Hiển thị các bài đăng có nhãn bảnsắcdântộc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bảnsắcdântộc. Hiển thị tất cả bài đăng

23 tháng 9 2011

Gắng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Vũ Khúc)


 

Tôi được giao nhiệm vụ biên tập các bản thảo gửi đến Tạp chí Địa chất đã được 20 năm nay (từ 1986, Phó Tổng biên tập). Ngay từ những tháng ngày đầu làm công việc này, trong tôi luôn vang lên câu nói mang tính kêu gọi của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: "Hãy gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt!". Trong hai mươi năm qua, tôi luôn cảm thấy tính thời sự, cũng như tính cấp thiết của lời kêu gọi này, ngay cả đến ngày nay, khi đã hình thành một thế hệ chuyên gia địa chất trẻ được đào tạo cẩn thận, đã trưởng thành và dần nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy nghiên cứu địa chất và điều tra khoáng sản ở nước ta. Nhưng các bản thảo gửi đến Tạp chí vẫn có nhiều điều phải nói đến, để sao cho Tạp chí ta luôn đi theo lời kêu gọi của Cố Thủ tướng.

I. Hãy tránh viết giọng văn dịch

Có lẽ do được đào tạo ở nước ngoài, hoặc đọc sách báo ngoại ngữ nhiều, lời văn ở bản thảo của một số tác giả do chính tác giả viết ra, diễn đạt một ý của chính mình, mà cứ như là dịch từ lời văn của người nước ngoài. Có thể lấy ví dụ: "Các phần của đứt gãy mà nó được phát triển trong pha thứ nhất…"; có lẽ tôi phải lấy danh dự ra mà đảm bảo là tôi đã trích dẫn nguyên si, thì các bạn mới tin là có tác giả đã viết như vậy. Cái đoạn "mà nó được phát triển" sao mà nặng nề và "tây" đến thế? Nó làm ta liên tưởng ngay đến cách viết: "that was developed…". Phổ biến hơn, các tác giả thường viết tính động từ đi kèm với từ "được" làm cho câu văn rất nặng, ví dụ như: "các mặt cắt lấy mẫu được phân bố dọc theo quốc lộ 6…", "sự nâng lên của khối này được xảy ra…", "đá bazan được lộ ra…", "bản đồ được thành lập bởi…", v.v. Dân ta vẫn thường nói: "Thịt bò ăn ngon quá!". Tất nhiên, ai cũng hiểu là chúng ta ăn thịt bò, và thịt bò được chúng ta ăn, nhưng các bạn xem, chẳng có ai nói là: "Thịt bò được ăn ngon quá!", càng không có ai nói: "Thịt bò được ăn bởi vợ tôi!". Có lẽ phải sang hay mới được nghe cách nói như vậy. Nếu chúng ta viết: "các mặt cắt lấy mẫu phân bố dọc theo quốc lộ 6…" hay "đá bazan lộ ra…", v.v. thì có đưa đến hiểu lầm gì đâu nhỉ? Mà câu văn rất thoát. Thêm nữa, ta nên quen với cách viết: "bản đồ do X và nnk. thành lập…", "phương pháp do Nagibian đưa ra…", chứ không nên viết: "bản đồ được thành lập bởi X và nnk.…", hay "phương pháp được đưa ra bởi Nagibian…". Về nghĩa không có gì khác nhau, nhưng câu văn kiểu thứ hai rất "tây" và nặng nề lắm. Đấy là giọng văn dịch, và là dịch vụng.
Ngoài ra, một vài thuật ngữ nước ngoài có nhiều nghĩa quốc ngữ, nhưng người viết chỉ dùng có một nghĩa, nên đưa đến các trường hợp rất sái. Ví dụ như một số tác giả rất hay dùng từ "lãnh thổ" không đúng chỗ, như "lãnh thổ Nam Trung Bộ", thậm chí " trong lãnh thổ tỉnh Điện Biên". Về trường hợp này, có lẽ các tác giả đó đã hiểu "territory" chỉ có một nghĩa là "lãnh thổ"; nhưng theo Từ điển Anh-Việt [5], "territory" có 2 nhóm nghĩa: 1) đất đai, địa hạt, lãnh thổ; 2) khu vực, vùng, miền. Như vậy, phải viết là: "miền " và "trong địa phận tỉnh Điện Biên" thì mới thích hợp. Vì theo Từ điển tiếng Việt [2], "lãnh thổ" là "đất đai thuộc chủ quyền của một nước". Việc hiểu theo một nghĩa làm ta lại nhớ đến một thời, có một số người ở nước ta hiểu (hay cố tình hiểu) "academy" chỉ có một nghĩa là "viện hàn lâm", mà báo chí đã từng nói đến nhiều. Nếu bạn đến số 7, Lý Thường Kiệt, Hà Nội sẽ thấy Học viện Tài chính có tên tiếng Anh là "Academy of Finance", mà ở đó chắc là chẳng có "Viện sĩ" nào. Khi ta dùng từ gì, nếu có chút ngờ ngợ, nên tìm hiểu kỹ nghĩa của từ đó trong các từ điển.

II. Hãy quan tâm tới văn phạm

Không hiểu sao, trong khoảng vài năm gần đây, một vài tác giả hay dùng một cách viết rất sai văn phạm, kể cả trong các nhật báo phổ thông. Đó là cách viết "Dựa vào các kết quả phân tích cho thấy…"! Hoặc là "Qua quan hệ địa tầng vừa trình bày cho thấy…"! Cái gì cho thấy? Rõ ràng là "các kết quả phân tích" hay "quan hệ địa tầng" không thể đóng vai trò chủ ngữ của "cho thấy", vì nó đã đứng sau và phụ thuộc "dựa vào" và "qua" để tạo nên một mệnh đề phụ cho câu. Tại sao lại không viết một cách đơn giản: "Các kết quả phân tích cho thấy…" và "Quan hệ địa tầng vừa trình bày cho thấy…"; hay là "Dựa vào các kết quả phân tích, ta thấy…" và "Qua quan hệ địa tầng vừa trình bày, ta thấy…", thì câu văn sẽ không có gì sai phạm. Tôi cho là trong trường hợp này, người viết đã không quan tâm tới vấn đề văn phạm của câu mình viết ra.
Cũng gần đây, thường xuất hiện cách viết kiểu này: "Trong vùng X lộ ra hai khối magma. Trong đó, khối nằm ở phía nam có thành phần axit". Cái dấu chấm đứng trước "Trong đó" sao mà vô duyên thế! Các bạn cứ thử đọc lại riêng một câu thứ hai, thì thấy nó rất cụt. Thực ra, đó chỉ là một câu "Trong vùng X lộ ra hai khối magma, trong đó khối nằm ở phía nam có thành phần axit", và "trong đó" là một liên từ thường không được dùng để mở đầu một câu, khác với "tuy nhiên", "tuy vậy", "nhưng"… Việc thay đổi một dấu ngắt trong câu cũng có ý nghĩa quan trọng, không nên xem thường.
Một số tác giả viết hoa một số từ chưa được đúng luật của quốc ngữ. Từ khi còn ngồi ghế nhà trường, chúng ta đã được dạy là chỉ có tên người và địa danh phải viết hoa toàn bộ, còn các loại tên khác chỉ viết hoa từ thứ nhất; ví dụ tên các cấp phân loại động vật: Tay cuộn, Bọ ba thuỳ,…; tên các cấp phân loại địa tầng: Cổ sinh, Trung sinh,…; tên các thiên thể: Thiên vương tinh, Mộc tinh, Trái đất,…; tên các tổ chức: (Bộ) Tài chính, (Tổng cục) Thống kê,… Tuy nhiên, vẫn có tác giả viết: "Đệ TamĐệ Tứ, Trái Đất",… Một số tác giả còn viết hoa cả các phương, như: "phía Đông sông Hồng, nằm ở Đông Bắc núi Ông,…". Rõ ràng các phương là danh từ chung, có phải là danh từ riêng đâu mà viết hoa? Chẳng có nước phương tây nào viết hoa các phương cả. Chỉ khi nào chúng trở thành địa danh mới viết hoa chúng, như: "miền Bắc, miền Tây Bắc Bộ, trũng Đông Phú Khánh, bể Côn Sơn…". Cả những danh từ chung khác, khi đã trở thành tên riêng cũng phải viết hoa, như: "đứt gãy Sông Hồng, khối granit Núi Pháo, khối nâng Núi Con Voi…". Đôi khi, có tác giả còn viết hoa cả các ký hiệu đã được quy định rõ ràng và dạy từ cấp tiểu học, như kilomet (km) cứ viết tắt là "Km".
Vất vả nhất đối với việc sửa bản thảo là việc sửa cách viết số lẻ, nhất là khi bài báo đưa ra các bảng thống kê dài dằng dặc. Theo kiến thức phổ thông thì dấu chấm dùng để biểu thị hàng nghìn và dấu phẩy để thể hiện số lẻ, ví dụ: bản đồ tỷ lệ 1:50.000, hay bán kính Trái đất ở xích đạo là 6.378,25 km. Đây là cách viết của các nước thuộc hệ ngôn ngữ Rôman. Nhưng ở các nước Anh, Mỹ thì ngược lại: dấu phẩy biểu thị hàng nghìn, còn dấu chấm để thể hiện số lẻ. Cho đến nay, theo truyền thống, nước ta vẫn dùng cách thứ nhất, thì các cá nhân đừng tự tiện thay đổi nề nếp chung, có thể dẫn đến hiểu lầm, mất chính xác không đáng có. Và chúng tôi phải sửa từng con số, vất vả lắm.
Về việc dùng i và y, gần đây có từ điển chủ trương dùng thống nhất i, trừ trường hợp đứng trong các vần -yên, -yết, -yêu (ví dụ, Từ điển Việt-Pháp của Lê Khả Kế và Nguyễn Lân [3]). Tất nhiên, khi đã viết "mì sợi, mí mắt" mà lại viết "mỹ nhân, mỹ thuật", hay viết "ti hí, tí ti" mà lại viết "tỷ lệ, tỷ trọng" thì thiếu tính thống nhất quá. Tuy nhiên, cuốn từ điển nói trên vẫn giữ cách viết "y nguyên, ý nghĩa", có lẽ do nếu viết là "i nguyên, í nghĩa" trông cộc quá. Như vậy, cách làm này vẫn chỉ là quy ước. Trong hoàn cảnh hiện nay, Nhà nước chưa đưa ra quy định gì về vấn đề này, nên chúng tôi vẫn giữ cách viết cũ, nghĩa là vẫn để "tỷ lệ bản đồ,  thuyết kiến tạo,…". Đáng chú ý là các từ vần -uy không có gì thay đổi, kể cả trong từ điển kể trên. Cách viết "qui hoạch, đá quí,…" chúng tôi coi là không thuận và phải sửa là "quy hoạch, đá quý".
Về địa danh, có thể nói là hiện nay trên các báo và cả trên mặt tivi còn viết rất lung tung, và Tạp chí Địa chính đang mở cuộc thảo luận nhằm đi đến một phương án viết thống nhất để đề nghị lên các cơ quan có thẩm quyền. Quan điểm của cá nhân tôi là các địa danh trên lãnh thổ Việt phải viết theo luật của chữ quốc ngữ; điều đó thể hiện chủ quyền của nước ta đối với vùng đất đó [7]. Không nên để một cái xã mà người dân gọi là Ya Mơ lại viết là "Ya Meur", viết như thế này đọc theo quốc ngữ không phải là Ya Mơ. Cũng như không nên lo tài nguyên của một tỉnh bị "cạn kiệt" mà viết tên tỉnh đó là "Bắc Kạn".
Trong tóm tắt tiếng Anh của bài báo, không hiểu sao khi viết tên riêng của mình và địa danh, các tác giả cứ bỏ hết cả dấu thanh. Trong quốc ngữ, dấu là một hợp phần không thể thiếu của một từ, vì nếu thay dấu thì từ đó thay đổi nghĩa hoàn toàn. "Ngô" đang là thứ ăn được mà thêm dấu sắc vào thì thành "ngố" ngay. Báo Việt Nam News, cơ quan chính thức của Nhà nước ta, luôn viết tên người và địa danh Việt đủ dấu. Tên của anh em trẻ chưa quen biết lắm trên mặt báo, hay địa danh các vùng sâu, vùng xa mà bỏ dấu đi thì rất khó nhận biết được tên thực, ví dụ: cô Uông Thị Đại, hay đảo Hòn Trứng Lớn mà viết bỏ dấu đi thì có Trời mà đoán được tên thật là gì!

III. Hãy cố gắng dùng tiếng Việt trong những trường hợp có thể

Việc mượn các thuật ngữ nước ngoài trong khoa học là chuyện khó tránh, nếu không muốn nói là "bất khả". Ngay các nước thuộc khối Anh ngữ cũng mượn "melange" (thể xáo trộn), "en echelon" (dạng bậc thang) của tiếng Pháp, và các nước thuộc khối Pháp ngữ cũng mượn "dyke" (thể tường) của tiếng Anh. Thế nhưng, đối với chúng ta là dân một nước phương đông, rất nên hạn chế việc này, và nếu bất đắc dĩ phải dùng cũng cần phải chuyển sang dạng viết của quốc ngữ theo nguyên tắc viết thế nào, đọc thế nấy, nghĩa là bỏ các nguyên âm và phụ âm câm (không đọc đến), ví dụ: granit, anđesit. Không nên bê nguyên si cách viết của nước ngoài (granite, andesite) vào (theo quy định của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trong các Quy chế đo vẽ bản đồ địa chất [1]). Vả lại, các thuật ngữ phải vay mượn nên hạn chế ở phạm vi khoáng vật, thạch học, vì chúng thường có gốc từ những từ ngữ, như La Mã, Hy Lạp, là ngôn ngữ gốc của quốc ngữ một số nước thuộc nhóm ngôn ngữ Rôman khá phổ biến ở Tây Âu.
Gần đây, tác giả các bài viết về động đất thường hay sử dụng nguyên si thuật ngữ "magnitude", mà thay vào đó, có tác giả dùng thuật ngữ quốc ngữ là "chấn cấp", "cấp độ" hay "cấp độ mạnh". Thuật ngữ này, theo từ điển Larousse, bắt nguồn từ tiếng Latinh "magnitudo" là "độ lớn". Theo chúng tôi, hoàn toàn có thể thay nó bằng một thuật ngữ quốc ngữ tương đương, và trong 3 phương án quốc ngữ kể trên nên dùng "chấn cấp", tức là "cấp độ chấn động", vì nếu dùng "cấp độ" thì chung chung quá, và "cấp độ mạnh" thì trùng nghĩa với "cường độ" (intensity), không phải là "magnitude" nữa.
Các tác giả viết về khoáng sản lại hay dùng cụm từ "các đai mạch". Từ "đai" ở đây là để phiên thuật ngữ "dyke", nhưng từ này ở Từ điển Anh–Việt Các khoa học Trái đất [4] cho 2 thuật ngữ tương đương là "thể tường, đaikơ". Tất nhiên, phiên là "đaikơ" không hợp lý, vì chữ -e cuối cùng là nguyên âm câm, ở các từ khác đã bị bỏ (như granit, ryolit [6]). Vậy thì chỉ còn cách dùng "thể tường, đaik", chứ nếu viết là "đai" thì trùng với một khái niệm khác, tương đương với "belt" (cấu trúc dạng dải kéo dài), như "đai Thái Bình Dương". Theo chúng tôi, nên dùng "thể tường".

IV. Đôi điều cần chú ý trong bản thảo

Như các bạn đã biết, bài báo gửi Tạp chí Địa chất bao giờ cũng phải có một tóm tắt nội dung bài báo. Tóm tắt này phải trình bày ngắn gọn những nội dung chính của bài báo, nhưng một số tác giả lại chỉ viết dưới dạng giới thiệu sơ lược, như: "Bài báo mô tả những tai biến địa chất xảy ra dọc sông Hồng ở đoạn phía nam Việt Trì và đề ra những biện pháp phòng tránh." Các tai biến đó gồm có những loại gì, các biện pháp phòng tránh như thế nào, nhất thiết phải trình bày ngắn gọn trong Tóm tắt. Tóm tắt bằng ngoại ngữ để ở cuối bài chính là bản dịch của Tóm tắt tiếng Việt ở đầu bài. Vậy, muốn cho đồng nghiệp nước ngoài biết nội dung công trình của mình, hãy viết tóm tắt đầy đủ như đề nghị bên trên.
Cuối bài báo, Tạp chí yêu cầu các tác giả lập danh sách Văn liệu tham khảo. Thời gian qua, chúng tôi khá vất vả trong việc hiệu đính mục này, do các tác giả không chú ý cách lập Văn liệu của Tạp chí Địa chất. Rất mong các tác giả chú ý các điều sau: 1) Chỉ đưa các văn liệu đã tham khảo và trích dẫn trong bài báo; 2) Xếp các văn liệu theo thứ tự chữ cái của họtác giả, hay họ tác giả đầu tiên trong tập thể tác giả (đừng xếp theo thứ tự của tên tác giả). Còn nội dung và cách diễn đạt từng văn liệu, xin tham khảo mục Văn liệu của bài báo này.
Chúng tôi cũng muốn lưu ý các tác giả là, khi các bạn đã gửi bản thảo của mình cho một xuất bản phẩm khác, xin đừng gửi tiếp cho chúng tôi. Đôi khi vì sơ xuất, không biết bài đó đã được đăng ở chỗ khác rồi, Uỷ viên biên tập của chúng tôi duyệt cho đăng bài đó và chúng tôi đăng, vô tình phạm lỗi. Xin tránh cho chúng tôi điều này.

Lời kết

Nhìn chung, trong thời gian qua, Tạp chí Địa chất đã ra mắt độc giả được đều đặn, với nội dung có chất lượng cao và hình thức đứng đắn của một tạp chí khoa học, được Cục Báo chí thuộc Bộ Văn hoá - Thông tin đánh giá cao. Có được điều đó, nhất định phải có sự cộng tác nhiệt tình và tín nhiệm của các nhà địa chất nước ta, gửi bài đều đặn cho Tạp chí, và mạng lưới Biên tập viên có trình độ chuyên môn sâu hoạt động trong Ban biên tập của Tạp chí. Bài báo của tôi cũng chỉ là một sự rút kinh nghiệm nội bộ giữa người làm báo và người viết, với lòng mong muốn chung là ngày càng nâng cao chất lượng và uy tín của Tạp chí. Rất mong được sự quan tâm của các bạn có bài gửi đến Tạp chí.

VĂN LIỆU

  1. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2001). Quy chế tạm thời về lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000. Bộ Công nghiệp, Hà Nội, 184 trang.
  2. Hoàng Phê (chủ biên, 1998). Từ điển tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 1130 trang.
  3. Lê Khả Kế, Nguyễn Lân (2001). Từ điển Việt–Pháp. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1280 trang.
  4. Nhà xuất bản Khoa học & Kĩ thuật (1978). Từ điển Anh–Việt Các khoa học Trái đất. 678 trangg.
  5. Viện Ngôn ngữ học (1975). Từ điển Anh–Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1960 trg.
  6. Vũ Khúc, Trần Văn Trị, Đào Đình Thục (1993). Tiến tới ổn định cách phiên thuật ngữ nước ngoài trong địa chất học. Tạp chí Địa chất, A/214-215, trang 51–58.
  7. Vũ Khúc (2005). Viết địa danh ở nước ta vẫn còn nhiều lộn xộn. Tạp chí Địa chính, 3/2005, trang 45–51.
 
 
Vũ Khúc

Nguồn: http://ngonngu.net/index.php?p=333 

21 tháng 4 2010

Giữ gì sự trong sáng của tiếng Việt - Hồ Chí Minh

Vì sao Hội Hồng Thập Tự được đổi tên thành Hội Chữ Thập Đỏ?


Hồng Thập Tự là một từ mượn của tiếng Hán (红十字会 Hồng Thập Tự Hội, tương ứng với tên tiếng Pháp của tổ chức này là Société de la Croix-Rouge). Từ này vào tiếng Việt từ  đầu thế kỷ 20. Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:248) cắt nghĩa hồng thập tự là chữ thập đỏ, biểu hiệu của cuộc y tế trong quân đội.

Hội Hồng Thập Tự Việt Nam được thành lập tháng 11 năm 1946 và được hợp pháp hóa bằng quyết định số 77-NV/NĐ (ngày 31 tháng 5 năm 1947) của Bộ Nội Vụ. Cũng chính bộ này ra quyết định 15-NV (ngày 24 tháng 1 năm 1966) đổi tên Hội Hồng Thập Tự thành Hội Chữ Thập Đỏ. Căn cứ của việc thay đổi tên hội là quyết nghị nhất trí của đại hội đại biểu toàn quốc Hội Hồng Thập Tự Việt Nam lần thứ ba (ngày 15 tháng 12 năm 1965). Không phải tự nhiên mà Hội thấy cần phải tổ chức đại hội để thông qua một quyết định có tính lịch sử như vậy.
Do thấy trong một bài báo của Người, Bác viết “Hội Chữ thập đỏ”, báo Nhân dân thấy rất hay liền chữa lại trên một bản tin gửi đến đăng báo. “Hội Hồng thập tự Việt Nam” thành “Hội Chữ thập đỏ Việt Nam”. 
Ngay buổi sáng báo ra, một cán bộ ở văn phòng hội này đến gặp và phàn nàn với Ban thư ký biên tập. Anh ấy nói đại ý: “Các anh làm thế này gây cho chúng tôi không biết bao khó khăn: phải làm lại biển treo ở trụ sở hội, phải bỏ đi và in lại tất cả giấy thư, phong bì và các giấy in sẵn khác, tốn kém rất nhiều! Được phép Ban biên tập, cán bộ Ban thư ký biên tập nói rõ báo Nhân dân làm theo Bác Hồ và thấy như vậy là rất hay, rất đúng văn phong của ta. Anh cán bộ của hội bèn “bớt giận”, rồi tỏ vẻ đồng tình và cảm ơn, ra về!(Nguyễn Đức Thi – Bác Hồ chống bệnh nói chữ)
Tuy nhiên tên gọi Hội Hồng Thập Tự vẫn được lưu hành trong vùng giải phóng ở miền Nam Có thể chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam muốn tránh mọi liên tưởng bất lợi cho vị thế chính trị của mình. 

Cũng có thể tình thế cách mạng miền Nam chưa đến lúc thuận tiện để gây xáo trộn trong sinh hoạt ngôn ngữ. Hội Hồng Thập Tự Giải Phóng được thành lập từ tháng 10/1962 tiếp tục tồn tại cho đến cuộc hội nghị 31/7/1976 mới bị giải thể và hợp nhất với Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. 

Từ đó chỉ còn một danh xưng thống nhất là Hội Chữ Thập Đỏ. 

Từ Hồng Thập Tự hiện nay được các từ điển đánh dấu là từ cũ. (Hoàng Phê, 2006:463)

Tại sao không thể nói cứu hỏa mà phải nói chữa cháy?

Cứu hỏa  chữa cháy (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:105).  

Người miền Nam cho đến năm 1975 vẫn không thấy chữa cháy, chữa lửa và cứu hỏa có gì khác nhau (Thanh Nghị, 1967b:279 và 375). 



Người đời sau kể lại và tán rằng như vậy đủ thấy sự quan tâm của Bác Hồ và cơ quan lập pháp đối với công tác PCCC. 

Năm 1959 chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm tuyến đảo Đông Bắc.
Khi tàu rời cảng, Bác bảo dẫn Bác đi xem tàu. Tôi giới thiệu với Bác lần lượt vị trí của các ngành kỹ thuật chiến đấu trên tàu, đến ngành vũ khí dưới nước. Tôi thưa với Bác đây là ngành “thủy vũ”. Bác hỏi:- Thủy vũ” là ngành nhảy múa dưới nước phải không chú?- Thưa Bác đây là ngành sử dụng vũ khí dưới nước, gọi tắt là “thủy vũ” ạ. Tôi trả lời.Bác cười vui:- Chú mà nói “thủy vũ”, thì Bác cũng chỉ hiểu là nhảy múa dưới nước. Các chú đã học Hải quân và nhất là công tác ở nhà trường, các chú phải nghiên cứu từ ngữ của Hải quân, cho nó mới, nó phù hợp. Từ ngữ của dân tộc ta không thiếu đâu.Bác quay lại nói với đồng chí Nguyễn Lương Bằng:- Ngành đường sắt còn dùng các từ “liệt xa”, “hỏa xa”, “xa trường”, “xa viễn”… nữa đấy.Rồi quay lại anh em chúng tôi, Bác bảo:- Các chú đã dốt lại hay dùng chữ.
Thủy vũ, liệt xa, hỏa xa, xa trường, xa viễn... đều là từ ngữ mượn của Trung Quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sao có thể hiểu thủy vũ là nhảy múa dưới nước

Chẳng qua là Người thấy từ đó không phù hợp, cần có từ  ngữ khác cho nó mới, nó phù hợp. Từ ngữ của dân tộc ta không thiếu đâu.

Thủy vũ do Trung Quốc viện trợ, cố vấn Trung Quốc dạy cách sử dụng.
Ông Trương Thế Hùng quê ở Vinh - Nghệ An, đượcHải quân Việt Nam cử đi học chuyên ngành vũ khí dưới nước ở Trung Quốc từ năm1955. 
Bác Hồ  không thích từ thủy vũ nên từ này về sau được thay bằng vũ khí dưới nước chứ năm năm trước đó hải quân Việt Nam sang Trung Quốc chỉ có thể học thủy vũ và sử dụng từ thủy vũ ít ra là cho đến khi Bác ra thăm các đảo Đông Bắc.

Cũng trong năm 1955 hàng ngàn công nhân Trung Quốc tham gia thi công tuyến đường sắt Hà Nội – Hữu Nghị Quan. Chỉ trong vòng bốn tháng, họ đã làm xong 167 km đường ray. 

Ngày 28/2/1955 chuyến tàu tốc hành đầu tiên nối Hà Nội – Bắc Kinh – Mạc Tư Khoa – Bá Linh rời ga Hà Nội.

Trung Quốc cũng giúp Việt Nam làm tuyến đuờng sắt Hà Nội – Vân Nam dài 386 km với 713 cây cầu) (Fall, 1960:122). 

Đó là lý do vì sao thuật ngữ đường sắt Việt Nam thời ấy toàn lấy từ tiếng Trung Quốc, khiến Bác Hồ phải bực mình.

Lệ thuộc ra mặt không phải là điều hay ho gì.


Sao không ai phân loại dân quân theo cách của Bác Hồ?



Bác Hồ không gọi chị em dân quân là nữ dân quân.


Người gọi họ là dân quân gái, tháng 2-1968, được tin 11 nữ dân quân tự vệ Thành phố Huế đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu giải phóng Thành phố, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen tặng bốn câu thơ:

Thư khen của Chủ tịch nước cũng sử dụng cụm từ này:

Các cụ già tham gia dân quân được Bác gọi là dân quân già, không nêu giới tính trai gái trong bài Chiến đấu giỏi. Thắng lợi to đăng trên Báo Nhân dân, số 4530, ngày 1-9-1966 hay trong "Bài nói tại cuộc mít tinh trọng thể kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944) và ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19-12-1946) (26-12-1967)" hay thư khen của Chủ tịch nước lại dùng cụm từ lão dân quân và cũng không nói rõ đó là trai hay gái.


Trước và sau Bác Hồ không ai gọi dân quân theo cách ấy, nếu cần phải nói rõ giới tính hay tuổi tác của người ta.

Không ít người (Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Thế Kỷ, Nguyễn Thế Lượng, Đỗ Đức Thuần) trích dẫn chuyện Bác Hồ hỏi tại sao không nói là đường to thay cho đại lộ
Ưu điểm của các cô, các chú không ít. Nhưng khuyết điểm thì cũng còn nhiều. Trong các đồng chí cũng còn có người hoặc ít hoặc nhiều chưa thoát khỏi ảnh hưởng tư sản và tiểu tư sản, cho nên nắm vấn đề chính trị không được chắc chắn. Nói về vǎn nghệ, Bác thú thật có ít thì giờ xem các bài vǎn nghệ. Có lẽ vì thế mà có lúc xem đến thì thấy cách viết thường ba hoa, dây cà dây muống; và hình như viết là để đếm dòng lấy tiền, có những bài nhạt nhẽo thế nào ấy. Còn viết về chính trị thì khô khan và có hai cái tệ: một là rập khuôn, hai là dùng quá nhiều chữ nước ngoài. Cái bệnh dùng chữ là phổ biến trong tất cả các ngành. Đáng lẽ báo chí phải chống lại cái bệnh đó, nhưng trái lại, báo chí lại tuyên truyền cho cái tệ đó. Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: những chữ kinh tế, chính trị, v.v., thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ "độc lập". Nếu "Việt Nam độc lập" mà nói "Việt Nam đứng một" thì không thể nghe được. Nhưng có những tiếng ta sẵn có, thì tại sao lại dùng chữ nước ngoài. Ví dụ: vì sao không nói "đường to" mà lại nói "đại lộ", không nói "người bắn giỏi" mà lại nói "xạ thủ", không nói "hát múa" mà lại "ca vũ"?Những ví dụ như vậy nhiều lắm, nhiều lắm.  
Các báo Nhân dân, Thời mới, Quân đội, v.v., đều dùng chữ nhiều lắm. Tóm lại, chúng ta dùng chữ nhiều quá, có khi lại còn dùng sai nữa. Mong rằng báo chí cố gắng sửa đổi cái tệ ấy đi. Tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi. 
Khoa học ngày càng phát triển, có những chữ mới mà ta chưa có, thì ta phải mượn. Ví dụ: ta phải nói "kilô", vì nếu nói "cân", thì không đúng nghĩa là 1.000 gram. Song những chữ dùng tiếng ta cũng đúng nghĩa thì cứ dùng tiếng ta hơn. Có những người hình như sợ nói tiếng ta thì nó xấu hổ thế nào ấy! Họ làm cho các cháu học sinh cũng bị lây bệnh nói chữ, như "phụ đạo", "giáo cụ trực quan", v.v.. 
Thật là tai hại.

Cái nguyên nhân để đường to không thay được đại lộ cũng giống như việc Bác phong ông Giáp làm 
Đại tướng chứ không gọi ông là tướng to.

Có những chỗ giản dị, dễ hiểu là hay. Có những chỗ lại không hay. Nhờ giữ được sự phân biệt tế nhị đó mà sau này ta có đại lộ Hồ Chí Minh, đại lộ Nguyễn Văn Linh, đại lộ Võ Văn Kiệt... 

Tất cả đều là đường to mà không ai gọi là đường to.

18 tháng 4 2010

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Phạm Văn Đồng)

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt


Giữ gìn sự trong sáng của một ngôn ngữ, chuẩn hóa nó, phát triển nó - đây là một chủ đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, cho nên trước hết cần thiết phải có cái nhìn rộng và sâu về vai trò của ngôn ngữ đối với xã hội, đối với con người, đối với sự phát triển của các dân tộc theo hướng đi lên.

I. Tầm quan trọng của ngôn ngữ đối với lịch sử loài người và lịch sử các dân tộc.


Nhìn vào quá trình phát triển lịch sử của loài người, chúng ta thấy rất rõ vai trò và tác dụng của ngôn ngữ. Trước hết là lao động, sau đó đồng thời với lao động và ngôn ngữ - đó là hai động lực chủ yếu trong sự phát triển của loài người nguyên thủy. Cùng với sự phát triển của tư duy, của ý thức, ngôn ngữ đã góp phần hoàn thiện con người, phân biệt con người với con vật. Dần dần, loài người xây dựng nên các cộng đồng chung về ngôn ngữ từ thấp lên cao về mặt tổ chức xã hội như thị tộc, bộ lạc, dân tộc. Về sau này, khi đã xuất hiện quốc gia, thì ý thức về một quốc gia thống nhất bao giờ cũng gắn bó với ý thức về một ngôn ngữ quốc gia chung. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta, kể từ thời dựng nước được thế giới biết đến qua nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ với hiện vật tiêu biểu trống đồng, trải qua hàng năm cho đến ngày nay, nếu xét riêng về mặt ngôi ngữ thì có thể nói rằng đó là lịch sử người Việt Nam, cùng nhau xây dựng, thống nhất và phổ biến tiếng Việt trong cương vị ngôn ngữ dùng chung trên toàn lãnh thổ đất nước ta.

Khi nhận diện một dân tộc, ngôn ngữ thường được coi là một trong những tiêu chuẩn chính (bên cạnh các tiêu chuẩn khác như tính cộng đồng lãnh thổ, ý thức tự giác dân tộc, các đặc điểm chung về tâm lý, văn hóa, kinh tế...) Ngôn ngữ góp phần làm nên bản sắc của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trong suốt lịch sử lâu dài đấu tranh vì chủ quyền dân tộc, vì độc lập tự do của đất nước, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam ta đã phấn đấu gian khổ như thế nào để thoát được hiểm họa diệt chủng về ngôn ngữ và văn hóa, để bảo vệ và phát triển được tiếng Việt, như Bác Hồ nói, "Thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc".

Trong các mặt đời sống của một dân tộc, của một đất nước thì ngôn ngữ gắn bó mật thiết hơn cả với văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc; bởi lẽ nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp xã hội, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong xã hội. Chính tiếng Việt, ở mặt nội dung ý nghĩa của nó, là nơi ghi lại, nơi phản ánh chủ yếu những tri thức, kinh nghiệm, những suy nghĩ, quan niệm v.v... từ ngàn đời của cha ông ta về mọi mặt của đời sống dân tộc, về tự nhiên và xã hội, về vũ trụ và con người. Cùng với quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa Việt Nam, tiếng Việt cũng hình thành và phát triển, ngày nay đã trở thành một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú và độc đáo; đó là một công cụ rất có hiệu lực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều quan trọng nhất là mỗi chúng ta có ý thức sâu sắc về sự giàu đẹp của tiếng Việt, có tình cảm của người Việt Nam ta biết yêu và quý tiếng nói của dân tộc, nói rộng ra thì đó là ý thức và tình cảm đối với văn hóa dân tộc mình, đối với đất nước mình, nhân dân mình.
Ngôn ngữ nào cũng có hai chức năng chủ yếu, là phương tiện quan trọng nhất trong sự giao thiệp giữa người với người và là phương tiện, là công cụ của tư duy. Trên thế giới, có nhà ngôn ngữ học đã ví ngôn ngữ như là một thứ chất kết dính hết sức đặc biệt, hết sức quan trọng, vì ở đâu cũng thấy có mặt nó, trong kinh tế, trong văn hóa, trong xã hội, trong mọi mặt vật chất, tinh thần của cuộc sống con người, bình thường và quen thuộc như nước ta uống, như không khí ta thở vậy. Vì thế, muốn xây dựng và phát triển con người, xây dựng và phát triển xã hội, xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta không thể không phát triển tiếng Việt, công cụ giao tiếp, công cụ tư duy, công cụ phát triển của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Tại Hội nghị khoa học "Gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ" họp ngày 29-10-1979 ở Hà Nội, tôi đã nhấn mạnh vai trò và tác dụng của công việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn hóa nó, để phục vụ sự phát triển trí tuệ con người Việt Nam, sự phát triển sự nghiệp xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Tôi nghĩ rằng đó chính là lý do sâu xa vì sao chúng ta cần phải có sự quan tâm đầy đủ đến tiếng Việt, đặc biệt là hiện nay, ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Tôi dừng lại ở đây là chỗ thích hợp nhất để trình bày một quan điểm rất quan trọng về quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ. Chúng ta còn nhớ Các Mác và Ph.Ăng-ghen, sau khi phác họa học thuyết vĩ đại của mình là duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, đã có một câu nói mà tôi cần trích nguyên văn: "Khi hiện thực đã được trình bày như đích thực nó như vậy (bởi các khoa học, và các khoa học ấy chứng minh duy vật biện chứng lịch sử), thì triết học không còn chỗ nào để tồn tại nữa". Ăng-ghen nói rõ thêm: "Khi khoa học tự nhiên và khoa học lịch sử đã thấm nhuần biện chứng thì tất cả các món hàng triết học cũ trở thành đồ thừa, trừ lý luận về tư duy (tức là duy vật biện chứng lịch sử - P.V.Đ)".

ở đây chúng ta phải thấy một cách sâu sắc nhất và phong phú nhất sự liên quan mật thiết giữa ngôn ngữ và tư duy hoặc ngược lại giữa tư duy và ngôn ngữ, bởi cái này là nhân tố của cái kia hoặc ngược lại. Đó là hai cái đòn xeo quý báu không ngừng nâng cao hiểu biết của con người trong quá trình đi lên giải quyết các vấn đề của cuộc sống trên mọi lĩnh vực, từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ đời này đến đời khác. Trong thời đại ngày nay, thời đại của sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học: khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội, sự phát triển tư duy có liên quan đến sự phát triển của toàn cầu hóa cuộc sống mọi con người, mọi dân tộc, thì chúng ta càng thấy tầm quan trọng của ngôn ngữ và tư duy. Chỉ có đặt vấn đề như vậy thì đề tài của bàI viết này mới có đầy đủ tầm vóc, chiều sâu và chiều rộng của nó, xứng đáng với giá trị của nó. ở đây tôi chỉ gợi mở quan điểm để mở rộng chân trời của vấn đề, từ đó có thể có sự nhận thức mới, gắn liền với tìm tòi mới, hiểu biết mới của biết bao người trong lĩnh vực ngôn ngữ và tư duy của Việt Nam.

II. ý nghĩa và nội dung của công việc giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt.


Ngôn ngữ phát sinh và phát triển cùng với xã hội loài người, nhưng không phải theo một con đường thẳng tuột, mà trải qua những khúc khuỷu, quanh co. Sự phát triển của các ngôn ngữ trên thế giới đều có tính quy luật chung là từ từ, liên tục, không bùng nổ, không nhảy vọt. Những biến đổi của ngôn ngữ thường diễn ra khi nhanh khi chậm và không đều ở các mặt ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp, trong đó năng động, mạnh mẽ nhất là bộ phận từ ngữ. Ngày nay công nghệ tin học có khả năng xử lý văn bản, dịch máy, phân tích và tổng hợp lời nói, nhận dạng tiếng nói và chữ viết... càng góp phần thúc đẩy ngôn ngữ phát triển.

Trong quá trình phát triển lâu dài, không có một ngôn ngữ nào trên thế giới lại không có sự tiếp xúc, vay mượn với ngôn ngữ khác, cho dù đó là những ngôn ngữ rất lâu đời, rất phát triển như những thứ tiếng của các nước lớn ở châu Âu, châu á, châu Mỹ và khi vay mượn thì bên cạnh cái đúng, cái cần thiết, không tránh khỏi có những cái không hợp lý, thiếu cân nhắc, đôi khi sống sượng... Vì thế, mọi ngôn ngữ đều cần có sự tác động tích cực của con người, của xã hội, của Nhà nước, để bảo vệ và phát huy sự trong sáng vốn có cũa ngôn ngữ đó, trước những hiện tượng vay mượn ồ ạt ngôn ngữ nước ngoài. Tiếng Việt cũng không nằm ngoài quy luật chung ấy.

Khi nói đến việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt thì trước hết cần thấy rằng đó là một công việc bình thường, tự nhiên và thường xuyên, lâu dài trong suốt cả quá trình phát triển của tiếng Việt từ trước tới nay và từ nay về sau, nhằm bảo vệ và phát huy cái bản sắc, cái tinh hoa của tiếng Việt, không để cho mất đi một cái gì vô cùng quý báu khiến cho tiếng Việt là tiếng Việt.

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy ngôn ngữ nào cũng trải qua những thời kỳ nổi bật lên nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của nó. Như ở Nga, sau Cách mạng Tháng mười vĩ đại, Lê-nin đã kêu gọi mọi người không được "làm hỏng tiếng Nga", "tuyên chiến với việc dùng những từ nước ngoài không cần thiết".

ở ta, từ những năm 50, trong cuốn Sửa đổi lối làm việc, Bác Hồ đã nói đến các thứ "bệnh" ngôn ngữ mà chúng ta thường hay nhắc như: bệnh "sáo", nghĩa là nói và viết theo một cái khuôn mẫu hoàn toàn như nhau bất kể về việc gì, ở cấp nào, cơ quan nào; bệnh "ba hoa", "nói dài, nói dại, nói dai", còn nội dung thì rỗng tuyếch, "ba voi không được bát nước xáo"; bệnh "vẽ rắn thêm chân"; bệnh "nói chữ". Sau này Bác cũng nhiều lần nhấn mạnh "Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều, và nhiều khi dùng không đúng". Bác thường xuyên nhắc nhở "Tiếng nào sẵn có thì dùng tiếng ta" và đồng thời chỉ rõ "Có những chữ ta không sẵn có và khó dịch đúng thì cần phải mượn chữ nước ngoài".

Năm 1966, tại cuộc họp mặt về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (ngày 7 và 10.2), tôi đã nêu ra ba khâu cần phải làm để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn sự giàu đẹp của nó, và hơn thế nữa làm cho nó ngày càng thêm giàu và đẹp. Đó là: giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta; nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta; giữ gìn bản sắc, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn học, chính trị, khoa học, kỹ thuật...); đồng thời phải có những đổi mới, phát triển, làm cho tiếng ta ngày thêm giàu trên cơ sở vốn cũ của tiếng ta.

Nếu giữ gìn sự trong sáng của một ngôn ngữ là một yêu cầu lâu dài, thì từng giai đoạn lại có yêu cầu phải chuẩn hóa nó, tức là xác định cái đúng và những quy tắc vồ phát âm, chính tả, dùng từ, đặt câu v.v... của ngôn ngữ đó, được xã hội chấp nhận.

Hiện nay, tiếng Việt của chúng ta đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, phản ánh những thay đổi to lớn của đất nước trong sự nghiệp đổi mới mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là về phượng diện khoa học và công nghệ; vì thế chuẩn hóa nó là một nhiệm vụ quan trọng và bức xúc để tiếng Việt có thể phục vụ tốt hơn nữa công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự phát triển không ngừng của ngôn ngữ là phức tạp; một mặt, đời sống của nó gắn với xã hội, nhưng mặt khác, nó cũng sống đời sống bên trong riêng của nó.

Một ngôn ngữ được đánh giá là phát triển khi mà càng ngày có càng mở rộng và phân biệt các phong cách ngôn ngữ khác nhau (như phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách hành chính sự vụ, phong cách nghệ thuật v.v...) cũng như các chức năng giao tiếp khác nhau trong các phạm vi sử dụng như: trong gia đình, làng xóm; trong các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ; trong hệ thống giáo dục; trên các phương tiện thông tin đại chúng; trong hành chính Nhà nước; trong quan hệ ngoại giao v.v... Đặc biệt là ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện để ngôn ngữ có bước phát triển mới về chất và làm cho ngôn ngữ có những năng lực mới chưa từng có trước đây.

Một ngôn ngữ được đánh giá là phát triển khi nó ngày càng có tính chất trí tuệ hóa và quốc tế hóa. Điều này rất quan trọng khi ta đặt tiếng Việt trong bối cảnh thời đại ngày nay: thời đại của thông tin, của trí tuệ; thời đại của hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu, và do đó, tiếng Việt phải có những chuẩn bị, những thay đổi, để có đủ thế và lực giao lưu, tiếp xúc với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà khưng sợ bị tổn thương đến giá trị, bản sắc, đến sự giàu đẹp của nó.

Chính là trong tinh thần đó mà tôi đã nhiều lần chỉ ra sự cần thiết phải nhìn thấy khả năng phát triển phong phú của tiếng Việt, nhấn mạnh yêu cầu giữ gìn sự trong sáng và cả yêu cầu phát triển, nhìn về tương lai. Cho nên, ở thời điểm hiện nay, trước thềm thế kỷ XXI, cần có nhận thức phù hợp về nội dung của công việc gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt là: giữ gìn cho tiếng Việt luôn luôn trong sáng trong quá trình phát triển mạnh mẽ của nó.

III. Thực trạng hiện nay và những giải pháp


Thực tế hơn nửa thế kỷ qua, từ 1945 đến nay, đã cho thấy, về cơ bản, sự phát triển của tiếng Việt là lành mạnh, đúng hướng, phù hợp với những biến đổi của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội và văn hóa của đất nước.

Những năm gần đây, đặc biệt từ sau 1975, trong tiếng Việt, bên cạnh những điều mới mẻ và tốt đẹp, có thể thấy không ít những hiện tượng thiếu trong sáng, thiếu chuẩn mực, biểu hiện tập trung ở những mặt sau đây:

a. Trong nhà trường, học sinh, sinh viên nói, viết tiếng Việt còn sai nhiều về chính tả, về cách dùng từ ngữ, về ngữ pháp. 


Đây là một điều mà chúng ta không thể chấp nhận được, bởi vì việc giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt của chúng ta cốt yếu là nhằm vào trường học, phải làm sao cho học sinh, sinh viên nói tốt và viết tốt tiếng Việt. Tôi muốn lưu ý rằng không phải chỉ có con em người Việt (Kinh), mà cả con em đồng bào các dân tộc thiểu số cũng phải được dạy và học tiếng Việt một cách nghiêm chỉnh để các em có thể nói, viết tiếng Việt cho đúng chuẩn của nó.

b. Trong đời sống xã hội, có thể nhận định chung rằng: một mặt, khá phổ biến là tình trạng chính tả chữ viết (như viết "i" ngắn "y" dài, viết hoa các danh từ riêng) không thống nhất, cách dùng từ ngữ sai. 


Mặt khác, đáng lo ngại hơn là tình trạng sử dụng từ ngữ nước ngoài pha vào tiếng Việt hiện nay rất tùy tiện và lạm dụng đến mức báo động. Tôi muốn nhấn mạnh đây là một thói hư, tật xấu đang ngang nhiên lan tràn ở nước ta, đã thành một xu thế dùng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Anh, thay cho tiếng Việt, gây biết bao chê trách mà ai nấy đều phê phán lúc nói chuyện hay lúc viết trên báo chí về nguy cơ này. Một điều tôi cần nói ở đây là: báo chí tuy đã có người viết bài không tiếc những lời phẫn nộ đích đáng đối với xu thế hư hỏng này, nhưng sau đó có người viết bài khác lại theo ngay cái vết mòn hầu như dễ làm cho người ta sa ngã ấy. Cũng cần phải lên án một cách nghiêm khắc hiện tượng xấu ở các thành phố lớn như thủ đô Hà Nội, bộ mặt của cả nước, cho phép các loại quảng cáo, các biển hiệu cửa hàng, công ty, khách sạn... bằng chữ nước ngoài, thậm chí không cần chữ Việt. Phải chăng là không có ai làm chủ để chăm lo cho bộ mặt cực kỳ quan trọng của thành phố; hay là do ý thức, do trách nhiệm, do trình độ của những người quản lý nó?

Bây giờ tôi nói mấy điểm về biện pháp để bảo vệ và phát triển tiếng Việt. Trước khi nói đến biện pháp, tôi nghĩ phải thấy được nguyên nhân từ phía chúng ta, vì nói đến giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ, chuẩn hóa nó, phát triển nó - là nói đến tác động tích cực của con người vào quá trình phát triển của ngôn ngữ.

Nói đến con người ở đây, trước hết là mỗi người Việt Nam chúng ta, những người dùng tiếng Việt; các nhà giáo, các nhà văn, nhà báo, các nhà ngôn ngữ học, và rất quan trọng là vai trò lãnh đạo, hoạch định các chính sách về ngôn ngữ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Trong tiếng Việt bây giờ có những biểu hiện không tốt, thiếu trong sáng, sai chuẩn mực, trước hết là do chúng đã coi nhẹ, thậm chí buông lỏng, thả nổi công việc quan trọng này. Chúng ta đã không đầu tư thích đáng trí tuệ, công sức và tiền của để nghiên cứu lý luận và điều tra thực tế về những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ và phát huy bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt. Việc tổ chức thực hiện nhìn chung cũng chưa tốt. Nhưng ở đây quan trọng nhất vẫn là nhận thức, là tình yêu, là lòng quý trọng và thái độ đối với tiếng mẹ đẻ của chúng ta. Mỗi người chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ và phát huy sự trong sáng của nó, không thể tùy tiện, càng không thể để mất gốc, để tiếng Việt bị hoen ố, ô nhiễm.

Về biện pháp thì hiện nay có hai phạm vi quan trọng nhất là nhà trường và xã hội. ở đây cần có những biện pháp đồng bộ, thiết thực. Cụ thể là cần phải:

Chấn chỉnh việc dạy và học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông và đại học; cũng như việc sử dụng tiếng Việt trên sách báo, truyền thanh, truyền hình, thông tin điện tử;

Tăng cường việc biên soạn các sách công cụ về tiếng Việt, nhất là sách Ngữ pháp và Từ điển;
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về chuẩn hóa, về phát triển ngôn ngữ;

Tập trung điều tra khảo sát đời sống ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, nhất là chiều hướng phát triển từ 1975 đến nay.

Riêng đối với Nhà nước thì cần có càng sớm càng tốt một Hội đồng quốc gia về ngôn ngữ, để chăm lo về tiếngViệt, các tiếng dân tộc thiểu số, cũng như về công việc giảng dạy và sử dụng tiếng nước ngoài trên đất nước ta.

Trên đây, tôi đã nêu ra một số suy nghĩ về những vấn đề theo tôi là quan trọng, cần được chú trọng công việc giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt. Để kết thúc một cách có ý nghĩa bài viết "Trở lại vấn đề: Vì sự trong sáng và phát triển của tiếngViệt", tôi muốn liên hệ nó với tình hình hiện nay của nước ta. Tiếng Việt của chúng ta có hai đặc tính rất quý là giàu và đẹp, tự bản thân nó là trong sáng; tiếng Việt sẽ gàu và đẹp hơn nữa nếu chúng ta cố gắng làm tốt việc giữ gìn nó, sử dụng nó và phát triển nó. Với giá trị bản sắc, tinh hoa của nó, tiếng Việt sẽ góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến lên xây dựng từng bước chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chính công cuộc đổi mới toàn diện mà chúng ta đang tiến hành, nói rộng ra là toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta, sẽ tác động trở lại, làm cho tiếng Việt ngày càng phát triển hơn, vậy nghĩa là có mối quan hệ rất khăng khít giữa sự trong sáng của tiếng việt, giữa vai trò và tác dụng của nó trong đời sống xã hội với sự tiến lên của đất nước ta trong thế kỷ tới. Chúng ta cần thấy rõ điều đó để phấn đấu thực hiện cho được một nhiệm vụ cao quý và thiêng liêng là bảo vệ sự trong sáng và phát triển tiếng nói của dân tộc Việt Nam ta.

1. Về các từ "đế chế" và "đế quốc"


Có người dùng những từ ngữ "nước đế quốc", "Chủ nghĩa đế quốc" thay cho từ "đế chế La Mã"; Thí dụ: "Đế quốc La Mã" thay cho từ "đế chế La Mã". Tất nhiên, những từ này đều có chung gốc ngôn ngữ là chữ "đế", nhưng nếu đi sâu vào tìm hiểu về thời điểm lịch sử của chúng, về sự hình thành của chúng, về tính chất và tác dụng của chúng. Thì rất dễ thấy những khác nhau cực kỳ to lớn và sâu xa, không thể nhầm lẫn được. Phải nói là: "đế chế Lã Mã", "đế chế ốttôman", "đế chế Nga", "đế chế Trung Hoa". Có nước như nước Anh vừa là đế chế, vừa là đế quốc.

2. Về các từ "đảng viên" và "quần chúng"


Trước đây khá thông thường bây giờ có ít hơn nhưng vẫn còn nhiều người nói và viết như sau: A là đảng viên; còn B, C, Đ là quần chúng, ý muốn nói rằng người nào không phải đảng viên thì là quần chúng. Tuy nhiên nói như thế có nghĩa là coi quần chúng là dưới đảng viên, hạ thấp vị trí chính trị, ý nghĩa và tác dụng của quần chúng là đông người, nói một người là quần chúng thì không đúng. Phải nói: A là đảng viên; còn B, C, Đ là người ngoài Đảng.

3. Về từ "tên"


Trước đây nhiều người hay dùng, nay có ít hơn, nhưng vẫn còn người dùng từ này với ý nghĩa miệt thị, đặt trước tên riêng của các nhân vật phản động, đối tượng của cách mạng hay những kẻ làm việc xấu xa; thí dụ: tên Hitle. Đáng lẽ chỉ nên gọi Hitle là "Hitle", mà như thế nó vẫn cứ là Hitle với tất cả tội ác của nó trong lịch sử nước Đức và lịch sử của loài người. Lúc tôi viết những cuốn sách đầu tiên về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tối viết tên Bác mà không kèm theo chức danh cao quý gì (cũng như chúng ta từ lâu đã quen dùng cách xưng gọi "Các Mác", "Ăng-ghen", "Lê-nin") thì có những đồng chí bày tỏ với tôi tâm trạng nghẹn ngào, khó chịu. Đến ngày nay, nếu nói: Hồ Chí Minh là một vĩ nhân trong lịch sử nước ta và lịch sử thế giới, thì cũng còn có người chưa yên tâm, chưa thoải mái lắm.

4. Về từ "chính xác"


Về từ này người ta không nói và viết một cách không hợp lý, không biết đâu là chuẩn mực, hằng ngày ở đâu cũng nghe từ này với ý nghĩa cơ bản là "đúng", "trúng"... Vừa qua, nhân sinh nhật bác sĩ Phạm Ngọc Thạch do Bộ Y tế tổ chức, trong bài viết của mình tôi có kể lại lối tiếp xúc người bệnh của Phạm Ngọc Thạch. Khi vào Viện lao khám bệnh, Phạm Ngọc Thạch áp tai mình vào ngực người bệnh để nghe chứ không dùng ống nghe, và tôi có viết rằng Phạm Ngọc Thạch làm như vậy để nghe được "thực" hơn. ở đây chữ "thực" tôi dùng có ý nghĩa là trong trường hợp nào đó và trong chừng mực nào đó thì máy móc không "thực" bằng tai của người thầy thuốc. Đối với người thầy thuốc thì "thực" là quan trọng. Nhưng sau đó người ta sửa từ "thực" thay bằng từ "chính xác". Tôi có biết điều này, tuy nhiên tôi không đề nghị đổi lại, mà để hôm nay mới nói; tôi nghĩ viết và nói cho đúng, cho sáng không phải chuyện dễ dàng.

5. Về các từ "lớn" và "vĩ đại"


Nhiều người nói và viết một cách lẫn lộn, không có sự phân biệt hai từ này. Người ta có thể nói và viết: "nhà văn lớn", "nhà khoa học lớn"; bởi lẽ những người đó có trình độ và có cống hiến quan trọng trong nghề nghiệp của mình. Nhưng ở đây nếu dùng từ "vĩ đại" để đánh giá thì không đúng, không phù hợp, vì từ "vĩ đại" chỉ dùng cho một số ít người có cuộc đời và đức độ rất cao đẹp, có trí tuệ, tài năng và những cống hiến có giá trị và tầm cỡ to lớn, đáng kính phục.

6. Về cách ghép từ


Đây là một hướng làm giàu cho vốn từ tiếng Việt mà theo ý tôi nó rất thú vị như: "nuôi trồng", "xây lắp", "truy quét", "sao chụp"... Tuy nhiên không thể tùy tiện muốn ghép thế nào cũng được. Ví dụ: tiếng ta có các từ ngữ "y sĩ", "bác sĩ", "khám bệnh", "chữa bệnh"; nhưng có người lại muốn gán ghép thành: "y, bác sĩ", "khám, chữa bệnh" (hoặc trong các lĩnh vực khác như "chiến thuật", "kỹ thuật"), "kỹ thuật" thành "chiến, kỹ thuật". Mọi người có thể kể ra nhiều ví dụ khác về cách nói, cách viết rất sai như thế. điều này thường gây khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt; lúc gặp những từ ngữ ghép lại như vừa nói họ phải tra từ điển, nhưng không có cuốn từ điển nào về tiếng Việt có những từ ngữ như vậy.

Tóm lại, ở đây tôi muốn đề cập một vấn đề chung là từ ngữ, hoặc một số từ ngữ nào đó có cách dùng thông thường của nó, cách dùng đúng chuẩn của nó, gắn với lịch sử của nó, với bối cảnh xã hội của nó, không thể tùy tiện vượt qua theo ý riêng của mình.

Sử dụng ngôn ngữ không chỉ cần đúng, hay mà còn phải có nghệ thuật (Nguyễn Đức Tồn)