Chuồng cọp Côn Đảo
Xây dựng bí mật từ năm 1940, chuồng cọp được thực dân Pháp ngụy trang kín đáo sâu trong Trại giam Phú Tường với hai lối ra vào. Giữa chuồng cọp và một nhà giam chỉ ngăn cách bằng cánh cửa nhỏ bị khóa và ngụy trang như cánh cửa đã không dùng lâu ngày. Ngoài những tên cai ngục, không ai được biết về bí mật của nơi biệt giam này. Tù nhân chính trị đưa vào đây khi bị tra tấn đến ngất sẽ được đưa ra bằng cửa khác để đánh lạc hướng, khiến những người bị giam giữ không phân biệt phương hướng. Những tù nhân bị giam tại chuồng cọp đều không xác định được vị trí trại giam, vì vậy khả năng trốn thoát là không thể.
Don Luce, một trong ba người sưu tập, chuyển ngữ, giới thiệu tuyển tập thơ WE PROMISE ONE ANOTHER (tạm dịch: Đợi ngày chiến thắng) in mimeopraphed năm 1971 tại Washington D.C, người phát hiện đầu tiên chuồng cọp ở Côn Đảo
Năm 1958, Don Luce đến Saigon, tham gia Đoàn chí nguyện quốc tế ( IVS), và giảng dạy ở Đại học Nông Lâm Súc cho tới 1967.
Năm 1969, Don Luce và John Summer cho ra mắt sách Vietnam - The Unheard voices, Đại học Cornell / USA xuất bản.
Năm 1971 Don Luce, John Schafer & Jacquelyn Chagnon, lại cho ra mắt tập tuyển thơ We promise one another, tự bỏ tiền xuất bản, sách khổ 15 x 19 , dày 120 trang , in rô-nê-ô - offset gọi là mimeographed book do The Indochina Mobile Education Project xuất bản, Washington , D.C. 1971 .
Don Luce có 1 bài báo ngắn ký Đoàn Lân đăng trên tạp chí Trình bầy do Thế Nguyên chủ nhiệm.
Trích bài phỏng vấn Don Luce qua email của web thegioivemaybay.com.vn và một số bài trên báo in.
" ... Tất nhiên là tôi tự hào đã phát hiện ra chuồng cọp. Nhưng điều quan trọng hơn cả là điểm đó khởi đầu cho việc trả tự do cho các tù nhân, buộc chính quyền Saigon đóng cửa chuồng cọp và giúp chấm dứt chiến tranh bằng cách cho thấy chính quyền Thiệu tàn bạo đến mức nào?"
" .. Tôi sẽ không bao giờ quên thời khắc mình đi dọc những dẫy Chuồng Cọp ở Côn Sơn. Bốc lên 1 thứ mùi thật kinh khủng, có lẽ là từ các vết thương vỡ. Đầu 1 người đàn ông bị cắt sọ [được] mở ra. Tôi không hiểu sao ông ấy vẫn còn sống? Một người khác bị cắt mất 3 ngón tay (....) Biết [đã] nhiều năm [được] nghe Chuồng Cọp, nhưng điều đó không giúp tôi chuẩn bị đối diện với nó. 480 người chen chúc trong những cái lồng nhỏ. Họ bị tê liệt vì bị cùm quá lâu. Họ bị [bỏ] đói đến chết. (...) Có 180 người đàn ông (3 người 1 lồng) và 300 phụ nữ (5 người 1 lồng) ... " .
" ... khi chính phủ Mỹ là 1 phần trong việc đối xử vô nhân đạo cả ở Côn Sơn và Abu Ghraib. Tôi luôn nghĩ rằng, trong những cuộc cách mạng hoặc căng thẳng chính trị, nếu bạn muốn biết ai là lãnh tụ của tương lai thì hãy thăm các nhà tù (...) Một trong những bài học Việtnam là, một cường quốc ngoại bang không thể đè bẹp chủ nghĩa dân tộc. Cho dù kéo dài bao nhiêu lâu, thì phong trào dân tộc vẫn có chiến thắng. Dù là mất hằng thập kỷ ... ".
"... Khi sắp kết thúc chiến tranh, trong cuộc điều trần ở Quốc hội [Mỹ] năm 1975, đại sứ Mỹ tại Việtnam, Graham Martin cáo buộc tôi và 1 người khác là đã [làm] Mỹ thua cuộc chiến [tại Việtnam]."
"... Tôi cảm thấy mình may mắn, vì vẫn làm việc ở tuổi 76 . Những thời điểm có ý nghĩa nhất trong đới tôi là khi có thể giúp đỡ được ai đó. Dù là giúp một sinh viên ở Việt Nam thoát khỏi nhà tù từ thời chiến tranh, hay giúp 1 người vô gia cư ở thác Niagara thì đều quan trọng [đối] với tôi ..."
Don Luce có tới thăm miền Bắc 3 lần (từ 1972-75), đúng dịp Hà Nội bị B52 giội bom, ông không quên:
"... Tôi đến Hà nội đúng đợt ném bom phá hoại, phải nói là 2 tôi rất sợ [hãi]. Tôi nhẩy xuống 1 cái hầm, chắc bạn vẫn nhớ đó là những cái ống bê-tông hình ròn. Cái ông rất nhỏ và tôi bị kẹt. May mắn là 2 phụ nữ, mỗi người kéo 1 chân tôi xuống hầm... "
Don Luce có trở lại Rp. HCM đôi ba lần, năm 2004, Don Luce và Mark Bonacci được trao Huy hiệu Tp. HCM:
- Ngày 2/1/2004, tại trụ sở Hội Liên Hiệp Phụ nữ Tp. HCM đã trao HUY HIỆU Tp. HCM của UBND Tp. HCM, cho 2 công dân Hoa Kỳ: Don Luce (giám đốc Tổ chức Tình nguyện quốc tế / IVS) và tiến sĩ Mark Bonacci (phó giám đốc IVS) về sự hỗ trợ: "... chống AIDS tại Việtnam, chăm sóc sức khỏe phụ nữ tại thành phố, cũng như góp phần tăng cường hữu nghị giữa nhân dân Pp. HCM và nhân dân Hoa Kỳ..."
Năm 2008, Don Luce lại trở lại Việtnam, tới thăm người bạn cũ - ông Tư Chu và lần này, 1 nhà báo của báo PHÁP LUẬT Pp. HCM theo chân Don Luce để quay phim cuộc gặp gỡ.
Don Luce đã gặp lại ' 2 con tin chiến tranh' (2 con của ông Tư Chu chỉ mới 5, 7 tuổi ở thời điểm Mậu thân, 1968) rơi vào tay chính quyền Saigon, Don Luce đã ra tay can thiệp , giải cứu 2 trẻ nhỏ được trở về cùng gia đình vào năm 1968, tết Mậu thân - nay, Don Luce tỏ vẻ thật vui mừng được gặp lại 2 cậu bé xưa kia, bây giờ họ đã ở tuổi gần 50 .
Bà Đoàn Thị Nhỏ (mẹ 2 trẻ nhỏ, vợ ông Tư Chu) chia sẻ: "... tôi nghĩ dân tộc nào cũng có người tốt, xấu. Tôi nghĩ ông Mỹ này [Don Luce] cũng vậy thôi. Ông là người tốt. Tôi cảm ơn lòng tốt của ông đã giúp đỡ gia đình tôi". (nguyệt san PHÁP LUẬT tp. HCM ngày 25/3/2012)
Hiện tại, Don Luce là một bác sĩ tâm thần, sau khi ở Việtnam trở về Mỹ, ông tâm sự: ' ... Về Mỹ, tôi trở lại công việc tẻ nhạt của mình: bác sĩ tâm thần nội trú ở Mendocino State Hospital - 1 bệnh viện đang chuẩn bị đóng cửa [nay mai]...' (web vietbao.vn)
Members of a congressional commitee visit a South Vietnamese island for political prisonners.
Các thành viên một ủy ban Quốc hội Mỹ viếng thăm một hòn đảo của Nam VN nơi giam giữ những tù nhân chính trị.
"Bên dưới những song sắt là các tù nhân ngồi cúi gập người lại. Hơn phân nửa trong số họ là phụ nữ, và một cô gái chỉ mới 15 tuổi. Không khí thì hôi hám và cái nóng khiến người ta đờ đẫn. Các song sắt bị hoen gỉ vì vôi, mà các tù nhân nói những người canh tù rải xuống họ để trừng phạt, làm bỏng mắt họ và nghẹt phổi họ. Tất cả tù nhân đều đau yếu: với bệnh lao, những vết lở loét, đau mắt và thiếu dinh dưỡng. Những người đau yếu nhất, ông Luce nói, nằm trên nền nhà trong khi những người khác quạt cho họ bằng những mảnh vải vụn. Ít người có thể đứng được—những tù nhân cho rằng đó là hậu quả của việc thường xuyên bị cùm chân. Một tù nhân nói họ đã lén vặt những nắm cỏ để ăn trên đường trở về từ nơi bị đánh đập, và “bắt thằn lằn, các con bọ cánh cứng và những côn trùng khác và ăn sống chúng, cắn ra và chia các mảnh cho nhau.
Hình ảnh của các tù nhân trong lồng đã khắc sâu vào tâm trí tôi, đến giờ vẫn không tẩy xóa nổi...”
Nhà báo Don Luce
“Tôi không bao giờ quên thời khắc nhìn thấy chuồng cọp”
40 năm trước, sự thật ghê rợn về nhà tù chuồng cọp của Mỹ ở Côn Đảo đã gây chấn động báo chí quốc tế. Người đầu tiên lên tiếng về sự thật đó trước công chúng Mỹ là Don Luce, nhà báo Mỹ, ông giờ đã 76 tuổi và vẫn làm việc cho một trung tâm giúp đỡ người bất hạnh ở Thác Niagara, bang New York, Mỹ.
Tôi thực hiện cuộc trò chuyện này với Don Luce qua email, ông đáp: “Cuộc trò chuyện này làm tôi nhớ lại quá nhiều kỷ niệm”.
Thưa ông, cái tên Don Luce gắn liền với việc phát hiện ra chuồng cọp ở Côn Đảo. Tìm ra những sự thật ở tầm như vậy, dù là sự thật tồi tệ, vẫn là điều có ý nghĩa rất lớn. Ông có tự hào không?
- Tất nhiên là tôi tự hào về việc đã phát hiện ra chuồng cọp. Nhưng điều quan trọng hơn cả là điều đó khởi đầu cho việc trả tự do cho các tù nhân, buộc chính quyền Sài Gòn đóng cửa chuồng cọp và giúp chấm dứt chiến tranh bằng cách cho thấy chính quyền Thiệu tàn bạo đến mức nào.
Vậy đầu tiên ông có được thông tin về chuồng cọp như thế nào?
- Năm 1970, tôi dạy Trường đại học Nông nghiệp Sài Gòn. Một số sinh viên của tôi bị bắt giữ và bỏ tù vì biểu tình chống Thiệu. Tôi làm việc rất nỗ lực để đòi trả tự do cho họ. Khi được thả, họ có nhiều vết đánh đập trên người. Tôi càng ngày càng thấy mình đối lập với việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam, tôi tham gia phong trào Phật tử và các nhóm khác để phản chiến.
Khi anh sinh viên Cao Nguyên Lợi và một số người khác được thả ra khỏi chuồng cọp, họ đề nghị tôi cho sử dụng một phòng ở trường Canh nông để “triển lãm” chính họ, cho mọi người thấy chuồng cọp là thế nào. Rồi một số người trốn trong căn hộ của tôi ở đường Pasteur.
Cuối tháng 5.1970, đoàn đại biểu Quốc hội Mỹ sang Việt Nam điều tra về cuộc chiến. Trợ lý của họ là một sinh viên luật còn trẻ tên là Tom Harkin. Tom muốn gặp các lãnh đạo sinh viên và tôi giới thiệu anh ấy với Lợi. Lợi bảo, nếu ông muốn gặp các lãnh tụ thực sự ở Việt Nam, ông nên ra chuồng cọp ở đảo Côn Sơn (tên cũ của Côn Đảo). Rồi Lợi vẽ đường làm sao để vào giữa các bức tường chuồng cọp.
Cuộc triển lãm ở trường Canh nông có tổ chức được không, thưa ông, và công chúng nhìn nhận thế nào?
- Có chứ, trường Canh nông cho chúng tôi mượn phòng giải phẫu và các sinh viên tự triển lãm mình trên những giá thí nghiệm để mọi người đến trò chuyện với họ. Họ bảo tôi là có khoảng 20 người sẽ đến gặp. Nhưng thực tế là khoảng 20 nghìn người đã đến xem kể cả cảnh sát. Cảnh sát phun hơi cay vào chúng tôi.
Đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là hơi cay. Tôi còn nhớ một sinh viên trẻ mặc áo dài trắng đã đưa tôi một cái khăn có chanh. Vậy là tôi biết cách phải làm gì khi cảnh sát phun hơi cay vào mình. Hóa ra cuộc triển lãm đó là cách rất tốt để mọi người biết đến sự tồn tại của chuồng cọp.
Ông có khó khăn khi thuyết phục đoàn nghị sĩ thăm Côn Đảo không?
- Rất khó. Các cố vấn nhà tù của Mỹ nói rằng không có cái gọi là chuồng cọp. Đó là cái có từ thời Pháp. Cuối cùng, Tom Harkin thuyết phục được Nghị sĩ Gus Hawkins đi. Hawkins là người Mỹ gốc Phi đến từ Los Angeles. Ông ấy nói: “Nhìn này, tôi là người da đen và sẽ không ai tin tôi đâu. Mọi người biết là tôi phản chiến. Chúng ta phải tìm thêm người khác.”
Cuối cùng, Nghị sĩ Bill Anderson đồng ý đi. Nghị sĩ Anderson là anh hùng quân đội Mỹ. Ông ấy đã lái tàu ngầm Nautilus đến Cực Bắc. Ông ấy tin tưởng mạnh mẽ vào nhân quyền và đồng ý ra Côn Sơn. Các nghị sĩ thuê một chiếc máy bay và tôi được mời đi cùng làm phiên dịch.
Trong một bài viết của mình, Don Luce kể lại, trên đường bay ra Côn Đảo, một cố vấn nhà tù Mỹ khoác lác rằng Côn Đảo là “trại giải trí của hướng đạo sinh”, là "nhà tù lớn nhất của thế giới tự do”.
Nhưng những gì Luce nhìn thấy khác hẳn. Luce và các nghị sĩ không theo lịch trình mà các phụ trách nhà tù vạch ra, họ sử dụng tấm bản đồ do Cao Nguyên Lợi vẽ để tự thám hiểm, và tìm thấy cánh cửa nhỏ dẫn đến chuồng cọp. Phụ trách nhà tù đã muốn giấu giếm, song không may, người cai ngục bên trong nghe thấy tiếng sếp của họ và mở cửa.
Điều gì làm ông ấn tượng nhất khi mới nhìn thấy chuồng cọp và các tù nhân ở đó, thưa ông?
- Tôi sẽ không bao giờ quên thời khắc mình đi dọc những dãy chuồng cọp ở Côn Sơn. Bốc lên một thứ mùi thật kinh khủng, có lẽ là từ các vềt thương vỡ. Đầu một người đàn ông bị cắt và sọ mở ra. Tôi không hiểu sao ông ấy vẫn còn sống. Một người khác bị cắt mất ba ngón tay.
Bà Sáu bị mù vì vôi sống – người ta đã ném vôi vào người bà ấy trong những phiên tra tấn. Những giỏ vôi xếp trên chuồng cọp, một cách nhắc nhở ghê sợ với những người hỏi xin ăn. Tôi có một thanh chocolate trong túi và tôi muốn tung xuống cho các tù nhân, nhưng tôi biết họ quá tự trọng.
Suốt nhiều năm tôi đã nghe nói về chuồng cọp, nhưng điều đó không giúp tôi chuẩn bị đối diện với nó. 480 con người chen chúc trong những cái lồng nhỏ. Họ bị tê liệt vì bị cùm quá lâu. Họ bị đói đến chết. Nhưng họ vẫn kiên cường đòi công lý. Có 180 người đàn ông (3 người một lồng) và 300 phụ nữ (5 người một lồng). Họ đều lo lắng cho một người nào khác: “Làm ơn sang lồng số... xem bà Sáu thế nào... Làm ơn sang lồng số… xem Thieu Thi Tao và Thieu Thi Tan thế nào”.
Những bức ảnh Tom Harkins (giờ là Thượng nghị sĩ bang Iowa) chụp tại nhà tù Côn Sơn đã được đăng trên tạp chí Liíe ngày 17/7/1970. Dư luận quốc tế bừng bừng phẫn nộ. Nghị sĩ Anderson lúc đó đóng vai trò đáng kể trong việc thông tin về chuồng cọp cho báo chí Mỹ. Vì ông đã có nền tảng quân sự nên người ta coi ông là người bảo thủ và không ai nghĩ ông sẽ phản chiến.
Việc gặp những người ở chuồng cọp đã có tác động lớn với Anderson và ông trở thành nhân vật quan trọng trong phong trào phản chiến. Vậy là, Luce nói, ông đã tham gia cùng hàng nghìn, hàng triệu người khác chấm dứt sự tham gia của Chính phủ Mỹ trong cuộc chiến kinh hoàng ở Việt Nam.
Lúc đó ông làm việc cho Chính phủ Mỹ, vậy ông có gặp khó khăn gì vì đã giúp phát giác chuồng cọp?
- Không, tôi chưa bao giờ làm việc cho Chính phủ Mỹ. Lúc đó tôi làm việc cho Hội đồng Nhà thờ Thế giới (World Council of Churches), một tổ chức có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ. Hội đồng Nhà thờ Thế giới rất ủng hộ việc tôi tham gia phát giác chuồng cọp và giúp tôi đi khắp nơi ở Mỹ và Châu Âu để nói về sự vô nhân đạo đó. Ủy ban Đối ngoại Thượng viện đã đề nghị tôi điều trần trước Ủy ban và cũng ủng hộ tôi. Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn rất tức giận và cùng với Chính quyền Thiệu “đá” tôi khỏi Việt Nam.
Có lần ông đã so sánh chuồng cọp ở Việt Nam và nhà tù Abu Ghraib ở Iraq. Phải chăng đó là một bài học Việt Nam - như người ta thường nói - mà Mỹ chưa thuộc?
- Quả thật là vụ chuồng cọp đã không ngăn chặn được nhà tù Abu Ghraib. Với tôi, thật đáng buồn khi Chính phủ Mỹ là một phần trong việc đối xử vô nhân đạo cả ở Côn Sơn và Abu Ghraib. Tôi luôn nghĩ rằng, trong những cuộc cách mạng hoặc căng thẳng chính trị, nếu bạn muốn biết ai là lãnh tụ của tương lai thì hãy thăm các nhà tù.
Luôn có những người dũng cảm, những người bị tuyên án nặng và sẵn sàng hy sinh cho đất nước. Một trong những bài học Việt Nam là, một cường quốc ngoại bang không thể đè bẹp chủ nghĩa dân tộc. Cho dù kéo dài bao lâu thì phong trào dân tộc vẫn cứ chiến thắng. Dù là mất hàng thập kỷ.
Ông vẫn giữ liên lạc với các cựu tù Côn Đảo. Điều gì làm mối quan hệ đó kéo dài đến vậy?
- Những người đã ở chuồng cọp và trong các nhà tù khác là những người bạn thân nhất của tôi và giờ cũng vậy. Bạn bè thật quý giá và không thể để mất bạn cho dù ta sống cách đó nửa vòng trái đất. Một vài người đã mất. Nhưng tôi luôn sắp xếp đến thăm họ mỗi lần tôi trở lại Việt Nam.
Hà Nội đã mời ông thăm miền Bắc. Vậy ở Mỹ lúc đó có ai đó coi ông đã phản bội nước Mỹ và các cựu chiến binh Mỹ không?
- Hà Nội mời tôi thăm miền Bắc 3 lần trong thời kỳ 1972-1975. Tôi đến Hà Nội đúng một đợt ném bom phá hoại, phải nói là tôi rất sợ. Tôi nhảy xuống một cái hầm, chắc bạn vẫn nhớ đó là những cái ống bêtông hình tròn. Cái ống rất nhỏ và tôi bị kẹt. May mắn là hai phụ nữ, mỗi người một chân kéo tôi xuống hầm. Thế là suốt trận bom, tôi cứ nghĩ làm sao mà chui ra được.
Tôi cũng đã đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh và gặp bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam) ở vùng giải phóng Quảng Trị năm 1974. Khi sắp kết thúc chiến tranh, trong cuộc điều trần ở Quốc hội năm 1975, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Graham Martin cáo buộc tôi và một người khác là đã “thua cuộc trong trận chiến vì nước Mỹ”. Sau chiến tranh tôi đã đưa nhiều đoàn sang thăm Việt Nam, kể cả các cựu chiến binh. Và như bạn thấy, quá nhiều cựu chiến binh giờ ủng hộ Việt Nam và tới Việt Nam chung tay tái thiết.
Ở tuổi ngoài 70 ông vẫn làm việc. Công việc giờ đây có quá sức với ông không?
- Tôi cảm thấy mình may mắn vì vẫn làm việc được ở tuổi 76. Những thời điểm ý nghĩa nhất trong đời tôi là khi tôi có thể giúp đỡ ai đó. Dù là giúp một sinh viên ở Việt Nam thoát khỏi nhà tù từ thời chiến tranh, hay giúp một người vô gia cư bây giờ ở Thác Niagara, thì đều quan trọng với tôi. Trong những năm qua, quá nhiều người đã giúp tôi ít nhiều theo cách này hay cách khác, và tôi muốn đền đáp sự tử tế mà tôi đã nhận được.
Xin cảm ơn ông!
5 sinh viên tù nhân Côn Đảo đã vẽ nên sơ đồ "chuồng cọp" bí mật của quân đội Mỹ với các đòn tra tấn thời trung cổ. Từ sơ đồ này, nhà tù Côn Đảo trở thành "địa ngục trần gian" bí mật một thời này ra ánh sáng, khiến cả thế giới sửng sốt trước cách giam giữ tại hệ thống nhà tù ở Côn Đảo.
Chuồng cọp, một "địa ngục trần gian"!
Tại Côn Đảo, nhóm phóng viên chúng tôi đã gặp ông Phan Hoàng Oanh, năm nay 69 tuổi, cựu tù chính trị tại Côn Đảo. Theo lời kể của ông Oanh, những tù nhân như ông đã nếm trải không biết bao nhiêu những nỗi đau, cực hình của bọn cai ngục. Để dập tắt phong trào cách mạng, phong trào đấu tranh của các tù nhân bị giam giữ tại hệ thống nhà tù Côn Đảo, kẻ địch đã dùng nhiều thủ đoạn, từ dụ dỗ đến dùng cực hình nhằm cho lực lượng theo cách mạng nhụt chí từ bỏ sự nghiệp đấu tranh vì lý tưởng cách mạng, thống nhất đất nước.
Trước sự kiện này, Tom Harkin, nhân viên Quốc hội Mỹ cùng đoàn 10 nghị sĩ Mỹ lập tức đến Việt Nam để điều tra sự việc. Trước đó, đoàn nghị sĩ Mỹ đã nghe lời đồn về chuồng cọp và đến Côn Đảo, nhưng không tìm thấy manh mối nên việc điều tra bị dừng lại.
Ngay sau khi gặp Cao Nguyên Lợi, nghe tường trình và có trong tay sơ đồ chuồng cọp do người sinh viên này vẽ lại bằng trí nhớ, Tom Harkin cùng đoàn nghị sĩ Mỹ và Don Luce đến Côn Đảo để truy tìm bí mật chuồng cọp. Họ muốn điều tra ra nhà tù với những hình thức tra tấn kiểu trung cổ vẫn còn tồn tại và được giấu kín.
Ông Oanh nhớ lại: "Vào năm 1968, chúng đưa ra nhiều chiêu bài để chiêu hồi các chiến sĩ cách mạng, nhất là những chiến sĩ đang bị bắt giam tại nhà tù Côn Đảo. Chúng đưa ra kết xin ly khai, từ bỏ đấu tranh cách mạng để hưởng được những "chính sách" đãi ngộ do chúng đưa ra, đồng thời có thể sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình. Biết được y đồ thâm độc của chế độ ngụy quyền nên ông đã phát động phong trào chống ly khai ngay tại nhà tù. Khi biết ông là người khởi xướng phong trào này, kẻ địch đã gặp ông để thuyết phục ông quy phục hòng có thể làm lung lay ý chí đấu tranh của các tù nhân bị giam giữ. Khi không thuyết phục được ông, chúng chuyển sang những đòn tra tấn dã man chỉ có trong thời trung cổ. "Chúng đánh đập, nhốt vào chuồng cọp, rải vôi sống, cho phơi nắng sương nhiều tuần liền nhằm mục đích bắt những người tham gia cách mạng ký đơn xin tự ly khai", ông Oanh nhớ lại những năm tháng sống trong địa ngục tại nhà tù Côn Đảo".
Trong thời gian chúng tôi bị giam giữ tại Trung tâm cải chính - trại Phú Hải, kẻ thù dùng muôn vàn thủ đoạn để làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ. Tuy vậy, những người tù chính trị tại Côn Đảo đã luôn kiên trung, một lòng sắc son với cách mạng", ông Oanh xúc động cho biết.
Vào đầu năm 1970, tại Sài Gòn liên tiếp diễn ra các cuộc biểu tình của Hội sinh viên yêu cầu chính quyền trả tự do cho những học sinh, sinh viên đang bị giam ở Côn Đảo. Trước áp lực này, sáng 25-5-1970, nhà cầm quyền buộc phải thả 5 học sinh, sinh viên đang bị giam tại chuồng cọp gồm có: Cao Nguyên Lợi, Nguyễn Thanh Tòng, Trần Văn Long, Nguyễn Tuấn Kiệt và Nguyễn Minh Trí.
Bí mật sẽ không bị phát hiện nếu sáng hôm đó không có cơn mưa rào bất ngờ ập đến khi 5 sinh viên vừa bước ra khỏi cổng nhà giam. Họ được đưa đến trú mưa ở mái hiên đối diện. Một giờ trú mưa cơ hội quan sát lý tưởng, ghi nhớ toàn bộ vị trí, lối vào chuồng cọp. Dường như sơ đồ dẫn đến cánh cửa bí mật nơi "địa ngục trần gian" đã được các sinh viên này ghi nhớ và in hằn trong trí nhớ.
Tội ác được phơi bày
Về tới Sài Gòn, 5 sinh viên không về nhà mà tới ngay Hạ nghị viện của chính quyền Sài Gòn để làm tường trình tố cáo tội ác của Nhà tù Côn Đảo. Don Luce, một nhà báo Mỹ làm việc 12 năm tại Việt Nam đã đưa toàn bộ thông tin được tiết lộ về khu biệt giam bí mật này lên tạp chí Life của Mỹ, bài báo đăng đã gây sửng sốt ở Mỹ, đồng thời làm chấn động dư luận trên toàn thế giới.
Mô tả lối vào chuồng cọp, sinh viên Cao Nguyên Lợi đã nói với Tom Harkin: "Ngay khi bước qua cánh cổng thứ nhất của trại giam, ông đừng bước tiếp qua cánh cổng thứ hai, vì sau cánh cổng thứ hai chỉ là một nhà tù bình thường. Ông hãy đi theo lối rẽ và tìm bức tường bên vườn rau xanh có một cánh cổng nhỏ".
Ở Côn Đảo, đoàn nghị sĩ Mỹ yêu cầu chúa đảo Nguyễn Văn Vệ đưa đi thăm trại giam Phú Tường. Đi qua cánh cổng thứ nhất, Tom Harkin nhớ đến chi tiết vườn rau như lời mô tả của Cao Nguyên Lợi và dừng lại hỏi Nguyễn Văn Vệ: "Ở trại giam này, các ông có cho tù nhân lao động tự cải thiện đời sống không?".
Vệ nghe thấy vậy liền trả lời: "Có chứ thưa ngài, chúng tôi cho tù nhân trồng rau để cải thiện đời sống, mời các ngài đi thăm vườn rau". Tay chúa đảo đã quá yên tâm vì trước đó đã cho người che đi lối mòn dẫn vào chuồng cọp. Hắn không thể nghĩ rằng ai đó có thể tìm được con đường dẫn tới cánh cửa bí mật được giấu kín từ vườn rau này...
Khi cả đoàn bước vào vườn rau, Tom Harkin nhìn thấy một cánh cổng nhỏ ở góc tường, nhưng lại không thấy lối mòn dẫn đến cánh cổng đó. Nếu có người đi lại, chắc chắn phải có lối mòn. Điều này làm ông băn khoăn. Để kéo dài thời gian quan sát, ông hỏi Nguyễn Văn Vệ: "Giống rau này là rau gì?". Nghĩ rằng người Mỹ không hiểu biết về rau Việt Nam, Vệ trả lời qua loa: "Là rau muống thưa ngài".
Trong đoàn có Don Luce, một nhà báo sống 12 năm ở Việt Nam và cũng là chuyên gia chuyên nghiên cứu về cây trồng tại Việt Nam nên ông biết thứ rau được trồng ở đây không phải là rau muống và cúi xuống ngắt một cọng rau để chứng tỏ điều đó. Cọng rau vừa được ngắt lên, Don Luce phát hiện ra rễ rau chưa bén đất, chứng tỏ vừa mới được trồng. Lối mòn bị phát hiện, đoàn Nghị sĩ Mỹ yêu cầu được bước vào cánh cổng thì Vệ kiên quyết ngăn lại: "Đây chỉ là cửa phụ đã bị chốt trong của trại giam bên cạnh, không thể đi, các ngài phải đi lối cửa chính mới có thể vào". Vừa nói, hắn vừa đập chiếc ba toong của mình vào cánh cổng.
Không may cho Nguyễn Văn Vệ, tên gác phía trong nghe thấy giọng chúa đảo, lại thấy tiếng đập ba toong quen thuộc, nghĩ rằng chúa đảo đi tuần, liền mở cổng. Cánh cổng được mở ra, cả đoàn nghị sĩ ngay lập tức bước vào và chứng kiến tận mắt trại giam bí mật với 120 buồng giam biệt lập và 60 buồng giam được gọi là nơi "tắm nắng", được xây dựng bao quanh bởi bức tường đá xanh cao 3 m, không có mái che để đưa tù nhân ra phơi mưa, dầm nắng. Trại giam này chính là chuồng cọp.
Sau khi trở về Mỹ, Tom Harkin và đoàn Nghị sĩ Mỹ đã kịch liệt lên án sự tồn tại của chuồng cọp, đồng thời cung cấp thêm nhiều bức ảnh và tư liệu cho tạp chí Life số ra ngày 17-7-1970. Sự kiện này gây ra làn sóng phản đối rộng lớn tại Việt Nam, Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Dư luận thế giới rất bất bình về những bức ảnh và thông tin được đăng tải, gây sức ép buộc chính quyền Sài Gòn phải phá toàn bộ chuồng cọp, chuyển 5 tù nhân đang bị giam giữ ra ngoài. Một số tù nhân được đưa sang các nhà giam khác, số khác được đưa vào các bệnh viện tâm thần..Tên Nguyễn Văn Vệ sau đó đã bị cách chức vì đã để "lộ" sự tồn tại của chuồng cọp tại nhà tù ở Côn Đảo.
Hơn 40 năm trôi qua song ký ức về sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã bị kẻ địch bắt, giam cầm tại nhà cù Côn Đảo với những cực hình dã man vẫn luôn hiện về với những người cựu tù Côn Đảo như ông Oanh. Những sự hy sinh của thế hệ cha anh đi trước đó là "tài sản" không có gì có thể sánh được. Thế hệ hôm nay cần phải trân trọng, khắc nhớ và xem đây là truyền thống qúy giá của dân tộc Việt Nam cần tiếp tục được các thể hệ trẻ hôm nay giữ gìn và phát huy…
(Kiến Thức) - Hình ảnh của các tù nhân trong lồng đã khắc sâu vào tâm trí tôi, đến giờ vẫn không tẩy xóa nổi...
Trích đăng bài viết của nhà báo Don Luce - một trong những nhân chứng trong vụ phát hiện khu “Chuồng cọp” Côn Đảo làm chấn động dư luận thế giới tháng 7/1970.
Người bạn tốt nhất của tôi đã bị tra tấn đến chết vào năm 1970. Anh là Nguyễn Ngọc Phương - một người đàn ông hiền lành. Nhưng anh ghét chiến tranh và sự tàn phá của nó với đất nước mình. Sau ba ngày bị thẩm vấn và tra tấn liên tục, anh qua đời. "Anh bị các cảnh sát người Việt tra tấn, nhưng các chuyên viên người Mỹ đứng đó và chỉ đạo", một trong những bạn tù của anh cho biết như vậy.
Có lẽ đây là sự khác biệt lớn nhất giữa nhà tù ở Việt Nam và nhà tù Abu Ghraib (Iraq). Ở Việt Nam, Mỹ chủ yếu đào tạo và tài trợ cho cảnh sát và quân đội Sài Gòn để làm tay sai của họ. Ở Abu Ghraib và các nhà tù khác tại Iraq, quân đội Mỹ trực tiếp tiến hành hoạt động tra tấn.
Tuy nhiên, thực tế đã có nhiều người Việt Nam bị lính Mỹ tra tấn trước khi được chuyển cho chính quyền Sài Gòn và đưa vào tù. Việc các nông dân bị trói ngoài trời nắng nóng, và rất nhiều người bị lính Mỹ xử bắn đã được miêu tả đầy đủ trong các tài liệu của quân đội Mỹ rò rỉ ra báo giới.
Năm 1970, Tổng thống Nixon đã gửi một phái đoàn gồm 10 nghị sĩ đến Việt Nam để nắm tình hình thực tế. Một phần nhiệm vụ của họ là chuyến viếng thăm một nhà tù ở miền Nam Việt Nam để được chấp thuận thăm một nhà tù đang giam giữ lính Mỹ ở miền Bắc Việt Nam.
Ông Tom Harkin, khi đó là nhân viên, trợ lý của đoàn Quốc hội Mỹ, đã thuyết phục hai nghị sĩ trong đoàn điều tra hoạt động tra tấn trong “Chuồng cọp” tại nhà tù ngoài khơi bờ biển của Việt Nam. Các dân biểu bay 200 dặm đến Côn Đảo, nơi có nhà tù được người Pháp xây từ năm 1939 này. Tôi được tham gia chuyến đi trong tư cách một thông dịch viên và chuyên gia về các nhà tù ở Việt Nam.
Chúng tôi đã nhìn thấy những cảnh tượng rất trái ngược nhau khi đến nhà tù. Sử dụng bản đồ được một cựu tù nhân bị giam trong “Chuồng cọp” vẽ, chúng tôi chuyển hướng từ các lộ trình được lên kế hoạch từ trước và vội vã đi xuống một con hẻm giữa hai dãy nhà tù. Chúng tôi tìm thấy cánh cửa nhỏ dẫn đến các lồng sắt giữa các bức tường nhà tù. Một bảo vệ bên trong nghe thấy những tiếng động bên ngoài và mở cửa. Chúng tôi bước vào.
Hình ảnh của các tù nhân trong lồng đã khắc sâu vào tâm trí tôi, đến giờ vẫn không tẩy xóa nổi: một người đàn ông với ba ngón tay bị cắt rời; một người khác (sớm qua đời sau đó) được đưa đến từ tỉnh Quảng Trị có hộp sọ đã vỡ toác; và nhiều tu sĩ Phật giáo Huế - những người đấu tranh chống sự đàn áp các Phật tử - trong tình trạng thê lương. Tôi nhớ rõ mùi hôi thối khủng khiếp do tiêu chảy và và các vết thương lở loét ở mắt cá chân các tù nhân do xiềng xích cắt vào.
Hình ảnh khu Chuồng cọp Côn Đảo được đăng trên tạp chí Life năm 1970 đã khiến thế giới rúng động.
Các bức ảnh do ông Harkin - nay là Thượng nghị sĩ bang Iowa – chụp ở nhà tù đã được đăng trên tạp chí Life ngày 17/7/1970. Một cuộc biểu tình quốc tế nổ ra sau đó, dẫn đến việc 180 người đàn ông và 300 phụ nữ được chuyển khỏi các Chuồng cọp. Một số đã được chuyến đến các nhà tù khác. Nhiều người bị đưa đến bệnh viện tâm thần.
Grace Paley đã mô tả cuộc sống trong tù của một trong số 300 phụ nữ bị giam giữ tại Chuồng cọp trong cuốn sách xuất bản năm 1998, giống như những gì tôi hình dung:
Trong tù, Thiều Thị Tạo bị đánh vào đầu bằng dùi cui. Đầu cô bị kẹp giữa hai thanh thép. Nước được rót xuống cổ họng cô. Cô đã bị giam hãm trên nền đất. Sau đó, vào ngày 20/11/1968, cô bị chuyển đến trụ sở cảnh sát quốc gia...
...Cuối năm 1969, Tạo đã được chuyển đến Chuồng cọp của Côn Đảo. Trong vài ngày, cô đã bị treo lên một cái móc sắt. Hình thức tra tấn này khiến xương sống của cô đã bị hư hại và đến nay cô vẫn phải đeo nẹp ở cổ. Sau một năm ở Côn Đảo, cô được chuyển giao cho các nhà thương điên ở Biên Hòa.
Trước khi vào tù, Tạo là một học sinh trung học 16 tuổi. Cô đã bị tống giam vì không chào cờ. Cô đã tỏ ra bất tuân phục, giám đốc nhà tù lúc đó cho biết.
Tù nhân lâu năm nhất ở khu Chuồng cọp là bà Sáu. Bà đã bị mù do vôi ăn da đã được ném vào tù như một biện pháp kỷ luật.
Ngày nay, phía sau khi Chuồng cọp tai tiếng là nghĩa trang cho 20.000 người đã chết trong nhà tù Côn Đảo. Hầu hết các ngôi mộ không có bia. Các tù nhân tại Côn Đảo thậm chí không có số hiệu. Khi những người sống sót quay lại thăm nơi từng giam giữ mình, họ mang theo hoa, cầu khấn và khẽ hát những bài hát đã được thì thầm trong Chuồng cọp khoảng 35 năm trước đây…
Xem thêm:
http://www.historiansagainstwar.org/resources/torture/luce.html
http://www.counterpunch.org/2013/11/01/from-tiger-cages-to-control-units/
https://books.google.com.vn/books?id=jVUEAAAAMBAJ&pg=RA1-PA26&lpg=RA1-PA26&dq=Members+of+a+congressional+committee+visit+a+South+Vietnamese+island+for+political+prisoners.&source=bl&ots=nFR5sHrD0H&sig=-P_w96Y2ppwTMo_zrOGvt_vG5CI&hl=vi&sa=X&ei=oB-MVL6ID4Lz8gWxgoLIBQ&ved=0CB0Q6AEwAA#v=onepage&q&f=true
Xây dựng bí mật từ năm 1940, chuồng cọp được thực dân Pháp ngụy trang kín đáo sâu trong Trại giam Phú Tường với hai lối ra vào. Giữa chuồng cọp và một nhà giam chỉ ngăn cách bằng cánh cửa nhỏ bị khóa và ngụy trang như cánh cửa đã không dùng lâu ngày. Ngoài những tên cai ngục, không ai được biết về bí mật của nơi biệt giam này. Tù nhân chính trị đưa vào đây khi bị tra tấn đến ngất sẽ được đưa ra bằng cửa khác để đánh lạc hướng, khiến những người bị giam giữ không phân biệt phương hướng. Những tù nhân bị giam tại chuồng cọp đều không xác định được vị trí trại giam, vì vậy khả năng trốn thoát là không thể.
Don Luce, một trong ba người sưu tập, chuyển ngữ, giới thiệu tuyển tập thơ WE PROMISE ONE ANOTHER (tạm dịch: Đợi ngày chiến thắng) in mimeopraphed năm 1971 tại Washington D.C, người phát hiện đầu tiên chuồng cọp ở Côn Đảo
Năm 1958, Don Luce đến Saigon, tham gia Đoàn chí nguyện quốc tế ( IVS), và giảng dạy ở Đại học Nông Lâm Súc cho tới 1967.
Năm 1969, Don Luce và John Summer cho ra mắt sách Vietnam - The Unheard voices, Đại học Cornell / USA xuất bản.
Năm 1971 Don Luce, John Schafer & Jacquelyn Chagnon, lại cho ra mắt tập tuyển thơ We promise one another, tự bỏ tiền xuất bản, sách khổ 15 x 19 , dày 120 trang , in rô-nê-ô - offset gọi là mimeographed book do The Indochina Mobile Education Project xuất bản, Washington , D.C. 1971 .
Don Luce có 1 bài báo ngắn ký Đoàn Lân đăng trên tạp chí Trình bầy do Thế Nguyên chủ nhiệm.
Trích bài phỏng vấn Don Luce qua email của web thegioivemaybay.com.vn và một số bài trên báo in.
" ... Tất nhiên là tôi tự hào đã phát hiện ra chuồng cọp. Nhưng điều quan trọng hơn cả là điểm đó khởi đầu cho việc trả tự do cho các tù nhân, buộc chính quyền Saigon đóng cửa chuồng cọp và giúp chấm dứt chiến tranh bằng cách cho thấy chính quyền Thiệu tàn bạo đến mức nào?"
" .. Tôi sẽ không bao giờ quên thời khắc mình đi dọc những dẫy Chuồng Cọp ở Côn Sơn. Bốc lên 1 thứ mùi thật kinh khủng, có lẽ là từ các vết thương vỡ. Đầu 1 người đàn ông bị cắt sọ [được] mở ra. Tôi không hiểu sao ông ấy vẫn còn sống? Một người khác bị cắt mất 3 ngón tay (....) Biết [đã] nhiều năm [được] nghe Chuồng Cọp, nhưng điều đó không giúp tôi chuẩn bị đối diện với nó. 480 người chen chúc trong những cái lồng nhỏ. Họ bị tê liệt vì bị cùm quá lâu. Họ bị [bỏ] đói đến chết. (...) Có 180 người đàn ông (3 người 1 lồng) và 300 phụ nữ (5 người 1 lồng) ... " .
" ... khi chính phủ Mỹ là 1 phần trong việc đối xử vô nhân đạo cả ở Côn Sơn và Abu Ghraib. Tôi luôn nghĩ rằng, trong những cuộc cách mạng hoặc căng thẳng chính trị, nếu bạn muốn biết ai là lãnh tụ của tương lai thì hãy thăm các nhà tù (...) Một trong những bài học Việtnam là, một cường quốc ngoại bang không thể đè bẹp chủ nghĩa dân tộc. Cho dù kéo dài bao nhiêu lâu, thì phong trào dân tộc vẫn có chiến thắng. Dù là mất hằng thập kỷ ... ".
"... Khi sắp kết thúc chiến tranh, trong cuộc điều trần ở Quốc hội [Mỹ] năm 1975, đại sứ Mỹ tại Việtnam, Graham Martin cáo buộc tôi và 1 người khác là đã [làm] Mỹ thua cuộc chiến [tại Việtnam]."
"... Tôi cảm thấy mình may mắn, vì vẫn làm việc ở tuổi 76 . Những thời điểm có ý nghĩa nhất trong đới tôi là khi có thể giúp đỡ được ai đó. Dù là giúp một sinh viên ở Việt Nam thoát khỏi nhà tù từ thời chiến tranh, hay giúp 1 người vô gia cư ở thác Niagara thì đều quan trọng [đối] với tôi ..."
Don Luce có tới thăm miền Bắc 3 lần (từ 1972-75), đúng dịp Hà Nội bị B52 giội bom, ông không quên:
"... Tôi đến Hà nội đúng đợt ném bom phá hoại, phải nói là 2 tôi rất sợ [hãi]. Tôi nhẩy xuống 1 cái hầm, chắc bạn vẫn nhớ đó là những cái ống bê-tông hình ròn. Cái ông rất nhỏ và tôi bị kẹt. May mắn là 2 phụ nữ, mỗi người kéo 1 chân tôi xuống hầm... "
Don Luce có trở lại Rp. HCM đôi ba lần, năm 2004, Don Luce và Mark Bonacci được trao Huy hiệu Tp. HCM:
- Ngày 2/1/2004, tại trụ sở Hội Liên Hiệp Phụ nữ Tp. HCM đã trao HUY HIỆU Tp. HCM của UBND Tp. HCM, cho 2 công dân Hoa Kỳ: Don Luce (giám đốc Tổ chức Tình nguyện quốc tế / IVS) và tiến sĩ Mark Bonacci (phó giám đốc IVS) về sự hỗ trợ: "... chống AIDS tại Việtnam, chăm sóc sức khỏe phụ nữ tại thành phố, cũng như góp phần tăng cường hữu nghị giữa nhân dân Pp. HCM và nhân dân Hoa Kỳ..."
Năm 2008, Don Luce lại trở lại Việtnam, tới thăm người bạn cũ - ông Tư Chu và lần này, 1 nhà báo của báo PHÁP LUẬT Pp. HCM theo chân Don Luce để quay phim cuộc gặp gỡ.
Don Luce đã gặp lại ' 2 con tin chiến tranh' (2 con của ông Tư Chu chỉ mới 5, 7 tuổi ở thời điểm Mậu thân, 1968) rơi vào tay chính quyền Saigon, Don Luce đã ra tay can thiệp , giải cứu 2 trẻ nhỏ được trở về cùng gia đình vào năm 1968, tết Mậu thân - nay, Don Luce tỏ vẻ thật vui mừng được gặp lại 2 cậu bé xưa kia, bây giờ họ đã ở tuổi gần 50 .
Bà Đoàn Thị Nhỏ (mẹ 2 trẻ nhỏ, vợ ông Tư Chu) chia sẻ: "... tôi nghĩ dân tộc nào cũng có người tốt, xấu. Tôi nghĩ ông Mỹ này [Don Luce] cũng vậy thôi. Ông là người tốt. Tôi cảm ơn lòng tốt của ông đã giúp đỡ gia đình tôi". (nguyệt san PHÁP LUẬT tp. HCM ngày 25/3/2012)
Hiện tại, Don Luce là một bác sĩ tâm thần, sau khi ở Việtnam trở về Mỹ, ông tâm sự: ' ... Về Mỹ, tôi trở lại công việc tẻ nhạt của mình: bác sĩ tâm thần nội trú ở Mendocino State Hospital - 1 bệnh viện đang chuẩn bị đóng cửa [nay mai]...' (web vietbao.vn)
Members of a congressional commitee visit a South Vietnamese island for political prisonners.
Các thành viên một ủy ban Quốc hội Mỹ viếng thăm một hòn đảo của Nam VN nơi giam giữ những tù nhân chính trị.
"Bên dưới những song sắt là các tù nhân ngồi cúi gập người lại. Hơn phân nửa trong số họ là phụ nữ, và một cô gái chỉ mới 15 tuổi. Không khí thì hôi hám và cái nóng khiến người ta đờ đẫn. Các song sắt bị hoen gỉ vì vôi, mà các tù nhân nói những người canh tù rải xuống họ để trừng phạt, làm bỏng mắt họ và nghẹt phổi họ. Tất cả tù nhân đều đau yếu: với bệnh lao, những vết lở loét, đau mắt và thiếu dinh dưỡng. Những người đau yếu nhất, ông Luce nói, nằm trên nền nhà trong khi những người khác quạt cho họ bằng những mảnh vải vụn. Ít người có thể đứng được—những tù nhân cho rằng đó là hậu quả của việc thường xuyên bị cùm chân. Một tù nhân nói họ đã lén vặt những nắm cỏ để ăn trên đường trở về từ nơi bị đánh đập, và “bắt thằn lằn, các con bọ cánh cứng và những côn trùng khác và ăn sống chúng, cắn ra và chia các mảnh cho nhau.
Hình ảnh của các tù nhân trong lồng đã khắc sâu vào tâm trí tôi, đến giờ vẫn không tẩy xóa nổi...”
Nhà báo Don Luce
người đầu tiên phát hiện Chuồng Cọp ở Côn Đảo
Bài phỏng vấn qua email của web thegioivemaybay.com.vn
“Tôi không bao giờ quên thời khắc nhìn thấy chuồng cọp”
40 năm trước, sự thật ghê rợn về nhà tù chuồng cọp của Mỹ ở Côn Đảo đã gây chấn động báo chí quốc tế. Người đầu tiên lên tiếng về sự thật đó trước công chúng Mỹ là Don Luce, nhà báo Mỹ, ông giờ đã 76 tuổi và vẫn làm việc cho một trung tâm giúp đỡ người bất hạnh ở Thác Niagara, bang New York, Mỹ.
Tôi thực hiện cuộc trò chuyện này với Don Luce qua email, ông đáp: “Cuộc trò chuyện này làm tôi nhớ lại quá nhiều kỷ niệm”.
Thưa ông, cái tên Don Luce gắn liền với việc phát hiện ra chuồng cọp ở Côn Đảo. Tìm ra những sự thật ở tầm như vậy, dù là sự thật tồi tệ, vẫn là điều có ý nghĩa rất lớn. Ông có tự hào không?
- Tất nhiên là tôi tự hào về việc đã phát hiện ra chuồng cọp. Nhưng điều quan trọng hơn cả là điều đó khởi đầu cho việc trả tự do cho các tù nhân, buộc chính quyền Sài Gòn đóng cửa chuồng cọp và giúp chấm dứt chiến tranh bằng cách cho thấy chính quyền Thiệu tàn bạo đến mức nào.
Vậy đầu tiên ông có được thông tin về chuồng cọp như thế nào?
- Năm 1970, tôi dạy Trường đại học Nông nghiệp Sài Gòn. Một số sinh viên của tôi bị bắt giữ và bỏ tù vì biểu tình chống Thiệu. Tôi làm việc rất nỗ lực để đòi trả tự do cho họ. Khi được thả, họ có nhiều vết đánh đập trên người. Tôi càng ngày càng thấy mình đối lập với việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam, tôi tham gia phong trào Phật tử và các nhóm khác để phản chiến.
Khi anh sinh viên Cao Nguyên Lợi và một số người khác được thả ra khỏi chuồng cọp, họ đề nghị tôi cho sử dụng một phòng ở trường Canh nông để “triển lãm” chính họ, cho mọi người thấy chuồng cọp là thế nào. Rồi một số người trốn trong căn hộ của tôi ở đường Pasteur.
Cuối tháng 5.1970, đoàn đại biểu Quốc hội Mỹ sang Việt Nam điều tra về cuộc chiến. Trợ lý của họ là một sinh viên luật còn trẻ tên là Tom Harkin. Tom muốn gặp các lãnh đạo sinh viên và tôi giới thiệu anh ấy với Lợi. Lợi bảo, nếu ông muốn gặp các lãnh tụ thực sự ở Việt Nam, ông nên ra chuồng cọp ở đảo Côn Sơn (tên cũ của Côn Đảo). Rồi Lợi vẽ đường làm sao để vào giữa các bức tường chuồng cọp.
Cuộc triển lãm ở trường Canh nông có tổ chức được không, thưa ông, và công chúng nhìn nhận thế nào?
- Có chứ, trường Canh nông cho chúng tôi mượn phòng giải phẫu và các sinh viên tự triển lãm mình trên những giá thí nghiệm để mọi người đến trò chuyện với họ. Họ bảo tôi là có khoảng 20 người sẽ đến gặp. Nhưng thực tế là khoảng 20 nghìn người đã đến xem kể cả cảnh sát. Cảnh sát phun hơi cay vào chúng tôi.
Đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là hơi cay. Tôi còn nhớ một sinh viên trẻ mặc áo dài trắng đã đưa tôi một cái khăn có chanh. Vậy là tôi biết cách phải làm gì khi cảnh sát phun hơi cay vào mình. Hóa ra cuộc triển lãm đó là cách rất tốt để mọi người biết đến sự tồn tại của chuồng cọp.
Ông có khó khăn khi thuyết phục đoàn nghị sĩ thăm Côn Đảo không?
- Rất khó. Các cố vấn nhà tù của Mỹ nói rằng không có cái gọi là chuồng cọp. Đó là cái có từ thời Pháp. Cuối cùng, Tom Harkin thuyết phục được Nghị sĩ Gus Hawkins đi. Hawkins là người Mỹ gốc Phi đến từ Los Angeles. Ông ấy nói: “Nhìn này, tôi là người da đen và sẽ không ai tin tôi đâu. Mọi người biết là tôi phản chiến. Chúng ta phải tìm thêm người khác.”
Cuối cùng, Nghị sĩ Bill Anderson đồng ý đi. Nghị sĩ Anderson là anh hùng quân đội Mỹ. Ông ấy đã lái tàu ngầm Nautilus đến Cực Bắc. Ông ấy tin tưởng mạnh mẽ vào nhân quyền và đồng ý ra Côn Sơn. Các nghị sĩ thuê một chiếc máy bay và tôi được mời đi cùng làm phiên dịch.
Trong một bài viết của mình, Don Luce kể lại, trên đường bay ra Côn Đảo, một cố vấn nhà tù Mỹ khoác lác rằng Côn Đảo là “trại giải trí của hướng đạo sinh”, là "nhà tù lớn nhất của thế giới tự do”.
Nhưng những gì Luce nhìn thấy khác hẳn. Luce và các nghị sĩ không theo lịch trình mà các phụ trách nhà tù vạch ra, họ sử dụng tấm bản đồ do Cao Nguyên Lợi vẽ để tự thám hiểm, và tìm thấy cánh cửa nhỏ dẫn đến chuồng cọp. Phụ trách nhà tù đã muốn giấu giếm, song không may, người cai ngục bên trong nghe thấy tiếng sếp của họ và mở cửa.
Điều gì làm ông ấn tượng nhất khi mới nhìn thấy chuồng cọp và các tù nhân ở đó, thưa ông?
- Tôi sẽ không bao giờ quên thời khắc mình đi dọc những dãy chuồng cọp ở Côn Sơn. Bốc lên một thứ mùi thật kinh khủng, có lẽ là từ các vềt thương vỡ. Đầu một người đàn ông bị cắt và sọ mở ra. Tôi không hiểu sao ông ấy vẫn còn sống. Một người khác bị cắt mất ba ngón tay.
Bà Sáu bị mù vì vôi sống – người ta đã ném vôi vào người bà ấy trong những phiên tra tấn. Những giỏ vôi xếp trên chuồng cọp, một cách nhắc nhở ghê sợ với những người hỏi xin ăn. Tôi có một thanh chocolate trong túi và tôi muốn tung xuống cho các tù nhân, nhưng tôi biết họ quá tự trọng.
Suốt nhiều năm tôi đã nghe nói về chuồng cọp, nhưng điều đó không giúp tôi chuẩn bị đối diện với nó. 480 con người chen chúc trong những cái lồng nhỏ. Họ bị tê liệt vì bị cùm quá lâu. Họ bị đói đến chết. Nhưng họ vẫn kiên cường đòi công lý. Có 180 người đàn ông (3 người một lồng) và 300 phụ nữ (5 người một lồng). Họ đều lo lắng cho một người nào khác: “Làm ơn sang lồng số... xem bà Sáu thế nào... Làm ơn sang lồng số… xem Thieu Thi Tao và Thieu Thi Tan thế nào”.
Những bức ảnh Tom Harkins (giờ là Thượng nghị sĩ bang Iowa) chụp tại nhà tù Côn Sơn đã được đăng trên tạp chí Liíe ngày 17/7/1970. Dư luận quốc tế bừng bừng phẫn nộ. Nghị sĩ Anderson lúc đó đóng vai trò đáng kể trong việc thông tin về chuồng cọp cho báo chí Mỹ. Vì ông đã có nền tảng quân sự nên người ta coi ông là người bảo thủ và không ai nghĩ ông sẽ phản chiến.
Việc gặp những người ở chuồng cọp đã có tác động lớn với Anderson và ông trở thành nhân vật quan trọng trong phong trào phản chiến. Vậy là, Luce nói, ông đã tham gia cùng hàng nghìn, hàng triệu người khác chấm dứt sự tham gia của Chính phủ Mỹ trong cuộc chiến kinh hoàng ở Việt Nam.
Lúc đó ông làm việc cho Chính phủ Mỹ, vậy ông có gặp khó khăn gì vì đã giúp phát giác chuồng cọp?
- Không, tôi chưa bao giờ làm việc cho Chính phủ Mỹ. Lúc đó tôi làm việc cho Hội đồng Nhà thờ Thế giới (World Council of Churches), một tổ chức có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ. Hội đồng Nhà thờ Thế giới rất ủng hộ việc tôi tham gia phát giác chuồng cọp và giúp tôi đi khắp nơi ở Mỹ và Châu Âu để nói về sự vô nhân đạo đó. Ủy ban Đối ngoại Thượng viện đã đề nghị tôi điều trần trước Ủy ban và cũng ủng hộ tôi. Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn rất tức giận và cùng với Chính quyền Thiệu “đá” tôi khỏi Việt Nam.
Có lần ông đã so sánh chuồng cọp ở Việt Nam và nhà tù Abu Ghraib ở Iraq. Phải chăng đó là một bài học Việt Nam - như người ta thường nói - mà Mỹ chưa thuộc?
- Quả thật là vụ chuồng cọp đã không ngăn chặn được nhà tù Abu Ghraib. Với tôi, thật đáng buồn khi Chính phủ Mỹ là một phần trong việc đối xử vô nhân đạo cả ở Côn Sơn và Abu Ghraib. Tôi luôn nghĩ rằng, trong những cuộc cách mạng hoặc căng thẳng chính trị, nếu bạn muốn biết ai là lãnh tụ của tương lai thì hãy thăm các nhà tù.
Luôn có những người dũng cảm, những người bị tuyên án nặng và sẵn sàng hy sinh cho đất nước. Một trong những bài học Việt Nam là, một cường quốc ngoại bang không thể đè bẹp chủ nghĩa dân tộc. Cho dù kéo dài bao lâu thì phong trào dân tộc vẫn cứ chiến thắng. Dù là mất hàng thập kỷ.
Ông vẫn giữ liên lạc với các cựu tù Côn Đảo. Điều gì làm mối quan hệ đó kéo dài đến vậy?
- Những người đã ở chuồng cọp và trong các nhà tù khác là những người bạn thân nhất của tôi và giờ cũng vậy. Bạn bè thật quý giá và không thể để mất bạn cho dù ta sống cách đó nửa vòng trái đất. Một vài người đã mất. Nhưng tôi luôn sắp xếp đến thăm họ mỗi lần tôi trở lại Việt Nam.
Hà Nội đã mời ông thăm miền Bắc. Vậy ở Mỹ lúc đó có ai đó coi ông đã phản bội nước Mỹ và các cựu chiến binh Mỹ không?
- Hà Nội mời tôi thăm miền Bắc 3 lần trong thời kỳ 1972-1975. Tôi đến Hà Nội đúng một đợt ném bom phá hoại, phải nói là tôi rất sợ. Tôi nhảy xuống một cái hầm, chắc bạn vẫn nhớ đó là những cái ống bêtông hình tròn. Cái ống rất nhỏ và tôi bị kẹt. May mắn là hai phụ nữ, mỗi người một chân kéo tôi xuống hầm. Thế là suốt trận bom, tôi cứ nghĩ làm sao mà chui ra được.
Tôi cũng đã đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh và gặp bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam) ở vùng giải phóng Quảng Trị năm 1974. Khi sắp kết thúc chiến tranh, trong cuộc điều trần ở Quốc hội năm 1975, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Graham Martin cáo buộc tôi và một người khác là đã “thua cuộc trong trận chiến vì nước Mỹ”. Sau chiến tranh tôi đã đưa nhiều đoàn sang thăm Việt Nam, kể cả các cựu chiến binh. Và như bạn thấy, quá nhiều cựu chiến binh giờ ủng hộ Việt Nam và tới Việt Nam chung tay tái thiết.
Ở tuổi ngoài 70 ông vẫn làm việc. Công việc giờ đây có quá sức với ông không?
- Tôi cảm thấy mình may mắn vì vẫn làm việc được ở tuổi 76. Những thời điểm ý nghĩa nhất trong đời tôi là khi tôi có thể giúp đỡ ai đó. Dù là giúp một sinh viên ở Việt Nam thoát khỏi nhà tù từ thời chiến tranh, hay giúp một người vô gia cư bây giờ ở Thác Niagara, thì đều quan trọng với tôi. Trong những năm qua, quá nhiều người đã giúp tôi ít nhiều theo cách này hay cách khác, và tôi muốn đền đáp sự tử tế mà tôi đã nhận được.
Xin cảm ơn ông!
thegioivemaybay.com.vn
Chuồng cọp Nhà tù Côn Đảo, nơi tội ác được phơi bày
5 sinh viên tù nhân Côn Đảo đã vẽ nên sơ đồ "chuồng cọp" bí mật của quân đội Mỹ với các đòn tra tấn thời trung cổ. Từ sơ đồ này, nhà tù Côn Đảo trở thành "địa ngục trần gian" bí mật một thời này ra ánh sáng, khiến cả thế giới sửng sốt trước cách giam giữ tại hệ thống nhà tù ở Côn Đảo.
Chuồng cọp, một "địa ngục trần gian"!
Tại Côn Đảo, nhóm phóng viên chúng tôi đã gặp ông Phan Hoàng Oanh, năm nay 69 tuổi, cựu tù chính trị tại Côn Đảo. Theo lời kể của ông Oanh, những tù nhân như ông đã nếm trải không biết bao nhiêu những nỗi đau, cực hình của bọn cai ngục. Để dập tắt phong trào cách mạng, phong trào đấu tranh của các tù nhân bị giam giữ tại hệ thống nhà tù Côn Đảo, kẻ địch đã dùng nhiều thủ đoạn, từ dụ dỗ đến dùng cực hình nhằm cho lực lượng theo cách mạng nhụt chí từ bỏ sự nghiệp đấu tranh vì lý tưởng cách mạng, thống nhất đất nước.
Trước sự kiện này, Tom Harkin, nhân viên Quốc hội Mỹ cùng đoàn 10 nghị sĩ Mỹ lập tức đến Việt Nam để điều tra sự việc. Trước đó, đoàn nghị sĩ Mỹ đã nghe lời đồn về chuồng cọp và đến Côn Đảo, nhưng không tìm thấy manh mối nên việc điều tra bị dừng lại.
Ngay sau khi gặp Cao Nguyên Lợi, nghe tường trình và có trong tay sơ đồ chuồng cọp do người sinh viên này vẽ lại bằng trí nhớ, Tom Harkin cùng đoàn nghị sĩ Mỹ và Don Luce đến Côn Đảo để truy tìm bí mật chuồng cọp. Họ muốn điều tra ra nhà tù với những hình thức tra tấn kiểu trung cổ vẫn còn tồn tại và được giấu kín.
Ông Oanh nhớ lại: "Vào năm 1968, chúng đưa ra nhiều chiêu bài để chiêu hồi các chiến sĩ cách mạng, nhất là những chiến sĩ đang bị bắt giam tại nhà tù Côn Đảo. Chúng đưa ra kết xin ly khai, từ bỏ đấu tranh cách mạng để hưởng được những "chính sách" đãi ngộ do chúng đưa ra, đồng thời có thể sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình. Biết được y đồ thâm độc của chế độ ngụy quyền nên ông đã phát động phong trào chống ly khai ngay tại nhà tù. Khi biết ông là người khởi xướng phong trào này, kẻ địch đã gặp ông để thuyết phục ông quy phục hòng có thể làm lung lay ý chí đấu tranh của các tù nhân bị giam giữ. Khi không thuyết phục được ông, chúng chuyển sang những đòn tra tấn dã man chỉ có trong thời trung cổ. "Chúng đánh đập, nhốt vào chuồng cọp, rải vôi sống, cho phơi nắng sương nhiều tuần liền nhằm mục đích bắt những người tham gia cách mạng ký đơn xin tự ly khai", ông Oanh nhớ lại những năm tháng sống trong địa ngục tại nhà tù Côn Đảo".
Trong thời gian chúng tôi bị giam giữ tại Trung tâm cải chính - trại Phú Hải, kẻ thù dùng muôn vàn thủ đoạn để làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ. Tuy vậy, những người tù chính trị tại Côn Đảo đã luôn kiên trung, một lòng sắc son với cách mạng", ông Oanh xúc động cho biết.
Vào đầu năm 1970, tại Sài Gòn liên tiếp diễn ra các cuộc biểu tình của Hội sinh viên yêu cầu chính quyền trả tự do cho những học sinh, sinh viên đang bị giam ở Côn Đảo. Trước áp lực này, sáng 25-5-1970, nhà cầm quyền buộc phải thả 5 học sinh, sinh viên đang bị giam tại chuồng cọp gồm có: Cao Nguyên Lợi, Nguyễn Thanh Tòng, Trần Văn Long, Nguyễn Tuấn Kiệt và Nguyễn Minh Trí.
Bí mật sẽ không bị phát hiện nếu sáng hôm đó không có cơn mưa rào bất ngờ ập đến khi 5 sinh viên vừa bước ra khỏi cổng nhà giam. Họ được đưa đến trú mưa ở mái hiên đối diện. Một giờ trú mưa cơ hội quan sát lý tưởng, ghi nhớ toàn bộ vị trí, lối vào chuồng cọp. Dường như sơ đồ dẫn đến cánh cửa bí mật nơi "địa ngục trần gian" đã được các sinh viên này ghi nhớ và in hằn trong trí nhớ.
Tội ác được phơi bày
Về tới Sài Gòn, 5 sinh viên không về nhà mà tới ngay Hạ nghị viện của chính quyền Sài Gòn để làm tường trình tố cáo tội ác của Nhà tù Côn Đảo. Don Luce, một nhà báo Mỹ làm việc 12 năm tại Việt Nam đã đưa toàn bộ thông tin được tiết lộ về khu biệt giam bí mật này lên tạp chí Life của Mỹ, bài báo đăng đã gây sửng sốt ở Mỹ, đồng thời làm chấn động dư luận trên toàn thế giới.
Mô tả lối vào chuồng cọp, sinh viên Cao Nguyên Lợi đã nói với Tom Harkin: "Ngay khi bước qua cánh cổng thứ nhất của trại giam, ông đừng bước tiếp qua cánh cổng thứ hai, vì sau cánh cổng thứ hai chỉ là một nhà tù bình thường. Ông hãy đi theo lối rẽ và tìm bức tường bên vườn rau xanh có một cánh cổng nhỏ".
Ở Côn Đảo, đoàn nghị sĩ Mỹ yêu cầu chúa đảo Nguyễn Văn Vệ đưa đi thăm trại giam Phú Tường. Đi qua cánh cổng thứ nhất, Tom Harkin nhớ đến chi tiết vườn rau như lời mô tả của Cao Nguyên Lợi và dừng lại hỏi Nguyễn Văn Vệ: "Ở trại giam này, các ông có cho tù nhân lao động tự cải thiện đời sống không?".
Vệ nghe thấy vậy liền trả lời: "Có chứ thưa ngài, chúng tôi cho tù nhân trồng rau để cải thiện đời sống, mời các ngài đi thăm vườn rau". Tay chúa đảo đã quá yên tâm vì trước đó đã cho người che đi lối mòn dẫn vào chuồng cọp. Hắn không thể nghĩ rằng ai đó có thể tìm được con đường dẫn tới cánh cửa bí mật được giấu kín từ vườn rau này...
Khi cả đoàn bước vào vườn rau, Tom Harkin nhìn thấy một cánh cổng nhỏ ở góc tường, nhưng lại không thấy lối mòn dẫn đến cánh cổng đó. Nếu có người đi lại, chắc chắn phải có lối mòn. Điều này làm ông băn khoăn. Để kéo dài thời gian quan sát, ông hỏi Nguyễn Văn Vệ: "Giống rau này là rau gì?". Nghĩ rằng người Mỹ không hiểu biết về rau Việt Nam, Vệ trả lời qua loa: "Là rau muống thưa ngài".
Trong đoàn có Don Luce, một nhà báo sống 12 năm ở Việt Nam và cũng là chuyên gia chuyên nghiên cứu về cây trồng tại Việt Nam nên ông biết thứ rau được trồng ở đây không phải là rau muống và cúi xuống ngắt một cọng rau để chứng tỏ điều đó. Cọng rau vừa được ngắt lên, Don Luce phát hiện ra rễ rau chưa bén đất, chứng tỏ vừa mới được trồng. Lối mòn bị phát hiện, đoàn Nghị sĩ Mỹ yêu cầu được bước vào cánh cổng thì Vệ kiên quyết ngăn lại: "Đây chỉ là cửa phụ đã bị chốt trong của trại giam bên cạnh, không thể đi, các ngài phải đi lối cửa chính mới có thể vào". Vừa nói, hắn vừa đập chiếc ba toong của mình vào cánh cổng.
Không may cho Nguyễn Văn Vệ, tên gác phía trong nghe thấy giọng chúa đảo, lại thấy tiếng đập ba toong quen thuộc, nghĩ rằng chúa đảo đi tuần, liền mở cổng. Cánh cổng được mở ra, cả đoàn nghị sĩ ngay lập tức bước vào và chứng kiến tận mắt trại giam bí mật với 120 buồng giam biệt lập và 60 buồng giam được gọi là nơi "tắm nắng", được xây dựng bao quanh bởi bức tường đá xanh cao 3 m, không có mái che để đưa tù nhân ra phơi mưa, dầm nắng. Trại giam này chính là chuồng cọp.
Sau khi trở về Mỹ, Tom Harkin và đoàn Nghị sĩ Mỹ đã kịch liệt lên án sự tồn tại của chuồng cọp, đồng thời cung cấp thêm nhiều bức ảnh và tư liệu cho tạp chí Life số ra ngày 17-7-1970. Sự kiện này gây ra làn sóng phản đối rộng lớn tại Việt Nam, Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Dư luận thế giới rất bất bình về những bức ảnh và thông tin được đăng tải, gây sức ép buộc chính quyền Sài Gòn phải phá toàn bộ chuồng cọp, chuyển 5 tù nhân đang bị giam giữ ra ngoài. Một số tù nhân được đưa sang các nhà giam khác, số khác được đưa vào các bệnh viện tâm thần..Tên Nguyễn Văn Vệ sau đó đã bị cách chức vì đã để "lộ" sự tồn tại của chuồng cọp tại nhà tù ở Côn Đảo.
Hơn 40 năm trôi qua song ký ức về sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã bị kẻ địch bắt, giam cầm tại nhà cù Côn Đảo với những cực hình dã man vẫn luôn hiện về với những người cựu tù Côn Đảo như ông Oanh. Những sự hy sinh của thế hệ cha anh đi trước đó là "tài sản" không có gì có thể sánh được. Thế hệ hôm nay cần phải trân trọng, khắc nhớ và xem đây là truyền thống qúy giá của dân tộc Việt Nam cần tiếp tục được các thể hệ trẻ hôm nay giữ gìn và phát huy…
Minh Duy - Kiến Giang
baobinhduong.org.vn
baobinhduong.org.vn
Lời kể kinh hoàng của người Mỹ về “chuồng cọp” Côn Đảo
(Kiến Thức) - Hình ảnh của các tù nhân trong lồng đã khắc sâu vào tâm trí tôi, đến giờ vẫn không tẩy xóa nổi...
Trích đăng bài viết của nhà báo Don Luce - một trong những nhân chứng trong vụ phát hiện khu “Chuồng cọp” Côn Đảo làm chấn động dư luận thế giới tháng 7/1970.
Người bạn tốt nhất của tôi đã bị tra tấn đến chết vào năm 1970. Anh là Nguyễn Ngọc Phương - một người đàn ông hiền lành. Nhưng anh ghét chiến tranh và sự tàn phá của nó với đất nước mình. Sau ba ngày bị thẩm vấn và tra tấn liên tục, anh qua đời. "Anh bị các cảnh sát người Việt tra tấn, nhưng các chuyên viên người Mỹ đứng đó và chỉ đạo", một trong những bạn tù của anh cho biết như vậy.
Có lẽ đây là sự khác biệt lớn nhất giữa nhà tù ở Việt Nam và nhà tù Abu Ghraib (Iraq). Ở Việt Nam, Mỹ chủ yếu đào tạo và tài trợ cho cảnh sát và quân đội Sài Gòn để làm tay sai của họ. Ở Abu Ghraib và các nhà tù khác tại Iraq, quân đội Mỹ trực tiếp tiến hành hoạt động tra tấn.
Tuy nhiên, thực tế đã có nhiều người Việt Nam bị lính Mỹ tra tấn trước khi được chuyển cho chính quyền Sài Gòn và đưa vào tù. Việc các nông dân bị trói ngoài trời nắng nóng, và rất nhiều người bị lính Mỹ xử bắn đã được miêu tả đầy đủ trong các tài liệu của quân đội Mỹ rò rỉ ra báo giới.
Năm 1970, Tổng thống Nixon đã gửi một phái đoàn gồm 10 nghị sĩ đến Việt Nam để nắm tình hình thực tế. Một phần nhiệm vụ của họ là chuyến viếng thăm một nhà tù ở miền Nam Việt Nam để được chấp thuận thăm một nhà tù đang giam giữ lính Mỹ ở miền Bắc Việt Nam.
Ông Tom Harkin, khi đó là nhân viên, trợ lý của đoàn Quốc hội Mỹ, đã thuyết phục hai nghị sĩ trong đoàn điều tra hoạt động tra tấn trong “Chuồng cọp” tại nhà tù ngoài khơi bờ biển của Việt Nam. Các dân biểu bay 200 dặm đến Côn Đảo, nơi có nhà tù được người Pháp xây từ năm 1939 này. Tôi được tham gia chuyến đi trong tư cách một thông dịch viên và chuyên gia về các nhà tù ở Việt Nam.
Chúng tôi đã nhìn thấy những cảnh tượng rất trái ngược nhau khi đến nhà tù. Sử dụng bản đồ được một cựu tù nhân bị giam trong “Chuồng cọp” vẽ, chúng tôi chuyển hướng từ các lộ trình được lên kế hoạch từ trước và vội vã đi xuống một con hẻm giữa hai dãy nhà tù. Chúng tôi tìm thấy cánh cửa nhỏ dẫn đến các lồng sắt giữa các bức tường nhà tù. Một bảo vệ bên trong nghe thấy những tiếng động bên ngoài và mở cửa. Chúng tôi bước vào.
Hình ảnh của các tù nhân trong lồng đã khắc sâu vào tâm trí tôi, đến giờ vẫn không tẩy xóa nổi: một người đàn ông với ba ngón tay bị cắt rời; một người khác (sớm qua đời sau đó) được đưa đến từ tỉnh Quảng Trị có hộp sọ đã vỡ toác; và nhiều tu sĩ Phật giáo Huế - những người đấu tranh chống sự đàn áp các Phật tử - trong tình trạng thê lương. Tôi nhớ rõ mùi hôi thối khủng khiếp do tiêu chảy và và các vết thương lở loét ở mắt cá chân các tù nhân do xiềng xích cắt vào.
Hình ảnh khu Chuồng cọp Côn Đảo được đăng trên tạp chí Life năm 1970 đã khiến thế giới rúng động.
Các bức ảnh do ông Harkin - nay là Thượng nghị sĩ bang Iowa – chụp ở nhà tù đã được đăng trên tạp chí Life ngày 17/7/1970. Một cuộc biểu tình quốc tế nổ ra sau đó, dẫn đến việc 180 người đàn ông và 300 phụ nữ được chuyển khỏi các Chuồng cọp. Một số đã được chuyến đến các nhà tù khác. Nhiều người bị đưa đến bệnh viện tâm thần.
Grace Paley đã mô tả cuộc sống trong tù của một trong số 300 phụ nữ bị giam giữ tại Chuồng cọp trong cuốn sách xuất bản năm 1998, giống như những gì tôi hình dung:
Trong tù, Thiều Thị Tạo bị đánh vào đầu bằng dùi cui. Đầu cô bị kẹp giữa hai thanh thép. Nước được rót xuống cổ họng cô. Cô đã bị giam hãm trên nền đất. Sau đó, vào ngày 20/11/1968, cô bị chuyển đến trụ sở cảnh sát quốc gia...
...Cuối năm 1969, Tạo đã được chuyển đến Chuồng cọp của Côn Đảo. Trong vài ngày, cô đã bị treo lên một cái móc sắt. Hình thức tra tấn này khiến xương sống của cô đã bị hư hại và đến nay cô vẫn phải đeo nẹp ở cổ. Sau một năm ở Côn Đảo, cô được chuyển giao cho các nhà thương điên ở Biên Hòa.
Trước khi vào tù, Tạo là một học sinh trung học 16 tuổi. Cô đã bị tống giam vì không chào cờ. Cô đã tỏ ra bất tuân phục, giám đốc nhà tù lúc đó cho biết.
Tù nhân lâu năm nhất ở khu Chuồng cọp là bà Sáu. Bà đã bị mù do vôi ăn da đã được ném vào tù như một biện pháp kỷ luật.
Ngày nay, phía sau khi Chuồng cọp tai tiếng là nghĩa trang cho 20.000 người đã chết trong nhà tù Côn Đảo. Hầu hết các ngôi mộ không có bia. Các tù nhân tại Côn Đảo thậm chí không có số hiệu. Khi những người sống sót quay lại thăm nơi từng giam giữ mình, họ mang theo hoa, cầu khấn và khẽ hát những bài hát đã được thì thầm trong Chuồng cọp khoảng 35 năm trước đây…
T.B (theo Historiansagainstwar.org)
http://kienthuc.net.vn
http://kienthuc.net.vn
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bản quyền thuộc về Bảo tàng tổng hợp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Địa chỉ: Số 4 Trần Phú, thành phố Vũng Tàu - Điện thoại: 064. 3852421 - 3512613 Website được thiết kế năm 2009 bởi công ty 4PSoft |
Xem thêm:
http://www.historiansagainstwar.org/resources/torture/luce.html
http://www.counterpunch.org/2013/11/01/from-tiger-cages-to-control-units/
https://books.google.com.vn/books?id=jVUEAAAAMBAJ&pg=RA1-PA26&lpg=RA1-PA26&dq=Members+of+a+congressional+committee+visit+a+South+Vietnamese+island+for+political+prisoners.&source=bl&ots=nFR5sHrD0H&sig=-P_w96Y2ppwTMo_zrOGvt_vG5CI&hl=vi&sa=X&ei=oB-MVL6ID4Lz8gWxgoLIBQ&ved=0CB0Q6AEwAA#v=onepage&q&f=true