Hiển thị các bài đăng có nhãn tàiliệunghiêncứu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tàiliệunghiêncứu. Hiển thị tất cả bài đăng

16 tháng 12 2014

SỰ THẬT VỀ NĂM 1937 Ở LIÊN XÔ

Người ta được cho biết rằng "Đại thanh trừng" là chiến dịch thanh trừng chính trị diễn ra tại Liên Xô dưới sự chỉ đạo của Iosif Vissarionovich Stalin thập niên 1930.
Khi quá trình này được thực hiện, Stalin đã củng cố quyền lực của mình ở gần mức tuyệt đối vào năm 1934 với sự sát hại Sergei Mironovich Kirov (việc mà nhiều người ngờ rằng Stalin đã sắp đặt kế hoạch) như một hoàn cảnh để tung ra Cuộc thanh trừng vĩ đại chống lại những kẻ bị cho là đối thủ chính trị và tư tưởng của ông ta, nổi tiếng nhất là những cán bộ cao tuổi và những thành viên từ chức vụ thấp đến cao trong Đảng Bolshevik. Lev Davidovich Trotsky đã bị tống khỏi đảng năm 1927, bị đầy tới Kazakhstan năm 1928 và sau đó bị trục xuất hoàn toàn khỏi Liên Xô năm 1929.
Rằng Stalin đã sử dụng các vụ thanh trừng để hủy hoại về mặt tinh thần và thể chất những đối thủ chính thức khác của ông ta (và cựu đồng minh) buộc tội Grigory Yevseevich Zinoviev và Lev Borisovich Kamenev đứng đằng sau vụ sát hại Kirov và có kế hoạch lật đổ chế độ Stalin. Cuối cùng, những người bị cho là liên quan đến việc này và các âm mưu khác với số lượng hàng chục nghìn người gồm nhiều cựu Bolshevik và thành viên cao cấp của đảng bị buộc tội âm mưu và phá hoại để giải thích cho những vụ tai nạn công nghiệp, sự thâm hụt sản xuất và các tai nạn khác của chế độ Stalin. Các biện pháp để chống lại những người đối lập và bị nghi ngờ gồm việc giam giữ trong các trại lao động (Gulag) tới hành quyết (con trai Trotsky, Lev Sedov và giống như Sergei Kirov - bản thân Trotsky cũng chết dưới bàn tay những kẻ giết người (của Stalin?) năm 1940).
Thời kỳ từ 1936 đến 1937 thường được gọi là "Nỗi khiếp sợ vĩ đại", với hàng nghìn người (thậm chí chỉ đơn giản bị nghi ngờ chống đối chế độ Stalin) bị giết hoặc bị bỏ tù. Stalin nổi tiếng đã đích thân ký 40.000 giấy phép giết hại người tình nghi đối thủ chính trị.
Trong thời kỳ đó, việc thực hiện các cuộc bắt giữ hàng loạt, tra tấn và phạt tù hay hành quyết không cần tòa án, đối với bất kỳ kẻ tình nghi nào là chống đối chính quyền Stalin của cảnh sát mật trở thành chuyện thường tình. Chỉ riêng ước tính của NKVD, 681.692 người đã bị bắn chỉ riêng trong khoảng 1937-1938 (mặc dù nhiều nhà sử học nghĩ rằng con số này vẫn còn dưới mức sự thực), và hàng triệu người đã bị chuyển tới các trại lao động Gulag.
Chúng ta cùng xem: Tài liệu phục vụ nghiên cứu

TN 2013 - 24 & 25: Sự thật về năm 1937 ở Liên Xô

09/01/2014
Bài viết là nội dung cuộc phỏng vấn của bình luận viên Vladimir Sukhomlinov (Báo Văn học, Nga) và nhà sử học nổi tiếng Juri Zhukov về năm 1937 - thời điểm khủng khiếp nhất trong lịch sử Liên Xô, khi “hàng chục triệu người vô tội” trở thành nạn nhân của những cuộc đàn áp đại trà, bị sát hại như “những kẻ thù của nhân dân” theo chỉ thị của “kẻ độc tài Stalin” vốn hành động chỉ cốt để “củng cố quyền lực cá nhân và trừng trị các đối thủ”.

SỰ THẬT VỀ NĂM 1937 Ở LIÊN XÔ

Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhiều sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng ở Nga và phương Tây thường nhắc tới năm 1937-1938 như một thời điểm khủng khiếp nhất trong lịch sử Liên Xô, khi “hàng chục triệu người vô tội” đã trở thành nạn nhân của những cuộc đàn áp đại trà, đã bị sát hại như “những kẻ thù của nhân dân” dường như theo chỉ thị của “kẻ độc tài” vốn hành động chỉ cốt để “củng cố quyền lực cá nhân và trừng trị các đối thủ”. Nhiều con số được dẫn ra, nhiều số phận của những con người cụ thể được kể lại. Song người ta hoặc vô tình hay cố ý bỏ qua một số điểm rất quan trọng là những cuộc trấn áp đã diễn ra trong hoàn cảnh nào, những sự kiện gì ở trong và ngoài nước đã ảnh hưởng tới tình hình ấy và liệu những kết luận được rút ra đã thật khách quan và chính xác? Đó là những vấn đề đang thu hút sự chú ý của các nhà sử học nói riêng và của tất cả những ai quan tâm đến lịch sử nước Nga – Xôviết nói chung. Để cung cấp cho bạn đọc – những người quan tâm đến sự thật lịch sử nhân loại một góc nhìn tương đối còn mới mẻ và khác biệt, NV&TP xin giới thiệu cuộc trao đổi thẳng thắn chung quanh những vấn đề này giữa nhà sử học nổi tiếng Juri Zhukov và bình luận viên Vladimir Sukhomlinov của tờ “L.G.” (Báo Văn. Liên bang Nga). Bài do dịch giả Lê Sơn chuyển Việt ngữ.
***
* Cách đây hơn 30 năm, tôi, lúc đó là một nhà báo trẻ tuổi, đã đàm đạo với Parubok, một phi công thử nghiệm đã lớn tuổi, và chúng tôi cùng nói về năm 1937. Tôi hỏi hồi đó ông ấy ở đâu. Parubok cho biết ông ấy đã sống trong một ngôi làng gần thành phố Kiev, nạn đói đã qua rồi”Mọi người uống rượu say sưa vì phấn chấn”. Có vẻ như những điều đó chẳng ăn nhập gì cả..?
– Điều đó là bình thường! Bởi lẽ, cho đến nay, Nga là một đất nước có lịch sử được huyền thoại hóa về nhiều mặt. Những sự kiện quan trọng đôi khi bị đẩy xuống hàng thứ yếu, còn những sự kiện đập vào mắt hay có lợi về mặt chính trị cho các nhà cầm quyền thì được thổi phồng, được cường điệu hóa. Song cần phải ngắm nhìn bức tranh với tất cả các màu sắc. Hiện nay, đối tượng nào bị chỉ trích là chủ yếu, bởi bất kỳ phái đối lập nào cũng như bởi tất cả mọi người? Đó là quan chức. Lớp người này tuồng như không phải là cộng sản, không phải là bônsêvích. Song tất cả những ai thuộc cánh tả lẫn cánh hữu, kể cả những vị ngồi trong điện Kremli, đều gặp nhau ở một điểm: quan chức – ấy là tai họa cho đất nước! Và vào những năm 1937-1938, khi xảy ra những vụ bắt bớ các quan chức, thì đó trước hết là cú đòn giáng vào lớp người có chức quyền này.
* Gần 500 ngàn quan chức thuộc đủ mọi cấp bậc (trước hết là các cán bộ đảng) bị cách chức và bị trừng trị.
– Đúng thế. Quả là có hai sự việc gắn bó mật thiết với nhau: Bọn quan chức bị ăn đòn và việc công bố bản Hiến pháp năm 1936 vốn được gọi là Hiến pháp Stalin. Tại kho lưu trữ, tôi đã cầm trên tay những trang bản thảo Hiến pháp, và thấy rằng một số điều quan trọng nhất được đích thân Stalin chấp bút. Và mọi người có được bộ luật cơ bản, và biết rằng những kẻ từng đè đầu cưỡi cổ và nhạo báng họ đã bị sa thải và bị tống giam.
Bản Hiến pháp trước đây (được soạn thảo vào năm 1923) bao gồm hai phần. Trong lời mở đầu có nói rõ: thế giới được chia thành hai phe đối địch – phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa. Hai phe này tất yếu sẽ đấu tranh với nhau và mọi người đều thấy rõ ai sẽ thắng. Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xôviết ra đời. Phần chủ yếu cũng được viết theo tinh thần của những năm 1917-1918. Theo luật định thì một bộ phận dân cư đáng kể (bộ phận này thay đổi hàng năm) rơi vào danh sách của cái gọi là những người bị tước đoạt, không có quyền bầu cử. Trước hết, nếu xét theo nguồn gốc xã hội, đó là con cái của địa chủ, hiến binh, những người có huyết thống quý tộc. Ngoài ra đó là tầng lớp phú nông (cu-lắc)…
Trong Hiến pháp mới 1936 hoàn toàn không có sự chia tách thế giới ra làm hai phe đối địch.
Ngoài ra, Đảng chỉ được nhắc tới trong điều 126. Trong chương 10 nói về quyền hạn và nghĩa vụ của công dân. Chẳng hạn quyền thành lập các tổ chức xã hội mà nòng cốt có thể là một tổ chức xã hội như là Đảng Cộng sản. Tiếp theo là hệ thống bầu cử. Trước đây một số người này có quyền bầu cử và ứng cử, còn một số người khác thì không. Và cũng có sự không bình đẳng: một phiếu bầu của công nhân bằng ba phiếu của nông dân nhằm thực hiện nền chuyên chính của giai cấp vô sản. Điều mang tính chất hình thức chủ nghĩa thuần túy này đã bị hủy bỏ.
Giờ nói đến bản thân việc bầu cử. Theo Hiến pháp năm 1923 thì việc bầu cử được thực hiện ở ba cấp (điều này gây khó khăn cho việc tự do bầu cử) và không có sự lựa chọn.
Còn Hiến pháp năm 1936 và luật bầu cử được thông qua vào tháng 7 năm 1937 thì có gì mới?
Một là, không có bất kỳ ai bị tước đoạt, trừ những người bị tòa án tước quyền công dân vì phạm tội. Hai là, quyền phổ thông đầu phiếu, bầu trực tiếp. Mỗi người bỏ phiếu bầu một ứng cử viên cụ thể làm đại biểu Xôviết tối cao mà cả Stalin lẫn Molotov đều công khai gọi là quốc hội. Bầu bằng phiếu kín, có sự lựa chọn. Theo luật định, mỗi một ghế chí ít phải có 2-3 ứng viên. Chính thể lệ bầu cử này đã dẫn tới cái mà hồi đó mọi người gọi là nạn Ezhov, còn hiện nay người ta gọi không đúng là những vụ trấn áp đại trà.
* Tại sao lại không đúng?
– Chữ “repressija” (tiếng Pháp là “repression”) có nghĩa là “sự trừng trị, biện pháp trừng phạt”. Nó không chỉ được áp dụng đối với các đối thủ chính trị mà còn bao hàm cả việc kết tội ai đó vì hành vi ngộ sát, cưỡng bức, cướp bóc, hối lộ, biển thủ… Còn hiện nay, người ta dùng thuật ngữ này để chỉ tất cả những người bị bắt giam, kể cả bọn tội phạm hình sự, những kẻ phản quốc từng phục vụ trong các đơn vị biệt kích SS vào những năm chiến tranh chống phát xít, bọn trộm cắp v.v… Tất tần tật vào cùng một bị. Giết người, cưỡng hiếp cũng là kẻ bị trấn áp, là nạn nhân của cuộc khủng bố mang tên Stalin(?!) Một thủ đoạn rất quỷ quyệt.
Rất phổ biến là những con số từ Solzhenisyn, Razgon, Antonov – Ovsenko. Trong cuốn Chân dung tên bạo chúa, Antonov – Ovsenko thông báo rằng, chỉ từ 1935 đến 1940, số lượng những người bị trấn áp đã xấp xỉ 19 triệu.
* Theo chỗ tôi được biết, con số thực tế không phải vậy, mặc dầu cũng rất lớn. Gần 800 ngàn người bị xử bắn.
– Đúng thế. Bằng ấy người, nhưng từ 1921 đến tận 1953 cơ. Trong đó có 681.692 người trong hai năm 1937-1938.
Solzhenisyn đã đưa ra những con số hoàn toàn viển vông. Ông ta cho rằng trong những năm dưới chính quyền Xôviết có 110 triệu người bị trấn áp. Các nhà xã hội học phương Tây trong những năm chiến tranh lạnh đã đưa ra con số 50-60 triệu. Khi cuộc cải tổ bắt đầu, con số đó được hạ xuống còn 20 triệu.
Ở viện nghiên cứu chúng tôi có một tiến sĩ sử học tên là Viktor Nikolaevich Zemskov. Cùng với các bạn đồng nghiệp trong một nhóm, ông đã dành ra mấy năm, kiểm tra đi, kiểm tra lại những con số thực tế của các cuộc trấn áp, cất trong các kho lưu trữ. Chẳng hạn, những người bị xét xử theo điều 58. Và ông được những kết quả cụ thể. Phương Tây la ó. Và được trả lời: Đây là những tài liệu lưu trữ. Xin mời các ngài! Họ đã đến, đã kiểm tra và buộc phải đồng ý. Với những con số như sau:
Năm 1935, theo điều 58, có tất cả 267 ngàn người bị bắt và bị kết tội, trong số đó có 1229 người bị xử bắn. Tương ứng trong năm 1936 là 274 ngàn và 1118. Tiếp đó là cao trào. Trong năm 1937, có hơn 790 ngàn người bị bắt và bị kết tội theo điều 58, hơn 353 ngàn người bị xử bắn. Trong năm 1938 – hơn 554 ngàn người bị bắt và bị kết tội, hơn 328 ngàn người bị xử bắn. Sau đó là thoái trào. Trong năm 1939 – gần 64 ngàn và 2552. Trong năm 1940 – gần 72 ngàn và 1649.
Tổng cộng lại, trong thời kỳ từ năm 1921 đến 1953 có 4.060.306 người bị kết tội, trong số đó 2.634.397 người bị phạt tù và bị đưa vào trại cải tạo. Chỉ còn lại một câu hỏi: tại sao đặc biệt vào năm 1937-1938 lại xảy ra những chuyện khủng khiếp thế?
* Tất nhiên rồi, điều đó khiến cho mọi người quan tâm như trước đây.
– Trước hết: ai có lỗi? Mọi người bảo: Stalin. Đúng thế. Với tư cách là người lãnh đạo cao nhất của đất nước, ông phải chịu trách nhiệm chính. Song tất cả những chuyện đó đã xảy ra như thế nào?
Tháng 6 năm 1937. Đại hội các Xôviết cần phải được tiến hành. Trước đó đã diễn ra Hội nghị toàn thể của UBTW đảng để thảo luận về luật bầu cử. Trước Hội nghị này, các bí thư thứ nhất của Tỉnh ủy, Khu ủy liên tục gửi điện lên TW xin phép được bắt các kỹ sư, các cán bộ lãnh đạo nhà máy.
Stalin lần nào cũng trả lời vắn tắt và dứt khoát: Tôi không cho phép. Nhưng sau Hội nghị toàn thể, Stalin đã đồng ý. Về việc gì? Về cái việc mà “các nhà dân chủ” của chúng ta ngày nay cố lờ đi.
Ngay sau Hội nghị TW (vốn ủng hộ luật bầu cử mới, cử tri được quyền lựa chọn các ứng cử viên), những bức điện mật tới tấp được gửi tới Moskva. Các bí thư Tỉnh ủy, Khu ủy, Ủy ban TW đảng cộng sản ở các nước cộng hòa hỏi về cái gọi là những giới hạn. Số lượng những người mà họ có thể bắt và xử bắn hoặc đưa đi phát vãng. Người hăng hái nhất trong việc này là “nạn nhân của chế độ Stalin” Eikhe mà hồi đó giữ chức bí thư thứ nhất khu ủy miền Tây Sibiri. Ông ta xin phép bắn 10.800 người. Đứng ở hàng thứ hai là Khrushchev hồi đó đứng đầu tỉnh ủy Moskva: ông ta chỉ xin phép bắn “vẻn vẹn” 8.500 người. Đứng ở hàng thứ ba là bí thư thứ nhất khu ủy Azov – Hắc Hải (nay là vùng sông Đông và Bắc Kavkaz) Evdokimov: xin phép bắn 6.640 người và đưa đi trại cải tạo gần 7 ngàn. Các bí thư khác cũng hiếu sát như vậy, nhưng với những con số ít hơn. Một ngàn rưỡi, hai ngàn người…
Sau đó nửa năm, khi Khrushchev làm bí thư thứ nhất UBTW đảng Cộng sản Ukraina, trong một công văn khẩn đầu tiên gửi đến Moskva, ông ta xin phép bắn 20.000 người! Mà đó chỉ là lần đầu (!).
* Họ nêu lên những lý do gì để biện minh cho yêu cầu của mình?
– Chỉ một lý do: họ viết rằng Bộ dân ủy nội vụ (NKVD) vừa mới phát hiện ra một tổ chức vũ trang bí mật đang chuẩn bị nổi loạn. Nghĩa là không thể bầu cử có lựa chọn, chừng nào những tổ chức dường như có tính mưu phản ấy chưa bị tiêu diệt.
Có một điều cũng đáng chú ý, là chuyện đó đã diễn ra ngay trong Hội nghị TW khi thảo luận về luật bầu cử. Không ai dám phát biểu phản đối công khai, nhưng không hiểu sao hầu như tất cả những nhân vật “hiếu sát” hàng đầu đó lặng lẽ từng người một đến gặp riêng Stalin tại phòng làm việc của ông ngay trước khi Hội nghị khai mạc. Lần thì một người, lần thì hai, ba người… Sau những cuộc viếng thăm riêng lẻ đó, Stalin đành phải đầu hàng.
Tại sao? Điều này có thể hiểu được.
Vào thời gian đó, Stalin nhận thức rõ rằng Ezhov, Bộ trưởng dân ủy nội vụ, trên thực tế không phục tùng ông.
* Không thể tin được điều đó!
– Tại sao? Với tư cách là nguyên bí thư thứ nhất của tỉnh ủy, Ezhov đã vào hùa với những người đồng cấp khác. Điều đó có nghĩa: nếu Stalin khước từ những yêu sách của họ thì một ai đó trong số các ủy viên TW sẽ bước lên diễn đàn và tuyên bố: “Các đồng chí! Tất cả những hành vi của Stalin vào thời gian gần đây đã cho thấy rằng ông ta là kẻ xét lại, là phần tử cơ hội, ông ta đã phản bội sự nghiệp của Cách mạng tháng Mười, đã phản bội những lời di huấn của Lênin, đã phản bội cuộc Cách mạng của chúng ta”. Và diễn giả sẽ đưa ra không phải một mà là hàng chục dẫn chứng.
* Như vậy là Stalin hoặc là đã hèn nhát vì sợ mất quyền lực hoặc là có kế sách riêng của mình. Còn có những lý do nào nữa?
– Tôi xin đưa ra mấy ví dụ. Tháng 9 năm 1934, Liên Xô gia nhập Hội quốc liên, một tổ chức mà trước đó được bộ máy tuyên truyền của chúng ta coi là công cụ của chủ nghĩa đế quốc. Tháng 5 năm 1935, Liên Xô ký hiệp ước với Pháp và Anh về phòng thủ chung, trong trường hợp Đức mở cuộc xâm lược.
Tháng 1 năm 1935, có thông báo về việc xem xét lại Hiến pháp. Và sau đó ít lâu, thông qua “một nhóm đồng chí”, người ta đã biết sẽ có những thay đổi nào.
Tháng 6 năm 1935, Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ bảy, đại hội cuối cùng, chuẩn bị nhóm họp. Người lãnh đạo của tổ chức này là Georgi Dimitrov tuyên bố: từ nay trở đi, những người cộng sản muốn nắm chính quyền thì cần phải tiến hành không qua biện pháp cách mạng, mà bằng con đường dân chủ, thông qua bầu cử. Ông đề nghị thành lập mặt trận nhân dân: những người cộng sản cùng với những đảng viên xã hội và những đảng viên dân chủ. Bước ngoặt đó, theo quan điểm của những người Bônsêvich cứng rắn, là một tội lỗi: những người cộng sản đi lại câu kết với kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản là những nhà xã hội dân chủ.
* Cái công thức cứng nhắc: chủ nghĩa cộng sản – chủ nghĩa đế quốc đã bị sụp đổ.
– … Cuối năm 1935, Stalin trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Howard. Ông cho biết sắp sửa có Hiến pháp mới, hệ thống bầu cử mới, và sẽ có cuộc đấu chọi khốc liệt giữa các ứng cử viên, bởi lẽ họ được giới thiệu không phải chỉ bởi đảng cộng sản mà còn do bất cứ một tổ chức xã hội nào, thậm chí do một nhóm người đề nghị.
Lập tức giữa các ủy viên TW đã có những lời ong tiếng ve: chẳng nhẽ cả các cha đạo cũng có thể được đề cử ư? Họ liền được trả lời: Tại sao không? Cả bọn cu-lắc nữa ư? Không phải bọn cu-lắc, mà là nhân dân – họ được giải thích. Tất cả những điều đó đã khiến những người theo phái đảng trị đâm hoang mang lo sợ.
Một bộ phận đáng kể các bí thư thứ nhất hiểu rằng, họ đã làm nhiều điều xằng bậy. Một là, đã xảy ra những hành động quá trớn với quy mô cực lớn trong việc tập thể hóa. Hai là, đã có những sai lầm nghiêm trọng trong phần đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Rất nhiều bí thư đảng ủy là những người kém văn hóa. Vậy làm sao họ có thể giám sát việc xây dựng những công trình công nghiệp khổng lồ. Họ ra sức chỉ đạo mà chẳng hiểu gì. Bởi vậy điều đó đã làm gia tăng sự bất mãn từ phía nông dân, công nhân, kỹ sư, và bản thân họ cũng cảm nhận rõ tình hình ấy.
* Đã hình thành một đội ngũ kỹ thuật, đã có nhiều sự thay đổi, khó lòng mà che giấu được điều gì.
– Những người lãnh đạo đảng ở các địa phương sợ rằng, nếu diễn ra cuộc bầu đúng nghĩa thì cùng với họ sẽ xuất hiện thêm một vài ứng viên khác nữa. Có thể họ sẽ không trúng. Mà đã không là đại biểu Xôviết tối cao, thì có nghĩa là ngồi chơi xơi nước chờ đến khi Ban tổ chức TW ở Moskva bảo: “Đồng chí này, nhân dân không ủng hộ đồng chí nữa. Vậy đồng chí hãy tìm một công việc nào hợp với sức mình hoặc chịu khó đi học nhé!”. Vào những năm đó, Stalin đã nhiều lần nói: Không hiểu sao, một người giữ chức vụ cao lại cho rằng, cái gì mình cũng biết nhưng kỳ thật thì chẳng biết gì. Đó là một sự ám chỉ thẳng thừng khiến cho phái đảng trị giật mình, phải cảnh giác.
Và họ đã liên kết lại với nhau như bất kỳ một phường hội nào, buộc Stalin phải hủy bỏ từ cuộc bầu cử có lựa chọn vào năm 1937, và, xét về thực chất, đã hạ uy tín của ông.
Người ta đã thử ngừng các cuộc trấn áp trong tháng 2 năm 1938, tại Hội nghị TW thường kỳ. Malenkov, Trưởng ban tổ chức TW đã phát biểu, công khai phê phán những người đặc biệt hăng hái trong việc này. Ông hỏi Postyshev (trước công tác tại Ukraina, nay là bí thư thứ nhất tỉnh Kuibyshev): Trong tỉnh mình, đồng chí đã lần lượt bỏ tù tất cả các cán bộ của chính quyền, của đoàn thanh niên Komsomol, của tổ chức đảng, vậy đồng chí còn định bắt giam bao nhiêu người nữa? Postyshev thản nhiên: “Tôi đã, đang và sẽ còn bắt giam nữa. Đó là trách nhiệm của tôi”. Malenkov hỏi Bagirov, bí thư thứ nhất Azerbaidzhan: Tại sao đồng chí lại có thể ký lệnh bắt giam và xử bắn, song thậm chí không ghi rõ danh tính mà chỉ ghi số lượng những người bị bắt và bị xử bắn. Bagirov lặng thinh.
Stalin cần khẩn cấp sa thải Bộ trưởng dân ủy nội vụ Ezhov là kẻ đã tiến hành những vụ trấn áp vô tiền khoáng hậu. Trước hết, ông cho gọi Berija từ Tbilisi, là người vừa được chọn làm bí thư đảng ủy vùng Zakavkaz’e, đến Moskva để giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh quốc gia, một bộ phận của Bộ dân ủy nội vụ chuyên việc trừng phạt. Berija không thể hợp tác được với Ezhov. Cuối tháng 11 năm 1938, Ezhov được mời đến gặp Stalin. Trong phòng lúc đó có cả Voroshilov và Molotov. Sau nhiều giờ trao đổi thẳng thắn, và cả thuyết phục, Ezhov buộc phải viết đơn xin từ chức. Và Berija được bổ nhiệm làm Bộ trưởng dân ủy nội vụ.
Ngay sau đó, hơn một triệu người được thả khỏi các trại cải tạo. Đồng thời Berija tiến hành thanh lọc Bộ dân ủy nội vụ. Trong bộ này, phần lớn dân Do Thái có trình độ văn hóa thấp thuộc diện cán bộ cao cấp và trung cấp. Hầu như tất cả bọn họ đều bị sa thải.
Một lớp cán bộ mới đã tốt nghiệp đại học hoặc đang học dở năm thứ ba, năm thứ tư, chủ yếu là người Nga, được tuyển dụng. Lúc ấy, những vụ bắt bớ mới bắt đầu giảm hẳn.
Khi chúng ta nói về điều 58 thì không nên quên một chuyện. Một nữ đồng nghiệp của tôi là chị Galina Mikhailovna Ivanova, tiến sĩ sử học, đã có một phát hiện đáng chú ý để hiểu rõ hơn về thời kỳ đó. Trước và sau chiến tranh, những tên tội phạm chuyên nghiệp, theo quy định, không được làm việc. Và chúng cũng không làm việc. Nhưng cứ nửa năm một lần, tòa án lưu động lại ghé thăm các trại giam và xem xét các vụ phạm nhân vi phạm chế độ thụ án. Những ai từ chối làm việc thì bị kết tội phá hoại ngầm. Mà tội phá hoại ngầm là thuộc điều 58. Bởi vậy, cần phải thấy rằng, bị xét xử theo điều luật này không chỉ có những kẻ thù chính trị của “nhóm Stalin” hoặc những người bị quy vào điều đó, mà còn có cả những phạm nhân từ chối làm việc. Và, lẽ dĩ nhiên, có cả những tên gián điệp chính cống, những tên biệt kích, mà loại tội phạm này không phải là ít.
Không thể không nhắc tới một sự kiện là vào tháng 5 năm 1937, đã diễn ra vụ án về cái gọi là mưu phản trong Bộ dân ủy quốc phòng (NKO).
Sau này lưu truyền một huyền thoại rằng, gần như toàn bộ đội ngũ cán bộ chỉ huy cốt cán của quân đội và hải quân đều bị trấn áp. Nhà nghiên cứu O.F. Suvenirov đã cho ra một cuốn sách với những số liệu (không trừ một ai) về các quân nhân bị bắt vào những năm 1935-1939: Danh tính, ngày sinh, chức vụ, khi nào bị bắt, án phạt. Một cuốn sách dày cộm. Té ra 75 phần trăm những quân nhân bị trấn áp chỉ là các chính ủy, các luật sư quân đội, cán bộ quân nhu, bác sĩ quân y, kỹ sư quân đội… Bởi thế ý kiến cho rằng dường như toàn bộ ban chỉ huy quân đội đã bị xóa sổ là một câu chuyện hoang đường.
… Có một chi tiết đáng chú ý. Khi Stalin báo cáo tại Hội đồng quân sự về “vụ mưu phản mang tính chất chính trị – quân sự” thì ông chú mục vào một điểm: vụ mưu phản trong Bộ dân ủy quốc phòng là phần kết thúc của một vụ án khác xảy ra vào năm 1935 mang cái tên “Mớ bòng bong”.
* Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng hiểu vụ án đó là như thế nào.
– Cuối năm 1934, anh rể của Stalin (trong cuộc kết hôn đầu tiên) từng công tác trong lãnh vực tài chính, đã viết thư cho Stalin thông báo rằng, đang có một vụ mưu phản chống lại nhóm trung ủy của ông. Những ai có chân trong nhóm ấy? Bản thân Stalin, Molotov – người đứng đầu chính phủ, Ordzhonikidze – người chỉ đạo việc xây dựng ngành công nghiệp nặng, Voroshilov – bộ trưởng bộ dân ủy quốc phòng, Litvinov – bộ trưởng bộ dân ủy ngoại giao, người thi hành chính sách tích cực nhằm xích gần lại với các chế độ dân chủ phương Tây, Vyshinski, Viện trưởng Viện kiểm sát Liên Xô từ năm 1935, người đã trả tự do cho tất cả những ai bị trục xuất khỏi Leningrad sau vụ Kirov bị sát hại, đã thả gần 800 ngàn nông dân bị lâm nạn bởi cái gọi là “vụ án ba bông lúa”. Nằm trong nhóm này còn có Zhdanov, người đã thay thế Kirov ở Leningrad, và hai nhân vật rất quan trọng trong bộ máy của UBTW đảng: Steski, trưởng ban tuyên truyền cổ động và Jakovlev (Egshtein), người sáng lập hai tờ báo được phổ biến rộng rãi nhất – “Nông báo” và “Dân nghèo”, một ký giả có tài. Cũng như Steski, Jakovlev là ủy viên Ủy ban Hiến pháp, nhưng chủ yếu là tác giả của bộ luật bầu cử.
Sau Hội nghị TW năm 1937 đã được nhắc tới mà ở đó những người theo phái đảng trị chỉ bề ngoài ủng hộ luật bầu cử, Steski và Jakovlev bị bắt và bị xử bắn. Người ta không nhắc tới hai nhân vật này, nhưng lại than khóc cho số phận của Tukhachevski, Uborevich, Jankir** và những người khác.
* Tôi đã từng nghe một định nghĩa: năm 1937 là ngày hội trừng phạt đối với đội cận vệ của Lênin, còn năm 1934 và năm 1935 là sự chuẩn bị cho ngày hội đó.
– Một nhà thơ vốn tư duy bằng hình tượng thì có thể nói như vậy. Nhưng vấn đề ở đây đơn giản hơn. Thậm chí sau khi Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, Lênin, Trotski, Zinov’ev và nhiều người khác không suy nghĩ một cách nghiêm túc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi ở nước Nga lạc hậu. Họ đặt hy vọng vào những nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Đức, Anh, Pháp. Bởi lẽ chính nước Nga dưới thời Sa hoàng, xét về trình độ phát triển công nghiệp, đã đứng sau nước Bỉ nhỏ tí xíu. Người ta đã quên mất điều đó. Và lấy làm tự hào về nước Nga(!). Nhưng trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ I, chúng ta đã phải mua vũ khí của người Anh, người Pháp, người Nhật, người Mỹ.
Ban lãnh đạo Bônsêvích chỉ hy vọng vào cách mạng ở Đức. Về điều này Zinov’ev đã viết rất rõ trên tờ “Pravda”. Ông ta nói rằng chỉ khi nào nước Nga liên kết với nước Đức thì nó mới có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội.
Trong khi đó, ngay từ mùa hè 1923, Stalin đã viết cho Zinov’ev: “Thậm chí chính quyền từ trên trời rơi vào tay đảng cộng sản Đức thì nó cũng không thể giữ nổi”. Stalin là người duy nhất trong giới lãnh đạo không tin vào Cách mạng Thế giới. Ông cho rằng sự quan tâm chủ yếu của chúng ta là nước Nga Xôviết.
Chuyện gì xảy ra tiếp đó? Cách mạng không nổ ra ở Đức. Còn ở ta có Chính sách kinh tế mới (NEP). Sau mấy tháng, đất nước đã khóc rống lên. Các xí nghiệp đóng cửa, hàng triệu người thất nghiệp. Các công nhân còn việc làm thì được lĩnh lương chỉ bằng 10-20% số tiền họ được lĩnh trước cách mạng. Đối với nông dân thì chế độ trưng thu lương thực thừa được thay bằng thuế lương thực, song thứ thuế này cao đến mức nông dân không chịu nổi. Nạn trộm cướp gia tăng. Để có lương thực nộp thuế và nuôi gia đình, những người bần nông đã liều lĩnh tấn công các đoàn tầu hỏa. Tệ nạn này cũng phổ biến trong giới sinh viên: để có tiền ăn học, họ đã trấn lột bọn nhà giàu phất lên nhờ chính sách kinh tế mới. NEP đã dẫn tới kết quả gì? Nó đã làm hư hỏng các cán bộ của đảng, của chính quyền Xôviết. Nạn hối lộ tràn lan khắp nơi. Chủ tịch Xôviết nông thôn, cảnh sát đều ăn tiền trong bất cứ một dịch vụ nào. Các giám đốc nhà máy sửa chữa nhà cửa của mình và mua sắm những đồ xa xỉ bằng tiền của xí nghiệp. Cứ như thế từ 1921 đến tận 1928…
Trotski và cánh tay phải của ông ta trong lĩnh vực kinh tế là Preobrazhenski đã nghĩ cách chuyển ngọn lửa cách mạng sang châu Á và đào tạo cán bộ tại những nước cộng hòa phương Đông của nước Nga, đồng thời cấp tốc xây dựng ở đó những nhà máy để “bồi dưỡng” giai cấp vô sản ở địa phương.
Stalin đưa ra một phương án khác: xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước riêng biệt. Hơn nữa, ông chưa lần nào nói, bao giờ thì chủ nghĩa xã hội sẽ được xây dựng xong. Ông bảo: xây dựng! Sau đó một vài năm, nói rõ thêm: cần phải xây dựng nền công nghiệp trong 10 năm. Ngành công nghiệp nặng. Nếu không thì chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Ý kiến đó được phát biểu vào tháng 2-1931. Stalin hơi bị nhầm lẫn một chút về thời gian. Sau 10 năm và 4 tháng, nước Đức đã tấn công Liên Xô.
Sự khác biệt giữa nhóm của Stalin và những người Bônsêvich cứng rắn mang tính chất nguyên tắc. Dù họ thuộc cánh tả như Trotski và Zinov’ev hay thuộc cánh hữu như Rykov và Bukharin – điều đó không quan trọng. Tất cả bọn họ đều đặt niềm hy vọng vào cách mạng ở châu Âu… Do đó, thực chất của vấn đề không phải là trừng trị, mà là đấu tranh gay gắt để xác định đường lối phát triển đất nước.
* Ông muốn nói rằng cái thời kỳ, mà dưới con mắt của nhiều người được coi là thời kỳ xảy ra những vụ trấn áp của Stalin, xét về một phía khác, là sự cố gắng nhằm xây dựng chế độ dân chủ nhưng không thực hiện được do nhiều nguyên nhân?
– Hiến pháp mới phải dẫn tới điều này. Stalin hiểu rằng đối với con người ở thời kỳ ấy thì chế độ dân chủ là một cái gì đó chưa thể đạt tới được. Bởi lẽ đối với một học sinh lớp một thì không thể đòi hỏi những kiến thức của toán cao cấp. Hiến pháp năm 1936 là một bộ y phục quá rộng, may để phòng hao. Hãy lấy tình hình nông thôn làm một ví dụ. Sẽ được thành lập Ủy ban đường phố, các cư dân của 10 – 12 hộ bầu ra một người chịu trách nhiệm về tình trạng làng xóm. Tự mình cai quản nhau. Không ai ra lệnh cho họ cả. Đó là ý đồ học cách quan tâm đến cộng đồng, đến nề nếp trật tự công cộng. Và sau đó cứ thế mà đi tiếp… Mọi người quen dần với việc tự quản. Chính vì thế, dưới chính quyền Xôviết, hệ thống quyền lực được áp đặt từ trên xuống theo chiều thẳng đứng sẽ dần dần bị triệt tiêu.
Nhưng chúng ta đã bị tước mất tất cả những điều đó bởi những cải cách giả hiệu vào đầu những năm 90. Cần phải hiểu rằng chúng ta đã mất đi những cơ sở của nền dân chủ. Hiện nay người ta bảo: chúng tôi trả lại việc bầu chọn những người đứng đầu cơ quan hành chính, việc bầu chọn các thị trưởng, việc bầu chọn trong đảng cầm quyền… Nhưng, thưa các bạn, điều đó đã từng có, chúng ta đã từng có tất cả những thành tựu ấy.
Stalin, khi bắt đầu những cải cách chính trị vào năm 1935, đã phát biểu một tư tưởng quan trọng: “Chúng ta cần phải giải phóng Đảng, thoát khỏi hoạt động kinh tế”. Nhưng ông liền nói rõ thêm rằng, việc đó sẽ không nhanh chóng được đâu. Malenkov cũng đã nói về điều này tại Hội nghị TW lần thứ 18 vào tháng 2-1941. Lại còn một sự kiện vào tháng 1-1944, Hội nghị TW duy nhất trong những năm Vệ quốc. Bộ Chính trị đã nhóm họp trước đó, xem xét bản dự thảo nghị quyết do Stalin, Molotov, Malenkov ký. Bản dự thảo gồm 5 trang, nói rõ: Các khu ủy, tỉnh ủy, huyện ủy, thành ủy đã tuyển dụng những cán bộ thông minh nhất và tài năng nhất, nhưng chả đem lại lợi ích gì. Họ ra lệnh về tất cả những vấn đề của cuộc sống, nhưng nếu như thực hiện sai thì các cơ quan Xôviết là những người chấp hành phải chịu trách nhiệm. Bởi vậy bản dự thảo đề ra việc: nên giới hạn hoạt động của các đảng ủy ở việc tuyên truyền, cổ động và tham gia vào công tác tuyển chọn cán bộ. Tất cả những phần việc còn lại là công việc của các cơ quan chính quyền (tức các Xôviết). Bộ Chính trị đã bác kiến nghị đó, mặc dầu nó mang ý nghĩa của việc cải cách Đảng.
Còn sớm hơn nữa, vào năm 1937, khi thảo luận về luật bầu cử, Stalin đã đưa ra một nhận xét: “Thật may, hoặc không may, là chúng ta chỉ có một Đảng”. Rõ ràng, trong một thời gian dài ông đã trở đi trở lại với suy nghĩ là cần phải đưa các cơ quan của chính quyền nhà nước thoát khỏi sự giám sát quá cứng nhắc của Đảng. Nhưng ông đã qua đời và không đạt được ý tưởng này.
* Tiện thể xin nói thêm rằng sau cái chết của Stalin, tiêu điểm của sự chú ý thường được chuyển sang những sự kiện như việc Berija bị bắt và bị xử bắn. Liệu có phải đó là sự kiện quan trọng nhất không?
– Sau khi Stalin qua đời, người đứng đầu chính phủ Liên Xô là Malenkov, một trong những chiến hữu gần gũi nhất của Stalin, đã cắt bỏ những khoản trợ cấp ưu đãi đối với tầng lớp cán bộ cao cấp của đảng. Chẳng hạn, việc cấp phát hàng tháng một món tiền (“phong bao”) gấp hai, ba lần, có khi tới năm lần so với số tiền lương. Và những tiêu chuẩn nhà điều dưỡng, xe ô tô riêng, chế độ phục vụ đặc biệt… Đồng thời nâng lương cho các cán bộ cơ quan nhà nước lên 2-3 lần. Các cán bộ đảng, theo thang giá trị phổ biến, trở nên thấp hơn nhiều so với các cán bộ nhà nước.
Đợt tiến công vào những quyền lợi ngấm ngầm của tầng lớp cán bộ đảng cao cấp kéo dài được ba tháng. Các cán bộ này liền cấu kết với nhau và lên tiếng khiếu nại với bí thư TW Khrushchev. Họ yêu cầu được hưởng chí ít một chút gì mà những người khác không có.
Khrushchev đã hủy bỏ quyết định ấy, tất cả “những mất mát” được hoàn lại cho tầng lớp cán bộ cao cấp của đảng một cách hậu hĩnh. Và Khrushchev, tại Hội nghị TW tháng chín, được nhất trí bầu làm Bí thư thứ nhất, mặc dầu tại Hội nghị TW tháng ba, mọi người đã quyết định xóa bỏ chức vụ này và chuyển sang chế độ lãnh đạo tập thể.
Sau đó ít lâu, Malenkov được điều đến làm việc ở Ural. Bắt đầu một thời kỳ thỏa hiệp vô nguyên tắc – nếu nói về hệ thống cấu trúc nội tại của chính quyền, khi tầng lớp cán bộ cao cấp của Đảng (bằng việc thuyên chuyển quanh co từ các cơ quan Nhà nước sang các cơ quan Đảng và ngược lại) càng ngày càng trở nên lộng hành hơn. Và đánh mất khả năng cảm nhận được thời đại, khiến cho đất nước ngừng phát triển. Hậu quả là tình trạng trì trệ, là sự thoái hóa của Chính quyền đã dẫn tới những biến cố năm 1991 và 1993.
* Như vậy là những quyết định vừa được nhắc tới của Malenkov – đó là những hoài bão không thực hiện được của Stalin?
– Có rất nhiều cơ sở để coi là hư vậy.
* Đó là sự phục thù thực sự của tầng lớp cán bộ đảng cao cấp nhằm trả đũa.
– Tất nhiên rồi. Đánh giá những năm đó, ta có thể khẳng định rằng, Stalin mong muốn tạo ra một nền kinh tế hùng mạnh và đã đạt được điều đó. Chúng ta đã trở thành một trong hai siêu cường, dù chỉ sau khi ông qua đời, nhưng chính ông là người đặt nền móng.
Ông mong muốn hạn chế bớt quyền lực của các quan chức, ông cố gắng bồi dưỡng nền dân chủ cho nhân dân để nó được thực hiện, dù phải qua mấy thế hệ nữa, song ông ao ước nó thấm vào máu thịt của nhân dân. Tất cả những điều này đã bị Khrushchev hủy bỏ. Sau đó là cả Brezhnev… Kết quả là bộ máy của Đảng và bộ máy của Nhà nước nhập làm một, với phong cách của chế độ đảng trị: lãnh đạo nhưng không hề chịu trách nhiệm. Trước đây còn có những đòn bẩy kiểm tra. Chẳng hạn nếu ở nơi anh sống có chuyện gì không ổn, mà đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, anh có thể khiếu nại đến quận ủy, ở đó người ta sẽ xem xét. Từng tồn tại Ủy ban kiểm tra Xôviết, Ủy ban kiểm tra nhân dân. Đó cũng là công cụ giám sát các quan chức.
Sau vụ phản cách mạng năm 1991 – 1993, các quan chức được giải phóng khỏi mọi kiểu giám sát có thể có, do đó họ tha hồ lộng hành và ngày càng trở nên tệ hại hơn.
***
Lê Sơn giới thiệu và dịch
(Theo Literaturnaja Gazeta, số 28, tháng 7/2012)
• JURI NIKOLAEVICH ZHUKOV (sinh năm 1938), nhà sử học Nga, tiến sĩ các khoa học lịch sử, nghiên cứu viên cao cấp của Viện lịch sử Nga trực thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga (RAN). Tác giả của nhiều công trình về lịch sử Liên Xô, về Stalin và “thời kỳ Stalin.
• **Tukhachevski M.N (1893 – 1937) Nguyên soái Liên Xô. Ubrevich I.P (1896 – 1937) Tư lệnh tập đoàn quân, Jankir I.E (1896 – 1937) Tư lệnh tập đoàn quân. Cả ba người này bị kết tội tham gia vào vụ mưu phản và đều bị xử bắn năm 1937(LS)
Nguồn: Sự thật về năm 1937 ở Liên Xô - Lê Sơn - Tạp chí Nghiên cứu lịch sử - Số 8 - 8/2013 - Tr. 71 - 79

Liên quan:

MỘT KHÍA CẠNH Ở NHÀ BÁO VŨ TRỌNG PHỤNG:
NGƯỜI LƯỢC THUẬT THÔNG TIN QUỐC TẾ

Lại Nguyên Ân
Cách đây hơn ba chục năm, việc phát hiện ra rằng trong di sản Vũ Trọng Phụng có một bài báo dài nhan đề Nhân sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ…(1937) đã tạo thuận lợi quyết định cho ý đồ loại trừ Vũ Trọng Phụng khỏi văn học sử nước nhà. Đương nhiên, việc lấy những phát ngôn chính luận thay thế các sáng tác văn học của cùng một tác giả văn học nhằm định giá tác giả ấy − bản thân phương thức đó đã là không xác đáng trong nghiên cứu văn học. Tuy vậy, chúng tôi không có ý định đề nghị giới nghiên cứu bỏ qua các phát biểu chính luận của nhà văn, dẫu sự nghiệp của nhà văn chủ yếu là các sáng tác nghệ thuật.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng, ông không chỉ có những phát biểu theo lối tùy hứng, "tạt ngang", phụ trợ. Đối với ngòi bút ông, chức phận nhà văn và chức phận nhà báo là đồng thời, song song, ít nhất là do mưu sinh: ông không có thu nhập nào khác ngoài những gì được trả cho ngòi bút đã trót chuyên nghiệp hóa của mình.
Tuy nhiên, đề tài nhà báo Vũ Trọng Phụng vẫn còn là quá rộng đối với tôi lúc này. Tôi chỉ dám đề cập đến một khía cạnh nhỏ nhân đọc lại bài báo dài nêu trên, để hình dung đôi nét về ông như một người tóm lược thời sự quốc tế. Tôi cho sẽ là thú vị cho chúng ta khi đọc lại bài báo này ở thời điểm hôm nay, với những thông tin mới, những gợi mở mới cho cách nhìn mà chỉ công cuộc cải tổ của Liên Xô cũng như tinh thần đổi mới ở ta mới có thể đem lại cho chúng ta.
1/ Để thuận tiện bước đầu, chúng tôi thấy cần phải cho rằng: Việc giới nghiên cứu từ những năm 1960 trở đi căn cứ vào bài báo dài này và một số trích dẫn khác trong tác phẩm báo chí và văn học của Vũ Trọng Phụng để kết luận về thái độ chính trị "đả kích cộng sản, bôi nhọ Liên Xô" của nhà văn − xin tạm coi kết luận ấy là có thể hiểu được. Cứ giả định rằng bài viết nói trên của Vũ Trọng Phụng đã có tác dụng xấu đối với phong trào cách mạng đương thời. Điều chúng ta quan tâm là: ngoài tác hại khách quan ấy, bài báo trên còn những gì khả thủ về mặt thông tin các hiểu biết lịch sử ở bên ngoài biên giới nước mình? Và đối chiếu với tư liệu quốc tế ngày hôm nay thì sự thông tin của Vũ cách đây nửa thế kỷ trùng hợp hay sai lệch với mức độ ra sao?
2/ Đọc lại bài báo dài này của Vũ Trọng Phụng, chúng ta sẽ thấy đây là hình thức lược thuật, bình thuật, tổng thuật tình hình. Văn tài của tác giả có vẻ như ở đây không bộc lộ gì nhiều. Chỉ là một cách kể chuyện với độc giả trong nước về một đề tài thời sự-lịch sử quốc tế. Khối lượng tài liệu tác giả sử dụng hẳn là không nhỏ. Qua cách lược thuật của Vũ Trọng Phụng, có thể thấy sự kiện cách mạng tháng Mười và sự ra đời và tồn tại của nhà nước Xô Viết đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhà báo Vũ Trọng Phụng. Cũng qua đây, có thể thấy thiện cảm (chứ không phải ác cảm) của Vũ Trọng Phụng đối với nhà nước công nông đầu tiên này trên thế giới. Đặc biệt Vũ Trọng Phụng tỏ ra thán phục không che dấu đối với tài năng và nghị lực của Lênin (mà có chỗ ông mệnh danh là "đấng Cứu thế Đỏ"). Ông cũng tỏ ra hết sức thông cảm với những khó khăn khổng lồ mà chính quyền vô sản non trẻ ở nước Nga vấp phải, ông tỏ ra khâm phục sức lực và ý chí của nhân dân Nga trong việc theo đuổi lý tưởng cộng sản (xin khỏi dẫn các đoạn của bài báo, cho gọn).
Bài báo được viết năm 1937, gần như ngay sau "vụ án Moscou" chấn động thế giới. Qua bài viết có thể thấy chính Vũ Trọng Phụng cũng tỏ ra bàng hoàng trước cái việc mà ông gọi là "cuộc xâu xé của những tay đồng chí cũ". Tuy vậy bài báo của ông không chứng tỏ là ông xoay ngược thái độ thiện cảm của ông đối với cách mạng tháng Mười và nhà nước kiểu mới. Vũ Trọng Phụng quy trách nhiệm cho Stalin, cho "khuynh hướng về một chế độ độc tài của dân tiểu tư sản" của Stanlin.
Số phận Quốc tế thứ ba và sự chia rẽ, mâu thuẫn giữa Đệ Tam và Đệ Tứ không phải là nội dung của bài báo này mặc dù nó là cái cớ để ông viết bài bình thuật. Ở phần cuối bài báo, ông chỉ nêu lên hiện tượng gây ngạc nhiên là chính những bạn chiến đấu cũ của Lênin lại công khai nhận tội phản bội trước tòa trong vụ án 1937, và ông cắt nghĩa ở phương châm hành động "Mọi phương tiện đều tốt" − chính sách kiểu Machiavelli − mà ông cho là người cộng sản đã sử dụng. Từ đây ông suy luận về sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ, coi như là một cuộc tranh đoạt quyền lực thông thường. Điều này tất nhiên là đặc trưng cho cách nhìn của người đứng ngoài và đứng xa hàng ngũ của phong trào cộng sản quốc tế, phản ánh cả tình trạng thiếu thông tin lẫn sự thiếu hiểu biết và định kiến của tác giả. Tuy nhiên, cách suy nghĩ này không phải chỉ là cá biệt của Vũ Trọng Phụng (dưới đây sẽ đối chiếu với suy nghĩ và cắt nghĩa tương tự của Brecht, Becher vài chục năm sau đó).
3/ Đặt trong bối cảnh của thông tin hiện nay, nhất là những thông tin tư liệu lịch sử chỉ được biết đến rộng rãi do kết quả của phương hướng công khai hóa và dân chủ hóa mà công cuộc cải tổ đem lại, chúng tôi sơ bộ thấy:
Về đại thể, bài báo dài này của Vũ Trọng Phung, tuy đã trở nên khá sơ giản thậm chí rất sơ giản trong việc trình bày các sự kiện lịch sử, nhưng nhìn chung không xuyên tạc lịch sử cách mạng tháng Mười và 20 năm đầu của chính quyền Xô Viết, càng không có biểu hiện của thái độ bài Xô (anti-sovietique), cũng không có biểu hiện rõ rệt của thái độ chống cộng sản (mặc dù không đứng trên lập trường cộng sản và khá ít hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản, phong trào cộng sản và người cộng sản).
Tìm ra và liệt kê những sự sơ giản thậm chí thiếu chính xác trong bài báo dài của Vũ Trọng Phụng là điều không mấy khó khăn. Song bên cạnh đó lại có khá nhiều điểm tỏ ra trùng hợp với những tài liệu mới biết đến gần đây. Thí dụ:
− Vũ Trọng Phụng viết: "vào đầu 1923, giữa Lênin và Stalin có cuộc xung đột về tư tưởng. Lênin bắt đầu bình phục, và cũng làm việc nữa, chỉ ít lâu thì sẽ cắt bớt thế lực của Stalin đi", thì gần đây trên báo Tin tức Moskva (số 4/1989, ngày 24/1) đăng bài Đụng độ cuối cùng do chính tổng biên tập báo này Egor Jakovlev viết, công bố những tài liệu cụ thể của sự kiện trên.
− Việc giải tán quốc tế cộng sản liên quan đến quyết định của Stalin do nhượng bộ F. Roosevell và W. Churchill năm 1943 (dẫn theo: Roy Medvdev, Chân dung chính trị Molotov, đăng trên tạp chí Junost,  số 4-1989).
− Việc Vũ Trọng Phụng khi bình thuật đã quy phần lớn trách nhiệm làm suy yếu cách mạng, suy yếu Liên Xô cho Stalin, giờ đây, nhận định này trở nên thông dụng, phổ biến trong dư luận báo chí Xô Viết. Phương hướng này ở giới sử học Xô-viết còn mạnh mẽ hơn nữa, đồng thời phương hướng này đang có một quy mô quần chúng rộng rãi, với việc thành lập Hôi "Memorial" (Hội liên lạc và cứu trợ những nạn nhân của chủ nghĩa Stalin) và tính chất quần chúng rộng lớn của hội này. (Tất nhiên có thể còn có nhiều tư liệu đích đáng hơn mà nhiều người đã đọc, tôi chỉ xin dẫn ra một số tư liệu ghi được trong phạm vi đọc của tôi).
Ở trên, tôi có nhận  xét rằng ở bài báo dài này, Vũ Trọng Phụng chỉ hiện diện như một người lược thuật, mức cao hơn là bình thuật và chỉ đôi chỗ mới có đôi nét của nhà bình luận. Ở trên cũng đã nói ý định cắt nghĩa động cơ nhận tội phản bội của những người vốn là chiến hữu của Lênin trong vụ án 1937. Trước đó khi nói đến "cuộc xâu xé của những tay đồng chí cũ", tuy không nói rõ ra, nhưng có vẻ như Vũ Trọng Phụng hình dung sự việc này tương tự như những điều thường xảy ra ở phương Đông sau khi một triều đại được thiết lập. Ý đồ cắt nghĩa động cơ nhận tội của 13 nạn nhân vụ án 1937, khác hơn một chút, lại gắn với nhận xét về "thủ đoạn kiểu Machiavelli". Ở đây bộc lộ những hoài nghi hoặc thiếu hiểu biết của Vũ Trọng Phụng về người cộng sản làm cách mạng, đấy làm một mặt. Mặt khác "hoài nghi kiểu trí thức" này của ông không cá biệt. Về "vụ án 1937", về tính chất trấn áp, bạo lực… của cách mạng Nga, nhiều trí thức văn nghệ sĩ cỡ lớn cũng từng suy nghĩ, cắt nghĩa theo những hướng khác nhau. Xin dẫn vài ví dụ:
− 1931, sau khi thăm Liên Xô về, kịch tác gia Anh B. Shaw viết cuốn sách Nhận thức lý tính về nước Nga (Rationnalisation of Russia) trong đó cố ý bỏ qua các khái niệm nhân đạo, luật pháp để hiểu cách mạng Nga. "Một cuộc cách mạng tiến hành thắng lợi phải đưa những người tham gia và ủng hộ nó đến sự tuyệt vọng bi đát" − "Ở thời điểm cách mạng hiện hình thành chính phủ, nó thế tất phải bắn bỏ các nhà cách mạng" − "Tôi không trách chính phủ Xô-viết đã không đem lại sung sướng cho những thiên thần của cách mạng… tôi càng ít trách chính phủ ấy vì đã bắn bỏ những người vô chính phủ và những người theo chủ nghĩa công đoàn từng là chiến hữu, là đồng chí đồng cam cộng khổ trước đây". Tuy biện hộ nhưng tác dụng lại ngược chiều. Dẫu vậy các nhà nghiên cứu Liên Xô hiện nay vẫn coi Shaw như là một trong số những nhà văn nước ngoài đầu tiên động đến những vấn đề nhức nhối nhất của xã hội Xô-viết do tiếp nhận thử nghiệm chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin (Dẫn theo T.L. Motyleva: Bạn bè của tháng Mười và những vấn đề của chúng ta. "I.L." [Văn học nước ngoài”], số 4/1988, tr.161).
− Cuốn sách Liên Xô về (Retour de l' URRS, 1936) của André Gide (mà đương thời đã gây tranh luận ồn ào trong giới trí thức, văn nghệ sĩ châu Âu; ngay hồi ấy cũng là cuốn sách khá phổ biến trong giới trí thức, văn nghệ sĩ ở nước ta), gần đây đã được in lại ở Liên Xô, và với cuốn sách này A. Gide được coi là "người đầu tiên trong số các nhà hoạt động văn hóa nước ngoài đã đánh lên tín hiệu về các hình thức quái đản do chấp nhận tệ sùng bái cá nhân Stalin" (T.L: Motyleva, bài báo dẫn trên).
− 1956, trước khi mất ít lâu, Bertolt Brecht có một bài báo Về sự phê phán Stalin, dưới hình thức đề cương. Ở điểm (4) ông viết: "Việc tiêu diệt sự dã man tư bản chủ nghĩa có thể tự thân nó đã bộc lộ những nét của sự dã man. Trật tự dã man nảy sinh bằng cách như vậy ngay từ đầu có thể đã chứa đựng những nét của tính phi nhân, do chỗ − như Marx đã viết − giai cấp vô sản được nuôi dưỡng trong những hoàn cảnh thiếu tính người. Cách mạng cùng một lúc tháo cởi ở con người cả những phẩm hạnh kỳ diệu lẫn những thói tật thâm căn cố đế" (dẫn theo tư liệu trên, tr.170).
− 1956, sau đại hội XX Đảng CSLX, nhà thơ CHDC Đức Johannes Robert Becher tự phê bình những ảo tưởng của mình về chủ nghĩa xã hội, cho quan niệm của mình là tiểu tư sản tiểu thị dân, cho nguyên nhân là ở ý muốn nôn nóng biện hộ cho một kiểu thực nghiệm chủ nghĩa xã hội mới chỉ đang bắt đầu. "Những ai suy nghĩ và mơ ước về chủ nghĩa xã hội như thiên đường trên mặt đất, những người ấy sẽ nhận ra rằng chế độ xã hội chủ nghĩa đẻ ra kiểu người sẵn sàng làm tất cả nếu không trực tiếp áp dụng các phương pháp dã man thì cũng không dứt khoát từ chối các phương pháp ấy, và những minh chứng về điều này thì chỉ vừa mới đây thôi chúng ta mới có được, do chỗ các phương pháp ấy tỏ ra còn dã man hơn cả những gì đã được áp dụng trong quá khứ" (J. R. Becher, Tự kiểm duyệt // "Litteraturnaya Gazeta" số 30, ngày 27/7/1988).
4/ Trở lại với nhận định hồi những năm 1960 về bài báo này của Vũ Trọng Phụng, tôi nghĩ là không cần tranh luận với nhận định về "tác hại khách quan" của bài báo này đối với phong trào cách mạng trong nước đương thời. Thậm chí, cũng cần thừa nhận nhận định ấy nếu nó là do chính những người hoạt động trong phong trào cách mạng đương thời nêu lên: sự xác nhận của họ đã là một sự kiện.
Về ý nghãi thông tin thời sự-lịch sử khách quan, như chúng tôi dẫn giải một số khía cạnh nêu trên, rõ ràng bài báo không xuyên tạc lịch sử, không "bôi nhọ cộng sản", "đả kích Liên Xô" như một số nhà nghiên cứu những năm 1960 đã quy kết.
Ở đây cần làm rõ một vài khía cạnh có quan hệ đến quan điểm lịch sử.
Chúng tôi lưu ý những đặc điểm về thời gian và tác giả bài báo: bài báo xuất hiện trong môi trường dư luận của xã hội thực dân, tức là người cộng sản và đảng cộng sản chưa nắm chính quyền, chưa làm chủ dư luận (hơn nữa thường bị cấm đoán, đàn áp). Tác giả bài báo tuy có quan tâm theo dõi (một cách tự nguyện) tình hình thế giới nhưng ông không đứng trong hàng ngũ đảng phái chính trị nào, thiện cảm và ác cảm với các xu hướng chính trị ở ông có những sự ngả nghiêng tuỳ từng thời điểm.
Chúng tôi cũng lưu ý đến bối cảnh những năm 1960 và tác giả của những nhận định nêu trên về bài báo của Vũ Trọng Phụng: Thời gian này xã hội miền Bắc đã qua 15 năm từ khi đảng cộng sản giành được chính quyền, đã hoàn toàn làm chủ và toàn quyền giám sát mọi hoạt động tinh thần, tư tưởng, ngôn luận. Do vậy việc đề cao người cộng sản và toàn bộ phong trào cộng sản (tại mọi thời điểm lịch sử của nó) trở thành một trong những khuôn mẫu bắt buộc của mọi phát ngôn trong dư luận, kể cả các phát ngôn thuần tuý tư liệu về lịch sử quá khứ. Khuôn mẫu này, quy phạm này đương nhiên là cũng trở thành tiêu chuẩn đánh giá lịch sử, kể cả lịch sử văn học.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng, ông viết bài báo này trong thời điểm chưa xuất hiện quy phạm nêu trên, nhưng lại được xem xét vào thời thịnh hành của quy phạm ấy nên tất bị định giá theo yêu cầu của quy phạm ấy. Đây là một "ca" thông thường, "có thể hiểu được" như chúng tôi đã nêu từ đầu, tuy bản thân sự nhận định này lại vi phạm quan điểm lịch sử (nếu quan điểm lịch sử được coi như là "phải đặt sáng tác vào đúng thời điểm nó được viết ra để đánh giá nó"). Nhưng quan điểm lịch sử còn tính đến viễn cảnh: nếu những tư tưởng, nhận định, thậm chí là những thông tin mà đương thời đã khó được chấp nhận, nhưng lại tỏ ra chịu đựng được thời gian − dẫu chỉ là thời gian cần để thừa nhận độ tin cậy của những thông tin cũ, − thì quan điểm lịch sử lẽ nào lại không tính đến yếu tố này?
5/ Cuối cùng, trở lại với đề tài về bài báo dài và về bản thân nhà báo Vũ Trọng Phụng, chúng tôi không đánh giá thật cao về bài báo và tác giả của nó. Thậm chí với bài báo này, chúng tôi nghĩ không thể gọi tác giả của nó là nhà bình luận thời sự quốc tế được (Và điều này không phải là làm ra vẻ nghiêm khắc. Chúng ta biết rằng nền báo chí mấy chục năm qua cũng chỉ rõ rệt ở khuôn mặt tập thể. Hầu như nó chưa đẻ ra được nhà bình luận quốc tế nào mà tên tuổi và tiếng nói được độc giả thế giới quen thuộc và lưu ý lắng nghe). Với bài báo này, Vũ Trọng Phụng chỉ khiêm nhường là người đem những tư liệu đọc được ở báo chí nước ngoài, nhất là báo chí cấp tiến ở Pháp (trong đó có báo chí của đảng cộng sản) thuật lại với công chúng trong nước. Và chỉ ở đôi chỗ giữa dòng thuật lại kể lại ấy, ông mới chen vào đôi ba suy luận chưa thật hoàn chỉnh của mình. Về mức độ sự thật mà ông thông tin, ông cũng bị hạn chế ngang như (nếu không phải là nhiều hơn) những nguồn tư liệu sách báo mà ông thu nhận. Nếu trong những thông tin này có những điều sẽ được xác nhận rộng rãi thì đó cũng không phải do sáng suốt của cá nhân ông. Chẳng qua ông chỉ khách quan hơn trong việc xử lý các nguồn tin, lại cũng do ông không phải làm việc trong một môi trường dư luận có nhiều quy phạm, nhiều huý kỵ.
Tuy nhiên cũng sẽ không công bằng nếu không thấy mẫn cảm nhà văn có một vai trò nào đó, dù ít ỏi đến mấy, trong lựa chọn và xử lý thông tin của ông. Tôi muốn nghĩ đến mẫn cảm về sự thật là cái đã giúp ông rất nhiều khi xử lý các tài liệu đời sống gián tiếp để viết các tác phẩm văn học − phóng sự và tiểu thuyết. Có lẽ mẫn cảm ấy cũng đã làm lóa lên ở ông những nghi ngờ nào đó về cái sự thật bề sâu bên trong các phong trào xã hội chính trị ở quy mô quốc tế mà ông không có cách gì tìm biết.
Lưu ý đến những "chớp loé" ấy, đối chiếu nó với những tư liệu quốc tế về những phản xạ của giới nhà văn, giới trí thức nghệ thuật thế giới từ đầu thế kỷ này đối với sự kiện lớn nhất thế kỷ: cách mạng tháng Mười và sự ra đời nhà nước kiểu mới, − chúng ta thấy Vũ Trọng Phụng dù chỉ hoạt động trong một môi trường bó hẹp của văn học và báo chí nước nhà, nhưng những tình cảm của ông đối với sự kiện lớn này, thái độ của ông trước tính chất phức tạp của những sự kiện gắn với tệ sùng bái cá nhân Stalin − nói chung không xa lạ với trạng thái và tính chất các phản xạ của giới văn hóa thế giới đương thời, dù chúng ta chỉ mới tính đến những nhà văn hóa được coi là bạn bè của cách mạng tháng Mười, bạn bè của đất nước đầu tiên giành được chính quyền về tay công nông.
08/10/1989
● Tham luận tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 50 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng,
Văn Miếu, Hà Nội, 12/10/1989
“Tạp chí văn học”, s. 2/1990

Stalin và nhân dân Nga: tình yêu hay thù hận?

Trong thế kỷ XX, 3 lần nước Nga được cứu thoát chỉ nhờ vào tinh thần dân tộc. Lenin như một nhân vật trung dung, ít nhiều mang tinh thần Nga, Stalin là đại diện cho phe dân tộc Nga, có thể ông là người Nga theo nghĩa dân tộc cũng nên, nhưng dù sao thì phân biệt con người theo tư tưởng mới là chính xác. Vì thế cho nên Stalin bị phương Tây bôi nhọ là dễ hiểu, còn tàn bạo thì Trosky mới là bậc thầy. Cho đến tận ngày nay, hầu hết chống đối Liên Xô và Nga đều xuất phát từ Do Thái.
Trong bài, có toàn văn phát biểu của Stalin đọc trong ngày mừng thắng lợi 24/5/1945, rõ cái tinh thần dân tộc này, duy nhất tinh thần dân tộc Nga cứu nước Nga khỏi thảm họa:

"Товарищи, разрешите мне поднять еще один, последний тост.
Các đồng chí, cho phép tôi nâng cốc một lần nữa, lần cuối chúc mừng.
Я хотел бы поднять тост за здоровье нашего Советского народа и, прежде всего, русского народа.
Я пью, прежде всего, за здоровье русского народа потому, что он является наиболее выдающейся из наций, входящих в состав Советского Союза.
Tôi đã muốn được nâng cốc chúc mừng sức khỏe nhân dân Xô Viết chúng ta, và trước hết là nhân dân Nga.
Tôi uống, trước hết, là mừng cho sức khỏe nhân dân Nga, bởi vì họ là xuất sắc nhất trong các dân tộc, thành viên của Liên minh Xô Viết.
Я поднимаю тост за здоровье русского народа потому, что он заслужил в этой войне общее признание, как руководящей силы Советского Союза среди всех народов нашей страны.
Tôi nâng cốc chúc mừng sức khỏe nhân dân Nga, bởi vì trong cuộc chiến tranh này họ xứng đáng được công nhận chung là lực lượng lãnh đạo của Liên minh Xô Viết trong số các dân tộc của đất nước chúng ta.
Я поднимаю тост за здоровье русского народа не только потому, что он — руководящий народ, но и потому, что у него имеется ясный ум, стойкий характер и терпение.
Tôi nâng cốc chúc mừng sức khỏe nhân dân Nga không chỉ bởi vì – họ là người đứng đầu, mà còn bởi vì, họ có trí tuệ trong sáng, tính cách và lòng chịu đựng bền bỉ.
У нашего правительства было не мало ошибок, были у нас моменты отчаянного положения в 1941–1942 годах, когда наша армия отступала, покидала родные нам села и города Украины, Белоруссии, Молдавии, Ленинградской области, Прибалтики, Карело-Финской республики, покидала, потому что не было другого выхода. Иной народ мог бы сказать Правительству: вы не оправдали наших ожиданий, уходите прочь, мы поставим другое правительство, которое заключит мир с Германией и обеспечит нам покой. Но русский народ не пошел на это, ибо он верил в правильность политики своего Правительства и пошел на жертвы, чтобы обеспечить разгром Германии. И это доверие русского народа Советскому правительству оказалось той решающей силой, которая обеспечила историческую победу над врагом человечества, — над фашизмом.
Chính phủ chúng ta đã mắc không ít sai lầm, đã có khoảnh khắc ở trong tình thế tuyệt vọng trong những năm 1941-1942, khi quân đội của chúng ta rút lui, bỏ rơi các làng mạc và thành phố Ukraina, Belarus, Moldova, vùng Leningrad, Baltic, CH Karelian-Finnish của chúng ta, đã bỏ rơi bởi vì không còn cách nào khác. Nhân dân này khác có thể đã nói với chính phủ: các ông đã không đáp ứng được sự trông đợi của chúng tôi, hãy đi đi, chúng tôi sẽ lập chính phủ khác, ký kết hòa bình với Đức và bảo đảm yên ổn cho mình. Nhưng nhân dân Nga đã không làm như thế, vì lẽ họ tin cậy vào sự đúng đắn của chính sách chính quyền của mình và đã chấp nhận hy sinh để đảm bảo đánh bại nước Đức. Và lòng tin cậy này của nhân dân Nga vào chính quyền Xô Viết đã đưa đến sức mạnh quyết định, tạo ra chiến thắng lịch sử trước kẻ thù của loài người – chủ nghĩa phát xít.
Спасибо ему, русскому народу, за это доверие!
Xin cảm ơn họ, nhân dân Nga, vì lòng tin cậy này!
За здоровье русского народа!
Vì sức khỏe nhân dân Nga!”

Bịa đặt về Joseph Stalin – là thứ virus hủy hoại cơ chế bảo vệ chúng ta

Cuộc đấu trí đấu lực Stalin - Trotsky rất khốc liệt và diễn ra ngay từ đầu với dáng vẻ đấu tranh nội bộ, bè phái và khuynh hướng. Trotsky đã là nhân vật quyền lực số 2 chỉ sau Lenin từ trước CMT10.
Cho đến tận 1927, Trotsky và các đồng sự thất bại, bị tước các chức vụ đảng và chính quyền, ông ta bị trục xuất khỏi Liên Xô, đi qua Thổ sang Pháp rồi định cư ở Mexico. Tại đó, ông ta vẫn hoạt động cách mạng và sáng lập Quốc tế cộng sản thứ 4. Sống sót qua 1 số vụ ám sát và cuối cùng chết ở tuổi 60 sau khi bị thương nặng trong 1 vụ tấn công mà người ta cho là NKVD thực hiện.
Một số thủ lĩnh đầu sỏ trong chủ nghĩa Trotskism thì chạy thoát về chốn cũ: Anh, Pháp, Mỹ. Những tên khát máu khác bị tống vào trại Gulag. Chủ nghĩa Trotskism bị giải tán nhưng nhiều kẻ đã kịp tìm cho mình vỏ bọc và chỗ ẩn nấp. Stalin đã tha những kẻ qui hàng.
Đến thời chủ nghĩa xét lại Khrushchev, cơ hội trả mối thù cũ hiện ra. Stalin bị bôi nhọ, bị thóa mạ không thương tiếc. Putin cũng đấu với các đầu sỏ và cũng bị bôi nhọ.
Số phận con cháu Stalin gặp nhiều đau khổ và trắc trở. Cho đến tận ngày nay, họ và những người khác vẫn đang đấu tranh vì sự phán xét công bằng lịch sử đối với Stalin. Chúng ta đọc qua bài phỏng vấn Yakov Dzhugashvili với báo Nga.
Yakov Dzhugashvili là cháu trai Stalin, lấy tên như người bác con trai cả của Stalin đã hy sinh trong tù.
Chủ nghĩa tự do đã đạt đến cao trào, dưới vỏ bọc nhân quyền dân chủ, nhưng thực ra vẫn là xét lại, thì hình ảnh Stalin rất xấu xí. Đến ngay cả Putin, khi nói về Stalin cũng đã phải thanh minh: Thời ấy nó thế!
Bài viết này có đầu đề: Ложь об Иосифе Сталине – это вирус, разрушающий наш защитный механизм - Bịa đặt về Joseph Stalin – là thứ virus hủy hoại cơ chế bảo vệ chúng ta.
Bịa đặt chống Stalin được định hướng không phải chống Stalin mà chống người Nga.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIC638xnvhfgqGA4KwsOhjSY8ROQarL7tBQFdHdxjfcthyphenhyphenjtXenBI4F_jxwCX3NuOnoiMNNY_zHBrjy7zHCZevDpFFy83sB-BcJNV_vkD0jPqYxdl8yKxaLSSm73wdDv2ig3aTkTQHv82_/s1600/stalin.jpg- Hãy kể về gia đình anh đi.
- Vợ tôi là Nino Lomkatsi. Bộ tộc của cô ấy có gốc gác ở Tusheti (vùng núi cao phía đông Georgia). Chúng tôi sinh cháu năm 2009. Chúng tôi đặt tên cháu theo tên 5 đời bà là Olga-Ekaterina. Vấn đề là bà tôi và bà Nino theo phả hệ dòng họ đều gọi là Olga. Bởi chính Chúa sai khiến đặt tên con gái là Olga. Và cái tên Ekaterina gồm: Mẹ của Joseph Stalin là Ekaterina (Keke) Geladze, vợ đầu của ông (tức là bà cố của tôi) là Ekaterina (Kato) Svanidze và bà nội của cha tôi theo hệ dòng họ là Ekaterina Golysheva-Lukyanovskaya.
- Anh nghỉ ngơi như thế nào và đọc gì?
- Mười năm trở lại đây tôi nhìn chung quan tâm đến văn học lịch sử CCCP thời kỳ Stalin. Thỉnh thoảng tôi đọc tác phẩm cổ điển Georgia. Còn đến rạp hát hay phim thì tôi không có cả dịp lẫn thời gian…
- Tôi biết là người anh của anh đã làm được điều khác biệt trong lĩnh vực phim ảnh…
- Vâng, anh lớn của tôi Vissarion là đạo diễn phim và viết kịch bản. Đề tài tốt nghiệp “Camen” đã giành được giải thưởng Liên hoan phim quốc tế Oberhausen thể loại phim ngắn năm 1998. Năm 2000 anh ấy làm xong bộ phim tài liệu “Jacob – con của Stalin” kể lại cuộc đời và cái chết của bác con cả Stalin.
- Mà bị bắt làm tù binh Đức…
- Thật đáng tiếc là anh tôi, cũng như cả gia đình tôi, cũng như rất nhiều người khác, lại nằm trong quyền thế tuyên truyền Gebbel và Khruschev vì rằng Jakov trong trại tù binh Đức. Ít năm trước tôi đã có dịp mở lòng với nhà sử học Yury Ignatyevich Mukhin, người đã san phẳng những dối trá bịa đặt Gebbel-Khruschev về Jakov. Tư liệu có ở đây: http://jugashvili.com/press/kak_pogi...ugashvili.html ; Nội dung trang này đặt vấn đề, liệu có phải Jakov đã hy sinh hay bị bắt. Chúng ta biết rằng, ngoài truyền đơn in ảnh Jakov, không có bất cứ bằng chứng nào, kể cả các cuốn phim, băng ghi âm giọng nói… người trong ảnh lại có ngoại hình không giống Jakov cho lắm. Và trùm tuyên truyền Đức quốc xã Gebbel thì rất chuyên nghiệp, hồ sơ, biên bản hỏi cung hoàn toàn có thể giả mạo.
- Anh đã lập kế hoạch đấu tranh với những hoang đường đã bén rễ?
- Anh tôi đã xem xét các luận chứng lịch sử, tôi hoàn toàn đồng ý với anh ấy và bât giờ đang ấp ủ ý tưởng tạo một bộ phim mới về Jakov. Tôi nghĩ sẽ là rất nhạy cảm nếu như chúng tôi có thể minh chứng vào lúc này, không chỉ là đơn giản tuyên bố, Jakov đã không bị bắt làm tù binh, mà là đã hy sinh trong trận đánh gần Vitebsk vào tháng 7, và huyền thoại bác ấy trong trại tù binh là kết quả tuyên truyền của phát xít Đức.
- Con cái của anh ấy cũng đã lớn rồi chứ?
- Vâng, anh Vissarion có 2 con, Soso (Joseph) và Vaso (Vasily), chúng đã lớn, Soso 16 tuổi và có nhiều hy vọng, cháu nó chơi piano rất tuyệt và đã thực sự chơi cho dàn nhạc. Vaso thì mê tennis và tỏ ra chín chắn dù mới có 11 tuổi.
- Theo những gì chúng tôi biết, cũng như anh, thì cha anh, ông Evgenia Dzhugashvili, không có quan hệ tốt lắm với một số họ hàng…
- Tôi không còn giữ quan hệ với ai trong số họ nữa.
- Tại sao?
- Họ không thấy nhục bởi dối trá về Stalin, và một số trong họ thậm chí còn phát tán dối trá này. Tôi với họ không đi chung đường, khi mà tôi thấy nhục nhã vì những dối trá này, và tôi làm mọi cách có thể để phơi bày dối trá và cố gắng đem sự thật đến cho mọi người. Trên website PRESS tôi đã trưng bày các tư liệu mà mọi người cần phải biết, để những lời như thế này: Công bằng, Tổ quốc, Nhân dân – không là những âm thanh sáo rỗng. Vấn đề là ở chỗ, bịa đặt về Stalin và CCCP trong thời kỳ đó được tạo ra nhằm mục đích phá hoại uy tín lãnh đạo của đất nước, để đẩy mọi người tránh xa nỗ lực hiểu biết tính tự nhiên của các hiện tượng xảy ra trong thời của ông và vài trò của ông trong các sự kiện đó. Bịa đặt này không nhằm chống Stalin hay những người thân của ông, mà trước hết là chống nhân dân Nga. Bịa đặt đó là một mưu toan nhằm tước đoạt người từ Nga (và cùng với họ là nhân dân cùng với người Nga xây dựng nên xã hội đầu tiên trên thế giới thoát khỏi bọn ăn bám phương tây) sức kháng cự cả với các mối đe dọa bên trong và bên ngoài. Bịa đặt về Stalin là virus tạo ra bởi kẻ hạ đẳng để phá hoại cơ chế bảo vệ của con người, có trách nhiệm nhận thức các mối nguy hiểm. Cuối cùng, bịa đặt đó là mưu toan của giới bề trên hiện tại, biện bạch cho sự cướp bóc là thánh thiện mà nhân dân Xô Viết cần giữ gìn và tăng cường. Những sinh vật này làm suy yếu người ta và đảm bảo rằng chúng và dòng dõi ăn bám của chúng có thể tồn tại vĩnh cửu. Một số thứ nói cho tôi biết thứ “vĩnh cửu” này tồn tại không lâu nữa.. Tôi không thể nói chính xác, vì lý do gì mà hầu như tất cả họ hàng Stalin đều ủng hộ bịa đặt chống Stalin. Dường như mọi người đều có lý do của mình…

Việc đầu tiên "ân xá" Beria

Media phương tây gán cho Lenin “Khủng bố đỏ”, cho Stalin “Đại thanh trừng”, còn Beria là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp trong cuộc đại thanh trừng của Stalin. Chúng ta đã biết một phần chính lý do Stalin phải thanh trừng ở đây; Lavrenti Beria gắn liền với những tai tiếng tồi tệ nhất trong thời kỳ Liên Xô: hung thần, sát nhân, đồ tể… Nhưng thực sự có phải như thế không?
Câu trả lời là không!
Trong 2 năm 1939 - 1940 từ các trại GULAG đã phóng thích 270-290 ngàn người.
http://topwar.ru/uploads/posts/2013-09/1379562770_beriya640.jpgÂn xá năm 1953 được gọi là beriyevsky (ân xá Beria, mặc dù thời đó hay gọi là voroshilovsky), có 1,2 triệu tù nhân được thả, nó được gọi là "thắng lợi của chủ nghĩa nhân đạo hậu Stalin". Đợt ân xá nhân kỷ niệm 10 năm chiến thắng 1955 ít được biết đến hơn – trong đó các tù binh Đức, những kẻ cộng tác với phát xít được phóng thích. Và người ta hoàn toàn không nói gì về cuộc “ân xá” đầu tiên của Beria các năm 1939-1940.
Nói một cách nghiêm chỉnh, thì đó không phải là “ân xá” bởi người ta dùng nó trong ngoặc kép. Còn lý do của sự giấu diếm này thì chỉ có thể phỏng đoán, một trong số đó là người ta không muốn thêm “ánh sáng” vào Beria như một nhà lãnh đạo tích cực. Beria trong tiểu sử lịch sử chính thức là người nắm vai trò chính về cái gọi là "tội ác của chế độ Stalin". Là kẻ chịu trách nhiệm về hầu hết các vụ đàn áp thời kỳ đó mặc dù có một thực tế là Beria lãnh đạo tổ chức chấn áp (NKVD!) chỉ trong 6 năm, từ 1939 đến 1945. Và người ta khoác cho Beria mọi trách nhiệm về tất cả các cuộc đàn áp và vi phạm xảy ra cả trước và sau thời kỳ này – khi nó thuộc trách nhiệm của những người khác: từ Berry và Yezhov đến Abakumov.
Trái lại, chính trong thời kỳ lãnh đạo cơ quan an ninh của Beria, đã có nỗ lực đầu tiên trong suốt chế độ Stalin để thực thi pháp trị trong bộ máy trừng phạt của CCCP.
Niên ký vắn tắt vị trí của Beria trong NKVD: Ngày 22-8-1938 được bổ nhiệm phó thứ nhất Ủy ban nội vụ, 8-9 làm lãnh đạo thứ 1 NKVD, 11-9 làm ủy viên thứ nhất Hội đồng an ninh nhà nước, 29-9 làm người đứng đầu cơ quan an ninh quốc gia của NKVD. Ngày 25-11-1938 Beria được bổ nhiệm lãnh đạo nội vụ CCCP. Ngày 10-4-1939, Yezhov bị bắt vì tội hoạt động gián điệp, khủng bố và lật đổ.
http://topwar.ru/uploads/posts/2013-09/1379562706_beriya450.jpg Nikolay Yezhov, 1937. Photo: RIA Novosti news agency
Một trong những quyết định đầu tiên của Beria trên cương vị lãnh đạo NKVD ngày 1-1-1939 là về “Cục tiếp nhận và xem xét khiếu tố”. Ngày tháng đó có thể coi là khởi đầu cho việc xem xét lại một loạt các vụ án từ thời của người tiền nhiệm NKVD, đồng thời cũng vạch trần các vụ nhân viên an ninh “vi phạm pháp luật”.
Con số “tù phạm” được thả trong 1939–1940, như người ta nói là từ 50 ngàn đến 800 ngàn. Sự thực thì nằm đâu đó giữa 2 con số này.
Nếu như các phương pháp, mà theo đó tính toán con số được ân xá trong 1939–1940 mang nhiều tính lý thuyết, thì sự chỉ đạo về qui tắc trật tự của Beria ở NKVD lại có tài liệu rất rõ ràng chặt chẽ.
Ngay say khi nắm quyền NKVD, Beria bắt tay vào làm sạch cán bộ của Yezhov. Kể từ cuối tháng 11-1938 đến tháng 1-1939, trong bộ máy NKVD bị thải loại 7372 người (chiếm 22,9% tổng số), trong đó có 3830 là lãnh đạo (chiếm 62%).
Đây là ví dụ “thanh lọc” của Beria: Cuối tháng 1 -1939, Beria ký lệnh đưa ra tòa 13 tay chân của Yezhov trong cơ quan quản lý đường sắt Mat-xcơ-va-Kiev vì bắt bớ người trái thẩm quyền, ngày 13-2-1939, Beria ra lệnh đưa lãnh đạo khu vực của NKVD N. Sakharchuk ra tòa vì thực hiện các biện pháp tội lỗi gây hậu quả, ngày 5-2, Beria ra lệnh bắt nhóm nhân viên cơ quan đặc biệt của Hạm đội Baltic vì bắt bớ không có căn cứ. Những vụ việc như thế diễn ra suốt cả năm 1939.
Cùng lúc, NKVD tuyển dụng 14,506 người, trong đó 11,062 từ đảng và đoàn viên Komsomol. Thực sự, 1/3 cơ cấu của NKVD trước kia là nhân viên dân sự, tỷ lệ có học vấn cao đến 35% (thời Yezhov chỉ 10 %) Toàn bộ lực lượng NKVD có tỷ lệ không được giáo dục phổ thông giảm từ 42% xuống 18%. Một nguồn nhân lực khác của NKVD đến từ quân đội. Ngày 27-1-1939, lãnh đạo quân đội Shchadenko công số sắc lệnh No. 010 đơn giản hóa bên quân đội cho các học viên trẻ tốt nghiệp Học viện quân sự RKKA sang làm nhiệm vụ theo điều động của NKVD. Bên cạnh đó, các sĩ quan RKKA cũ, trong giai đoạn 1937-1938 bị Beria xem xét lại: 30 ngàn người bị bị điều tra vì các lý do chính trị, trong đó gần 10 ngàn bị buộc tội. Phục hồi lại hàng ngũ cho 12,5 ngàn sĩ quan sau khi thay đổi lãnh đạo.
Trong những tháng lãnh đạo đầu tiên, Beria đã xem xét lại xong toàn bộ qui tắc thẩm quyền quản lý các vụ án. Kẻ bị kết án bởi “bộ ba” bây giờ có thế khiếu kiện và bị buộc phải xem xét trong vòng 20 ngày. Để giải quyết đơn từ và khiếu kiện, nhóm chuyên trách gồm 15 người được lập thành Ban thư ký thảo luận. Trong quá trình xét xử, nhóm có trách nhiệm xét hỏi tất cả các thành viên tham gia. Số các vụ việc phải đưa đến thẩm phán giải quyết giảm 10 lần – nếu thời Yezhov mỗi ngày phải giải quyết 200-300 vụ, (thực tế là chỉ đọc bản án, không thẩm vấn người làm chứng và điều tra). Thời Beria chỉ còn dưới 10 vụ mỗi ngày.
Điểm đặc biệt của cải cách Beria này, không phải là phó thác cho bên công tố hay tòa án, mà là cho chính NKVD dưới quyền lãnh đạo của mình chịu trách nhiệm.
http://topwar.ru/uploads/posts/2013-09/1379562708_beriya600.jpg Các tù nhân trại cải tạo lao động GULAG, 1940. Photo: TASS photochronicle
Các vụ án chính trị, kể từ 1939 đã giảm 10 lần – thời đại "Đại khủng bố" đã thực sự kết thúc. Năm 1939 số người bị kết án tội phản cách mạng bị trừng phạt ở mức cao nhất 2600 người, năm 1940 là 1600 (so sánh với 1937-1938 khoảng 680 ngàn bị tử hình). Nhưng cũng cần hiểu rằng, con số tử hình thời kỳ trước cao như vậy, là gồm cả bọn phá hoại và gián điệp, nhìn chung ở lãnh thổ phía bắc và tây sát nhập vào Xô Viết (Baltic, Bukovina, Moldova và Tây Ukraine).
Có những tự do hóa cho tù nhân: họ được sử dụng phòng đọc sách và các trò chơi giải trí, các qui định nhận đồ tiếp tế và gặp mặt người thân được lập ra.
Beria cũng là người sáng chế ra cái gọi là "sharashka" – các cơ sở nghiên cứu và sản xuất quốc phòng và các tù nhân khoa học được sống và lao động trong điều kiện nhẹ nhàng hơn. Nhiều tù nhân, là các nhà khoa học nổi tiếng, từng ở sharashka: A. Tupolev, V. Myasishchev, V. Petlyakov, Bartini, N. Vavilov, A. Chizhevsky, P. Oshchepkov, Oparin, Y. B. Rumer, I. S. Filimonenko…
Cũng năm 1939, Beria bắt đầu xem xét vấn đề tù nhân, cuộc “ân xá” đầu tiên bắt đầu. Tiến sĩ sử học V. Zemskov cho biết:
"Tất cả GULAG năm 1939 có 327,400 người (223,600 từ các trại lao động và 103,800 từ các trại giam) được phóng thích, nhưng người ta ít nói về các con số trong trường hợp này, bởi không có chỉ dẫn trong số họ có bao nhiêu phần trăm “kẻ thù nhân dân” được trả tự do trước thời hạn và được phục hồi thân thế. Chúng ta biết là ngày 1-1-1941 ở Kolyma có 34 ngàn người trại lao động được phóng thích, trong số họ 3000 người (8,8%) được phục hồi hoàn toàn.
Ngày 1-1-1939 tổng số tù nhân là 1,672,000 người. Nếu như lấy con số trung bình của Zemskov (8,8%) cho tất cả các trại GULAG, thì cuộc ân xá đầu tiên của Beria đã trả tự do khoảng 140 ngàn người. Các nhà nghiên cứu khác cũng tính toán ra con số gần như thế (từ 130 ngàn đến 150 ngàn), tuy nhiên, cần phải hiểu là phần lớn không được phục hồi thân thế, mà chỉ là giảm thời hạn xuống mức tối thiểu (1-2 năm), hay chuyển sang tình trạng đi đày (giảm mức phạt).
May mắn hơn cho những ai, cho đến 11-1938 chưa bị lĩnh án phạt, và đang bị tạm giam. Nhà sử học bên an ninh Oleg Mozokhin cung cấp số liệu chính xác về điều này. Thành ra đến 1-1-1939, trong số đang bị điều tra có 149,426 người, được thả vì bị đình chỉ xét xử là 83,151, được thả bởi viện kiểm soát và được tuyên trắng án là 25,575 người. Chỉ có 187,840 người bị kết án năm 1939, nửa đầu 1941 có 142,432 người được thả trong quá trình điều tra và xét xử. Đó cũng là “ân xá” ở quá trình điều tra chuẩn xác, tránh oan sai.
Do vậy, tính tổng số “ân xá” Beria đầu tiên, những người được trả tự do hay không phải vào trại GULAG, khoảng 270-290 ngàn người.
Nhưng không phải vì thế mà cho rằng Beria là chủ nghĩa nhân đạo. Không phải Beria mà chính xác hơn là Stalin, cũng không phải là nhân từ hơn mà là NKVD đã linh hoạt hơn. Beria đã tính toán chuẩn xác rằng “ân xá” cho 200-300 ngàn người sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho công việc, hơn là trong trại lao động, chiến tranh đang đến gần, họ trở lại nhà máy, trở lại phòng thí nghiệm và quân đội.
Beria cũng là người làm cho các trại lao động GULAG thành như một đơn vị kinh tế có giá trị của CCCP. Không cần những cái án tử hình, mà coi những người tù như một đơn vị lao động, như cỗ máy hay như công cụ lao động, và cũng cần phải giữ gìn (vào năm 1939 con số chết trong GULAG giảm mạnh đến 2 lần, và so năm 1941 với 1938 là 3 lần). Giai đoạn 1941-1944 các công trình xây dựng do NKVD điều hành thực hiện có giá trị 14,2 tỷ rub hay chiếm 15% tổng số tất cả các giá trị công trình của nền kinh tế Xô Viết trong thời kỳ này.
Cùng cách tiếp cận “kỹ thuật” Beria như thế đối với cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những người lính cần cho tổ quốc và từ GULAG đã có hơn 800 ngàn người ra mặt trận. Họ được biết đến như những phạm binh - штрафбаты.
Hiện nay, Beria cần được đánh giá không phải là tên đồ tể, mà như một nhà kỹ trị, nhà quản trị có hiệu quả và cũng là người, đã sửa chữa một thời kỳ đổ máu.

Xem thêm:

Hồ sơ mật Liên Xô
Nhà xuất bản Công an Nhân dân

25 tháng 5 2014

Vì sao giá nông sản Mỹ rẻ?

Tờ “Kinh tế Trung Quốc” ngày 9/8/2013 có bài “Vì sao giá hàng nông sản phẩm của Mỹ rẻ hơn Trung Quốc nhiều?” của Tác giả Phan Thạch Ngất. Bài báo viết Trung Quốc là nước nông nghiệp, nhưng sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự cấp tự túc. Chính sách của Trung Quốc là lấy an ninh lương thực làm chỉ đạo, thậm chí còn chủ trương “Lấy lương thực làm cương lĩnh”, chú trọng tăng sản lượng, như mỗi mẫu đất cho sản lượng là bao nhiêu cân thóc. Với phương thức sản xuất này thì cho dù nhà nước có trợ cấp giá bao nhiêu thì giá lương thực vẫn chưa thể ổn định mà vẫn tăng, nhất là thời tiết không thuận.

Một thực tế là giá hàng nông sản ở các nước công nghiệp phát triển, điển hình là Mỹ rẻ hơn nhiều so với giá ở các nước nông nghiệp và đang phát triển. Nhiều người Việt Nam đi ra nước ngoài thích ăn rau nhất. Vì tin rằng nó sạch. Và ở nhiều nước chắc chắn là sạch. Trong đó có Mỹ. Rau chân vịt, rau xà lách mua từ siêu thị về khỏi cần rửa, ăn luôn. Trên bao bì đề rõ “Đã rửa ba lần”. Cũng hoàn toàn đáng tin, từ cái công ty chế biến nông sản cho tới những người nông dân đã trồng ra túi rau ấy. Nông dân là tầng lớp đáng tin số 1 ở Mỹ, bởi rất nhiều lý do, trong đó có việc họ nằm trong số những người nông dân sướng nhất và giàu có nhất thế giới, nếu không muốn nói họ chính là số 1, nên không thể phản bội lại những người tiêu dùng, và cũng chẳng cần gian dối chứ chưa nói tới cơ chế khó lòng dung dưỡng cho gian dối.

Mỹ là nước đại công nghiệp, nhưng họ vẫn lấy “Nông nghiệp là cơ sở của ngành chế tạo và thương nghiệp” và vẫn nhấn mạnh “Dĩ nông lập quốc”. Mỹ là nước sản xuất công nghiệp hàng đầu thế giới, nhưng cũng là nước sản xuất nông nghiệp hàng đầu thế giới và xuất khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới, như xuất khẩu thịt bò chiếm 1/4 thị phần thế giới, ngũ cốc, sữa bò, trứng chiếm 1/5 thị trường thế giới. Rõ ràng nước Mỹ đã giải quyết được bài toán về sản xuất nông nghiệp không phải tự cấp tự túc mà theo hướng kinh doanh và xuất khẩu. Phương thức sản xuất nông nghiệp của họ là lấy kinh doanh làm chủ đạo theo tiêu chí đầu vào cho một mẫu đất là một đồng thì đầu ra sẽ được bao nhiêu tiền, đồng thời luôn bám sát thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để đẩy mạnh xuất khẩu.

Để giải quyết bài toán này, chẳng những có phương thức kinh doanh đúng đắn mà còn có các phương tiện và biện pháp khoa học kỹ thuật giúp sức ở tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, như tự động hóa, cơ giới hóa, vệ tinh hóa, mạng số hóa. Một gia đình nông dân có 6 người, nhưng canh tác diện tích tới trên 1.000 héc-ta. Ngay từ năm 1987, giá trị bình quân một lao động nông nghiệp Mỹ đã đạt tới 55.300 USD/giờ, gấp 4 lần mức bình quân của các nước công nghiệp phát triển. Tố chất của người nông dân Mỹ cũng cao hơn, như trên 30% nông dân Mỹ có trình độ đại học, trong số này hơn 50% có trình độ trên đại học. Để hàng nông sản thực phẩm cạnh tranh giành được thị phần thế giới, rõ ràng giá cả phải rẻ và chất lượng phải đảm bảo, nhất là những thị trường khó tính như các nước công nghiệp phát triển Phương Tây và Nhật Bản.

Ngoài ra, nhà nước Mỹ cũng hỗ trợ đắc lực để hiện đại hóa và số hóa sản xuất nông nghiệp, như năm 2004, nhà nước hỗ trợ 196 triệu USD để nâng cấp mạng số hóa hệ thống Internet cho nông dân nhằm tìm thị trường và có thông tin nhanh nhạy để cạnh tranh trên trường quốc tế. Nhà nước còn hỗ trợ tới 6,2 tỉ USD cho bảo vệ môi trường nông nghiệp. Năm 2004, nhà nước đầu tư tới 74 tỉ USD để hoàn thiện các mạng lưới dịch vụ và hạng mục đầu tư nâng cấp khoa học ky thuật cho nông nghiệp. Riêng khâu an toàn lương thực thực phẩm được nhà nước hỗ trợ tới gần 900 triệu USD. Nhà nước Mỹ trợ cấp và hỗ trợ nông nghiệp để người dân Mỹ được hưởng giá hàng nông sản rẻ. Chính vì vậy mà giá hàng nông sản phẩm của Mỹ rẻ.

Thuần về kinh tế, chỉ có chừng 2% dân số Hoa Kỳ là còn hoạt động trong khu vực nông nghiệp, nhưng với sản lượng canh nông và lương thực cao nhất thế giới và còn dư để nuôi sống xứ khác. Ở Mỹ hiện có khoảng 4,5 triệu nông dân chiếm chưa đầy 2% dân số trong đó khoảng hơn 50 ngàn nông trại có doanh thu trên 1 triệu đô/năm và thu nhập hộ gia đình bình quân là 200 ngàn đô/năm (theo Bộ Nông nghiệp Mỹ - USDA), gấp đôi so với thu nhập của một luật sư hay bác sĩ. Hàng năm ngành nông nghiệp Mỹ chẳng những cung cấp lượng hàng nông sản thực phẩm tiêu thụ trị giá tới 547 tỉ USD cho hơn 250 triệu dân ở trong nước mà còn xuất khẩu một khối lượng lớn hàng lương thực thực phẩm các loại ra nước ngoài, như năm 2013 đạt trên 145 tỉ USD. Bình quân mỗi giờ người nông dân Mỹ đã tạo ra giá trị tới 6 triệu USD hàng xuất khẩu nông sản thực phẩm. Trong khi cả nền kinh tế chỉ tăng trưởng trên dưới 2%/năm trong thời gian qua thì thu nhập sau thuế của nông trại tăng 27%, bởi thế, trong khi bất động sản suy thoái suốt từ 2008-2012 thì đầu tư đất đai nông trại lại là lĩnh vực đầu tư béo bở nhất ở phố Wall.

Ngày nay, nói về "nông dân" nghĩa là các nông trại bạt ngàn có đầy thiết bị canh tác hiện đại với năng suất cực cao và đến các đại công ty kinh doanh về thực phẩm, chứ không phải các tá điền cầy cấy trên những thửa ruộng nhỏ, sau khi Tổng khủng hoảng xảy ra, Hoa Kỳ có gần bảy triệu nông trại, ngày nay chỉ còn hai triệu, tức là số dân sống trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm mạnh, nhờ tiến bộ về kỹ thuật canh tác và về sinh học, năng suất canh nông Hoa Kỳ đã tăng vượt bậc, gấp ba gấp bốn thời trước.

Mà không chỉ giàu, nông dân Mỹ còn sướng. Những người nông dân làm việc trong các trang trại có doanh thu trên 1 triệu đô sử dụng thiết bị vệ tinh định vị trong khi canh tác, nuôi trồng, và sử dụng máy tính để quản lý sức khỏe gia súc. Một hình ảnh tiêu biểu cho các trang trại quanh Thủ đô Washington (thuộc các bang lân cận như Virginia, Maryland...) là những người nông dân da trắng đứng bán hàng trong khi các nhân công làm thuê người gốc Mỹ Latin thong thả lái những chiếc máy cày máy kéo trên những cánh đồng bát ngát, nhờ tiến bộ về kỹ thuật canh tác và về sinh học, năng suất canh nông Hoa Kỳ đã tăng vượt bậc, gấp ba gấp bốn thời trước, nông dân Mỹ thật ra là doanh gia hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, với lợi tức đồng niên cao gần bằng sản lượng của cả nước Việt Nam, năm 2012 hơn 90 tỷ đô la, năm 2011 còn lên tới gần trăm tỷ.

Họ không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm (tương đối) an toàn và chất lượng cho thị trường nội địa Mỹ, mà mỗi năm còn xuất khẩu hơn 100 tỷ đô (bằng khoảng 2/3 GDP của Việt Nam). Chưa hết, nông dân Mỹ còn được hỗ trợ tối đa. Trợ cấp là "những lợi ích mà Chính phủ đem lại cho một đối tượng nhất định và có thể lượng hoá về mặt tài chính". Chính sách trợ giúp nông sản của Mỹ là trợ giá trực tiếp đối với sản xuất nông nghiệp và nông dân. Đặc điểm của trợ cấp nông nghiệp của Mỹ Hoa Kỳ, quốc gia công nghiệp tiên tiến và vẫn thường đề cao tự do mậu dịch trên thế giới.

Thuần về chính sách thì sau vụ Tổng khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933, từ năm 1935, người ta định chế hóa chính sách nông nghiệp trong ý hướng giúp đỡ nông gia khỏi bị thiệt hại vì biến động của thị trường. Sau đó, chính sách này còn nhắm vào nhiều mục tiêu khác. Năm 2008, Thượng viện cùng Hạ viện Mỹ đang chuẩn bị biểu quyết một đạo luật thay thế Đạo luật về canh nông và lương thực Hoa Kỳ, theo thông lệ là năm năm ban hành một lần. Đây là một văn kiện trị giá mấy trăm tỷ đô la do Bộ Canh nông quản lý và có ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực sinh hoạt của Mỹ lẫn nền ngoại thương của các nước khác.

Mới đây, Tổng thống Obama đã đặt bút ký ban hành Luật Nông trại trị giá 1 ngàn tỉ đô trị giá trong vòng mười năm. Có nhiều hạng mục bị cắt giảm trong bối cảnh khủng hoảng ngân sách, nhưng có một điều không thay đổi đó là chương trình trợ giá cho nông dân Mỹ. Tuy diện tích canh tác nói chung giảm, nhưng không nhiều bằng dân số sống về nghề nông, với kết quả là người ta có loại nông trại ngày một rộng. Tổng kết về phẩm và lượng thì số nông trại lớn, một năm đạt mức thương vụ trên 250 ngàn đô la, chỉ bằng 12% tổng số nông trại toàn quốc, nhưng sản xuất ra 84% nông sản Hoa Kỳ. Còn lại, 88% các nông trại là loại nhỏ và chỉ cung cấp 16% sản lượng. Khi nói đến trợ giúp nông gia người ta có thể quên rằng chính các nông trại lớn có doanh vụ rất cao lại được hưởng nhiều trợ cấp nhất, trong khi các gia đình có doanh vụ dưới 250 ngàn đô la một năm lại được ít hơn.

Trợ giá cho nông dân đã là một truyền thống, dù cho người ta có quyền cáo buộc nó là kết quả của những cuộc vận động hậu trường đầy mùi tiền thông qua những lần gây quỹ tranh cử cả ở cấp lập pháp lẫn hành pháp. Năm 2012, USDA cho biết nông dân Mỹ được trợ giá, trợ cấp tới 14 tỷ đô, tương đương 5% tổng doanh thu tiền mặt của toàn các trang trại Mỹ. Và dù được trợ cấp trợ giá rõ ràng như thế, nhưng bất cứ mặt hàng nông sản nào từ nước ngoài vào thị trường Mỹ nếu có nguy cơ đánh bại nông sản Mỹ, cũng có thể bị kiện cho tơi tả qua những vụ kiện bán phá giá, chống trợ cấp, giống như chuyện con cá tra hay con tôm Việt Nam vậy. Mà nông nghiệp mới chỉ cấu thành chừng chưa tới 1,5% GDP của nước Mỹ. Nếu là nước nông nghiệp thật, rau của Mỹ còn ngon, sạch cỡ nào, và nông dân Mỹ còn giàu nhường nào?

Nông nghiệp Mỹ được trợ cấp nhiều nhất thế giới: mình Mỹ trợ cấp nông nghiệp: 50 tỷ USD, EU: 129,8 tỷ USD. Năm 2002, Mỹ thực tế sử dụng 3,085 tỉ USD vào bảo hiểm nông nghiệp, dự toán bảo hiểm nông nghiệp năm 2004 là 2,938 tỉ USD. Thực ra, mỗi năm Mỹ trợ giá nông nghiệp 10-30 tỷ USD. Nhưng tiền phần nhiều không đến tay nông dân nghèo (theo tiêu chuẩn Mỹ), nó rơi vào tay các đại nông trại, các công ty giống, phân bón, công nghệ, các nhà băng.

Trợ giá nông nghiệp Mỹ bao gồm:

Hỗ trợ trong nước (Domestic support subsidies): Hỗ trợ trong nước là những lợi ích được Cphủ dành cho một hoặc một số đối tượng mà không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết quả XK của đối tượng đó.

Hộp xanh lá cây (Green box subsidies): gồm các chương trình chi trả trực tiếp nhằm hỗ trợ thu nhập của người nông dân nhưng không ảnh hưởng đến các quyết định SX (nói cách khác là không mang tính bóp méo thương mại). Hộp xanh lá cây bao gồm:
• Chương trình trợ cấp hồi hưu cho người sx nông nghiệp;
• Chương trình chuyển đổi nguồn lực;
• Chương trình bảo vệ môi trường;
• Chương trình hỗ trợ vùng;
• Dự trữ quốc gia vì mục đích an ninh lương thực;
• Chương trình trợ cấp lương thực trong nước;
• Một số hình thức hỗ trợ đầu tư;
• Dịch vụ chung của Nhà nước phục vụ cho: nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông; thông tin thị trường và CSHT nông thôn.

Hộp xanh lam - hộp xanh da trời (Blue box subsidies): Những biện pháp hỗ trợ thuộc loại này có thể có ảnh hưởng bóp méo sản xuất và thương mại nhưng chỉ ở mức tối thiểu. Hộp xanh lam gồm:
• Khoản chi trả trực tiếp trong chương trình hạn chế SX hoặc khoản chi trả cho chăn nuôi.
• Với nước đang phát triển: hỗ trợ được thực hiện thông qua các khoản hỗ trợ đầu tư của CPhủ.
• Hỗ trợ để khuyến khích việc chuyển từ cây trồng thuốc phiện sang các cây trồng khác.

Hộp hổ phách (amber subsidies) - Loại hỗ trợ mang tính bóp méo thương mại rõ ràng → không được miễn và buộc phải cắt giảm. Đề ra mức trần cho tổng mức hỗ trợ trong nước AMS (Aggregate Measurement of Support).
b)Trợ cấp xuất khẩu (Export Subsidies)
(1) Trợ cấp trực tiếp dựa trên thành tích XK.
(2) XK nông sản dự trữ với giá của sp tương tự trong nước.
(3) Thanh toán cho hàng nông sản XK thông qua hoạt động của Cphủ.
(4) Trợ cấp nhằm ↓ CFí XK nông sản gồm CFí bảo quản, nâng cấp, chế biến CFí vtải qtế;
(5) Bảo đảm hay ủy quyền bảo đảm vtải nội địa đv hàng XK với các đk ưu đãi vtải hàng trong nước;
(6) Trợ cấp cho nông sản dựa trên tỷ trọng trong sp XK.

• Có rất nhiều vấn đề không minh bạch về thống kê và pháp luật của các nước phát triển
• Những cam kết chưa đạt được tại vòng Urugoay trong NN vẫn tiếp tục phải giải quyết tại vòng Doha
• Mục tiêu tự do và bình đẳng, thực hiện theo cơ chế thị trường vẫn chưa đạt được

TRỢ CẤP NÔNG NGHIỆP CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Vào những ngày đầu tiên của quốc gia này, hoạt động nông nghiệp đã giữ một vị trí chủ yếu trong nền kinh tế và văn hóa Hoa Kỳ. Tất nhiên, nông dân có một vai trò quan trọng trong bất cứ xã hội nào vì họ nuôi sống mọi người. Nhưng hoạt động nông nghiệp được đánh giá đặc biệt ở nước Mỹ. Trong giai đoạn ban đầu của đất nước, người nông dân được coi là khuôn mẫu cho những đức tính cần thiết trong hoạt động kinh tế như cần cù chịu khó, sáng tạo, và làm ăn tự chủ. Hơn thế nữa, nhiều người Mỹ - đặc biệt là những người nhập cư chưa bao giờ có một mảnh đất và chưa từng có quyền sở hữu đối với sức lao động và sản phẩm của chính mình - thấy rằng sở hữu một trang trại là chiếc vé để đi vào hệ thống kinh tế Mỹ. Ngay cả những người đã rời bỏ nông nghiệp cũng thường sử dụng đất đai như một loại hàng hóa rất dễ mua và bán để mở ra con đường kiếm lời khác.

Người nông dân Mỹ nhìn chung đều khá thành công trong việc sản xuất lương thực thực phẩm. Quả thực, đôi khi sự thành công của họ lại gây ra vấn đề rắc rối nhất: theo chu kỳ, lĩnh vực nông nghiệp phải chịu những đợt sản xuất thừa gây sức ép lên giá cả. Với những chu kỳ dài, chính phủ phải giúp giải quyết ổn thỏa tình trạng xấu nhất đó. Nông dân Mỹ có khả năng tạo ra sản lượng lớn do nhiều yếu tố. Thứ nhất, họ làm việc trong những điều kiện tự nhiên cực kỳ thuận lợi. Vùng Trung Tây nước Mỹ có đất đai màu mỡ nhất thế giới. Lượng mưa vừa đủ cho hầu hết các vùng của đất nước; nước sông và nước ngầm cho phép tưới rộng khắp cho những nơi còn thiếu.

Các khoản vốn đầu tư lớn và việc tăng cường sử dụng lao động có trình độ cao cũng góp phần vào thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền. Công nghệ sinh học đưa đến việc phát triển những loại giống chống được bệnh và chịu hạn. Phân hóa học và thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến (theo các nhà môi trường thì đã quá phổ biến). Máy tính đi theo hoạt động của trang trại, và thậm chí công nghệ vũ trụ được sử dụng để tìm ra những nơi tốt nhất cho gieo trồng và thâm canh mùa màng. Hơn thế nữa, theo định kỳ các nhà nghiên cứu lại giới thiệu các sản phẩm thực phẩm mới và những phương pháp mới để phục vụ nuôi trồng, chẳng hạn như các hồ nhân tạo để nuôi cá.

Tuy vậy, người nông dân vẫn chưa loại bỏ được một số qui luật cơ bản của tự nhiên. Họ vẫn còn phải chiến đấu với những thế lực nằm ngoài sự kiểm soát của mình - đáng chú ý nhất là thời tiết. Mặc dù khí hậu vùng Bắc Mỹ nhìn chung là ôn hòa nhưng đôi khi vẫn có lũ lụt và hạn hán. Những thay đổi về thời tiết làm cho nông nghiệp có chu kỳ kinh tế riêng của mình, và thường không liên quan đến nền kinh tế nói chung.

Những lời kêu gọi chính phủ trợ giúp xuất hiện khi có những yếu tố chống lại thành công của nông dân; đôi khi các nhân tố khác nhau cùng ập đến đẩy các nông trại đến bên bờ phá sản thì các yêu cầu xin giúp đỡ đặc biệt tăng mạnh. Ví dụ, trong những năm 1930, sản xuất thừa, thời tiết xấu, và cuộc Đại khủng hoảng kết hợp xuất hiện như một khó khăn không thể vượt qua đối với nhiều nông dân Mỹ. Chính phủ đã khắc phục tình hình bằng những cuộc cải cách nông nghiệp có ảnh hưởng sâu rộng - đáng chú ý nhất là hệ thống trợ giá. Sự can thiệp với quy mô lớn chưa từng thấy này kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990, khi Quốc hội dỡ bỏ nhiều chương trình hỗ trợ.

Chính sách nông nghiệp ban đầu

Trong thời kỳ thuộc địa của lịch sử nước Mỹ, Vương quốc Anh chia đất đai thành những khoanh lớn để ban cho các công ty tư nhân hoặc cá nhân. Những người được ban đất lại tiếp tục chia đất đai ra và bán nó cho những người khác. Khi giành được độc lập từ tay nước Anh vào năm 1783, những người sáng lập nước Mỹ thấy cần phải xây dựng một hệ thống phân phối đất đai mới. Họ thống nhất rằng tất cả đất đai chưa có người sở hữu sẽ thuộc quyền của chính phủ liên bang, lúc đó chính phủ có thể bán nó với giá 2,50 USD một a (6,25 USD một hecta).

Nhiều người bất chấp nguy hiểm và khó khăn để định cư trên những mảnh đất mới, đó là những người nghèo, và họ thường định cư như “những người lấn chiếm đất công” mà không có giấy tờ rõ ràng về mảnh đất của mình. Qua thế kỷ đầu tiên, nhiều người Mỹ cho rằng đất đai nên được trao không mất tiền cho những người định cư nếu họ vẫn sống và làm việc trên đó. Điều này cuối cùng được thực hiện thông qua Đạo luật về đất đai năm 1862, đạo luật đã mở ra những vùng đất đai rộng lớn miền Tây cho việc định cư dễ dàng. Một luật nữa cũng được thông qua cùng năm đó, giành riêng một phần đất đai liên bang để tạo ra thu nhập dùng vào việc xây dựng các trường đại học, còn gọi là các trường đại học được ban đất, ở các bang khác nhau. Việc cấp vốn cho các trường đại học thông qua Đạo luật Morrill tạo ra những cơ hội mới về giáo dục và đào tạo trong các lĩnh vực kỹ thuật thực hành, bao gồm cả kỹ thuật canh tác.

Mở rộng sở hữu tư nhân với các trang trại quy mô vừa phải chưa bao giờ là tiêu chuẩn ở miền Nam như đối với phần còn lại của Hoa Kỳ. Trước cuộc Nội chiến (1861-1865), những đồn điền lớn với diện tích hàng trăm hecta, nếu không muốn nói là hàng nghìn hecta, được thiết lập để sản xuất thuốc lá, gạo và bông với quy mô lớn. Các trang trại này được kiểm soát chặt chẽ bởi một số ít gia đình giàu có. Hầu hết người lao động ở trang trại là nô lệ. Với việc xóa bỏ chế độ nô lệ sau Nội chiến, nhiều nô lệ trước đây ở lại trên vùng đất đó như các nông dân làm thuê (còn gọi là người cấy rẽ) theo các thỏa thuận với những chủ cũ của họ.

Việc cung cấp rất nhiều lương thực thực phẩm cho công nhân trong nhà máy, công xưởng và các cửa hàng là yếu tố thiết yếu cho tiến trình công nghiệp hóa ban đầu của nước Mỹ. Hệ thống đường thủy và đường bộ phát triển đã mở ra khả năng vận chuyển nông phẩm trên các tuyến đường dài. Các sáng kiến mới như máy cày rẽ bằng thép (cần thiết cho các vùng đất cứng ở miền Trung Tây), máy gặt (một loại máy thu hoạch lúa hạt) và máy liên hoàn (một loại máy cắt, đập và quạt lúa) đã cho phép các trang trại nâng cao năng suất. Nhiều công nhân trong các nhà máy và công xưởng của quốc gia là những người con của các gia đình nông dân mà lao động của họ không còn cần thiết cho nông trại nhờ thành quả của những sáng kiến đó.

Vào năm 1860, hai triệu nông trại của quốc gia đã sản xuất dư thừa hàng hoá. Trên thực tế, các sản phẩm nông nghiệp chiếm 82% hàng hóa xuất khẩu của đất nước trong năm 1860. Với một ý nghĩa rất thực tế, ngành nông nghiệp đã tạo ra sức mạnh cho sự phát triển kinh tế Mỹ. Khi nền kinh tế trang trại phát triển, người nông dân ngày càng nhận thức được rằng các chính sách của chính phủ đã tác động đến kế sinh nhai của họ. Nhóm vận động chính trị cho nông dân đầu tiên, Nghiệp đoàn nông dân, được thành lập vào năm 1867. Nó phát triển rất nhanh chóng, và tiếp theo là các nhóm tương tự - như Liên minh nông dân và Đảng dân tuý. Các nhóm này nhằm mục tiêu vào các ngành đường sắt, thương nhân và ngân hàng - họ nhằm vào đường sắt vì cước vận chuyển cao, nhằm vào thương nhân vì những gì người nông dân cho là những khoản lợi nhuận vô lương tâm bị lấy đi bởi “những người môi giới”, và nhằm vào ngân hàng vì những hoạt động tín dụng quá chặt chẽ.

Sự khích động chính trị của nông dân cũng đem lại một số kết quả. Đường sắt và máy băng chuyền vận chuyển lúa được đặt dưới sự điều tiết của chính phủ, hàng trăm hợp tác xã và ngân hàng được hình thành. Tuy nhiên, khi những nhóm nông dân cố gắng định hình chương trình nghị sự chính trị của quốc gia bằng việc ủng hộ nhà hùng biện nổi tiếng thuộc Đảng Dân chủ William Jennings Bryan trong cuộc tranh cử tổng thống vào năm 1896, thì ứng cử viên của họ đã thất bại. Người dân thành phố và các nhóm lợi ích kinh doanh ở miền Đông nhìn những yêu cầu của nông dân với con mắt ngờ vực, sợ rằng các yêu cầu về vay lãi thấp và tín dụng dễ dàng có thể dẫn đến lạm phát tai hại.

Chính sách nông nghiệp trong thế kỷ XX

Bất chấp những thành tích chính trị không có gì nổi bật của các nhóm nông dân cuối thế kỷ XIX, hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX đã trở thành thời kỳ vàng son của ngành nông nghiệp Mỹ. Giá nông phẩm rất cao khi cầu về hàng hóa gia tăng và giá trị của đất đai tăng. Những tiến bộ kỹ thuật tiếp tục nâng cao năng suất. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã thành lập các trang trại thử nghiệm nhằm trưng bày các kỹ thuật mới có thể nâng cao sản lượng mùa màng; năm 1914, Quốc hội lập ra cơ quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển mộ một đội ngũ cán bộ để cố vấn cho nông dân và gia đình họ mọi việc, từ phân bón cho đến các dự án sửa chữa cải tạo của gia đình. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm tiến hành các nghiên cứu mới, phát triển những giống lợn tăng trọng nhanh hơn và đỡ tốn thức ăn hơn, những loại phân bón làm tăng sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.

Những năm tốt đẹp đầu thế kỷ XX chấm dứt khi giá cả giảm xuống sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nông dân lại kêu gọi sự giúp đỡ của chính phủ liên bang. Mặc dù vậy, những lời yêu cầu của họ đã bị bỏ ngoài tai khi mà phần còn lại của quốc gia - đặc biệt là những vùng đô thị - đang tận hưởng cuộc sống thịnh vượng của những năm 1920. Giai đoạn này, người nông dân gặp nhiều thảm họa hơn cả những thời kỳ khó khăn trước đây bởi vì họ không còn tự cung tự cấp nữa. Họ phải thanh toán bằng tiền mặt cho máy móc, hạt giống và phân bón cũng như cho hàng hóa tiêu dùng, trong khi thu nhập của họ tụt xuống cực kỳ thấp.

Tuy nhiên, không lâu sau cả quốc gia đã chia sẻ nỗi khó khăn của nông dân khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế sau sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán năm 1929. Đối với nông dân, cuộc khủng hoảng kinh tế còn trộn thêm cả những khó khăn nảy sinh do sản xuất thừa. Sau đó, khu vực nông nghiệp còn gặp phải những điều kiện thời tiết bất lợi cho hoạt động canh tác. Những đợt gió dai dẳng trong suốt mùa khô hạn kéo dài đã thổi mất đi những lớp đất mầu mỡ trên bề mặt của một vùng rộng lớn đã từng cho năng suất cao. Khái niệm “bão bụi” được đặt ra để mô tả những điều kiện xấu ấy.

Những chính sách “bảo vệ” nông nghiệp và thương mại thế giới

Sự can thiệp của chính phủ được mở rộng trong nền kinh tế nông nghiệp bắt đầu vào năm 1929, khi Tổng thống Herbert Hoover (1929-1933) thành lập Ban nông nghiệp liên bang. Mặc dù ban này không thể đáp ứng những thách thức gia tăng do cuộc Đại khủng hoảng mang lại, nhưng việc thiết lập tổ chức này thể hiện cam kết quốc gia đầu tiên nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế nhiều hơn nữa cho nông dân và đặt ra một tiền lệ về sự điều tiết các thị trường nông sản của chính phủ.

Từ năm 1932, Chính phủ Mỹ đã nhận định các khâu trung gian (doanh nghiệp kinh doanh, chế biến nông sản, vật tư nông nghiệp và xuất khẩu lương thực) chiếm lợi tức áp đảo, câu kết với các đối tác nước ngoài, khiến thu nhập của nông dân Mỹ giảm sút. Đạo luật Điều tiết nông nghiệp 1933 đã được chính phủ ban hành, đặt nền móng cho chính sách khuyến nông.

Vào mùa xuân năm 1933, khu vực kinh tế nông nghiệp đang trong tình trạng suy sụp. Điều đó khiến những người khởi xướng Chính sách kinh tế mới có cơ sở để thử nghiệm niềm tin của họ rằng việc điều tiết nhiều hơn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề của đất nước.

Năm 1933, Quốc hội đã thông qua Luật Điều chỉnh Nông nghiệp (AAA) nhằm trợ giúp kinh tế cho nông dân. AAA đề xuất tăng giá nông sản bằng cách trả cho nông dân một khoản trợ cấp đền bù cho phần sản lượng tự nguyện cắt giảm. Nguồn tiền cho những khoản trợ cấp này có được do số thu từ thuế đánh vào những ngành công nghiệp chế biến nông sản. Tuy nhiên, cho đến khi điều luật này chính thức trở thành luật, thì vụ gieo trồng đã diễn ra rồi, và AAA buộc phải trả cho nông dân một khoản tiền trợ cấp để họ phá bỏ các mảnh đất đã được gieo trồng. Việc cắt giảm sản lượng và trợ cấp nông nghiệp thông qua Công ty Tín dụng Nông sản - là công ty thu mua nông sản để cất trữ - khiến cho sản lượng trên thị trường giảm xuống và giá nông sản tăng lên.

Chính sách kinh tế mới (tiếng Anh là New Deal) là tên gọi của một tổ hợp các đạo luật, chính sách, giải pháp nhằm đưa Hoa Kỳ thoát ra khỏi cuộc đại suy thoái kinh tế 1929-1933. Chính sách kinh tế mới gắn liền với tên tuổi của vị tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ, Franklin Delano Roosevelt (gọi tắt là FDR).

Trong buổi lễ nhậm chức tổng thống của mình vào năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã tuyên bố chuyển đổi chính sách nông nghiệp quốc gia mạnh mẽ hơn so với sáng kiến của Hoover. Roosevelt đã đề xuất, và Quốc hội đã tán thành, các luật nhằm nâng cao giá cả nông sản bằng việc hạn chế sản xuất. Chính phủ cũng chấp nhận và thực hiện một hệ thống trợ giá để bảo đảm cho nông dân một mức giá “tương đương” gần bằng mức giá có thể có được trong thời kỳ thị trường thuận lợi. Trong những năm sản xuất thừa, khi giá cả nông sản thấp hơn mức giá tương đương, chính phủ chấp nhận mua lượng thừa đó.

Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã phải đối mặt với một tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng có trong lịch sử. Vào thời điểm ông nhậm chức, có khoảng 13 triệu người Mỹ - chiếm một phần tư lực lượng lao động - không có việc làm. Những hàng người chờ đợi được phân phát bánh mỳ là cảnh tượng thường thấy tại hầu hết các thành phố. Hàng trăm nghìn người lang thang khắp đất nước để tìm kiếm thức ăn, việc làm và nơi trú ngụ. Khi F.D. Roosevelt tuyên thệ nhậm chức tổng thống, hệ thống ngân hàng và tài chính của Mỹ đang trong tình trạng tê liệt.

Đầu tiên, các ngân hàng quốc gia nhanh chóng bị đóng cửa, và sau đó, chỉ được hoạt động trở lại khi chúng có khả năng chi trả. Chính quyền đã thực thi chính sách lạm phát tiền tệ vừa phải để tăng giá cả của hàng hóa và giúp cho các gánh nặng nợ nần nhẹ nhõm phần nào. Các cơ quan mới của chính phủ đã cấp những khoản tín dụng hào phóng cho nông nghiệp và công nghiệp. Công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) đã bảo hiểm tới 5.000 USD cho các khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Các điều luật Liên bang cũng được áp dụng cho hoạt động bán chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán.

Có những sáng kiến nữa của Chính sách mới để hỗ trợ nông dân. Quốc hội thành lập Ban quản lý điện khí hóa nông thôn nhằm mở rộng các tuyến truyền tải điện đến các vùng nông thôn. Chính phủ giúp đỡ xây dựng và duy tu hệ thống các đường giao thông từ trang trại đến thị trường để người nông dân cũng như hàng hóa của họ có thể tới được các thành phố và đô thị thuận lợi hơn. Những chương trình bảo toàn đất đai nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quản lý hiệu quả đất canh tác.

Bước đi đầu tiên nhằm giải quyết nạn thất nghiệp là hình thành Đội Bảo tồn Dân sự (CCC), một chương trình trợ giúp thanh niên từ 18 đến 25 tuổi. CCC tập hợp thanh niên không có việc làm thành những trại lao động do quân đội quản lý. Trong thập niên đó, đã có khoảng hai triệu thanh niên đã tham gia chương trình này. Họ hoạt động trong nhiều dự án bảo tồn: trồng cây chống xói mòn, bảo vệ các khu rừng quốc gia, loại bỏ ô nhiễm các dòng suối, xây dựng các khu bảo tồn cá, thú săn và chim, bảo vệ các vỉa than, mỏ dầu, đá phiến dẹt, mỏ khí đốt, mỏ muối natri và mỏ khí heli.

Cơ quan Quản lý các công trình công cộng (PWA) cung cấp việc làm cho những công nhân có tay nghề cao trong ngành xây dựng, chủ yếu làm việc trong các dự án lớn hoặc các dự án có quy mô vừa. Các công trình nổi tiếng trong giai đoạn này là đập nước Bonneville, đập Lớn Coulee tại miền Đông Bắc Thái Bình Dương, hệ thống cống ở Chicago, cầu Triborough ở thành phố New York, và hai tàu sân bay (Yorktown và Enterprise) cho Hải quân Mỹ.

Cơ quan Tennessee Valley (TVA), vừa là một chương trình tạo công ăn việc làm, vừa là một dự án quy hoạch các công trình công cộng, đã phát triển vùng thung lũng nghèo của sông Tennessee bằng cách xây dựng một loạt các đập nước nhằm kiểm soát lũ lụt và làm thủy điện. Bằng việc cung cấp điện với giá rẻ cho toàn bộ vùng Tennessee, cơ quan này đã thúc đẩy sự tăng trưởng nhất định về kinh tế, nhưng lại khiến các công ty điện lực tư nhân ghen ghét và thù địch. Các nhà kinh tế xã hội mới ca ngợi rằng đây là một ví dụ tiêu biểu về dân chủ cơ sở.

Cơ quan Phục hồi Quốc gia (NRA) được thành lập năm 1933 cùng với Đạo luật Phục hồi Công nghiệp Quốc gia (NIRA) đã chấm dứt cạnh tranh gay gắt bằng việc đưa ra các bộ luật về cạnh tranh công bằng nhằm tạo nhiều việc làm hơn và do đó sẽ làm tăng sức mua. Tuy lúc đầu, NRA rất được hoan nghênh, nhưng nó đã sớm bị phàn nàn vì đã điều tiết quá mức và khiến cho việc phục hồi công nghiệp không được hoàn thành. Cơ quan này đã bị tuyên bố là không hợp hiến vào năm 1935.

NIRA đã đảm bảo cho lao động quyền được thương lượng tập thể thông qua các tổ chức công đoàn đại diện cho tầng lớp công nhân. Tuy nhiên, NRA đã không vượt qua được sự phản đối mạnh mẽ của giới doanh nghiệp đối với chủ nghĩa nghiệp đoàn độc lập. Sau khi cơ quan này giải thể vào năm 1935, Quốc hội đã thông qua Luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Luật này đã khẳng định lại sự bảo đảm đó và cấm giới chủ lao động can thiệp vào hoạt động của Công đoàn. Quốc hội cũng lập ra Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) để giám sát các cuộc thương lượng tập thể, điều hành các cuộc bầu cử và bảo đảm cho công nhân quyền lựa chọn tổ chức đại diện cho họ trong việc thương lượng với giới chủ.

Cơ quan Xúc tiến Việc làm (WPA), một cơ quan hỗ trợ trọng yếu của Chính sách kinh tế mới lần thứ hai, là tổ chức cung cấp việc làm lớn nhất thời kỳ đó. Cơ quan này đã triển khai các dự án quy mô nhỏ trên khắp đất nước, xây dựng nhà cửa, đường sá, sân bay và trường học. Các diễn viên, họa sỹ, nhạc sỹ và nhà văn được làm việc cho các Dự án Nhà hát Liên bang, Dự án Nghệ thuật Liên bang và Dự án Nhà văn Liên bang. Ngoài ra, Cơ quan Thanh niên Quốc gia cũng đã cung cấp việc làm bán thời gian cho sinh viên, thiết kế các chương trình đào tạo và trợ cấp cho những thanh niên chưa có việc làm. WPA tính toán được khoảng ba triệu người thất nghiệp trong thời điểm đó; và cho đến khi bị bãi bỏ năm 1943 thì cơ quan này đã giúp đỡ được tổng cộng chín triệu người.

Sự tiến bộ lớn lao đạt được trong tổ chức lao động đã mang lại cho người lao động ý thức ngày càng tăng về những quyền lợi chung, và sức mạnh của các tầng lớp lao động đã tăng lên không chỉ trong công nghiệp, mà cả về mặt chính trị. Đảng Dân chủ của Franklin D.Roosevelt đã được lợi rất nhiều từ những tiến bộ này.

Trong suốt hơn 2 năm hoạt động từ 1933 đến 1935, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang (FERA) đã trực tiếp phân phát cứu trợ, chủ yếu dưới hình thức trả tiền trực tiếp cho hàng trăm nghìn người. Đôi khi, tổ chức này còn trợ cấp lương cho các giáo viên và nhân viên trong các cơ quan hành chính ở địa phương. Tổ chức này cũng đã triển khai nhiều dự án công cộng quy mô nhỏ cung cấp việc làm, cũng giống như Cơ quan Lao động Dân sự (CWA) từ cuối năm 1933 đến mùa xuân năm 1934. Đây bị chỉ trích là những việc làm giá trị, những công việc này có đủ loại, từ việc đào hào tới sửa chữa đường cao tốc và dạy học. Roosevelt và các quan chức nòng cốt của ông trong chính phủ đã lo lắng về các khoản chi phí dành cho những dự án cung cấp việc làm này, nhưng ông vẫn tiếp tục ủng hộ các chương trình chống nạn thất nghiệp, dựa trên nguyên tắc tạo ra công ăn việc làm chứ không phải là trợ cấp phúc lợi xã hội.

Trong những năm đầu thực thi, mặc dù Chính sách kinh tế mới đã thực hiện hàng loạt các sáng kiến lập pháp và đã làm sản lượng và giá cả tăng lên đáng kể, song nó vẫn không chấm dứt được thời kỳ suy thoái kinh tế. Khi nỗi lo sợ về cuộc khủng hoảng đã dịu đi, thì những nhu cầu mới lại xuất hiện. Các doanh nhân tiếc nuối vì chính sách không can thiệp không còn tồn tại nữa và bất bình trước những quy định của NIRA. Những cuộc khẩu chiến ầm ĩ cũng xuất hiện từ phía các phe phái chính trị cánh tả và cánh hữu, do những kẻ mơ mộng, những kẻ âm mưu và các chính trị gia mới nổi mang theo những phương thuốc phục hồi kinh tế thu hút sự chú ý của đông đảo dân chúng.

Tiến sỹ Francis E. Townsend đề xuất các khoản lương hưu hậu hĩnh cho người già. Cha Coughlin, một vị linh mục từng phát biểu trên đài phát thanh, kêu gọi các chính sách chống lạm phát và chỉ trích các chủ nhà băng quốc tế trong những bài diễn văn được tung ra tới tấp của ông, mang tư tưởng bài xích Do Thái và ả Rập. ấn tượng nhất là Huey P. Long, Thượng nghị sỹ bang Lousiana, một diễn giả nổi tiếng về tài hùng biện và sự thẳng thắn luôn ủng hộ cho những người bị thiệt thòi yếu thế, đã vận động cho chính sách tái phân phối thu nhập. Nếu không bị ám sát vào tháng 9/1936 thì Huey P. Long rất có thể đã là một thách thức đối với chiếc ghế tổng thống của Franklin D. Roosevelt vào cuộc bầu cử năm 1936.

Trước những áp lực này, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đưa ra một loạt những biện pháp mới về kinh tế và xã hội. Nổi bật nhất trong số đó là những biện pháp đấu tranh chống đói nghèo, mang lại việc làm cho những lao động đang thất nghiệp và xây dựng một mạng lưới an sinh xã hội. Theo Tổng thống Franklin D. Roosevelt thì nền tảng của Chính sách kinh tế mới là Đạo luật Bảo hiểm Xã hội năm 1935. Bảo hiểm Xã hội đã tạo ra một hệ thống phúc lợi do nhà nước quản lý, nhằm trợ cấp cho người tàn tật, người nghèo và người thất nghiệp dựa trên các khoản đóng góp của tiểu bang và liên bang. Nó cũng tạo ra một hệ thống bảo hiểm hưu trí quốc gia, rút tiền từ một quỹ tín thác do chủ lao động và người lao động tham gia đóng góp. Nhiều quốc gia công nghiệp khác cũng đã từng ban hành những chương trình như vậy, nhưng những lời kêu gọi cho sáng kiến này ở Hoa Kỳ trước đó bị bỏ qua. Ngày nay, hệ thống bảo hiểm xã hội là chương trình quốc nội lớn nhất do Chính phủ Mỹ quản lý.

Thêm vào đó, Franklin D. Roosevelt đã cho ra đời thêm các điều luật khác là Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia; Đạo luật Thuế thu nhập - nhằm tăng thuế thu nhập của người giàu; Đạo luật về các Công ty công ích - nhằm thống nhất các công ty điện lực thành các tập đoàn lớn; Đạo luật Ngân hàng - mở rộng quyền lực của Cục Dự trữ Liên bang đối với các ngân hàng tư nhân. Một động thái quan trọng khác là việc thành lập Cơ quan Điện khí hóa Nông thôn cung cấp điện cho các trang trại trên khắp đất nước.

Từ năm 1932 đến năm 1935, thu nhập của nông dân tăng hơn 50% nhưng chỉ phần nào là nhờ vào các chương trình liên bang mà thôi. Trong những năm đó, khi chủ đất được khuyến khích không dùng đất vào trồng trọt, thải hồi những người làm thuê và những người lĩnh canh, thì một trận hạn hán khắc nghiệt đã ập xuống các bang vùng Plains. Gió mạnh và những cơn bão cát đã tàn phá khắp vùng khiến miền này nổi danh là xứ bụi trong suốt những năm 1930. Mùa màng bị tàn phá và các nông trại bị phá hủy.

Cho đến năm 1940, khoảng 2,5 triệu người đã rời khỏi các bang vùng Plains, tạo thành dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong số đó, khoảng 200.000 người đã đến California. Những người di cư không chỉ gồm có nông dân mà còn bao gồm cả lao động chuyên môn, người bán lẻ và nhiều lớp người khác mà sinh kế của họ gắn với sự thăng trầm của các cộng đồng nông nghiệp. Nhiều người trong số họ cuối cùng đã phải tranh nhau tìm kiếm những công việc mang tính thời vụ như thu hái nông sản với đồng lương cực kỳ rẻ mạt.

Chính phủ đã ra tay cứu trợ bằng cách thành lập Cơ quan Bảo toàn Đất đai năm 1935. Những tập quán canh tác làm tàn phá đất đai đã làm cho ảnh hưởng của hạn hán càng trầm trọng thêm. Cơ quan này đã hướng dẫn nông dân các biện pháp làm hạn chế xói mòn. Ngoài ra, gần 30.000 km cây trồng đã được trồng lên để làm giảm sức mạnh của gió.

Tuy AAA phần nhiều là thành công, nhưng nó vẫn bị bãi bỏ vào năm 1936, khi các khoản thuế đánh vào các công ty chế biến thực phẩm bị Tòa án Tối cao cho là không hợp hiến. Quốc hội đã nhanh chóng thông qua một điều luật hỗ trợ nông dân, cho phép chính phủ trợ cấp cho những nông dân chấp nhận bỏ đất không gieo trồng nhằm mục đích bảo toàn đất đai. Năm 1938, với đa số thành viên ủng hộ Chính sách kinh tế mới tại Tòa án Tối cao, Quốc hội đã phục hồi điều luật AAA.

Cho tới năm 1940, gần sáu triệu nông dân đã nhận được trợ cấp liên bang. Các chương trình Chính sách kinh tế mới đã cấp các khoản vay cho những vụ gieo trồng tăng thêm, cung cấp bảo hiểm lúa mì và hệ thống cất trữ theo kế hoạch, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp lương thực ổn định. Cuối cùng, chính sách ổn định kinh tế cho nông dân cũng đã được hoàn tất, mặc dù chính phủ đã phải giám sát vô cùng chặt chẽ và bỏ ra những khoản chi phí khổng lồ.

Xét trên khía cạnh nào đó thì Chính sách kinh tế mới chỉ đơn thuần đưa ra những cải cách xã hội và kinh tế vốn đã rất quen thuộc đối với người châu Âu từ hơn một thế hệ nay. Hơn nữa, Chính sách kinh tế mới là cao trào của một xu hướng dài hạn nhằm tiến tới bãi bỏ chủ nghĩa tư bản không can thiệp, trở lại việc kiểm soát đường sắt vào những năm 1880, và đưa ra hàng loạt cải cách luật pháp bang và liên bang đã được khởi xướng trong kỷ nguyên tiến bộ thời các Tổng thống Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson. Tuy nhiên, điều thực sự mới mẻ trong Chính sách kinh tế mới là nó đã nhanh chóng đạt được những thành tựu mà trước đó phải mất nhiều thế hệ mới có được.

Tuy vậy, rất nhiều chương trình cải cách trong số này đã được khởi thảo một cách vội vã và được quản lý lỏng lẻo; một số khác thì lại mâu thuẫn với những mô hình cải cách còn lại. Hơn nữa, chính sách này chưa bao giờ thành công trong việc đem lại sự thịnh vượng. Tuy vậy, những hành động trong Chính sách kinh tế mới đã giúp đỡ hàng triệu người Mỹ, xây dựng nền tảng cho một liên minh chính trị hùng mạnh, và khiến mỗi công dân Mỹ lại thực sự quan tâm đến chính phủ.

Kéo dài suốt 63 năm (1933-1996) là một chương trình hỗ trợ nông dân thông qua hình thức cho trả nợ vay bằng sản phẩm. Theo đó, chính phủ cho nông dân vay vốn canh tác tương ứng theo sản lượng thu hoạch và “giá bán định trước” ghi vào hợp đồng vay vốn (gọi là “giá hợp đồng”). Nông dân giữ quyền thanh lý hợp đồng bằng cách bán lúa mì lại cho chính phủ theo giá hợp đồng.

Như vậy nông dân không sợ bị lỗ nặng nếu trúng mùa mà vẫn có quyền bán lúa mì cho thương lái với giá cao hơn để tích lũy lợi tức nhiều hơn.

Điểm đặc biệt của chính sách này là nguồn kinh phí không lấy từ ngân sách mà lấy từ một quỹ “bình ổn nguồn nông sản” do các công ty kinh doanh, chế biến nông sản, vật tư nông nghiệp và xuất khẩu lương thực đóng góp hằng năm theo công thức quy định cụ thể bằng luật. Chính sách này bị các doanh nghiệp kinh doanh lương thực chống đối nên Chính phủ Mỹ buộc phải trưng cầu ý dân hằng năm. Liên tiếp 63 năm luôn có trên 2/3 số hộ nông dân bỏ phiếu thuận cho thấy đây là chính sách rất hợp lòng nông dân.

Để tránh lãng phí và lạm dụng, mỗi hộ nông dân chỉ được vay một số vốn tính theo diện tích đất thực canh và năng suất bình quân ba năm gần nhất. Ngoài ra còn phải tuân thủ quy hoạch về sản lượng canh tác hằng năm của Bộ Nông nghiệp. Công cụ chính sách này giúp nhà nước quy hoạch kiểm soát sản lượng nông nghiệp, tránh tình trạng thừa cung làm rớt giá, đồng thời đề cao vai trò chia sẻ, trách nhiệm ổn định nguồn cung nông sản của các đơn vị kinh doanh trong chuỗi giá trị cung ứng.

Trước tình trạng dư thừa sản lượng đã khiến giá cả mất ổn định, chính sách “bảo tồn, dưỡng đất dự trữ” (Conservation Reserve Program - CRP) ra đời với mục đích chính nhằm đưa các vùng đất cằn cỗi, trồng trọt năng suất thấp nhưng chi phí lớn vào diện không khai thác để bảo dưỡng, bảo tồn và dự trữ.

Chương trình này chi trả tiền trực tiếp cho hộ nông dân chủ đất với phần diện tích đưa vào diện bảo tồn trong vòng 10 năm không được khai thác bất kỳ hình thức nào để đổi lấy tiền hỗ trợ từ “quỹ bảo tồn, bảo dưỡng, dự trữ đất”.

Chính sách thay đổi luân phiên cây trồng hoặc quy định hạn mức diện tích canh tác trước đây không hiệu quả. Do đó chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ đã đáp ứng yêu cầu quản lý sản lượng nông nghiệp để ổn định nguồn cung hợp lý, đảm bảo giá cả nông sản được duy trì cao, tạo thu nhập ổn định cho nông dân.

Suốt 40 năm, chương trình quy định một tổng số diện tích cụ thể các loại đất kém năng suất để đảm bảo kinh phí chương trình bảo tồn, bảo dưỡng đất không bị quá tải. Tiền hỗ trợ bảo tồn thường thấp hơn lợi tức canh tác ở vùng đất màu mỡ.

Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế trang trại một lần nữa lại phải đối diện với những thách thức của sản xuất thừa. Các tiến bộ công nghệ, chẳng hạn như việc đưa vào các máy móc chạy điện và xăng dầu cũng như việc sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu và phân hóa học, làm cho sản lượng trên mỗi hecta cao hơn bao giờ hết. Để giúp tiêu thụ các nông sản thừa gây sức ép lên giá cả và gây tổn thất tiền bạc của người đóng thuế, năm 1954 Quốc hội đã tạo nên một chương trình Lương thực vì hòa bình để xuất khẩu hàng hóa nông sản của Mỹ sang các nước có nhu cầu. Các nhà hoạch định chính sách lập luận rằng việc xuất khẩu lương thực như vậy có thể sẽ đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Những người theo chủ nghĩa nhân đạo coi chương trình này như là một cách để nước Mỹ chia sẻ sự dư dật của mình.

Quy mô nông nghiệp Hoa kỳ từ 1960-2012

Trong những năm 1960, chính phủ quyết định cũng sử dụng lương thực thừa để nuôi chính những người nghèo của mình. Trong Cuộc chiến chống đói nghèo của Tổng thống Lyndon Johnson, chính phủ đưa ra chương trình Tem phiếu thực phẩm cấp cho những người có thu nhập thấp các phiếu phân phối có thể dùng để thanh toán lương thực thực phẩm tại các cửa hàng tạp phẩm. Tiếp theo là các chương trình khác sử dụng hàng hóa nông sản thừa, chẳng hạn như các bữa ăn tại trường cho trẻ em có nhu cầu. Các chương trình lương thực như vậy đã giúp duy trì sự giúp đỡ của thành phố cho khu vực nông nghiệp trong nhiều năm, và những chương trình này vẫn là một dạng quan trọng của phúc lợi công cộng - giành cho người nghèo và theo một nghĩa nào đó cũng cho cả người nông dân.

Khi Tổng thống J. F. Kennedy đắc cử, chính phủ nhận thấy nông dân cần được hỗ trợ để ổn định thu nhập và chương trình chi trả trực tiếp cho nông dân để họ giảm diện tích canh tác tốn kém quá nhiều ngân sách. Do đó chính phủ đã đề ra chính sách cưỡng chế cắt giảm sản lượng toàn quốc nếu 2/3 số hộ nông dân đồng ý trong cuộc trưng cầu ý dân hằng năm. Mục đích là giảm sản lượng để giữ giá nông sản trong bối cảnh ngân sách còn hạn chế.

Thời gian đầu, chương trình này giúp giữ được giá nông sản ổn định ở mức cao song khi ngày càng hội nhập quốc tế, mức giá này khiến nông sản của Mỹ khó cạnh tranh và mất thị trường xuất khẩu. Sự cự tuyệt của thị trường đã tiếp lửa cho những ý kiến chống đối chương trình này mà đỉnh điểm là nông dân sử dụng quyền lực chính trị thông qua Quốc hội ra luật bãi bỏ quy định cưỡng chế giảm sản lượng. Sau năm 1963, một chương trình tự nguyện được thay thế.

Chương trình hỗ trợ nông dân trực tiếp được triển khai khi đạo luật Lúa mì - bông vải thông qua năm 1964. Theo đó, hộ nông dân nhận được một tín chỉ trị giá 75 xu Mỹ cho mỗi “thùng” lúa mì (giống như “giạ” ở VN). Sau khi tổng kết các hóa đơn bán sản lượng cho nhà máy chế biến, hộ nông dân sẽ đổi các tín chỉ trên lấy tiền mặt. Số tiền hỗ trợ này được trích từ một quỹ do các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh vật tư và nông sản đóng góp. Như vậy các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị đã đóng góp hoàn toàn số tiền hỗ trợ cho nông dân, thực chất là một hình thức tái phân phối lợi tức về lại cho nông dân.

Các chính sách hỗ trợ nông dân trực tiếp đã đưa quy mô nông nghiệp Mỹ phát triển từ 34 tỉ USD (năm 1960) lên đến 395 tỉ USD (năm 2012). Theo đó, tổng số tiền hỗ trợ cũng tăng từ 702 triệu USD (1960) lên đỉnh điểm 24 tỉ USD (2005) và giảm dần về 10,6 tỉ USD (2012). Thu nhập bình quân hộ gia đình nông dân cũng tăng ấn tượng, từ 4.054 USD (1960) lên 108.844 USD (2012), tức là gấp 25 lần so với năm 1960.

Nhưng khi sản xuất nông trại ngày càng tăng lên suốt trong những năm 1950, 1960 và 1970 thì chi phí của hệ thống trợ giá của chính phủ cũng tăng lên hết sức mạnh mẽ. Các nhà chính trị ở những bang không có sản xuất nông nghiệp đã đặt ra câu hỏi về tính khôn ngoan trong việc khuyến khích nông dân sản xuất nhiều hơn nữa khi đã đủ - đặc biệt là khi lượng dư thừa gây sức ép lên giá cả và do vậy lại yêu cầu sự giúp đỡ của chính phủ lớn hơn.

Chính phủ đã thử một sách lược mới. Năm 1973, nông dân Mỹ bắt đầu nhận được sự giúp đỡ dưới dạng những khoản tiền thanh toán “thiếu hụt” của liên bang, được thiết kế để vận hành giống như hệ thống giá tương đương. Để nhận được những khoản thanh toán này, người nông dân phải tách ra một số ruộng đất của mình không được sản xuất, do vậy sẽ giúp giữ giá thị trường. Một chương trình mới Thanh toán bằng hiện vật, được tiến hành vào đầu những năm 1980 với mục đích giảm chi phí tích trữ lúa, gạo và bông của chính phủ và nâng cao giá cả thị trường, đã bỏ không canh tác khoảng 25% đất trồng trọt.

Việc trợ giá và thanh toán thiếu hụt chỉ áp dụng cho những hàng hóa cơ bản nhất định như lúa, gạo và bông. Nhiều người sản xuất khác không được trợ cấp. Một vài nông sản, chẳng hạn như chanh và cam, bị lệ thuộc vào những hạn chế thị trường công khai. Dưới cái gọi là những đơn đặt hàng thị trường, lượng nông sản của cây trồng là mặt hàng tươi bị giới hạn theo từng tuần. Bằng việc khống chế lượng bán ra, những đơn đặt hàng như vậy nhằm mục đích nâng giá cho nông dân.

Các đạo luật nông nghiệp sau này (1970, 1973, 1981, 1985) đã tập trung khắc phục các phát sinh rủi ro chính sách tạo ra bởi các chương trình hỗ trợ nông dân và giữ giá nông sản. Bởi khi các chính sách hỗ trợ đi vào cuộc sống, chúng tạo nên tâm lý phụ thuộc vào các chương trình hỗ trợ, từ đó khiến các mức giá hỗ trợ đề ra trong chính sách trở thành “giá kỳ vọng” của nông dân, rồi thành “giá thị trường” trong nội địa.

Cơ chế thị trường điều tiết giá theo nguồn cung - cầu đã bị méo mó bởi các chính sách hỗ trợ này. Hậu quả ngoài ý muốn là nông dân có xu hướng tăng sản lượng thu hoạch khiến cho quỹ hỗ trợ ngày càng phình to và ngân sách phải bù lỗ. Mục đích ban đầu là khống chế sản lượng đã bị chệch hướng.

Khi thiên tai giáng xuống làm mất mùa, cộng thêm cuộc khủng hoảng tài chính - dầu hỏa của những năm 1970-1975, chi phí chương trình hỗ trợ và giữ giá vượt khỏi mức an toàn ngân sách và có nguy cơ bị đổ vỡ dây chuyền. Nông sản Mỹ mất dần thế mạnh vào tay các quốc gia khác trên thế giới vì giá cao.

Nông nghiệp: Một ngành kinh doanh lớn trong các thập kỷ 1980 và 1990

Vào thập kỷ 1980, chi phí của chính phủ (và cũng là của người đóng thuế) cho những chương trình như vậy đôi khi vượt quá 20 tỷ USD mỗi năm. Bên ngoài các khu vực nông trại, nhiều cử tri phàn nàn và biểu lộ bất bình về việc chính phủ liên bang thực tế thanh toán cho nông dân chứ KHÔNG cho nông trại. Quốc hội nhận thấy cần phải thay đổi đường lối.

Năm 1985, theo yêu cầu của Tổng thống Ronald Reagan về một chính phủ có quy mô hẹp hơn, Quốc hội đã thông qua một luật mới về nông trại nhằm mục đích giảm bớt sự phụ thuộc của nông dân vào hỗ trợ của chính phủ và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế đối với hàng hóa nông sản Mỹ. Luật này cắt giảm trợ giá và không canh tác từ 16 đến 18 triệu hecta đất trồng nhạy cảm với môi trường trong vòng từ 10 đến 15 năm. Mặc dù luật năm 1985 chỉ tác động vừa phải đến cơ cấu trợ giúp nông trại của chính phủ nhưng việc cải thiện các chu kỳ kinh tế đã giúp kiềm chế tổng số tiền trợ cấp.

Đạo luật An ninh lương thực năm 1985 đã căn cứ hiện trạng nền nông nghiệp, thu nhập nông dân và tình hình thị trường quốc tế, thay đổi cách tính tiền hỗ trợ từ linh động sang cố định để giảm bớt gánh nặng ngân sách. Chương trình hỗ trợ lãi suất cũng được cải tổ theo hướng không duy trì giá nông sản ở mức cao để đảm bảo thu nhập cao cho nông dân, mà chỉ đảm bảo một lợi tức hợp lý.

Quy định cho phép nông dân dùng sản lượng để trả nợ vay bị bãi bỏ, cắt giảm chi phí chính phủ phải mua lương thực tạm trữ. Thay vào đó là các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho nông dân như cho vay xây dựng kho tích trữ sản lượng tại chỗ để chờ giá thích hợp bán ra (marketing loan).

Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng của các thị trường thế giới đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo trên thế giới phải có cách tiếp cận mang tính hệ thống hơn để điều tiết việc buôn bán hàng hóa nông nghiệp giữa các quốc gia trong thập kỷ 1980 và thập kỷ 1990. Hầu hết mỗi quốc gia sản xuất nông nghiệp đều có một số hình thức trợ giúp của chính phủ đối với nông dân.

Vào cuối thập kỷ 1970 và đầu thập kỷ 1980, khi các điều kiện thị trường nông nghiệp trở nên thay đổi nhanh chóng, phần lớn các quốc gia có khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể đã tổ chức các chương trình hoặc đẩy mạnh các chương trình đang có để hỗ trợ nông dân của mình tránh khỏi những gì được xem là tình trạng tranh mua tranh bán của nước ngoài. Những chính sách này làm thu hẹp các thị trường quốc tế về hàng hóa nông nghiệp, làm giảm giá cả hàng hóa quốc tế và gia tăng dư thừa hàng hóa nông nghiệp trong các nước xuất khẩu. Theo một nghĩa hẹp, có thể hiểu được tại sao một nước cố gắng giải quyết vấn đề sản xuất thừa hàng nông nghiệp bằng việc tìm cách xuất khẩu lượng thừa đó một cách tự do trong khi lại hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế một chiến lược như vậy là không khả thi; các nước khác cũng miễn cưỡng một cách dễ hiểu trong việc cho phép nhập khẩu từ những nước không mở cửa thị trường của mình.

Vào giữa thập kỷ 1980, các chính phủ tiến hành giảm trợ cấp và cho phép buôn bán tự do hơn đối với hàng hóa nông sản. Tháng Bảy 1986, Hoa Kỳ công bố một kế hoạch mới nhằm cải cách buôn bán hàng hóa nông nghiệp quốc tế như là một phần của Vòng đàm phán thương mại đa phương Urugoay. Hoa Kỳ đã yêu cầu hơn 90 nước thành viên tổ chức thương mại quốc tế hàng đầu thế giới, lúc đó là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), thương lượng để xóa bỏ từng bước tất cả những tài trợ cho nông nghiệp và các chính sách khác bóp méo giá cả nông sản, sản xuất và buôn bán. Hoa Kỳ đặc biệt muốn có một cam kết xóa bỏ tận cùng các tài trợ cho nông trại châu Âu và chấm dứt chính sách cấm nhập khẩu gạo của Nhật Bản.

Tuy nhiên, khi thâm hụt ngân sách liên bang tăng cao suốt cuối thập kỷ 1980, Quốc hội phải tìm mọi cách cắt bớt chi tiêu liên bang. Năm 1990, Quốc hội thông qua luật khuyến khích nông dân gieo trồng những nông sản mà trước đây họ thường không được nhận các khoản thanh toán thiếu hụt, và giảm bớt diện tích đất trồng những loại nông sản mà người nông dân đã có thể được hưởng thanh toán thiếu hụt. Luật mới này duy trì trợ cấp giá cố định và cao cho những hàng hóa nhất định, và tiếp tục đẩy mạnh quản lý nhà nước đối với một số thị trường hàng hóa nông sản.

Đạo luật Lương thực, nông nghiệp và bảo tồn năm 1990 tiếp tục giảm số tiền trong các chương trình hỗ trợ vì thu nhập nông dân đã khá cao và cần giữ giá nông sản cạnh tranh trên thị trường thế giới. Từ chỗ nông nghiệp được bảo hộ suốt 60 năm qua, Chính phủ Mỹ quyết định giảm dần can thiệp của nhà nước vào cơ chế giá, để cơ chế thị trường hoạt động đầy đủ khi nền nông nghiệp Mỹ đã phát triển cao, công nghiệp hóa và hoàn toàn hội nhập quốc tế. Từ năm 1990 về sau, các chính sách nông nghiệp chỉ duy trì hỗ trợ, trợ giá ở mức tương đối thấp, còn lại tập trung đầu tư các chương trình dự trữ lương thực chiến lược quốc gia, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học nông nghiệp, công nghệ thông tin, dự báo thời tiết... để đảm bảo phục vụ hiệu quả thị trường nông sản và nông nghiệp quốc gia.

Các nước hoặc các nhóm nước khác đều đưa ra những đề nghị riêng khác nhau của mình, nhưng hầu hết đều thống nhất với ý tưởng xóa bỏ tài trợ làm bóp méo thương mại và hướng về những thị trường tự do hơn. Nhưng với các cố gắng ban đầu nhằm có được những hiệp định quốc tế về việc cắt giảm tài trợ cho nông nghiệp, đã chứng tỏ rất khó có thể đạt được bất kỳ một sự nhất trí nào. Tuy nhiên, lãnh đạo các nước công nghiệp hàng đầu phương Tây đã cam kết với nhau để đạt được cắt giảm tài trợ và những mục tiêu về thị trường tự do hơn vào năm 1991.

Vòng đàm phán Urugoay đã kết thúc vào năm 1995, với sự cam kết của các bên tham gia về hạn chế tài trợ cho nông nghiệp và xuất khẩu đồng thời tạo ra một số thay đổi khác nhằm hướng về buôn bán tự do hơn (chẳng hạn như chuyển đổi quota nhập khẩu thành các loại thuế quan dễ cắt giảm hơn). Họ cũng xem xét lại vấn đề này trong vòng đàm phán mới (tại Hội nghị bộ trưởng của Tổ chức thương mại thế giới ở Seattle vào cuối năm 1999). Trong khi các cuộc đàm phán này được tổ chức nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn tài trợ cho xuất khẩu thì các phái đoàn lại không đồng ý tiếp tục đi quá xa như vậy. Trong khi đó, Cộng đồng châu Âu chuyển sang cắt giảm tài trợ xuất khẩu và tình trạng căng thẳng thương mại đã giảm xuống vào cuối thập kỷ 1990.

Tuy nhiên, các cuộc tranh cãi về buôn bán nông sản vẫn tiếp tục. Theo quan điểm của Mỹ thì Cộng đồng châu Âu đã thất bại trong việc theo đuổi đến cùng cam kết giảm tài trợ cho nông nghiệp. Hoa Kỳ đã giành được các phán quyết có lợi của Tổ chức thương mại thế giới, là tổ chức kế tục GATT từ năm 1995, trong một vài kiện cáo về việc tiếp tục tài trợ của Cộng đồng châu Âu, nhưng các nước châu Âu đã không chấp nhận điều đó. Cùng lúc đó, các nước châu Âu gia tăng các rào cản đối với thực phẩm Mỹ được sản xuất với các hoóc môn nhân tạo hoặc biến đổi gien - đây là một thách thức nghiêm trọng đối với lĩnh vực nông nghiệp Mỹ.

Điều này đã thay đổi mạnh mẽ vào năm 1996. Một Quốc hội mới với đa số thuộc phái Cộng hoà, được bầu ra vào năm 1994, tìm cách làm cho nông dân từ bỏ dựa dẫm vào sự giúp đỡ của chính phủ. Đạo luật về quyền tự quyết đối với nông trại đã dỡ bỏ các chương trình trợ giúp về thu nhập và giá cả tốn kém nhất, đồng thời trao cho nông dân quyền tự chủ sản xuất đáp ứng thị trường toàn cầu mà không hạn chế họ cấy trồng bao nhiêu nông sản. Với luật này, người nông dân nhận được khoản trợ cấp cố định không quan hệ tới giá cả thị trường. Luật này cũng quyết định bãi bỏ việc thực hiện trợ giá bơ sữa.

Những thay đổi này xóa bỏ cơ bản các chính sách từ thời kỳ Chính sách mới nên nó đi vào cuộc sống không phải dễ dàng. Quốc hội tìm cách làm dịu bớt căng thẳng của quá trình chuyển đổi này bằng việc cung cấp cho nông dân 36 tỷ USD thanh toán trong 7 năm mặc dù giá nông sản ở thời điểm này đang ở mức cao. Việc trợ giá cho lạc và đường vẫn được giữ nguyên, và những trợ giá cho đỗ tương, bông và gạo thực tế còn tăng lên. Các đơn đặt hàng của thị trường về cam và một số nông sản khác rất ít thay đổi. Ngay cả khi có những nhượng bộ chính trị như vậy đối với nông dân thì câu hỏi vẫn được đặt ra là liệu có thể kéo dài hệ thống ít bị kiểm soát hơn này được không.

Vào cuối những năm 1990, nền kinh tế nông nghiệp của Mỹ vẫn tiếp tục chu kỳ lên xuống riêng của mình, tăng mạnh vào năm 1996 và 1997, sau đó lại bước sang giai đoạn đình trệ trong hai năm tiếp theo. Nhưng đó là một nền kinh tế trang trại khác hẳn so với nền kinh tế đã từng tồn tại vào đầu thế kỷ này. Những đám mây đen mới xuất hiện vào năm 1998 khi cầu về hàng hóa nông sản Mỹ sụt giảm ở những vùng châu Á đang bị khốn quẫn tài chính nghiêm trọng; xuất khẩu nông sản giảm mạnh, và giá nông sản, gia súc bị dìm xuống. Người nông dân tiếp tục cố gắng nâng cao thu nhập của mình bằng cách sản xuất nhiều hơn, dù cho giá cả có thấp đi. Năm 1998 và năm 1999, Quốc hội đã thông qua một loạt luật bảo lãnh nhằm tạm thời gia tăng tài trợ cho nông trại mà đạo luật năm 1996 đã bãi bỏ. Khoản tài trợ 22.500 triệu USD năm 1999 thực sự lập ra một kỷ lục mới.

Vào đầu năm 1999, Phó Tổng thống Mỹ Al Gore lại kêu gọi cắt giảm mạnh tài trợ nông nghiệp và biểu thuế quan trên toàn cầu. Nhật Bản và các nước châu Âu gần như từ chối các đề nghị này như họ đã từng bày tỏ trong Vòng đàm phán Urugoay. Trong khi đó, các nỗ lực hướng về thương mại nông nghiệp thế giới tự do hơn lại gặp thêm trở ngại do xuất khẩu giảm sút vào cuối thập kỷ 1990.

Nông dân Mỹ bước vào thế kỷ XXI với một số vấn đề giống như họ đã từng chạm trán trong suốt thế kỷ XX. Vấn đề quan trọng nhất trong số đó vẫn là sản xuất thừa. Một sự thật từ khi lập quốc là việc tiếp tục cải tiến máy nông nghiệp, hạt giống tốt hơn, phân bón tốt hơn, tưới tiêu tốt hơn và kiểm soát sâu bệnh hiệu quả làm cho nông dân ngày càng có nhiều thành công hơn trong những gì họ làm (trừ việc tạo ra lợi nhuận). Và trong khi người nông dân nhìn chung đều muốn giảm bớt sản lượng nông sản để chống đỡ lại giá cả thì họ lại do dự trong việc thu hẹp sản xuất của chính mình.

Cũng giống như một doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo ra quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và củng cố hoạt động của mình sao cho linh hoạt hơn. Sự thật, ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh nông nghiệp”, một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh nghiệp nông nghiệp và các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ gia đình cho đến các tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất đai lớn hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng.

Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang trại hơn nhưng các trang trại có quy mô lớn hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu bởi những cổ đông vắng mặt, các trang trại mang tính tập đoàn này sử dụng nhiều máy móc hơn và ít bàn tay của nông dân hơn. Vào năm 1940, có 6 triệu trang trại và trung bình mỗi trang trại khoảng 67 hecta. Đến cuối thập kỷ 1990, chỉ có khoảng 2,2 triệu trang trại nhưng trung bình mỗi trang trại có diện tích 190 hecta. Cũng chính trong khoảng giai đoạn này, số lao động nông nghiệp giảm rất mạnh - từ 12,5 triệu người năm 1930 xuống còn 1,2 triệu người vào cuối thập kỷ 1990 - dù cho dân số của Mỹ tăng hơn gấp đôi. Vào năm 1900, một nửa lực lượng lao động là nông dân nhưng đến cuối thế kỷ này chỉ còn 2% lao động trong các trang trại. Và gần 60% trong số nông dân còn lại đó đến cuối thế kỷ này chỉ làm việc một phần thời gian trên trang trại; thời gian còn lại họ làm những việc khác không thuộc trang trại để bù đắp thêm thu nhập cho mình. Chi phí đầu tư vốn cao - cho đất đai và trang thiết bị - khiến cho việc dành toàn bộ thời gian làm việc trên trang trại là cực kỳ khó khăn cho hầu hết mọi người.

Nông sản Mỹ chỉ chiếm 8% trong giá trị trao đổi trên thế giới, 2001, cường quốc công nghiệp số một đồng thời có nền nông nghiệp rất phát triển Mỹ thì nông nghiệp đóng góp 1,4% GDP. Hạt nhân của nền SX nông nghiệp hàng hóa là kinh tế trang trại gia đình. Lý do Mỹ trợ cấp cho nông nghiệp vì chi phí tiền lương cao, nông nghiệp rất quan trọng, ngay cả đối với các nước công nghiệp phát triển nhất như Hoa Kỳ

Bảo hộ cho một số ngành nông nghiệp: Mỹ là điển hình của tiêu chuẩn kép ← do đặc điểm của nền NN của Mỹ quyết định. Về trợ cấp trong nước, phụ thuộc vào sự vận động hành lang của các nhóm khác nhau. Trợ cấp xuất khẩu: không mong muốn các qui định của WTO về giới hạn việc sử dụng tín dùng hoặc bảo lĩnh tín dụng đối với xuất khẩu nông nghiệp. Biện pháp quan trọng trong trợ cấp của Mỹ là trợ giá: 2000, trợ giá: 22,9 tỷ USD, Đạo luật Farm Bill 8/5/2002, Chính quyền liên bang sẽ dành cho trợ giá nông nghiệp 190 tỷ USD trong vòng 10 năm. 2004: 13,3 tỷ USD, 2005, tăng 61% với 21,4 tỷ USD, 2006, gần đạt kỉ lục của năm 2000, bằng 22,5 tỷ USD.

Trong những năm gần đây, sự trợ giúp như vậy đã giảm xuống; điều này phản ánh mong muốn của chính phủ trong việc cắt giảm chi tiêu, đồng thời cho thấy lĩnh vực nông nghiệp đã giảm bớt ảnh hưởng về mặt chính trị. Với luật mới, sự giúp đỡ của chính phủ sẽ quay trở lại hệ thống cũ vào năm 2002 trừ phi Quốc hội hành động để giữ giá thị trường và các khoản thanh toán trợ giúp được tách ra. Đạo luật Canh nông Hoa Kỳ không đáp ứng yêu cầu của thế kỷ 21 mà sau nhiều năm tích lũy những quyết định của các thời đại khác nhau nên lại trở thành một văn kiện phức tạp, có đầy mâu thuẫn và năm năm lại một lần gây tranh luận lớn. Trong Đạo luật Canh nông có một con voi trắng lù lù nằm giữa mà không ai xoay chuyển nổi là chế độ trợ cấp lương thực cho dân nghèo hay "Food Stamp", tức là "Phiếu Thực phẩm". Nó chiếm gần 80% của ngân sách và là vấn đề cực kỳ nhạy cảm cho mọi người. Hiện nay, bình quân thì cứ bảy người Mỹ lại có một người được cấp cho phiếu lương thực và nói đến việc cắt giảm khoản trợ cấp này trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì ai cũng ngại.

Nhưng ngoài tệ nạn lạm dụng là điều xảy ra ở mọi nơi mọi thời trong mọi thành phần dân chúng, việc ỷ lại vào một nhà nước bao cấp cũng là vấn đề. Trong kế hoạch cải tổ chế độ an sinh xã hội thời Chính quyền Bill Clinton vào năm 1996, người ta đã nói đến việc khuyến khích người dân chịu khó kiếm việc làm để khỏi lệ thuộc vào sự trợ cấp của nhà nước. Ngày nay, vấn đề ấy cũng đang xảy ra và 80% dân Mỹ cho rằng những người sống nhờ an sinh xã hội nên cố gắng tự túc. Nhưng muốn như vậy thì phải cải tổ toàn bộ chế độ tem phiếu, là điều dễ gây hiểu lầm là cắt giảm trợ cấp cho dân nghèo. Lập luận này đang được triệt để khai thác trong cuộc bầu cử khi Hoa Kỳ đang bị bội chi ngân sách quá nặng.

Xứ Mỹ văn minh này còn nêu ra yêu cầu là bảo đảm cho các thiếu nhi đi học là phải có sữa tươi và cây trái trong một chế độ dinh dưỡng lành mạnh. Kết quả lại là nhiều chương trình trợ cấp sữa cho các trường học song song cùng việc đảm bảo là giá sữa khỏi sụt, nghĩa là lại tốn vài trăm triệu. Nhưng ít ai liên hệ chuyện ấy với tình trạng mập phì của thiếu nhi vì chế độ ăn uống thật ra cẩu thả của nhiều gia đình. Nghịch lý ở đây là càng nghèo lại càng dễ mập khiến cho một thành phố như New York đã phải đề nghị biện pháp kiểm soát nước uống có quá nhiều đường và ta không quên rằng đường cũng là một nông sản cần bảo vệ! Rốt cuộc thì Đạo luật Canh nông bao hàm nhiều tham vọng với hậu quả là cả chục mâu thuẫn giữa lý tưởng với thực tế. Khi kết hợp thêm vấn đề bảo vệ môi sinh, là một lý tưởng khác, thì ta có một con quái vật ít ai kiểm soát được.

Trợ cấp của Mỹ đối với một số ngành cụ thể

Trợ cấp NN của Mỹ mang tính bất công đối với cả trong và ngoài nước. Đặc điểm của trợ cấp NN của Mỹ Trợ cấp NN của Mỹ đối với một số ngành cụ thể
• Bông - 25.000 nông gia trồng bông. Nếu nói đến bông sợi thì Hoa Kỳ là kẻ đáng bị lên án nhất: Bông sợi của Hoa Kỳ từ năm 1997 đến 2003 được bán với giá bình quân thấp hơn 48,7% chi phí sản xuất. Nói cách khác, ngót một nửa sản lượng bông Mỹ xuất khẩu là phá giá. Hoa Kỳ đã tăng thị phần bông thế giới từ 17% lên 42% từ 1998 đến 2003. (2006) 2,5 -3 tỷ đô-la/năm và 10% nông gia trồng bông nhận 70% số tiền trợ cấp.

Sự cạnh tranh như vậy khiến Braxin khiếu nại lên tổ chức thương mại thế giới và Braxin đã thắng trong vụ kiện này. Thỏa thuận được xây dựng năm 2010, theo đó Mỹ chấp nhận bồi thường cho Brazil trước thời điểm quốc gia Nam Mỹ này tăng biểu thếu đánh vào các sản phẩm của Mỹ xuất sang Brazil trị giá lên tới 800 trăm triệu USD. Năm 2004, Brazil đã thắng kiện Mỹ liên quan đến vấn đề trợ cấp ngành bông tại WTO, cho phép Brazil áp đặt lệnh trừng phạt 830 triệu USD đối với sản phẩm của Mỹ. Mỹ hiện là nhà sản xuất bông hàng đầu thế giới với 28% thị phần toàn cầu, trong khi đó Brazil là nhà xuất bông lớn thứ 4 thế giới. Theo Uỷ ban Tư vấn Bông Quốc tế, giá bông thế giới niên vụ 2001/02 có thể cao hơn 26% nếu nông dân Mỹ không được nhận khoản trợ cấp hậu hĩnh tới 4 tỷ USD của chính phủ.

• Gạo - 9.000 nông gia sản xuất chừng 10 triệu tấn gạo tập trung trong sáu tiểu bang - 2003, trợ cấp các trang trại trồng lúa 1,3 tỷ USD, thực tế là ngân sách gánh chịu tới 72% giá thành sản xuất.

Ba chế độ trợ cấp cho nông gia như trực tiếp cấp tiền, trợ giá khi bị trái chu kỳ và tín dụng nhẹ lãi cho việc tiếp thị.
Chế độ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và thu mua để viện trợ lương thực cho các nước nghèo. Các loại viện trợ ấy thực tế giúp nông gia bán lúa cho nhà nước theo điều kiện ưu đãi. Các nước đang và kém phát triển. Giá gạo sút giảm trên thế giới từ 4 đến 6% và gây thiệt hại lợi tức cho hàng trăm triệu nông gia ở các nước nghèo. Các nước khó bán gạo vào Mỹ. Trợ cấp lúa gạo còn khiến giá gạo hết là tín hiệu có giá trị về cung cầu khiến nông gia Mỹ cứ tiếp tục sản xuất và được bảo vệ dù giá đã sụt trên thế giới Trợ cấp NN của Mỹ đối với một số ngành cụ thể.

Do nhu cầu bảo vệ môi sinh và giảm dần việc xe hơi tiêu thụ xăng dầu nên cứ gây ô nhiễm, người ta nghĩ đến việc chế cất nông sản như ngô bắp thành cồn cho xe chạy. Hậu quả bất lường của tinh thần phát huy công nghệ xanh là... gây thêm ô nhiễm vì muốn có một lượng cồn cho xe chạy thì các nhà máy phải chế biến rất nhiều nông sản và thải ra nhiều độc chất hơn nữa. Giới khoa học đã than phiền rằng các dự án phát triển loại năng lượng tái tạo gốc sinh học, tức là nông sản, lại gây thêm ô nhiễm môi trường. Nhưng tai hại hơn vậy là vì yêu cầu môi sinh bên trong, kinh tế Mỹ thu mua ngô bắp hay đậu nành, là thực phẩm cho người và gia súc ở xứ khác, nên mới đẩy giá lương thực và thương phẩm trên thế giới. Vì vậy mới gặp phản ứng từ nhiều định chế quốc tế như Ngân hàng Thế giới hay Cơ quan Lương nông của Liên Hiệp Quốc.

Hậu quả tai hại thứ nhì là vì yêu cầu chế cất ra cồn bên trong nội địa, người ta lập hàng rào bảo vệ và thí dụ như gây thiệt hại cho kỹ nghệ trồng mía để làm ra cồn của Brazil. Tổ chức Thương mại Thế giới WTO phải thụ lý nhiều hồ sơ khiếu nại về chuyện này. Nói chung, hình ảnh mà nước Mỹ toả ra ngoài có những điều đi ngược với lý tưởng hay giá trị đạo đức Hoa Kỳ. Thí dụ như vì muốn bảo vệ nông gia hay môi trường trong lành của mình, Hoa Kỳ có thể gây khó khăn cho xứ khác về giá nông sản và lượng lương thực.

Đầu năm 2014, sau hơn 1 năm tranh cãi, Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự luật ngân sách trợ cấp cho các nông trại trong đó có một điều khoản gây khó khăn cho mặt hàng cá da trơn xuất khẩu vào Mỹ. Theo đó, các sản phẩm xuất khẩu vào Mỹ phải dán nhãn xuất xứ nơi nuôi trồng, xây dựng kế hoạch thú y thủy sản quốc gia và đặc biệt phải là quốc gia được Mỹ công nhận được phép xuất khẩu thực phẩm thịt vào nước này. Quốc hội Mỹ cũng chuyển chức năng giám sát cá da trơn trong đó có cá tra và ba sa của Việt Nam đang do Cục Quản lý Thực phẩm & Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) quản lý, sang Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Nghĩa là, thay vì kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm, sẽ còn kiểm soát cả các vùng nuôi cá của Việt Nam. Như vậy, để được xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, các vùng nuôi cá da trơn của Việt Nam phải nâng cấp để đạt tiêu chuẩn giống như các vùng nuôi cá hiện nay ở Mỹ đang áp dụng.

Như những số liệu trên đã cho thấy, “trang trại gia đình” Mỹ - một khái niệm ăn sâu trong lịch sử dân tộc và được ca tụng trong huyền thoại về người tiểu chủ hùng mạnh - đang phải đối mặt với những thách thức kinh tế lớn lao. Người Mỹ ở vùng đô thị hay ven đô tiếp tục biểu lộ lòng ngưỡng mộ về những ngôi nhà thô sơ ngăn nắp và những cánh đồng được canh tác của phong cảnh miền quê truyền thống, nhưng vẫn còn chưa chắc chắn là liệu họ có sẵn sàng trả giá - hoặc là giá cả thực phẩm cao hơn hoặc tiền tài trợ của chính phủ cho nông dân - để duy trì hình tượng trang trại gia đình đó.


Tài liệu tham khảo:
Bộ Nông nghiệp Mỹ http://www.ers.usda.gov/
Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 2/2001; Christopher Conte, nguyên biên tập viên và phóng viên của Wall Street Journal; Albert R. Karr, nguyên phóng viên của Wall Street Journal
Tạp chí Ngoại thương, Số 36/2004
http://object.cato.org/sites/cato.org/files/serials/files/cato-handbook-policymakers/2009/9/hb111-18.pdf
Trong này nói là trợ giá 956 tỷ: http://www.economist.com/news/united-states/21595953-congress-passes-bill-gives-bipartisanship-bad-name-trillion-trough