khắc nghiệt với những người như ông.

Câu chuyện mà tôi kể là để minh chứng rằng tính cách người Hải Phòng rất mạnh mẽ, lạc quan và đầy tình yêu với mảnh đất quê nhà. Mà Hải Phòng không phải chỉ có một Hải Đồ Cổ.

Vị trí địa lý thuận lợi như thế, con người như thế mà Hải Phòng chưa bứt phá được thì thật khó lý giải. Và khi ta đặt một phép so sánh giữa Hải Phòng với Bình Dương thì với những lợi thế kém hơn nhưng chỉ trong có mười hai năm tỉnh này đã làm nên một bước tăng trưởng ngoạn mục trong phát triển kinh tế còn Hải Phòng đang chậm bước!
................
Sông Hàn - Hải Phòng đầu năm 2008