Khoằm

07 tháng 6 2019

Từ Trang An Biên đến Kẻ Chợ: Con số chín và ttriều Hạ


Từ Tam Đại (三代) xuất hiện sớm nhất trong một tác phẩm từ thời kỳ Xuân Thu là "Luận ngữ", quyển "Vệ Linh công":
Tư dân dã, Tam Đại chi sở dĩ trực đạo nhi hành dã
Với dân đời nay, cứ lấy đạo ngay thẳng của Tam Đại mà thi hành
Từ này sang thời Chiến Quốc, cũng vẫn dùng để chỉ Hạ, Thương và Tây Chu. Sau thời nhà Tần, ý nghĩa của Tam Đại bắt đầu bao quát cả thời kỳ Đông Chu. Các văn bản ghi chép lịch sử của TQ được tìm thấy cổ nhất là từ thời nhà Thương (khoảng 1600 - 1046 TTL), và những điều chép đó đúng với kết quả các công trình khai quật khảo cổ. Mặc dù một vài văn bản như "Trúc thư kỷ niên" và muộn hơn là "Sử ký" khẳng định rằng triều đại nhà Hạ đã tồn tại trước nhà Thương, nhưng điều này không thể được chứng thực bằng những di vật khảo cổ (văn tự, di tích, lăng mộ...) đủ để xác nhận rõ ràng về sự tồn tại của nhà Hạ, như các ghi chép trên các loại xương, yếm rùa, gốm của nhà Thương ở Ân Khư hay ghi chép trên vại đồng của nhà Chu. Văn minh đời Thương khoảng giữa triều đại này đã đạt mức cao của thời đại đồ đồng, nhưng nhà Thương thành lập trong hoàn cảnh nào, dân Hoa Hạ từ nhà Hạ chuyển qua nhà Thương ra sao thì vẫn còn thiếu nhiều tài liệu. Các bộ sử chỉ cho biết đại khái rằng thị tộc Thương sinh sống ở lưu vực hạ lưu Hoàng Hà phát triển và nhà Thương bắt đầu nổi lên từ phía tây châu thổ Vị Hà. Họ Tử 子 làm thủ lĩnh bộ tộc là một họ cổ của người Hoa Hạ thời cổ đại, sau này phát sinh ra nhiều chi khác nhau. Dựa vào chữ khắc trên các công cụ đồng điếu (hay đồng đỏ, hợp kim của đồng [Cu] với thiếc [Sn], có thể lẫn nhôm [Al], berili [Be], chì [Pb]; bronze; TQ gọi là "thanh đồng" 青铜: "đồng màu xanh" vì để lâu ngày thì sinh gỉ màu xanh) thời Tây Chu, họ Tử có lẽ khởi phát từ họ Hảo 好姓, vào thời điểm mà chế độ phụ hệ dần thiết lập và thay thế chế độ mẫu hệ, khi bộ "nữ" 女 bị loại bỏ mà hình thành. Gần đây một số nhà sử học TQ đề xuất rằng nhà Hạ và nhà Thương có lẽ chỉ các thực thể tồn tại đồng thời, giống như nhà Chu ở giai đoạn sớm đã được chứng minh là cùng tồn tại với nhà Thương, do đó mốc thời gian nhà Hạ ra đời 4.000 năm trước chỉ là truyền thuyết thuần túy và nhà Hạ chưa phải là một triều đình cai trị đúng nghĩa mà vẫn là một liên minh nhiều bộ lạc có hình thức tù trưởng phức tạp.

Triều Hạ tồn tại trong khoảng thời gian quá độ từ liên minh bộ lạc tới quốc gia phong kiến, do đó không có cương vực rõ ràng. Đất phát nguyên của thị tộc Hạ là dãy Mân Sơn (岷山, trên thượng du sông Mân 岷江, nhánh chính tại thượng nguồn sông Dài, nơi giao giới giữa ba tỉnh Tứ Xuyên - Cam Túc - Thanh Hải), từ Mân Sơn, bộ lạc Hạ dần theo thượng du Hán Thủy cổ, qua trung hạ du Vị Hà, dời về phía Đông đến lưu vực Y Hà 伊河 - Lạc Hà tại miền Nam Sơn Tây - miền Tây Hà Nam là phạm vi lãnh thổ phía Tây; phía Đông đến nơi giao giới giữa ba tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc; phía Nam đến miền Bắc tỉnh Hồ Bắc; phía Bắc lên tới miền Nam tỉnh Hà Bắc; trung tâm địa lý nay là dải Yển Sư, Đăng Phong, Tân Mật, Vũ Châu tỉnh Hà Nam là địa bàn thị tộc Hạ, còn lại xung quanh là địa bàn 11 chi (thị tộc) họ Tự của bộ lạc Hạ, về dòng máu có quan hệ tông pháp, về chính trị có quan hệ phân phong, về kinh tế có quan hệ cống phú với thị tộc Hạ. Quan hệ giữa thị tộc Hạ và các thị tộc / bộ lạc khác khá giống với kiểu quan hệ giữa nước tông chủ và nước triều cống, cũng có một ít phương quốc được nhà Hạ phân phong, giống như nước chư hầu. Vào thời Cổn - Vũ, Hạ tộc chủ yếu sinh hoạt tại vùng đất Hà Nội ở trung nam bộ Sơn Tây, men theo Phần Thủy, Hà Thủy dời đến phía đông nam, cuối thời đến lưu vực Y Hà - Lạc Hà ở trung bộ Hà Nam. Sách "Quốc ngữ" thiên "Chu ngữ thượng" viết rằng "xưa Y Lạc khô cạn nên Hạ mất", có thể thấy Y Hà - Lạc Hà mang tính trọng yếu đối với vùng đô ấp cuối thời Hạ.

Trong lịch sử, triều Hạ được gọi quen là "Hạ" 夏, liên quan đến nguồn gốc tên gọi "Hạ", giới học giả TQ chủ yếu có 10 loại thuyết, quan điểm có độ khả tín cao nhất nhận định rằng "Hạ" là chữ tượng hình tượng trưng cho vật tổ của Hạ tộc. Tư Mã Thiên chép chữ "Hạ" là danh hiệu bộ lạc do 12 thị tộc tổ thành, trong đó có thị tộc Hạ. Thị tộc hay bộ lạc cổ lấy vật tổ làm phù hiệu đại diện, phần nhiều sử dụng chim thú có tính cách mà tộc sùng bái hoặc gần giống với tộc. Chữ "Hạ" khắc trên đồ đồng giống như hình người, song bên trong bao gồm nét hình dạng của thú, từ dáng đi hay đầu, cũng như chân tay. Dãy Mân Sơn có nhiều khỉ, tộc Hạ có lẽ cũng thấy được bản năng tự nhiên của khỉ giống với người, có tính cách thông minh giống người, do vậy tôn khỉ làm vật tổ, khắc làm tộc huy, người đời sau khắc thành văn tự. Triều Hạ được xem là vương triều đầu tiên theo lịch sử truyền thống Trung Quốc, có địa vị lịch sử khá cao, người đời sau thường tự xưng là "Hoa Hạ", trở thành danh từ đại diện cho TQ. Hai chữ "Hoa", "Hạ" hiện nay có âm đọc tương đồng trong các phương ngữ như tiếng Ngô, các nhà ngôn ngữ học do vậy ước đoán rằng hai chữ này vào thời cổ là đồng âm đồng nghĩa. Chữ "Hạ" xuất hiện sớm nhất trong "Thượng thư" thiên "Nghiêu điểu":
Đế viết: 'Cao Dao Man Di Hoạt Hạ, khấu tặc gian quỹ, nhữ tác sĩ.'
Cao Dao (臯陶, tức Đại Nghiệp) là thủ lĩnh Đông Di thanh thế phía đông Hạ tộc, ở đất Từ (sau trở thành nước Từ [徐國 / 徐国, ~1900 - 512 TTL], còn được gọi là Từ Nhung, Từ Di hoặc Từ Phương, tại khu vực nay là huyện Đàm Thành thành phố Lâm Nghi tỉnh Sơn Đông). Vào thời kỳ Nghiêu - Thuấn, tập đoàn Đông Di bắt đầu phân ra làm bốn chi, một chi lưu cư tại miền trung Hà Bắc, một chi thiên di sang phía tây chiếm lĩnh miền tây Bình nguyên Hoa Bắc, trải khắp hai tỉnh Sơn Tây và Hà Nam, xa nhất đến tận Thiểm Tây. Một chi đi vòng lên phía bắc qua vịnh Bột Hải đến Liêu Đông và bán đảo Triều Tiên, còn một chi nam hạ qua Sơn Đông đến khu vực Hoài Hà - sông Dài cho nên mới có Đông Di ở lẫn với Hạ tộc. Chi Đông - Nam đến giữa thời Hạ phát triển thành chín thị tộc / bộ lạc, gọi chung là "Cửu Di", cư trú tại lưu vực Hoài Hà - Tứ Thủy: Quyến Di (畎夷), Vu Di, Phương Di, Hoàng Di, Bạch Di (白夷), Xích Di (夷夷), Huyền Di (玄夷), Phong Di (风夷), Dương Di (阳夷). Tại chi phía Tây, một nhóm di đến đất Cùng Thạch (tương truyền nay ở phía nam Lạc Dương, Hà Nam) gần Hạ tộc, thông hôn với Hạ tộc mà hình thành nên thị tộc Hữu Cùng (有窮氏). Vào thời kỳ Cổn trị thủy Hữu Cùng lại di đến Cùng Tang (tương truyền nay thuộc thị xã Khúc Phụ, Tể Ninh, Sơn Đông), bắt đầu nổi lên ở đó rồi đi tiếp lên phía bắc đến ven bờ Bột Hải, dần lớn mạnh tại Cách (tương truyền nay thuộc phụ cận thành phố Đức Châu 德州市, Sơn Đông). Đông Di với thị tộc Hạ có nhiều ân oán (tiêu biểu cho quan hệ Đông Di với tộc Hoa Hạ). Thời kỳ Mệnh trị thủy, thị tộc Hữu Cùng tây thiên đến Tư (鉏, có thuyết cho rằng nay thuộc huyện Hoạt 滑县 thành phố An Dương, Hà Nam), sát gần khu vực trung tâm của thị tộc Hạ. Trong giai đoạn từ Thái Khang (太康, cháu nội Mệnh, Thái Khang cùng em là Trọng Khang [仲康 hay Trung Khang 中康] và cháu là Thiếu Khang [少康, cháu nội Trọng Khang] đều tên là "Khang", người đời sau chú thêm để phân biệt) đến Hạ Trữ (夏杼, con Thiếu Khang) thị tộc Hữu Cùng nói riêng và Cửu Di nói chung trở thành mối uy hiếp không nhỏ đối với thị tộc Hạ. Hữu Cùng cướp quân vị bốn đời Hạ Hậu, từ đời Thái Khang đến đời Hạ Trữ 40 năm mới khôi phục được quân vị. Sau đó từ Hạ Trữ đến con là Hạ Hòe (夏槐) đánh nhau liên miên với Cửu Di.

Cao Dao là con Nữ Tu (女修, theo "Sử ký" thiên "Sở thế gia" thì là hậu duệ của Đế Huyền nhưng không nói rõ là con ai và đời thứ mấy, chỉ biết rằng Nữ Tu là đàn bà làm nghề dệt vải, còn theo gia phả họ Hoàng của người TQ thì Nữ Tu là con của Cùng Thiền, tức cháu Đế Huyền, là nam giới chứ không phải nữ giới nên vấn đề này còn nhiều nan giải cho đến tận ngày nay các nhà khảo cổ học và sử học còn chưa kết luận chính xác được). "Sử ký" chép một hôm Nữ Tu đang làm việc ở ngoài sân thì trên trời xuất hiện con chim én đẻ trứng. Đúng lúc Nữ Tu ngửa mặt lên trời ngáp ngủ thì quả trứng đó rơi tọt vào miệng, sau đó ít lâu Nữ Tu thụ thai rồi sinh ra Cao Dao. Có lẽ do thời đó xã hội loài người đang ở trong chế độ quần hôn giai đoạn quá độ chuyển tiếp cuối cùng của thị tộc mẫu hệ, chẳng biết cha đứa trẻ là ai nên mới có những truyền thuyết như vậy để tạo nên nguồn gốc thần bí, cũng giống như bà Khương Nguyên dẫm vào vết chân người khổng lồ mà đẻ ra Cơ Khí tức Hậu Tắc là tổ nhà Chu và bà Giản Địch nuốt trứng huyền điểu mà đẻ ra Tử Tiết là tổ nhà Thương vậy. Liên quan đến câu "Man Di Hoạt Hạ", có hai thuyết giải thích: Một thuyết cho rằng "Hoạt Hạ" tức là "Hoa Hạ", "Man Di" ở đây là Đông Di, tương ứng với "Hoạt Hạ", hai bên vào thời kỳ Nghiêu - Thuấn đều bị xem là Man Di ngoại tộc, giống như một chủng "khấu tặc gian quỹ". Từ "Hoa Hạ" sau khi triều Hạ được kiến lập thì mới chuyển từ chê thành khen. Có thuyết nói chữ "hoạt" là động từ, có nghĩa là xâm loạn, vào thời đó Hạ tộc và Man Di ngoại tộc tạp cư, do vậy Man Di loạn Hạ, "khấu tặc gian quỹ" không chuyện ác nào không làm.

Trong "Quốc ngữ" thiên "Chu ngữ" có ghi rằng Tự Cổn là thủ lĩnh Hạ tộc, được Đường Nghiêu phong gần Tung Sơn, phía nam Hoàng Hà, cho nên được gọi là "Tung bá Cổn". Tự Văn Mệnh con Cổn sau này kế thừa Cổn làm "Tung bá", thể hiện rằng Hạ tộc hoạt động ở phụ cận Tung Sơn. Như đã nói trong "Con số chín và tộc Hoa Hạ", Cổn được Tứ Nhạc cử làm lãnh đạo trị thủy, trải qua chín năm song cuối cùng thất bại. Nguyên nhân có lẽ là do các tộc tiền Hoa Hạ khi đó chưa chôm được đến đầu đến đũa kiến thức của các cư dân nông nghiệp lúa nước. "Thượng thư" - "Ngiêu điển" chép rằng Đường Nghiêu ngay từ đầu đã nhận định rằng Cổn trái mệnh hại tộc, hủy hại người thiện lương nên phản đối Cổn lãnh đạo trị thủy, điều này thể hiện rằng trong thời gian Cổn lãnh đạo trị thủy có không ít bộ lạc bất mãn đối với Cổn. Trong "Thượng thư" - "Hồng phạm" và "Quốc ngữ" - "Lỗ ngữ" chép rằng "Cổn chướng hồng thủy", cho thấy cách "nút chai" trị thủy của Cổn, tức là củacác tộc tiền Hoa Hạ, chủ yếu là dùng đất, gỗ, đá đắp đê đập ngăn trở để chặn nước lụt, có điều do chôm chưa hết kiến thức nên thất bại, Cổn bị Ngu Thuấn giết tại Vũ Sơn ven Hoàng Hải (黄海: "biển màu vàng", do phù sa Hoàng Hà đổ ra, biển nhỏ nằm giữa bán đảo Triều Tiên và TQ, ở phía bắc Đông Hải).

Theo truyền thuyết, khi Tự Văn Mệnh trưởng thành, Ngu Thuấn lại dùng Mệnh trị thủy, có rất ít ghi chép lịch sử về Mệnh, Tư Mã Thiên đã thu thập các câu chuyện truyền miệng từ các vùng khác nhau dựng Mệnh thành hình mẫu tiêu biểu, cũng như được ca ngợi bởi Khổng Khâu. Mệnh được Nữ Chí (女志) sinh ra tại núi Long Sơn (汶山, thuộc Huyện tự trị dân tộc Khương Bắc Xuyên 北川羌族自治县, thành phố Miên Dương 绵阳市), thuyết khác cho rằng sinh ở thị xã Thập Phương 什邡市 thành phố Đức Dương 德阳市, đều ở tỉnh Tứ Xuyên. Vì cha được phong đất gần Tung Sơn do đó Mệnh được cho là lớn lên trên sườn Tung Sơn. Sách vở ca tụng rằng Mệnh hy sinh rất nhiều để trị thủy, kể rằng trong khi Mệnh đi về phương Nam khảo sát sông nước đã gặp và kết hôn với con gái thị tộc Đồ Sơn (塗山氏, người ở Đồ Sơn 塗山, không rõ ở đâu vì có đến bốn thuyết: theo tương truyền thì Đồ Sơn ở trong địa phận huyện Hoài Viễn 怀远县 thành phố Bạng Phụ 蚌埠市 tỉnh An Huy; một thuyết khác cho rằng là Tam Đồ Sơn thuộc địa phận huyện Tung 嵩县 thành phố Lạc Dương, Hà Nam; thuyết thứ ba cho là Dư Sơn ở phía bắc quận Tiêu Sơn 蕭山區 thành phố Hàng Châu, Chiết Giang; thuyết thứ tư thì cho là Đồ Sơn trong địa phận thành phố Trùng Khánh 重庆), rồi lại tiếp tục đi. "Sử ký" - "Hạ bản kỷ" chép:
... lao thân tiêu tư, 13 năm sống ở ngoài, qua cửa nhà không dám vào
Trong suốt 13 năm trị thủy, Mệnh đi ngang qua nhà mình ba lần, lần đầu tiên đi ngang qua Mệnh nghe nói rằng vợ mình sinh con trai, được đặt tên là Tự Khải (姒姒, nghĩa đen là "mặc khải"). Lần thứ hai đi ngang qua, Khải đã có thể gọi tên cha. Lần thứ ba đi ngang qua, Khải đã hơn 10 tuổi. Sách vở chép Mệnh đã thực hiện một nghiên cứu cẩn thận các hệ thống sông để tìm hiểu lý do tại sao những nỗ lực của cha mình không thành công. Phối hợp với Hậu Tắc và Tử Tiết, có thể cả Cao Dao, Mệnh đã phát minh ra hệ thống kiểm soát lũ lụt thành công hơn cha. Thay vì trực tiếp đắp đập ngăn dòng chảy của sông, Mệnh đã thực hiện một hệ thống kênh mương thủy lợi thuyên giảm nước lũ vào các cánh đồng, cũng như chi tiêu lớn trong nỗ lực nạo vét lòng sông. Mệnh có khả năng cũng rút kinh nghiệm đối nhân xử thế của cha, xúc tiến đoàn kết các bộ lạc. Mệnh còn được cho là đã ăn và ngủ chung với người lao động và dành hầu hết thời gian cá nhân của mình để hỗ trợ công tác nạo vét phù sa, tinh thần khắc khổ này được sách vở truyền tụng, "Hàn Phi tử" - "Ngũ đố" khen ngợi:
... thân cầm cày xẻng mà lãnh đạo dân, đùi và cẳng chân không mọc được lông, nhọc nhằn của nô lệ cũng không bằng của ông
"Mạnh tử" - "Đằng Văn công" đề cập đến phương pháp trị thủy của Mệnh:
khai thông chín (lại chín) sông, đào thông Tể, Tháp ra Chư Hải (tức Hoàng Hải), khơi Nhữ (Hà), (sông) Hán; tháo nước Hoài (Hà), Tứ (Thủy) vào (Trường) Giang
Để làm được những việc đó, Mệnh đã được Ngu Thuấn cung cấp, cũng như Mệnh huy động được, một số lượng lớn người lao động. Nước Ba cũng gửi nhân công tới giúp, tuy nhiên, bằng chứng khảo cổ cho thấy người Ba dựa chủ yếu vào đánh cá và săn bắn, hoạt động nông nghiệp ở mức độ thấp và không có bằng chứng về thủy lợi, họ giỏi chiến đấu hơn nên nhân công Ba chắc chỉ lao động đơn thuần hoặc là làm công việc trị án vì họ có truyền thống gửi lính đi đánh thuê. Sách vở cũng chép rằng thời Ngu Thuấn cũng như thời Mệnh làm thủ lĩnh liên minh bộ tộc, bắt sống được nhiều người dân tộc Nam Man về làm nô lệ, nô lệ làm việc gì nếu không phải là lao dịch trong công trình trị thủy của Mệnh? Mệnh cũng đề xướng nông nghiệp, nhấn mạnh:
tự thân trồng trọt mà có thiên hạ
Do đó, những "phát minh", "đoàn kết" của Mệnh, tức là của tộc Hoa Hạ, chứng tỏ khi đó tộc Hoa Hạ đã tiếp xúc nhiều hơn, rộng hơn với người Việt, chôm (hay cướp) được đến đầu đến đũa kiến thức nông nghiệp của người Việt nên trị thủy thành công. Việc trị thủy thành công rất quan trọng trong việc xây dựng sự thịnh vượng của khu vực trung tâm TQ, cho phép văn hóa Hoa Hạ cổ đại phát triển dọc theo Hoàng Hà, Vị Hà và đường thủy của vùng trung tâm TQ, khiến Văn Mệnh nổi tiếng trong suốt lịch sử TQ, được gọi là "Đại Vũ trị thủy" (大禹治水). Trong "Sử Trung Quốc", Nguyễn Hiến Lê có viết:
Thời đó đâu có đủ dân, đủ khí cụ làm công việc vĩ đại như vậy, bất quá Mệnh chỉ "sửa sang ngòi lạch" như Khổng Tử nói trong bài VIII - 21 (Luận ngữ) để bớt ứng thủy thôi. Nhưng Khổng Tử cũng khen Mệnh lắm, bảo không chê Mệnh vào đâu được vì Mệnh sống đạm bạc mà cúng tế quỷ thần thì trọng hậu (ta nên hiểu là đời sống chất phác, và rất tin quỷ thần)
Nói về thủy lợi, hệ thống thủy lợi lâu đời nhất TQ được ghi chép trong sách sử và khảo chứng được là kênh đào Hàn Câu (gần Dương Châu, Giang Tô) nối sông Dài về phía bắc vào Hoài Hà, do Ngô vương (吳王, 495 - 473 TTL) Cơ Phù Sai (姬夫差, ? - 473 TTL) ra lệnh đào khoảng năm 486 TTL (tức là sau thời Mệnh khoảng 1.600 năm), để vận chuyển binh lính lên phía bắc xâm chiếm các vương quốc khác. Hàn Câu được các đời sau nối dài thêm thành Đại Vận Hà (大運河, từ Bắc Kinh đến Chiết Giang). Tiếp theo là ba dự án kỹ thuật thủy lực lớn của nước Tần: Đô Giang Yển (都江堰, ở phía tây đồng bằng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên, giữa Bồn địa Tứ Xuyên và Cao nguyên Thanh - Tạng), kênh Trịnh Quốc (鄭國, ở Thiểm Tây) và kênh Linh Cừ (靈渠, ở Quảng Tây).

Nước Tần kể từ khi thi hành biến pháp của Cơ Ưởng (姬鞅, 390 - 338 TTL, còn gọi là Thương Ưởng 商鞅, trú tại nước Vệ [衛氏] nên còn gọi là Vệ Ưởng 衛鞅 hoặc Công Tôn Ưởng 公孫鞅) đã trở nên hùng mạnh nhờ đẩy mạnh nông nghiệp bằng những công trình thủy lợi to lớn. Đô Giang Yển được viên quan khâm sai nước Tần là Lý Băng (李冰) cùng với con trai khảo sát và xây dựng nhằm chống lũ lụt trên sông Mân (岷江, nhánh chính dài nhất tại thượng nguồn sông Dài, chảy qua Mân Sơn rồi trung tâm tỉnh Tứ Xuyên). Lý Băng đã chia đôi dòng chảy sông Mân bằng cách đào một kênh xuyên qua đồi đá Ngọc Lũy đến vùng đồng bằng Thành Đô. Đá đồi này quá cứng nên đào không được, Lý Băng cho chất củi và cỏ lên trên đá và đốt, sau đó tưới nước lạnh lên khiến đá nứt ra và họ đã có thể đào được đá. Công trình mất 7 năm thi công, hoàn thành năm 256 TTL, giúp mở rộng đáng kể sức mạnh của nước Tần và gây ra sự bùng nổ dân số ở đồng bằng Thành Đô. Đô Giang Yển ngày nay vẫn được sử dụng để tưới tiêu cho khu vực có diện tích trên 5.300 km vuông.

Nước Hàn (韓國, 403 - 230 TTL, Hầu quốc chư hầu nhà Chu) sợ Tần mở rộng về phía Đông sẽ gây hại đến mình bèn tìm cách phá hoại Tần, nhưng không phải bằng quân đội, vì lực lượng quá chênh lệch, mà lợi dụng nước Tần có khuynh hướng xây dựng những công trình thủy lợi to lớn, phái Trịnh Quốc (鄭國) đến nước Tần để dụ dỗ Tần đổ các nguồn tài lực của họ vào các kênh đào còn lớn hơn nữa, hy vọng Tần sẽ bớt tài lực trong việc chuẩn bị binh lực đánh các nước khác. Nhưng mưu kế của Hàn đã mang lại tác dụng ngược, kênh mang tên Trịnh Quốc hoàn thành vào năm 246 TTL đã khiến nền nông nghiệp Tần phát triển mạnh mẽ, tất cả chi phí bỏ ra đã được thu về đầy đủ với khoản lời kếch sù. Nhờ thế Tần trở thành nước trù phú nhất TQ và lại có khả năng cung cấp thêm lương thực cho hàng trăm ngàn binh sĩ nữa. Tất nhiên quá trình chinh phạt của Tần bị chậm lại vài năm nhưng hệ thống kênh đào do Trịnh Quốc xây dựng khiến Tần có đủ tài lực xây dựng một đạo quân khổng lồ nghiền nát các nước còn lại, trở thành đế quốc duy nhất tại TQ, đổi thành nhà Tần năm 221 TTL.

Còn kênh Linh Cừ do Sử Lộc, viên quan Ngự sử nhà Tần gốc Việt, năm 214 TTL thừa lệnh Tần Thủy Hoàng xây dựng, nối sông Tương (湘江, chảy về phía bắc vào sông Dài) và sông Ly chảy về phía nam vào sông Tây (西江, sông nhánh chính ở phía tây của sông Châu 珠江) - sông Quế (桂江, sông nhánh chính của sông Tây) phục vụ cho cuộc xâm lược Bách Việt. Các công trình trên và một kênh rất hẹp ở dãy núi Long Môn (龙门山) dọc theo sông Hoàng Hà chặn nước chảy tự do về phía đông hướng đến đại dương, gọi là "Cổng Vũ" (禹門口) có lẽ là những thứ mà người ta dùng để xây dựng nên hình tượng "Đại Vũ trị thủy".

Dù gì sách cổ cũng chép Mệnh có công trị thủy và xúc tiến sản xuất nông nghiệp nên thế lực của Hạ tộc tăng cường. Ngu Thuấn rất ấn tượng trước những việc Mệnh làm, triệu tập thủ lĩnh các thị tộc đến Miêu Sơn đại hội chư hầu để tính công phong tước. Tử Tiết lập không ít công trạng vừa cố vấn vừa thực hiện giúp Mệnh hoàn thành trị thủy được chính thức phân phong chư hầu, đặt nền móng cho nhà Thương. Ngu Thuấn cũng công bố dự định cho Mệnh nối ngôi chứ không phải con mình, Thương Quân đang là thủ lĩnh thị tộc Hữu Ngu. Thương Quân hay tin quyết liệt phản đối, đem binh đánh sang thị tộc Hạ lúc đó hoạt động, từ thời Cổn trị thủy, trên địa bàn Sùng (tương truyền nay thuộc huyện Tung, thành phố Lạc Dương, Hà Nam). Vuốt mặt phải nể trứng cá nên Mệnh dời thị tộc sang Dương Thành (阳城, tương truyền nay thuộc trấn Cáo Thành, một trong những nơi sinh sống lâu đời của một bộ lạc mẫu hệ ~ 4 NN, thuộc thị xã Đặng Phong 登封 thành phố Trịnh Châu, Hà Nam) né tránh. Ngu Thuấn cảm thấy mất mặt bèn trực tiếp dẫn quân đến giáo huấn Thương Quân. Thương Quân từ đó bỏ ý định chống Mệnh, yên vị thủ lĩnh thị tộc chư hầu.

Sau đó, Ngu Thuấn phái Mệnh đi thảo phạt Tam Miêu song không đạt được kết quả khiến Ngu Thuấn trong những năm cuối phải tự thân Nam chinh, trên đường bệnh mất tại Thương Ngô (không rõ ở đâu). Mệnh kế tục quân vị thủ lĩnh liên minh bộ lạc, chấm dứt thời Ngũ Đế, chuyển sang thời Tam Đại. Mệnh triệu tập đại hội bộ lạc tại Đồ Sơn, phân phong cho Thương Quân ở khu vực nay là phụ cận huyện Ngu Thành (虞城, Thương Khâu, Hà Nam) và một lần nữa chinh thảo Tam Miêu, kể có trên 10.000 thủ lĩnh thị tộc đến dự, gọi là "vạn bang chư quốc", Sách "Tả thị Xuân Thu" chép:
người vạn quốc đem theo ngọc lụa tham gia Đồ Sơn hội minh
Qua đó có thể thấy khả năng hiệu triệu của thị tộc Hạ. Mệnh triển khai đại chiến với Tam Miêu, kéo dài 70 ngày, đánh bại họ, xua đuổi họ đến lưu vực Hán Thủy và Đan Thủy, củng cố quyền lực. Việc Mệnh trị thủy và thắng lợi trước Tam Miêu, khiến thị tộc Hạ trở thành thủ lĩnh liên minh bộ tộc, sách "Mặc Tử" thiên "Phi công" có viết:
biệt vật thượng hạ, khanh chế đại cực, nhi thần dân bất vi, thiên hạ nãi tĩnh
Sách cổ còn viết thị tộc Hạ khống chế về mặt kinh tế của các thị tộc xung quanh qua việc Mệnh căn cứ vào đường đi xa gần của các thị tộc chư hầu mà phân biệt nạp cống nhiều hay ít. Theo "Trúc thư kỷ niên", có lần tổ chức Hội Kê (會稽, theo giải thích của "Sử ký", "Hội" 會 là hội họp chư hầu, "Kê" 稽 là khảo sát thành tích) có thủ lĩnh một thị tộc Đông Di là Phòng Phong (防风, thuộc địa phận huyện Đức Thanh 德清縣 thành phố Hồ Châu 湖州市 tỉnh Chiết Giang [tên lấy theo tên cổ của sông Tiền Đường 钱塘江 chảy qua Hàng Châu 杭州 - tỉnh lỵ của tỉnh] là sông Chiết 浙江, tên khác là sông Khúc 曲江 hay sông Chi 之江) đến muộn bị Mệnh xử tử làm gương, thị tộc Phòng Phong diệt vong. Mệnh bắt đầu xây dựng kho lẫm tại Dương Thành để giữ gìn của riêng và người trong dòng họ. Trong thời gian trị vì, Mệnh những lần đi gây chiến đều bắt sống được nhiều người Nam Man về làm nô lệ, sách vở lại chép Mệnh phát minh ra lối "tát nước vào ruộng". Công việc trị thủy được cho là đã làm cho Mệnh quen thuộc với tất cả các khu vực mà sau này là lãnh thổ mà tộc Hoa Hạ nhận, do đó Mệnh chia khu vực địa lý sinh sống của tộc Hoa Hạ đến lúc đó gồm 12 vùng thời Đế Thuấn và các khu vực chếm được thêm thành chín vùng (cửu châu 九州), "Sử ký" - "Ngũ Đế bản kỷ" chép toàn là "chín":
Xét thấy công của Vũ rất lớn, san chín ngọn núi, thông chín cái đầm, vét chín con sông, đặt ra chín châu, đều theo chức phận mà đến cống, không làm mất trật tự, đất đai rộng năm nghìn dặm, liền đến nơi hoang phục. Phía nam vỗ về Giao Chỉ
Điều đó càng chứng tỏ thành công trị thủy, phát minh 'tát nước vào ruộng", và đề xướng nông nghiệp của Mệnh đều là nhờ từ kiến thức của người Nam Man, ý nghĩa của con số chín là Mệnh ăn cướp của người Việt cổ, ấy thế mà lại chép "vỗ về", thật đúng cái giọng trịnh thượng. Sách "Lã thị Xuân Thu" thiên "Cầu nhân" (求人) chép có dễ nghe hơn, gọi rõ Giao Chỉ là nước:
Vua Vũ phía đông đến Phù Mộc, phía nam đến các nước Giao Chỉ - Tôn Phác - Tục Man
Theo truyền thuyết, các học giả ghi chép rằng, cửu châu ghi lại trong thiên "Vũ cống" sách "Thượng thư" gồm: Ký 冀, Duyện 兗, Thanh 青, Từ 徐, Dương 揚, Dự 豫, Kinh 荊, Lương 涼 và Ung 邕 là hệ thống hành chính nhà Hạ;
Sách "Nhĩ nhã" (爾雅, "Nhĩ": "cận" [gần], "Nhã": "chính" [tức nhã ngôn - lời nói nhã nhặn], nên "Nhĩ Nhã" nghĩa là "cận chính", tức là tiếp cận với quy cách ăn nói sao cho nhã nhặn, đúng mực, đây là bộ từ điển của TQ cổ đại, một trong những tác phẩm kinh điển của Nho giáo, cuốn thứ 12 trong "Thập tam kinh") ghi lại hệ thống hành chính nhà Thương, thì không có Thanh và Lương mà thay vào đó là U (幽, nằm ở phía Bắc, tại nước Yên 燕國 1100 - 222 TTL) và Ly 營;
Sách "Chu lễ" (周禮, bộ sách tương truyền do công thần khai quốc nhà Chu là Cơ Đán 姬旦 chế định, ghi chép về chế độ quan lại cùng những tập tục lễ nghi của đời Chu, xuất hiện vào thời Chiến Quốc, cuốn thứ 13 trong "Thập tam kinh") ghi lại hệ thống hành chính nhà Chu thì không có Từ hoặc Lương mà thay vào đó là U hoặc Kinh 并;
Sách "Hoài Nam Tử" chép cửu châu là: Thần, Thứ, Nhung, Yểm, Ký, Đài, Bạc, Tế, Dương;
Sách "Lã Thị Xuân Thu" thì có U không có Lương. Dù theo sách nào thì vẫn có chín đơn vị. Theo "Lã thị Xuân Thu" thì việc giải thích cửu châu, vùng cửu châu phản ánh quan niệm địa lý của tộc Hoa Hạ trong giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, và "châu" là đơn vị hành chính thực sự từ thời Hán mới có:
  1. Ung nằm ở phía Tây, thuận theo Tích Thạch, đến Long Môn Tây Hà, hội ở Vị Hà, Nhuế Hà, tại nước Tần, nay là Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải;
  2. Lương thuận theo Tiềm Hà vượt qua Miện Hà tới Vị Hà loạn với Hoàng Hà, nay là Tứ Xuyên, cực nam của Thiểm Tây và Cam Túc.
  3. Ký giáp bên phải Kiệt Thạch đến Hoàng Hà, ba mặt cách Hoàng Hà, là nơi đường cống nạp của các châu đều đi qua, thuộc nước Tấn, nay là Sơn Tây, Hà Bắc và miền tây Liêu Ninh;
  4. Duyệt nằm giữa Tháp Thủy và Tể Thủy, thuận theo Tể, Tháp cho đến Hoàng Hà, tại nước Vệ (衞国, ~1100 - 209 TTL), nay là miền tây Sơn Đông và góc đông nam Hà Bắc;
  5. Dự thuận theo Lạc Hà cho đến Hoàng Hà, là đất trung tâm nhà Chu, nay là Hà Nam, miền bắc Hồ Bắc, góc đông nam Thiểm Tây và góc tây nam Sơn Đông;
  6. Thanh tại phía Đông, thuận theo Vấn Thủy cho đến Tể Thủy, thuộc nước Tề (齊國, 1046 - 221 TTL), nay là khu vực bán đảo Sơn Đông phía đông Thái Sơn (泰山: "Ngọn núi tĩnh lặng", Đông Nhạc trong Ngũ Nhạc);
  7. Từ nằm tại phía trên Tứ Thủy, thuận theo Hoài Hà, Tứ Thủy cho đến Hoàng Hà, tại nước Lỗ (魯國, 1043 - 256 TTL), nay là khu vực miền nam Sơn Đông và phía bắc Hoài Hà của Giang Tô, An Huy;
  8. Duơng ở phía Đông Nam, men theo sông Dài, Hải Hà cho đến Hoài Hà, Tứ Thủy, tại nước Việt (越國, ~2100 - 306 TTL), nay là khu vực phía nam Hoài Hà của Giang Tô, An Huy và miền bắc hai tỉnh Chiết Giang, Giang Tây;
  9. Kinh nằm phía Nam, thuận theo sông Dài, Đà Thủy, Tiềm Thủy, Hán Thủy vượt qua Lạc Hà cho đến Nam Hà, tại nước Sở, nay là Hồ Bắc, vùng phía bắc Hành Sơn tỉnh Hồ Nam và góc cực tây bắc Giang Tây;
Trâu Diễn (鄒衍, 305 - 240 TTL), học giả người nước Tề thuộc Âm Dương gia (陰陽子, một trong những hệ thống triết lý và tư tưởng TH cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ ~600 - 221 TTL, tạo nên kỷ nguyên Bách Gia Chư Tử (諸子百家) tuyên bố thành lập Đại cửu châu, "Thượng thư" ghi rằng Cửu châu là Tiểu cửu châu, cùng nhau hợp thành một châu, được gọi là "Thần châu Xích huyện" 赤縣神州, Tiểu cửu châu như vậy tạo thành Trung cửu châu được bao quanh bởi biển (tiểu hải), có chín Trung cửu châu, cùng với nhau tạo thành Đại cửu châu, bao quanh bởi biển lớn, như vậy TQ đựoc chia làm 81 châu. Dương Thụ Đạt nghĩ rằng "Hoài Nam tử" do Trâu Diễn lập luận Cửu châu Sở quốc là Trung cửu châu.
So với 12 vùng thời Đế Thuấn thì cửu châu hướng Đông về phía Đông Hải đã bao gồm cả Liêu Đông, phía Nam đến trung và hạ lưu lưu vực sông Châu, phía Đông Nam sát khu vực Lĩnh Nam của Bách Việt, như vậy Mệnh đã chiếm được rất nhiều đất của Đông Di và Nam Man (các châu Kinh và Duơng). Lại chiếm lấy đồ đồng và quặng đồng từ chín châu, dự định đúc thành chín cái vạc (九鼎: cửu đỉnh) khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào, mỗi cái tượng trưng cho một châu, toàn bộ cất giữ tại kho lẫm của Mệnh, để tượng trưng cho quyền lợi, do vậy "Cửu Châu" trở thành danh từ đại diện cho TQ, "Cửu Đỉnh" trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia, và ý "định đỉnh" là kiến lập chính quyền. Tuy nhiên chưa có đủ đồng thì Mệnh mất, Khải nối ngôi thừa hưởng của cải Mệnh để lại. Việc Khải nối ngôi Mệnh chính thức khởi đầu sự thực thi chế độ cha truyền con nối được các triều đại sau này kế tục.

Thời Ngũ Đế, quân vị được truyền cho người nào được cộng đồng coi là có đạo đức, tài năng cao nhất, chứ không phải là truyền cho con. Theo "Sử Ký" - "Tần bản kỷ", ban đầu Mệnh từng tiến cử Cao Dao làm người kế thừa. Cao Dao vốn làm pháp quan trải 3 đời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn và Mệnh, lấy con gái bộ lạc Thiếu Điển là Nữ Hoa (女華) sinh Đại Phí (大费, tức Bá Ích 伯益). Lớn lên Bá Ích có tài cao được Diêu Trọng Hoa khi còn là thủ lĩnh thị tộc Hữu Ngu trọng dụng làm quan ở đó, lập nhiều công lớn. Sau khi Trọng Hoa làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc tức Ngu Thuấn thì gả con gái là Diêu Khương Nữ và ban cho Bá Ích ăn lộc ấp Doanh, từ đó Bá Ích và hậu duệ mang họ Doanh, Diêu Khương Nữ sinh Đại Liêm tức Nhược Mộc (若木). Nhược Mộc có tư chất thông minh nên rất được thiên hạ kính nể, sách vở TQ như thường lệ, tự cao tự đại chép bấy giờ có bộ lạc Điểu Tục (chả biết ở đâu) muốn tiếp thu "nền văn hóa Trung Nguyên" nên sai người đến cầu kiến Ngu Thuấn, Ngu Thuấn liền sai Nhược Mộc đến nơi đó vừa giao lưu vừa "khai hóa văn minh". Từ khi Nhược Mộc đến, bộ lạc này được sự chỉ dạy của Nhược Mộc phát triển rất mau lẹ, bèn tôn Nhược Mộc làm thủ lĩnh để lãnh đạo cải cách cho có phép tắc rõ ràng.

Khi sai Mệnh trị thủy Ngu Thuấn cũng cử Bá Ích theo trợ tá. Như thế, Cao Dao hơn tuổi Mệnh rất nhiều, tất lẽ dĩ ngẫu xuất cảnh đoàn tụ Đế Thuấn trước Mệnh nên sách vở lại chép rằng Mệnh chọn Bá Ích kế vị. Nhưng cũng lại chép rằng Tự Khải đã chứng minh được khả năng của mình, được nhiều bộ lạc ủng hộ hơn Bá Ích. Mà giả Mệnh có mất trước Cao Dao thì kế vị cũng là ông lão Cao Dao lụ khụ rồi, khi ấy quân vị lại rơi vào tay con Mệnh là Khải mà thôi. Khi Mệnh mất, sách chép Bá Ích đứng ra chủ trì tang lễ và chấp chính trong 3 năm. Sau khi mãn tang, nhận thấy người trong thiên hạ theo Khải nhiều hơn nên Bá Ích nhường lại ngôi cho Khải, tránh ở phía nam Hộ Sơn. Việc chuyển giao quyền lực giữa Ích và Khải khá ôn hoà và Khải trở thành người thừa kế ngôi báu của cha. Khải cảm động trước hành động này nên phong cho Nhược Mộc làm thủ lĩnh đất Từ, mở đầu nước Từ.

Nhưng "Trúc thư kỉ niên" thì chép rằng trong quá trình chuyển giao quyền lực chính trị, Mệnh bề ngoài nói truyền ngôi cho Cao Dao rồi Bá Ích như quy định "chọn người hiền tài" nhiều đời trước, nhưng thực tế lại ngấm ngầm giúp con mình xây dựng lực lượng, củng cố niềm tin dân chúng, đợi thời cơ để đánh bại Ích. Sau khi Văn Mệnh mất giữa Khải và Bá Ích đã nổ ra cuộc đại chiến ở Hộ Sơn, Bá Ích bị Khải giết chết. Thế nên việc sử chép Khải phong cho Nhược Mộc làm thủ lĩnh đất Từ là nhảm ruồi bởi trong thực tế cha Nhược Mộc là Bá Ích bị Khải giết khi đang là thủ lĩnh đất Từ mà Nhược Mộc thì danh tiếng lẫy lừng chả kế thừa chức vị thì ai vào đây mà phải được Khải phong? Lại có thuyết nói sau khi Ích kế vị Mệnh, có một số thị tộc không thần phục Ích mà lại ủng hộ Khải, triển khai chiến tranh với thị tộc của Ích, cuối cùng Khải thắng và đoạt được quyền vị. Sau đó, Ích suất lĩnh liên minh Đông Di thảo phạt Khải. Trải qua mấy năm đánh nhau, Khải xác lập địa vị thủ lĩnh liên minh, nhưng tình thế chưa ổn định vì không ít thị tộc nghi vấn về quyền vị của Khải, nên Khải phải di chuyển thị tộc từ Dương Thành đến đất An Ấp (安邑, nay thuộc huyện Hạ 夏县, thành phố Vận Thành 运城市, phía nam tỉnh Sơn Tây).

Trong các thị tộc / bộ lạc không thuận theo Khải có thị tộc Hữu Hỗ (有扈氏, cùng tính Tự với thị tộc Hạ, cũng là một trong 12 thị tộc cấu thành bộ lạc Hạ, địa bàn hoạt động tương truyền nay thuộc khu vực quận Hộ Ấp 鄠邑区 thành phố Tây An 長安市 tỉnh lỵ tỉnh Thiểm Tây) vốn ở ngoài vùng đô ấp của Khải, lấy danh nghĩa "Nghiêu Thuấn chọn người hiền tài còn Vũ thì độc chiếm" phản đối Khải thống trị, khởi binh suất lĩnh liên minh bộ lạc hướng đến thảo phạt đô ấp của Khải. Ghi chép sớm nhất đề cập đến chiến đấu giữa Hữu Hỗ và Hạ có trong "Thượng thư" - " Cam thệ", tuy nhiên nội dung không chỉ rõ "Hạ vương" là vị nào. Trong các sách vở về sau, nội dung trình bày bất nhất, hoặc là Vũ hoặc là Khải, khả năng người xưa viết nét chữ của "Cam thệ" và "Vũ thệ" giống nhau, hoặc có khả năng hai đời Vũ và Khải đều từng đánh nhau với Hữu Hỗ. Khải tuyên bố quyền vị của mình là "cung hành thiên", tức là "theo ý trời", trở thành nguyên mẫu của "thiên tử luận" của triều Chu sau này, mang quân đi dẹp Hữu Hỗ, đôi bên gặp ở đất Cam. Không rõ vị trí của Cam ở đâu, việc này sách cổ không chép rõ ràng, truyền thuyết cho rằng đất "Cam" tại khu vực bình nguyên Quan Trung tỉnh Thiểm Tây, thậm chí còn đề xuất cụ thể hơn là nằm tại Nam Giao quận Hộ Ấp, tức là trong địa bàn Hữu Hỗ. Thuyết khác cho rằng Cam nằm tại tây nam Lạc Dương, Hà Nam. Trận chiến Cam diễn ra ngay lúc triều Hạ mới kiến lập, cả Hữu Hỗ và Hạ Khải đều chưa chuẩn bị đẩy đủ điều kiện cho việc tác chiến xa như vậy. Căn cứ vào "Trung Quốc lịch sử địa đồ tập" do Đàm Kỳ Tương chủ biên, và có đất Hữu Hỗ, Đồ Sơn, Tam Miêu, Phòng Phong thì thực tế "Hỗ" và "Cam" có khả năng gần hơn vùng đất trung tâm của thị tộc Hạ, trong địa phận Hà Nam. Trong "Tả truyện", "Hỗ" (扈) và "Cố" (雇) có thể dùng thay cho nhau, "Cố" thấy trong chữ giáp cốt Ân Khư (cuối thời Thương tại An Dương, Hà Nam) nằm tại khu vực huyện Nguyên Dương (原阳县, thành phố Tân Hương 新乡市 Hà Nam), không xa bằng Thiểm Tây, với đô ấp của Khải là An Ấp thì có cự ly vừa phải. Khải có ưu thế về phương diện số người, đánh bại Hữu Hỗ, trừng phạt bằng cách giáng họ làm "mục thụ” (nô lệ chăn nuôi gia súc), sách chép:
有扈牧竖,云何而逢
Hữu Hỗ mục thụ, vân hà nhi phùng
Sách vở còn sót lại sau vụ đốt sách chôn nho của Tần Thủy Hoàng ghi chép về sự việc Khải nối ngôi Mệnh đều cho là "công thiên hạ" biến thành "gia thiên hạ", tức "gia quốc", nghĩa là thiên hạ là của chung biến thành thiên hạ của một nhà, khu vực Trung Nguyên từ đây xuất hiện khái niệm "quốc gia". Khải dẹp xong Hữu Hỗ bèn lấy tên thị tộc làm quốc hiệu, chính thức khai sinh triều Hạ. Lại đổi "tính" từ "Tự" sang "Hạ", dùng làm quốc tính, không tiếp tục sử dụng xưng hiệu "Bá" là "Tung bá Khải" nữa mà đổi sang dùng "Hậu" 后, tức "Hạ Hậu Khải", thị tộc Hạ cũng đổi thành Hạ Hậu. Tự Văn Mệnh được tôn xưng là Hạ Hậu Vũ (夏后禹, gọi ngắn Hạ Vũ 夏禹, do "công tích" trị thủy to lớn nên được gọi là Đại Vũ 大禹, đời sau tôn xưng Thụy hiệu Đế Vũ 帝禹). Ghi chép từ giáp cốt đến sách vở còn sót lại sau vụ đốt sách chôn nho khi nói về quân chủ Hạ - Thương thì thường gọi là "Hậu". Để gọi thay cho "Hạ Hậu thị" có "Hạ triều", ít thấy hơn là "Hữu Hạ thị", tức "Hạ thị". Thời cổ nhân danh, thị danh, tính danh, hay tộc danh phần nhiều là từ đơn, người đời sau đổi sang tập quán tên hai từ, do vậy phía trước thêm chữ "Hữu" làm trợ từ, như Hữu Ngu, Hữu Cách, Hữu Cùng, Hữu Hỗ... chữ "Hữu" hoàn toàn không có ý nghĩa thực tế. Đây là những tôn hiệu thị tộc cải biến theo hướng tăng trung tính, do người thời Chu sùng thượng triều Hạ, cho rằng có duyên với Hạ, tự xưng "Hữu Hạ", hoàn toàn không phải là gọi quân chủ Hạ, tuy nhiên, Dương Khoan nhận định hai chữ "Hạ Hậu" trong "Hạ Hậu thị" thực tế là một liên từ, do vậy không thể xuất hiện tình huống "Hữu Hạ thị" này.

Cũng do vào thời cổ, chữ "Hạ" và chữ "Hạ" (下, nghĩa là dưới) đồng âm, hai chữ “夏” trong tiếng Hán thượng cổ "Hồ nhã thiết, cổ âm tại ngũ bộ", ước đoán đọc là *hạ", nên có hoài nghi rằng "夏后" và "下后" tương đồng, "Hạ hậu" dưới mặt đất đối ứng với "Thượng đế" trên trời. Trong chữ giáp cốt, chữ "hậu" là ngoa khắc của chữ "cư" 居 (thời cổ hàm nghĩa vỗ về nuôi nấng, sinh sản, đồng nghĩa với "dục" 毓. thời Trung Cổ nghĩa là nuôi dưỡng, để dành, ngồi, cư trú, dừng lại, chiếm hữu, ý nghĩa giống như hiện nay), chữ "cư" lại là giản hóa của chữ "dục" bao hàm nghĩa sinh sản nuôi dưỡng, dùng cách xưng hô "hậu" đối với quân chủ là dấu tích còn lại của xã hội mẫu hệ. Kỳ thực, trên là suy luận của người đời sau, do đến nay vẫn chưa phát hiện được văn tự của người triều Hạ, các xưng hô thực tế đối với quân chủ Hạ tộc tạm vẫn không có cách nào khảo chứng.

Chế độ cha truyền con nối vừa thực hiện đã bộc lộ nhược điểm, ngay khi Khải còn sống, con cái đã nổi dậy tranh giành ngôi vị Thái tử với Thái Khang, Hạ Hậu Khải đích thân đem quân đánh dẹp và lưu đày đứa con út hung hăng nhất đến bờ Tây Hoàng Hà, "Hàn Phi Tử" - "Thuyết nghi" chép rằng người này "hại nước hại dân bại pháp", cuối cùng bị giết. Những con cháu sau này nối ngôi Khải đều nhiều lần đánh phá lẫn nhau, luôn gây ra các cuộc chiến tranh. Tương truyền Khải có tài ca hát, giỏi múa, những nhạc vũ cổ xưa của TQ như "Cửu biện", "Cửu ca" và "Cửu thiều" (九招 / 九韶, lại chín) đều nhận Khải là tác giả gốc. Theo truyền thuyết, đời Hạ Khải đã đúc xong chín cái vạc đồng. "Mặc Tử" thiên "Canh trú" ghi rằng Khải đúc đỉnh tại Côn Ngô, sau đó Hạ truyền Ân, Ân truyền Chu:
... ngày xưa, Hạ hậu Khai (nội dung "Mạnh Tử" hiện nay là do người thời Hán chép lại, đem Khải đổi thành Khai để tránh húy kỵ Hán Cảnh Đế Lưu Khải) sai Phi Liêm đi đổi lấy kim loại tại Sơn Xuyên, làm đồ gốm và đúc tại Côn Ngô,... cửu đỉnh đã hoàn thành, dời đến Tam Quốc (hiểu là Tam Đại)
"Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ" cho nên Tử Lý (子履, 1675 - 1588 TTL, thị tộc Thương 商, hậu duệ Tử Tiết, người sáng lập nhà Thương) sau khi diệt Hạ Kiệt (夏桀,1818 - 1767 TTL, Lý Quý 履癸, ? - 1764 TTL, quân chủ cuối cùng nhà Hạ), đưa chín vạc về kinh đô Thương là Bạc (亳, có thuyết nói nay thuộc thị xã Yển Sư 偃师市 thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam, thuyết khác nói ở phía bắc thành phố Thương Khâu 商丘市, cùng tỉnh Hà Nam, lại có thuyết nói Bạc nay thuộc vùng ranh giới giữa miền tây Liêu Ninh và miền đông bắc Hà Bắc). Cơ Phát (姬發, thị tộc Chu, hậu duệ Cơ Khí Hậu Tắc) sau khi diệt Đế Tân (帝辛, tên Tử Thụ 子受) nhà Thương, đưa chín vạc về Cảo (ở bờ nam Vị Hà, phía tây nam Tây An, Thiểm Tây) kinh đô Chu. Sang thời kỳ Đông Chu, Bình vương (770 - 720 TTL, Cơ Nghi Cữu [姬宜臼, 781 - 720 TTL]) thiên đô thì chuyển về đô mới là Lạc Ấp (sau đổi thành Lạc Dương). Tần Chiêu Tương vương (秦昭襄王, 324 - 251 TTL, Doanh Tắc [嬴稷, 324 - 251 TTL]) đánh diệt nhà Chu, chiếm lấy Lạc Dương, sai tướng Doanh Cù di dời chín vạc về Hàm Dương (咸陽, nay là thành phố ở tỉnh Thiểm Tây) khi chở đến Tứ Thủy, cái vạc châu Đài rơi xuống sông, không mò được nên chỉ còn 8 vạc về đến Hàm Dương.

Như vậy, theo sách sử TQ thì thời kỳ này ở TQ đã phát hiện được đồng và nghề đúc đồng ra đời, tuy nhiên đây cũng là "Dạ Lang tự đại" của tộc Hoa Hạ, kể từ Hoa Nho thời xưa cho đến khoa học gia ngày nay. Một mục tiêu trọng yếu của ngành khảo cổ học TQ là tìm kiếm kinh đô của các triều đại Hạ và Thương, vốn được mô tả trong các sách cổ như "Trúc thư kỷ niên" và "Sử ký" là nằm ở thung lũng Hoàng Hà. Năm 1959 Từ Húc Sinh phát hiện di chỉ Nhị Lý Đầu (二里頭, tại thôn cùng tên ở ven Y Hà [伊河, chi lưu của Lạc Thủy, phía nam Hoàng Hà], thuộc thị xã Yển Sư thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam) với các tòa cung điện và xưởng luyện đồng, được xác định là nơi duy nhất sản xuất bình tế bằng đồng điếu. Từ Húc Sinh khẳng định đó là Bạc, kinh đô thời Thương Thang (商湯 tức Đại Ất 大乙 Tử Lý ) trong sách cổ, tức là khoảng sau năm 1600 TTL. Trước đó, năm 1951 phát hiện di chỉ thành cổ Nhị Lý Cương (二里岗, thuộc Trịnh Châu, Hà Nam), cách Nhị Lý Đầu 85 km về phía đông có các xưởng lớn nằm ở bên ngoài tường thành, bao gồm một xưởng chế tác đồ dùng từ xương, một xưởng gốm, và hai xưởng làm bình bằng đồng điếu. Các sản phẩm đồ đồng của Nhị Lý Cương được cho phát triển từ kiểu dáng và kỹ thuật của Nhị Lý Đầu, thống nhất về phong cách hơn so với hiện vật Nhị Lý Đầu.

Từ cuối thập niên 1970, giới khảo cổ học TQ dựa vào các truyền thuyết được đề cập đến trong các sách cổ, bắt đầu tập trung cưỡng ép kết nối liên hệ giữa Nhị Lý Đầu với sự thành lập triều Hạ, còn thành cổ Nhị Lý Cương là một trong các kinh đô trước tiên của triều Thương. Việc phát hiện ra đi vật chữ giáp cốt ở Ân Khư thuộc An Dương khẳng định rằng đây là kinh đô cuối cùng của triều Thương, song những chứng cứ như vậy không được tìm thấy trong các di chỉ có niên đại trước đó như Nhị Lý Đầu, Nhị Lý Cương để có thể liên hệ các tàn tích khảo cổ đó với chính sử.

Tiếp nối  công việc từ thập niên 1970, ngày 16/5/1996 chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa giao cho một nhóm các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực tiến hành một dự án đa ngành, kết hợp giữa các bộ môn khoa học tự nhiên với khoa học xã hội, nhằm xác định chính xác địa điểm và khoảng thời gian (niên đại) của các triều đại là nhà Hạ, nhà Thương và Tây Chu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 9 của TQ. Công tác chuẩn bị cho dự án được khởi động từ mùa thu năm 1995 với buổi tọa đàm do Bộ trưởng Bộ Khoa học Kỹ thuật Trung Quốc Tống Kiện chủ trì. Cuối năm 1995, Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã triển khai hội nghị để thành lập các tổ phục vụ cho "Dự án xác định niên đại Hạ Thương Chu" (夏商周断代工程: "Hạ Thương Chu đoạn đại công trình"). Khoảng 200 chuyên gia từ 7 đơn vị: Bộ Khoa học Kỹ thuật Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc, Bộ Giáo dục Trung Quốc, Cục Bảo tàng lịch sử quốc gia Trung Quốc, Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật Trung Quốc, Hiệp hội cơ kim khoa học tự nhiên quốc gia Trung Quốc tham gia vào dự án. Chủ nhiệm công trình là sử gia Lý Học Cần, chuyên gia về các-bon phóng xạ C-14 Cừu Sĩ Hoa, nhà khảo cổ Lý Bá Khiêm, nhà thiên văn Tịch Trạch Tông.

Dự án được nghiệm thu ngày 15/9/2000, các kết quả được công bố ngày 9/11/2000 với tên gọi "Hạ Thương Chu niên biểu", với: nhà Hạ 17 quân chủ (2070 - 1600 TTL); nhà Thương (Tiền Thương) 19 quân chủ (1600 - 1300 TTL); nhà Ân (Hậu Thương) từ Bàn Canh, Tiểu Tân, Tiểu Ất (1300 - 1251 TTL) đến Đế Ất (1101 - 1076 TTL), Đế Tân (1075 - 1046 TTL); nhà Tây Chu từ Vũ vương (1046 - 1043 TTL) đến U vương (781 - 771 TTL). "Dự án xác định niên đại Hạ Thương Chu" xác định Nhị Lý Đầu niên đại xấp xỉ 1900 - 1500 TTL thuộc triều Hạ, việc xây dựng thành Yển Sư có tường bao bọc, cách Nhị Lý Đầu khoảng 6 km về phía đông bắc, niên đại khoảng 1600 TTL, là mốc triều Thương thành lập và Nhị Lý Cương niên đại xấp xỉ 1600 - 1300 TTL thuộc triều Thương, song không có các bằng chứng, như văn tự, để xác nhận.

Giới khoa học chỉ ra rằng các ranh giới khảo cổ học giữa nhà Hạ với nhà Thương và giữa nhà Thương với nhà Chu đã xác định niên đại bằng các-bon phóng xạ nói chung chỉ có thể đưa ra độ tin cậy ở mức 68%, thay vì ngưỡng tiêu chuẩn độ tin cậy 95%, làm cho các khoảng ngày tháng hẹp hơn so với ngưỡng mà chúng lẽ ra phải có một cách chính xác hơn. Người ta cho rằng các tài liệu thiên văn của dự án là thiếu cơ sở, việc thiếu hiểu biết về lịch pháp cổ đại đã làm rắc rối và phức tạp vấn đề, tính toán thiên văn chủ yếu, ví dụ cho nhật thực năm 899 TTL không chính xác. Điều này một phần là do các nghi ngờ từ lâu về độ tin cậy và các diễn giải của các ghi chép lịch sử sử dụng trong các suy luận. Cộng với việc sử dụng có tính chọn lọc các ghi chép sử học giả định được đưa vào trong các chữ khắc trên các hiện vật bằng đồng điếu, mà nếu sử dụng ở trạng thái nguyên vẹn của nó có thể hoàn toàn không có giải đáp, làm ảnh hưởng tới độ tin cậy của niên đại tổng thể. Công trình cũng được các học giả khác, đặc biệt bên ngoài Trung Quốc, chỉ ra việc thiếu bằng chứng vững chắc cho kết luận niên đại trên. Rằng sự tập trung vào tư liệu văn bản sử học của khảo cổ học TQ là sự hạn chế thái quá. Và rằng dự án này hỗ trợ cho quan niệm đại dân tộc chủ nghĩa về một lịch sử 5.000 năm không gián đoạn và đồng nhất của TQ, trong đó ba triều đại Hạ, Thương, Chu là các quốc gia lớn và hùng mạnh, bỏ qua một thực tế là có nhiều nhóm dân tộc khác cũng văn minh ngang hoặc hơn thế đã tồn tại trên khắp cả TQ và Trung Á trong thời kỳ này. Cũng như dự án này phục vụ cho mục đích chính trị nên bị hoài nghi về đạo đức học thuật.

Khoảng thập niên 2010, các nhà địa chất công bố bằng chứng cho thấy từng xảy ra trận lụt khủng khiếp thời cổ đại, mà họ nói là phù hợp với truyền thuyết đại hồng thủy trong thời khởi thủy triều đại đầu tiên của TQ. Tiến sỹ Ngô Thanh Long, Đại học Sư phạm Nam Kinh cho biết ông và các đồng nghiệp đã tình cờ tìm được các mẫu trầm tích khi đi khảo sát hồi 2007. Đến tháng Bảy 2008, họ đột nhiên nhận ra là cái thứ được gọi là cát đen trước đó được các nhà khảo cổ tìm thấy ở Lạt Gia, một địa điểm cư trú hang động của người tiền sử, trên thực tế có thể là phần trầm tích từ trận lụt khủng khiếp mà họ nghiên cứu, các trầm tích dày tới 20m và nằm ở độ cao tới 50m cao hơn Hoàng Hà, cho thấy đó là một trận lụt cuồng nộ chưa từng thấy. Theo các nhà khoa học, một trận động đất ghê gớm, dữ dội xảy ra phá hủy Lạt Gia, chôn vùi cư dân và những đồ tạo tác văn hóa, và đã gây tác động tới phần thượng nguồn dòng chảy, gây lở đất và tạo thành một con đập khổng lồ hình kim tự tháp chặn đứng dòng chảy của Hoàng Hà ở Hẻm Tích Thạch, cách Lạt Gia 25km về phía thượng lưu, trong thời gian từ sáu tới chín tháng.

Theo Tiến sỹ Darryl Granger từ Đại học Purdue tại Hoa Kỳ, thành viên nhóm nghiên cứu, nước tại Hẻm Tích Thạch dâng cao tới 38m so với mức ngày nay. Khi vỡ đập, có tới khoảng 16 km khối nước tràn xuống hạ lưu với tốc độ khoảng 300 - 500 ngìn mét khối nước một giây, tức là tương đương với trận lụt ghê gớm nhất từng được ghi nhận trên sông Amazon, khiến nó trở thành một trong những trận lụt lớn nhất từng xảy ra trên Trái Đất trong suốt 10 ngàn năm qua. 
Theo Tiến sỹ Granger, phân tích các-bon phóng xạ của các chất trầm tích từ trận lụt và các mảnh xương còn sót lại từ các nạn nhân trận động đất Lạt Gia, cho kết quả năm 1922 TTL ± 28 năm. Nếu như trận lụt quả đúng là nguồn gốc cho câu chuyện thần thoại "Cổn - Vũ trị thủy", thì nhà Hạ có thể đã được lập ra trong vòng vài thập niên sau thời điểm đó, khoảng năm 1900 TTL ± 28 năm, muộn hơn khoảng 80 - 90 năm so với ghi chép trong "Trúc thư kỷ niên thể hệ" cổ bản:
自禹至桀十七世,有王與無王,用歲四百七十一年。起壬子,终壬戌。
Từ Vũ đến Kiệt 17 đời, có vương và không vương, trải qua 471 năm. Bắt đầu từ năm Nhâm Tý (1989 TTL), kết thúc vào năm Nhâm Tuất (1559 TTL)
Muộn nhiều hơn nữa so với kết quả "Hạ Thương chu niên biểu" của "Dự án xác định niên đại Hạ Thương Chu" là 2070 TTL, và muộn hơn 200 - 300 năm so với các ước tính trước dự án đó. Tiến sỹ David Cohen từ Đại học Quốc gia Đài Loan, thành viên nhóm nghiên cứu, nói rằng nghiên cứu này là một thành quả đáng kể. Giáo sư David Montgomery, nhà địa mạo học từ Đại học Washington, không tham gia vào cuộc nghiên cứu, nhưng nói câu chuyện về Hạ Vũ khá lạ lùng, nó không kể về việc sống sót mà kể về Hạ Vũ làm cạn dòng nước, về kỹ thuật kiềm chế dòng sông. Giáo sư Montgomery cho rằng câu chuyện về Hẻm Tích Thạch là đáng tin, nhất là bởi nó mô tả về một trận lụt gây vỡ bờ Hoàng Hà xuống tận hạ nguồn, rồi về việc tái nắn dòng chảy, đó là chuyện phải mất nhiều chục năm mới xử lý được, một trận chiến lâu dài chống lại dòng nước được lưu truyền trong huyền thoại Hạ Vũ.

Quay lại thời Hạ, sau khi Hạ Khải mất, Thái Khang nối ngôi, được 2 năm thì dời thị tộc đến Châm Tầm (斟鄩, tương truyền nay thuộc địa phận tỉnh Hà Nam). Theo sách "Vương triều và hoàng đế Trung Quốc" do Trương Tự Văn biên soạn thì người ta thống kê được rằng nhà Hạ có tới 9 lần dời đô ấp (trong 17 lần di cư từ khi hình thành thị tộc Hạ), trong 9 lần ấy thì 3 lần chuyển đến Châm Tầm và có một điều rất lạ là cả ba lần ở Châm Tầm nhà Hạ đều thảm bại trầm trọng trước Đông Di.

Nhà Hạ thảm bại trước Đông Di, nhà Thương nhà Chu ra đời ra sao, Thời đại Hồng Bàng thì khoa học xác minh thế nào, bài sau nói tiếp.

¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong các bài trước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét