Hiển thị các bài đăng có nhãn văn học nghệ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn học nghệ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

18 tháng 12 2010

Trần Tiến: Người hát rong của thời Đổi mới

Trần Tiến: Người hát rong của thời Đổi mới
Jason GIBBS


 Nhạc sĩ biểu diễn với cây đàn guitar là một biểu tượng quen thuộc của sự khai phá, của sự tự thể hiện và có lúc là của những biến động thời cuộc. Thanh niên Việt Nam bắt đầu chơi guitar vào những năm 1930, một biểu hiện của sự đam mê đối với một nền văn hoá phương Tây xa xôi. Năm 1944, nhạc sĩ Phạm Duy đã mang cây đàn guitar rong ruổi khắp nơi cùng một gánh hát lưu động, hát những bài hát tân nhạc hãy còn non trẻ dọc đường dài đất nước. Sau đó, ông cũng lên đường cùng cây đàn để ủng hộ cho cuộc kháng chiến của Việt Minh chống lại quân Pháp. Vào những năm 1960, một ca nhân và một nhạc sĩ khác, Trịnh Công Sơn, dùng cây guitar của mình để hát cho hoà bình trên khắp miền Nam Việt Nam. Trần Tiến là một người du ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, anh đã dùng cây đàn, tiếng nói và năng lượng sáng tạo của mình để hát cho quê hương, vừa ngợi ca vẻ đẹp cũng như đồng thời chỉ ra những điều tiêu cực của đất nước.

Giống như mọi người Việt Nam cùng trang lứa, Trần Tiến đã sống qua những thời kỳ đầy gian khổ, nhưng cũng rất trọng đại. Anh sinh năm 1947 trong kháng chiến, trên một miền đồi gần sông Đáy ở vùng Sơn Tây, trong khi chạy càn của quân Pháp. Sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hà Nội, sau 1954, bố mẹ anh phải đi cải tạo. Do thành phần gia đình, cơ hội học hành của anh ban đầu bị hạn chế. Anh kể rằng đã trải qua thời trẻ sống lang thang trong những ngõ nhỏ Hà Nội. Vào lúc tuổi mới lớn, anh làm việc hậu trường cho một đoàn văn công tuyên truyền. Sau một thời gian, anh lên sân khấu và trở thành một giọng ca dự bị cho đoàn, rồi đảm nhiệm vai trò ca sĩ hát chính [1] .

Đoàn văn công biểu diễn ở vùng chiến sự và anh đi vào vùng Tây Nguyên và miền cao nguyên Lào. Thời gian này anh bắt đầu viết ca khúc. Ví dụ 1 là ca khúc “Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp” anh viết khi đang làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào năm 1968 (Đ.T. 1982, 6).

Ví dụ 1 - Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp

Này cô gái trên nương ơi chịu khó nuôi chiến sĩ
Người diệt thù vì dân ơ chưa về, Ô đê
Rồi mai đây đất nước vắng bóng thù
Đợi chờ anh lại về bên em người đẹp ơi anh về

Ơ này cô cô gái, ơ này cô gái Lào
Mình anh hát, mình anh lăm tơi
Múa một mình sao nó không đẹp, không đẹp, không đẹp, không đẹp
Em hỡi em ra đây cùng kêu lăm tơi khèn anh ngân vang
Trông kìa đôi tay mềm
Thân uốn cong lăm vông nhịp nhàng, nhịp nhàng, nhịp nhàng, nhịp nhàng
Anh đã nhìn thấy em cười tươi, trong tiếng cười ấm vui bạn bè
Ơi nụ cười sao duyên dáng
La na la nuôn na, la na la y nuôn na
Ơi cô em Sầm Nưa, nhớ thương anh đợi chờ.

Ca từ và nhạc của ca khúc gợi lên một điệu nhạc giải trí quen thuộc của Thái và Lào có tên lăm tơi và một điệu múa vòng tròn là lăm vông [2] . Khèn là một nhạc cụ thổi bản địa không cần có lưỡi gà được dùng trong những dịp lễ này. Tỉnh Sầm Nưa của Lào là một căn cứ của quân cộng sản Pathet Lào. Mặc dù bài hát liên quan đến chiến tranh và cuộc chiến đấu của Pathet Lào với sự hỗ trợ của Việt Nam, nó nói trực tiếp về những người phụ nữ hậu phương và sự ngóng đợi những người đàn ông từ mặt trận trở về. Bài ca khi đó đã tạo ra một sự say mê hơi lạ lẫm cho một bài hát Việt Nam và khi xuất hiện, nó đã được yêu thích cả ở Lào và Việt Nam [3] . Nó phục vụ cho mục đích truyên truyền cổ vũ tình đoàn kết và hữu nghị Lào-Việt, và đã giành được một giải thưởng ca khúc của cuộc thi “Tiếng hát át tiếng bom” [4] .

Năm 1971, Trần Tiến bị sốt rét ác tính và trở ra Bắc về Hà Nội. Sau đó anh theo học Nhạc viện, tốt nghiệp khoa thanh nhạc và sáng tác năm 1978. Những ca khúc đầu tiên sau khi tốt nghiệp mang chủ đề yêu nước. “Giai điệu Tổ quốc” là một bài ca ngợi lòng yêu nước, nói về những giai điệu anh nghe thấy từ sự hùng thiêng của sông núi, trong bài hát ru con, trong Truyện Kiều, và trong nhịp quân hành của những người lính ra trận. Chiến tranh lại trở thành một mối quan tâm trước sự xung đột với Khmer Đỏ năm 1978 và Trung Quốc năm 1979. Trước cuộc chiến bành trướng của Trung Quốc, anh viết bài “Những đôi mắt mang hình viên đạn”, đôi mắt của những người già và trẻ em đang khóc than từ nơi biên giới - trở thành động lực cho những người lính Việt Nam. Cũng trong khoảng thời gian đó, anh viết “Vết chân tròn trên cát”, một khúc ca ghi công những người thương binh trở về. Những vết chân tròn trong bài hát từ chiếc nạng gỗ của người cựu chiến binh, người đã tìm cho mình niềm khuây khoả trong công việc của thầy giáo làng quê miền duyên hải, nơi anh chơi cây đàn guitar của mình cho lũ trẻ (Gibbs 2006) [5] .

Trong thời gian này, một hình thức nổi lên trong âm nhạc phổ thông ở Việt Nam được gọi là nhạc nhẹ. Loại nhạc này mang một số hình thức được lấy từ mô hình ca khúc chính trị Đông Âu và nhạc cổ động diễn đàn của Xô-viết (estrada). Chính phủ nhận thấy, sau khi chiến tranh qua đi, có một nhu cầu nghe nhạc để thư giãn - mọi người muốn âm nhạc phải vừa vặn với nhịp điệu “nhộn nhịp, khẩn trương” của xã hội mới (Nguyễn Đức Toàn 2004 [1977], 703). Tuy nhiên, như một nhạc sĩ đã viết, mặc dù nhạc nhẹ “thường được dùng để đáp ứng đòi hỏi giải trí,... không hề có nghĩa là chức năng và tác dụng giáo dục của nhạc nhẹ hạn chế” (Phạm Đình Sáu 2004 [1978], 713). Những trào lưu Âu-Mỹ như nhạc rock đã tìm được con đường trở lại trong ca khúc Việt Nam thông qua hình thức này.

Hầu hết những ca khúc của Trần Tiến thời kỳ này thể hiện những hình thức giao thoa với đời sống xã hội. Ca khúc “Mặt trời bé con” nói về niềm vui được thấy những đứa trẻ háo hức xem tiết mục của anh, tìm thấy ý nghĩa trong sự hưởng thụ giản dị mà anh có thể mang lại cho chúng. Ca khúc “Thành phố trẻ” viết khoảng năm 1981 dùng những nhịp điệu rock để nhấn mạnh niềm lạc quan của đất nước.

Ví dụ 2 -Thành phố trẻ

Em đi đâu về? mà tóc đầy me!
Em ngồi em chải, nghĩ gì vui thế
Mà cười một mình.
Anh đi đâu về? dầu máy đầy tay
Lưng trần gió bể, nghĩ gì vui thế nhìn người vợ hiền. ( la la la ...)
Thành phố tôi (mang tình yêu) rất trẻ (như mùa xuân)
Bạn hãy nghe ... (vang lời ca) họ hát về mình,
Bằng trái tim ... (mang tình yêu) rất trẻ ... (như mùa xuân),
Bằng khát khao bỏng cháy...
Đêm khuya tiếng đàn xao xuyến hàng me
Có người lính trẻ, nhớ người bạn gái ngồi đàn một mình
Đi trong tiếng đàn thành phố tình ca
Thấy mình bỗng trẻ, ôm đàn tôi hát hoà cùng bạn bè.

Đó là chân dung của một thành phố, một tập hợp của những cá nhân tiên tiến được đặt trong một thế giới chia sẻ về công việc, tình yêu, tuổi trẻ và âm nhạc. Người vợ trong ca khúc yêu con đường rợp bóng cây rải lá me bay lên tóc cô. Người chồng hết mình trong lao động sản xuất tìm thấy niềm vui khi nhìn ngắm hạnh phúc riêng tư của mình. Thậm chí cả nỗi cô đơn của một người lính cũng có một chỗ trong bài hát. Mọi người trong thành phố của bài hát đều tràn đầy tuổi trẻ và sức sống. Đây là một khía cạnh hiện thực xã hội chủ nghĩa rất hợp thời – bài hát đã được thanh niên bình chọn là một trong mười ca khúc được yêu thích nhất năm 1982 (Thanh Bình 1982, 9) [6] .

Chân dung của “Thành phố trẻ” quả là quá tươi sáng khi so sánh với hiện thực lúc đó. Bản thân chính quyền Việt Nam đã nhận ra điều cần làm để cải cách, và những đổi thay cộng hưởng từ Liên Xô mở đường cho quá trình cải tổ (perestroika), ở Việt Nam gọi là đổi mới. Nhà lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Văn Linh đã khích lệ văn nghệ sĩ tấn công vào những vấn đề như "bệnh quan liêu, ức hiếp quần chúng,... ăn bám, sống phè phỡn trên lưng những người lao động chân tay và trí óc...” Để đáp ứng, năm 1987, Trần Tiến thành lập một ban nhạc rock có tên “Đen Trắng” [7] . Bài hát “Trần trụi 87” là tuyên ngôn mạnh mẽ nhất của anh về đổi mới, khắc hoạ một đất nước với những khẩu hiệu trống rỗng, nơi những người tài năng nhất bỏ ra nước ngoài, và sự hi sinh của những người lính cùng những nông dân đã nuôi giấu họ bị quên lãng (Gibbs 2006). “Rock đồng hồ” là một chân dung của một xã hội mà người lao động nghèo khổ được ví như chiếc kim giây mỏng mảnh chạy mãi không nghỉ, trong khi chiếc kim giờ - ám chỉ những quan chức nhà nước nhiều đặc quyền đặc lợi - hưởng mọi thành quả (Hiebert 1991). Kim giây chỉ được hỏi đến khi nào nó chết.

Ví dụ 3 - Rock đồng hồ

Bạn nhìn xem chiếc kim giây, khốn thân cho chiếc kim giây yếu gầy (tung tung, tích tắc)
Chạy loanh quanh suốt tháng năm, chạy như điên cho lũ kim kia nhích dần (tung tung, tích tắc)
Nhưng có ai xem đồng hồ, có mấy ai đi xem đồng hồ hỏi giây (tung tung tích, boong)
Rồi một hôm chiếc kim giây, chẳng ai chăm, chiếc kim giây yếu dần (tung tung, tích tắc)
Chạy loanh quanh đói nhăn răng, chạy như điên cho tới khi kim chết dần (tung tung, tích tắc)
Kim phút ư hay kim giờ? Không có kim giây coi như là bỏ đi (tung tung tích, boong)
Bao tháng năm vẫn âm thầm, nay chết đi kim giây mới được hỏi tên (tung tung tích, boong).

Tôi thấy bài hát này giống như một cách thể hiện của thời công nghiệp cho câu tục ngữ Việt Nam: “Nhất sĩ nhì nông / Hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”. Sự hoán đổi của hệ thống trật tự xảy ra khi mất mùa, cũng như thế, khi người lao động kiệt quệ, như tình cảnh họ ở Việt Nam những năm 1980, thì cũng chẳng có nhiều nhặn để mà cho các vị tai to mặt lớn.

Một bài hát khác khi đó, “Chuyện năm người”, vẽ nên một cái nhìn khác về những bộ phận tiêu biểu của xã hội.

Ví dụ 3 - Chuyện năm người

Có khu rừng thanh niên xung phong thiếu đàn ông, toàn con gái chưa chồng...
Họ cứ cười như điên như điên, chiến tranh thì liên miên, liên miên, họ không cười thì chết mất,
Mi phá mi rề mi phá mi rề mi lá...
Có một nàng tiểu thư con quan, sống giàu sang, đời sung sướng vô vàn...
Cô suốt ngày soi gương, soi gương, tìm nỗi buồn trong thi ca văn chương, cô không buồn thì chết mất,
Có một chàng nhạc sĩ lơ mơ, suốt đời yêu, suốt đời nhớ, nhớ, nhớ,
Có một gã chán đời lang thang, suốt đời say, suốt đời quên, quên, quên, không quên thì chết mất,
Có một người không quên, không say, không buồn vui, chẳng thương nhớ ai bao giờ,
Sớm lại chiều đi lên cơ quan, chiếc xe cà tàng một lon cơm khô,
Họ chẳng chết bao giờ...
Vì có sống bao giờ đâu, Họ chẳng sống bao giờ ....
Thì có chết bao giờ đâu...

Đoạn đầu kể về một đơn vị nữ thanh niên xung phong trẻ, những người trong thời chiến mở đường Hồ Chí Minh, bảo vệ đường tiếp vận, đối mặt với những hiểm nguy và khó khăn thường trực. Trần Tiến nói thẳng đến sự gian khổ chiến trận của họ và những khoảnh khắc điên dại được giải phóng bằng những trận cười. Thế giới này cũng được định hình với một quý cô được nuông chiều chỉ biết tìm nỗi buồn qua sách vở. Nhạc sĩ mơ màng và gã chán đời say sưa cũng được cho vào cảnh này. Bên cạnh những người khác đang sống thực sự, năm mẫu người này tồn tại thông qua những thói quen, mọi thứ họ cần là sự bằng lòng. Chính họ là những đối tượng cần nhắm tới của những khẩu hiệu cổ động có ở khắp nơi tuyên truyền cho tiến bộ không ngừng và việc tạo ra “con người mới” luôn đấu tranh, luôn luôn hoàn thiện.

Một nhà nghiên cứu âm nhạc viết về những buổi biểu diễn của Trần Tiến khi đó đã thừa nhận bài hát Việt Nam đến thời điểm đó vẫn chủ yếu mang chức năng của một “vũ khí tư tưởng” và nó là kết quả của sự thể hiện bị giới hạn. Cùng với những khẩu hiệu yêu nước và một tinh thần lạc quan không nghỉ, dường như cần có tinh thần phê phán xã hội, và để có được một cách thể hiện cảm xúc nhiều sắc thái hơn, những cảm xúc như nỗi buồn và nỗi đau đã bị ngăn cấm trước đó [8] . Ông hoan nghênh cách thể hiện âm nhạc của Trần Tiến và tìm thấy ở người nhạc sĩ “một tiếng nói riêng, có những bài… tạo được hiệu quả nghệ thuật, làm xúc động lòng mọi người...” (Tú Ngọc 2004 [1988], 158-161) [9] .

Trần Tiến trở thành một hình tượng đầy khích động trong xã hội, giành được sự quý mến rộng rãi trong những người yêu nhạc, nhưng đã húc phải bộ máy quan liêu – ban nhạc của anh bị đình chỉ sau 3 buổi diễn (Hiebert 1991). Năm 1988, anh sang thăm Liên Xô, trình diễn với một ban nhạc rock của sinh viên đại học Xô-viết cho khán giả gồm những công nhân và sinh viên Việt Nam. Anh được gán cho cái tên “Vysotsky của vùng nhiệt đới” - một so sánh với Vladimir Vysotsky (Владимир Высоцкий), một kịch sĩ / ca sĩ và nhạc sĩ Xô-viết huyền thoại, người đã viết những bài hát không được thừa nhận chính thức nhưng những bài hát về cuộc sống đương thời diễn ra đã gây tiếng vang trong xã hội Xô-viết [10] . Sự hoan nghênh dành cho Trần Tiến ở Liên Xô đã làm tăng lên vị thế của anh ở quê nhà (Lưu Trọng Văn 1989, 8; phỏng vấn Trần Tiến, 17.9.2005 tại TP Hồ Chí Minh).

Bài hát năm 1990 “Sao em nỡ vội lấy chồng” là một thành công đại chúng vang dội. Bài hát chỉ liên quan rất ít đến bài thơ “Lá diêu bông” của Hoàng Cầm, một bài thơ bí ẩn được viết năm 1959 trong thời kỳ nhà thơ bị trừng phạt do tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, là một nhóm các nghệ sĩ và trí thức tìm kiếm một cách thức thể hiện tự do trong việc phê phán mang tính xây dựng chính quyền nhưng đi quá giới hạn. Người kể chuyện trẻ tuổi trong bài thơ được một người phụ nữ nhiều tuổi hơn mà anh ta theo đuổi đưa ra một câu đố; tuy nhiên chiếc lá không bao giờ có, người phụ nữ sống cuộc đời riêng, lấy chồng và có con, trong khi ấy câu đố khiến cho chàng trai lang thang với một nỗi ám ảnh suốt đời và sự vỡ mộng. Trần Tiến dùng câu đố này và mối tình không được đền đáp để dệt nên một câu chuyện khác: người kể chuyện đi khắp nơi và khi quay về, người phụ nữ đã lấy chồng – nhưng ở đây là quá sớm.

Ví dụ 4 - Sao em nỡ vội lấy chồng

Lời ru buồn nghe mênh mang mênh mang sau lũy tre làng khiến lòng tôi xốn xang.
Ngày lấy chồng em đi qua con đê, con đê mòn lối cỏ về có chú bướm vàng bay theo em
Bướm vàng đã đậu trái mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì / Để lời ru thêm buồn
Ru em thời thiếu nữ xa rồi, còn đâu bao đêm trong xanh tát gàu sòng vui bên anh
Ru em thời con gái kiêu sa
Em đố ai tìm được lá diêu bông / Em xin lấy làm chồng.
Ru em đời thiếu nữ xa rồi, mình tôi lang thang muôn nơi đi tìm lá cho em tôi
Ru em thời con gái hay quên
Thương em tôi tìm được lá diêu bông / Sao em nỡ vội lấy chồng.

Một người viết đã phân tích bài hát này có một trường nghĩa rộng tuỳ theo hệ quy chiếu của người nghe. Khi một người đàn ông hát với quan điểm cho rằng người phụ nữ đã quá vội vàng và bỏ lỡ cơ hội có được hạnh phúc với anh ta, bất kể cô ta có khao khát hạnh phúc đó hay không. Khi hát từ chỗ đứng của người phụ nữ, cô có thể cảm thấy tiếc nuối về một người bạn đời lý tưởng mà cô sẽ không bao giờ có nữa [11] . Nhà nước lại có một cách nhìn khác về bài hát – nó đã được giải thưởng của phong trào Dân số và Kế hoạch hoá gia đình nhằm ủng hộ cho chính sách gia đình chỉ có 2 con của Việt Nam (Phỏng vấn Trần Tiến, 17.9.2005). Sức phổ biến của bài hát được nhân lên bội phần do giai điệu tương tự với hát dân ca quan họ (Nguyễn Thị Minh Châu 2004), mang lại sự chú ý đến vấn đề trong bài hát, và dĩ nhiên nhờ đó mà có thể thuyết phục được thanh niên Việt Nam kết hôn muộn hơn. Ca khúc đã được Liên Hiệp quốc tuyên dương vì vai trò góp phần điều hoà dân số khi ca sĩ dòng nhạc enka Hàn Quốc Kim Yonja hát với một dàn nhạc giao hưởng (Hiền Đức 2000).

Anh đã hỏi đùa khán giả trong một buổi biểu diễn năm 1989 là liệu họ có thích nghe những bài hát về “tái tổ chức, tình yêu, quê hương hay sinh đẻ có kế hoạch” (Hưng Quang 1989, 4). Khi đó, anh viết hai bài hát khác, về sau được chính quyền dùng để cổ động cho kế hoạch hoá gia đình. “Thượng đế buồn” là một câu chuyện có tính phúng dụ châm biếm về việc Thượng đế tạo ra voi nhưng lại không có cỏ để nuôi chúng. Cũng tương tự như quan hệ yêu đương vợ chồng sinh ra những đứa trẻ nhưng không chăm sóc chúng thường xuyên, một lần nữa đây là lời kêu gọi chăm sóc gia đình của mỗi người. “Cô bé vô tư” là lời hát của một cô bé vị thành niên, vẫn đang còn ham chơi. Cô nói với người đang tán tỉnh mình những thứ cô cần là sao, mây, giọt sương và một con dế “lang thang hát”. Cô cầu khẩn anh ta đừng yêu cô – cô còn bé lắm.

Trong những năm 1990, Trần Tiến tiếp tục viết những ca khúc với những nhận thức đi sát với đời sống xã hội. Lúc này Việt Nam đã mở cửa với thế giới, những hiện tượng văn hoá toàn cầu đã xâm nhập và lôi cuốn mọi người. Năm 1990, một hiện tượng như thế là mốt nhảy lambada. Thứ bị gọi là “điệu múa cấm” này gây sốc cho những người Việt Nam khi họ mô tả nó như một trận gió lốc khuyến khích tình dục tập thể công khai (Binh Nguyên, Viết Thông 1990, 7; Lam Hà 1990, 3). Lambada của Trần Tiến là một biểu tượng cho xu hướng ngưỡng mộ và học theo những điều của nước ngoài mà không cần phải cố gắng hiểu làm thế nào để đồng hoá được trong đời sống người Việt. Tên bài hát của anh minh hoạ cho điều này – nó là một sự đọc trại có chủ ý của từ lambada, khi chữ cái “d” đọc thành “z”, và thành một từ đồng âm với “lắm bà già” trong dòng thứ tư. Làng “Lambaza” của anh là làng Bần ở Hưng Yên, một làng có nghề truyền thống nổi tiếng làm tương đậu nành.

Ví dụ 5 - Lambada quê ta

Ơi cô gái thôn tương Bần có còn mặc áo tứ thân
Ôi cô gái thôn tưng bừng có còn chơi điệu trống quân
Đêm trăng sáng đi Tây về quê nhà em chơi điệu lam ba da lam ba da
Quê ta lắm bà già thích nhảy lam ba da
Quê ta lắm ông già yêu điệu lam ba da
Quê ta nhiều Honda nhiều Coca Cola nhiều những bữa dưa cà
Quê ta nhiều villa nhiều xe Toyota nhiều đứa bé không nhà
Quê ta người ta yêu tình yêu thương bao la bao la theo kiểu lam ba da / Lam ba da.

Ngôi làng mỗi khi vào hội thường các thiếu nữ mặc áo tứ thân truyền thống và hát trống quân. Đối với người trở về từ nước ngoài họ thấy những yếu tố truyền thống này trong lễ hội bên cạnh những mặt hàng nhập khẩu như Coca Cola, xe máy Honda, và xe hơi Toyota. Cũng trong lúc đó, họ ăn cơm dưa cà và vẫn còn những đứa trẻ không nhà. Đoạn hai có thêm “ma sa” và “Si da”, tức dịch vụ massage và bệnh AIDS (ban đầu các tài liệu tiếng Việt viết theo tiếng Pháp là SIDA - ND) vào danh sách những căn bệnh xã hội hiệp vần với chữ “lambaza”. Dùng một nhịp điệu khiêu vũ sôi nổi, nhạc sĩ đã nhắc lại những bài dân ca truyền thống, trong khi chỉ ra những cạm bẫy mà người Việt quá dễ dàng bị mất khả năng kháng cự và mắc phải nhưng lại không bị phê phán trước những hàng hoá nước ngoài mà một số thứ mang theo những tệ nạn xã hội. Thay vì doạ nạt ầm ĩ công chúng, bài hát của anh bật ra sự trào lộng trước những vấn đề xã hội.

Sáng tác sau đó của anh tiếp tục khai thác những vấn đề xã hội. Một bài hát năm 1995 là “Sói con ngơ ngác" nhìn vào vấn đề của những đứa trẻ, thường là mồ côi, ra thành phố để đi ăn xin hay đi làm. Mặc dù anh so sánh chúng với những con sói con vì chất hoang dại của chúng, anh cho rằng chúng không có lỗi bởi vì không có được tình yêu thương và dạy dỗ của cha mẹ. Bài hát “Chị tôi” là cái nhìn cảm thông đối với những người phụ nữ mang nặng những trách nhiệm gánh vác gia đình, không lấy được chồng. Về một số phương diện, bài hát này đi cùng bài “Sao em nỡ vội lấy chồng” làm thành một cặp câu chuyện ngược chiều nhau; ở bài “Chị tôi”, quyết định hôn nhân đã bị trì hoãn, tuy nhiên, sự hi sinh được thực hiện một cách cao cả. Một số tác phẩm gần đây của anh trở nên hướng nội nhiều hơn. Sau một trận ốm nặng thập tử nhất sinh, anh đã viết ca khúc “Sắc màu” với cái nhìn về những đường nét thông qua cuộc đời và sự tồn tại thông qua những bảng mầu, so sánh giới hạn của bức tranh được vẽ với cái hữu hạn của kiếp nhân sinh. “Mưa bay tháp cổ”, ca khúc được khán giả yêu thích trong cuộc thi Bài hát Việt 2005 gần đây thể hiện những nỗ lực của nhạc sĩ khi tìm hiểu những bí ẩn của một nền văn minh đi trước, xem sự hữu hạn của những nỗ lực con người như một ẩn dụ của sự hiểu biết đối với những đổi thay mà anh nhận ra trong những khắc thời gian đó (Hoài Vũ; Trọng Thịnh 2005)

Một nhạc sĩ lớp trước khi khảo sát bối cảnh âm nhạc của thời đổi mới đã ghi nhận Trần Tiến như một “một cây bút 'dấn thân' viết rất khỏe” (Hoàng Vân 2004 [1987]: 129). Trong thời gian đó, Trần Tiến nằm trong số những người tiên phong trong một biển cả văn hoá rộng lớn nhiều đổi thay, song hành với tác phẩm của những nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Bảo Ninh hay Nguyễn Duy. Một nhà phê bình văn học khi viết về những tác giả này đã khẳng định văn học cần trở thành một “miền đất khuyến khích những cảm xúc nhân văn, một khu vườn nơi tâm hồn con người được đơm hoa.” [12] Điều này đã và luôn là địa hạt của Trần Tiến. Nhạc sĩ có nói anh muốn viết thứ “âm nhạc nhập cuộc” (Nguyễn Thanh Đức 1987, 4-5) – để đương đầu với những hiện thực khó khăn của đất nước, nhân dân và cũng để nói lên khát vọng của họ. Anh đã đứng ở vị trí có sức lôi cuốn hàng đầu trong những buổi diễn, bởi vì anh hát về những chuyện thực mà công chúng muốn giãi bày. Một người viết khác đã xác nhận điều đó “Trần Tiến biết mọi người muốn gì, cần gì, và sau đó sẽ đi ra sao. Anh mang lại cho họ những thứ họ muốn, thoả mãn những thứ họ cần, và anh biết rõ rằng sau đó người ta tốt hơn” (Hưng Quang 1989, 4). Điều này mang đến cho tác phẩm của anh một tầm quan trọng có thể so sánh được với những tác phẩm của hai nhạc sĩ lớp trước là Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Trần Tiến dùng cách tiếp cận của hiện thực xã hội chủ nghĩa - sự tiếp xúc nghệ thuật với người dân và hoàn cảnh sống của họ - nhưng thay vì đưa nó vào minh hoạ cho những kế hoạch tiến triển không ngừng của nhà nước, anh dùng nó để ca ngợi chuỗi trải nghiệm đầy ắp của đời sống. Đây không phải là một tiếng nói bất đồng, mà là một tiếng nói khích lệ người Việt Nam và cổ vũ cho cuộc đời đầy màu sắc của họ.
Tham khảo

7 Tiêu.
2004. “bé hạt tiêu / Thành phố trẻ – Trần Tiến”, đăng trên Diễn đàn Vietnafc (10 tháng Chín)
http://www.vietnafc.com/diendan/lofiversion/index.php/t7044.html [theo bản lưu trên Google February 21, 2005].
Binh Nguyên and Viết Thông.
1990. “Lambada cơn lốc tràn vào thành phố”, Tuổi Trẻ (24 tháng 7), 7.
Đ.T.
1982. “Trần Tiến nói về những ca khúc của mình”, Tuổi Trẻ 7/24 (3 tháng 4), 6.
Gibbs, Jason.
2006. “An Unforgotten Song: Representations of the American War in Vietnamese Song after 1975”, bản tiếng Việt "Những biểu tượng của cuộc chiến tranh chống Mỹ trong ca khúc Việt Nam sau 1975” (Nguyễn Trương Quý dịch) talawas 21 tháng 2. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6496&rb=0206 2005. “Yellow Music Turning Golden,” bản tiếng Việt “Nhạc vàng 'hóa' vàng”, (Nguyễn Trương Quý dịch) talawas 23 tháng 6. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4775&rb=0206
Hiebert, Murray.
1991. “Singing between the lines”, [Hát giữa những lằn ranh] Far Eastern Economic Review (February 21), 30-31.
Hiền Đức.
2000. “Nhạc Trần Tiến – những ngẫu hứng từ dân ca”, Nhân Dân điện tử (May 13). http://www.nhandan.org/vn/vietnamese/20000513/bai-vh10.html. [xem 14.5.2000] Đăng lần đầu trên Thế Giới Mới.
Hoài Vũ.
“Lễ trao giải Bài hát Việt 2005: À í a "đoạt" cúp” Bài hát Việt 2005. http://baihatviet.vtv.vn/Index.aspx?Page=ViewNews&ItemID=535.
Hoàng Vân.
2004 [1987]. “Ca khúc Việt Nam trên đường tìm tòi”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội: Viện Âm nhạc, 128-132. [bản gốc trên Thể thao – Văn hóa #34].
Hưng Quang.
1989. “Ngọn lửa rừng - Trần Tiến”, Tuổi Trẻ Thủ đô (25 tháng 12), 4.
Lam Hà. 1990. “Lambada, điệu múa khêu gợi dục tình”, Thanh Niên (29 tháng 7), 3.
Lưu Trọng Văn.
1989. “Những chiếc hôn cho Trần Tiến”, Tuổi trẻ Chủ nhật #(9 tháng 3), 8.
Lý Kiệt Luân.
1994. Vài chuyện làng văn Hà Nội. San Francisco, CA: Ngàn Lau.
Nguyễn Đức Toàn. 2004 [1977]. “Trao đổi thêm về nhạc nhẹ”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội : Viện Âm nhạc, 700-703 [bản gốc trên Văn hoá Nghệ thuật #11].
Nguyễn Thanh Đức.
1987. “Âm nhạc vào cuộc”, Tuổi trẻ #132 (14 tháng 11), 4-5.
Nguyễn Thị Minh Châu.
2004 [1991]. “Một bài hát mới thịnh hành của một nhạc sĩ đang được ưa thích”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội: Viện Âm nhạc, 241-246. [Bản gốc trên Lá xanh: Phụ san Nxb. Quân đội Nhân dân #1].
Nguyen, Tuan Ngoc.
2004. Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the Relationship Between Literature and Politics [Hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam: Phân tích về mối quan hệ giữa văn học và chính trị]. Luận văn tiến sĩ, Đại học Victoria University. Đăng trên mạng tại: http://eprints.vu.edu.au/archive/00000279/
Phạm Đình Sáu.
2004 [1978]. “Bàn về nhạc nhẹ”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội : Viện Âm nhạc, 712-718 [bản gốc trên Văn hoá Nghệ thuật #1].
Smith, Gerald Stanton.
1984. Songs to Seven Strings: Russian Guitar Poetry and Soviet “Mass Song.” [Những bài hát trên bảy dây đàn: Chất thơ trong guitar Nga và “Ca khúc quần chúng” Xôviết] Bloomington: University of Indiana Press.
Thanh Bình.
1982. “Qua 10 bài hát đang được các bạn trẻ ưa thích nhất”, Tuổi Trẻ (28 tháng 4), 9.
Thanh Thúy.
1988. “'Tôi đang thở nghĩa là tôi đang yêu. Tôi đang yêu, nghĩa là tôi đang sống...'”, Thanh Niên (7 tháng 11), 8-9.
Trần Tiến. 1987. “Thành phố trẻ” trong Khi chúng mình xa nhau: tập ca khúc nhiều tác giả. Hà Nội: Nhà xuất bản Âm nhạc và Đĩa hát, 12-13. 1995. Tuyển chọn ca khúc Trần Tiến. Hà Nội: Nhà xuất bản Âm nhạc; Hội Nhạc sĩ Việt Nam. 2003. “Nhạc sĩ Trần Tiến trả lời phỏng vấn trực tuyến”, VnExpress (11 tháng 3) http://www.vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2003/08/3B9CA828/. [không năm]. Ca khúc Trần Tiến CD “Trần Tiến – chiến tranh & số phận”. CD tư liệu chưa xuất bản. [không năm]. Ca khúc Trần Tiến CD “Trần Tiến – Du ca Đồng nội.” Tư liệu chưa xuất bản.
Trọng Thịnh.
2005. “Trần Tiến nói gì về “Mưa bay tháp cổ”?” Tiền Phong Online 26 tháng 5. http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=10526&Channel ID=7.
Tú Ngọc.
2004 [1988]. “'Đối thoại 87' – một cách tiếp cận cuộc sống”. Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. Tập 5b. Hà Nội: Viện Âm nhạc, 156-160. [bản gốc trên Âm nhạc #2].



Bản tiếng Việt © 2006 talawas


[1]Tiểu sử tóm tắt dẫn theo Hiền Đức 2000.
[2]Tôi xin cảm ơn giáo sư Terry Miller, người đã nghe bản ghi âm ca khúc này với lời dịch của tôi và chỉ cho thấy những điểm tương tự với nhạc Thái và nhạc đồng bằng Lào. Ông cũng chỉ ra điệp khúc “la na la nuan na” là điệp khúc thông dụng trong kiểu nhạc lăm tơi.
[3]Đây là cảm xúc của một người yêu nhạc khi nhắc đến một buổi trình diễn sau năm 1975 của Trần Tiến ở một quảng trường Hà Nội : "Lần đầu nghe Trần Tiến, xa lắm rồi, tôi nhớ ở quảng trường Ngân hàng gần vườn hoa Chí Linh và vườn hoa Con cóc. Trần Tiến vừa hát vừa múa bài "Cô gái Sầm Nưa": "Ơi này cô gái Lào, mình anh hát mình anh Lăm-tơi, không đẹp không đẹp không đẹp, em hỡi em...", hai tay dẻo quánh, giọng ngọt, ánh mắt trai lơ.”
http://www.giaidieuxanh.vietnamnet.vn/bantronamnhac/2005/04/413991/. Xem thêm Trần Tiến 2003.
[4]Bài hát đoạt giải “A” trong cuộc thi – xem Nhạc sĩ Việt Nam hiện đại. Hà Nội: Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1997: 587.
[5]Hiebert (2000, 31) cho rằng bài hát này có một nội dung chống chính quyền. Ông dẫn lời nhạc sĩ “tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng mọi điều những người lính mang lại [cho đất nước] trong chiến tranh đã không còn lại gì - giống như một dấu chân tròn trên bờ cát.” Cho dù có dòng phụ dẫn này, bài ca vẫn được đề cao ở Việt Nam như một lời bày tỏ cảm kích và biết ơn đối với những người thương binh Việt Nam.
[6]Trên một diễn đàn thảo luận internet, một người Việt đã cho rằng “Thành phố trẻ” có liên quan đến thời kỳ Thanh niên xung phong, với ấn tượng bài hát được gắn với nhiệm vụ cho hoạt động này. Người viết này nhận thấy bài hát mang một cảm xúc giả tạo, nhưng vẫn thích nghe “văn công xung kích” hát, thích hơn là phần thu âm nhà nghề mang phong cách rock (7 Tiêu 2004).
[7]Anh nói đối với anh, nhạc rock là một “ý tưởng, một cảm xúc mạnh mẽ của tuổi trẻ, của con người. Nó là con đường mạnh mẽ và cô đọng để thể hiện những điều tôi muốn nói” (Hiền Đức 2000)
[8]Tôi đã thảo luận về vấn đề này trong bài “Nhạc vàng hoá ‘vàng’” [Yellow Music Turning Golden], Gibbs 2005.
[9]Quan sát của Tú Ngọc có đặt song hành những nhà văn và những nhà phê bình khi đó. Nguyen, Tuan Ngoc 2004 tổng kết quan điểm của những nhà văn cho rằng nhân vật văn học của hiện thực XHCN là “thô sơ và đơn giản, rất giống một đường thẳng, không có chút phức tạp, và không có những đấu tranh nội tâm. Lý tưởng và niềm tin của họ đã chọn một lần là không suy xuyển. Dường như họ không có những cuộc đời riêng tư, không có những đêm mất ngủ trong đời họ” (trang 267-8). Những nhà văn của thời Đổi mới đã tìm cách bỏ đi những công thức “nhân vật lý tưởng” và tạo ra nhân vật đa diện trong đời sống trong cách thức giàu tự nhiên hơn.
[10]Xem Smith (1984, 145-179) về một thảo luận về tác phẩm sáng tác của Vysotsky. Xem Thanh Thúy 1988 để có một sự đánh giá của một người Việt Nam về Vysotsky.
[11]Xem Lý Kiệt Luân (1994: 107) về một sự thể hiện đầy đủ hơn cho ý tưởng này và một cuộc thảo luận về những cách diễn giải mang tính nhạc đối với bài thơ.
[12]Lê Ngọc Trà. “Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực,” Văn học 16.7.1988, dẫn theo Nguyen, Tuan Ngoc 2004, 284.
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo của Hội Văn hoá Phổ thông (Popular Culture Association), Atlanta, Mỹ, ngày 13 tháng 4, 2006.
 
3.6.2006
Jason Gibbs
Trần Tiến: Người hát rong của thời Đổi mới
Nguyễn Trương Quý dịch
 

11 tháng 5 2010

Petőfi Sándor - Hungary, thi sĩ của Tự do, Ái tình

Tiếng Hungary - ngôn ngữ của chừng 15 triệu dân trên thế giới - cho dù là một thứ tiếng “có khả năng diễn tả một cách linh hoạt tuyệt vời, nhạy cảm, tinh tế, có vốn từ phong phú hiếm thấy, đồng thời cô đọng và nhịp điệu dồn dập” (Bödők Zsigmond), nhưng chỉ người Hungary mới biết rõ và cảm nhận được điều đó.

Ấy thế mà, bằng bản lĩnh và tài năng của các nhà văn, bằng những nỗ lực phổ biến và truyền bá văn hóa của các cá nhân và nhà nước, văn học Hungary đã có một vị trí xứng đáng trong kho tàng văn học nhân loại, đã có những tác gia được vinh danh ở tầm thế giới.

Văn học Hungary thường được hiểu theo nghĩa hẹp là tất cả các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Hungary, cho dù, theo những định nghĩa rộng hơn, nó còn bao hàm những công trình nghiên cứu văn học, các tác phẩm dịch, thi ca dân gian truyền miệng tiếng Hungary..., cũng như các tác phẩm văn học được viết bằng các ngôn ngữ khác, nhưng có liên hệ đến Hungary thông qua các tác giả hoặc các đề tài mà chúng hàm chứa.

Trên cơ sở định nghĩa rộng đó, nền văn học Hungary đã có chừng một ngàn năm lịch sử, phù hợp với lịch sử hình thành, lập quốc và phát triển của dân tộc Hungary ở vùng lòng chảo Carpathian (Kárpát).

Khởi đầu (thế kỷ 11-14)

Sự hình thành của ngôn ngữ Hungary được các nhà nghiên cứu ấn định là vào cuối thiên kỷ thứ hai trước CN, khi tiếng Hungary được tách khỏi “người anh em” gần gũi nhất của nó là hệ ngôn ngữ Ugor (ugrian), tuy nhiên, ngôn ngữ cổ Hungary thì chỉ khởi đầu từ thời lập quốc của dân tộc Hungary (cuối thế kỷ 9, đầu thế kỷ 10). Cho dù không còn giữ được những văn bản của Hungary trước thế kỷ XI, nhưng căn cứ những di tích chữ khắc cổ sơ trên đá của Hungary, có thể giả định rằng vào thời lập quốc hoặc thậm chí trước đó, dân tộc Hungary đã có chữ viết, và có lẽ đã có một nền văn học.

Sau khi vua István Đệ nhất đăng quang vào năm 1.000 và thành lập Vương quốc Hungary Công giáo, nền văn học Hungary thoạt tiên được viết bằng tiếng Latin và có liên quan mật thiết đến giới tăng lữ, được coi là những người đi đầu trong sự phát triển văn hóa và khoa học của đất nước. Mốc khởi đầu của nền văn học Hungary là tác phẩm “Libellus de institutione morum ad Emericum” (khoảng 1.015), là những lời dặn dò, khuyên nhủ của vua István viết gửi con, hoàng tử Imre.

Trong những thế kỷ sau của thời Trung cổ, nền văn học Hungary được đánh dấu bởi những huyền thoại về các vị Thánh có xuất xứ Hungary (như István, Imre, Gellért, László, András...), những cuốn biên niên sử, mà đáng kể nhất là “Gesta Hungarorum” (cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13), cuốn sử viết đầu tiên còn giữ lại được của một tác giả vô danh (Anonymus, có lẽ là thư ký của vua Béla Đệ tam) và những cuốn sách ghi chép du hành, ký sự đi đường, mà khởi đầu là tác phẩm “De facto Ungariae Magnae” (1.237) của một tăng lữ nổi tiếng thuộc dòng Dominican tên là Julianus, người đã thực hiện hai chuyến du hành về phương Đông để tìm thủy tổ của dân tộc Hungary.

Mặc dù trong nhiều thế kỷ, chữ viết chính thức được sử dụng tại Vương quốc Hungary là Latin, nhưng nhiều khả năng là văn học tiếng Hungary đã tồn tại từ rất sớm. Dấu vết của một vài từ ngữ Hungary được tìm thấy trong văn kiện thành lập tu viện Tihany (1.055), viết bằng tiếng Latin, được coi là văn bản Hungary cổ nhất còn được lưu lại cho đến nay. Văn bản xưa nhất được viết hoàn toàn bằng tiếng Hungary là “Halotti beszéd és könyörgés” (Văn điếu và khẩn cầu, 1.192-1.195), bản dịch một bài giảng tiếng Latin, hàm chứa khoảng 130 từ tiếng Hungary. Cần ghi nhận bài thơ đầu tiên bằng tiếng Hungary là “Ómagyar Mária-siralom” (Cung oán Mária Hungary cổ, thế kỷ 13), cũng là bản dịch khá tự do của một văn bản tiếng Latin.

Những thế kỷ phát triển (thế kỷ 15-19)

Sau những thế kỷ đầu, văn học Hungary đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển như Phục hưng (thế kỷ 15-17), Baroc (thế kỷ 17-18), Khai sáng (1772-1800), Cổ điển và Lãng mạn...(đầu thế kỷ 19), với nhiều tác gia quan trọng như Janus Pannonius (1434-1472, giám mục, nhà thơ viết bằng tiếng Latin, được coi là thi sĩ Hungary đầu tiên mà tên tuổi được biết đến một cách chính xác), Bornemisza Péter (1535-1584, linh mục Tin lành, người khởi động và đại diện đầu tiên của văn xuôi cổ điển Hungary), Balassi Bálint (1554-1594, thi sĩ, đại diện xuất sắc đầu tiên của thi ca Hungary, được coi là tác gia kinh điển đầu tiên của nền văn học Hungary), Mikes Kelemen (1690-1761), Csokonai Vitéz Mihály (1773-1805, một trong những thi sĩ quan trọng nhất của văn học Hungary)...

Tất cả đã tạo nên một tiền đề để khi Hungary bước vào thời kỳ Đổi mới ngôn ngữ và Cải cách (1825-1849) - cùng với sự hứng khởi trong phong trào yêu nước, mộng ước giành độc lập khỏi đế chế Áo (vương triều Habsburg), xây dựng một nước Hungary độc lập, dân chủ, phú cường về văn hóa, khoa học - đời sống tinh thần Hungary nói chung và nền văn học Hungary đã có những bước tiến mạnh mẽ. 

Năm 1825, Viện Hàn lâm Khoa học Hungary được thành lập, nhiều tờ báo ra đời truyền bá tư tưởng cải cách, các nhà văn trước đó thường sáng tác đơn độc, co cụm, ít có sự liên hệ thì giờ đây có điều kiện trao đổi, thảo luận cùng nhau những vấn đề lớn tại các trung tâm văn hóa của đất nước, mà địa điểm chính là Pest (khi đó Buda và Pest còn là hai thành phố riêng rẽ hai bên bờ sông Duna (Danube), và chỉ được hợp nhất thành Budapest (cùng Óbuda) vào năm 1873).

Có thể kể đến ở đây những gương mặt xuất chúng nhất ở giai đoạn này như Kazinczy Ferenc (1759-1831, nhà thơ, nhà văn, thủ lĩnh phong trào đổi mới ngôn ngữ Hungary), Katona József (1791-1830, tác gia xuất chúng của nền kịch nghệ Hungary, tác giả vở kịch “Bánk bán” - "Nhiếp chính bang”, Lê Xuân Giang dịch), Kölcsey Ferenc (1790-1838, nhà thơ, nhà đổi mới ngôn ngữ, tác giả thi phẩm “Hymnus, a' Magyar nép zivataros századaiból”, sau được nhạc sĩ Erkel Ferenc phổ nhạc thành bản Quốc ca Hungary), Vörösmarty Mihály (1800-1855, nhà thơ, nhà văn, đại diện lớn của trường phái Lãng mạn Hungary, tác giả bài thơ “Szózat” lừng danh ngợi ca tình yêu quê hương đất nước), Arany János (1817-1882, nhà thơ với tác phẩm nổi tiếng “Toldi”), Petőfi Sándor (1822-1849)...

Trong số đó, Petőfi Sándor nổi lên với cương vị thi hào vĩ đại nhất của Hungary thế kỷ 19, như nhận định của nhà phê bình văn học Hegedűs Géza: 
Nếu ai đó nói bằng tiếng Hung từ “thi sĩ”, người đó trước hết đã nghĩ đến Petőfi. Kể từ khi bước chân vào văn đàn, ông hiện diện không ngừng ở đó. Ông là tấm gương và là thước đo” (Bảng chân dung của nền văn học Hungary - A magyar irodalom arcképcsarnoka). 
Tượng Petőfi tại Budapest, trên quảng trường mang tên ông
Bức tượng được dựng bởi sự đề xuất và chi phí của nghệ sĩ vĩ cầm Reményi Ede
Tên tuổi Petőfi được thế giới đánh giá cao và xếp ngang hàng những văn sĩ lớn của Châu Âu thời bấy giờ, như Byron (Anh), Pushkin (Nga), Heiné (Đức), Mickiewicz (Ba Lan) và Viktor Hugo (Pháp).

Tên tuổi và sự nghiệp Petőfi Sándor được đất nước và dân tộc Hung gìn giữ và trân trọng, tên ông được đặt cho một trong bảy cây cầu bắc qua sông Danube, và vô số đường phố trên lãnh thổ Hung. Bức tượng ông được đặt ở trung tâm thủ đô Budapest, nhìn ra sông Danube, vẫn thường có những bó hoa tươi của khách thập phương...

Nhận định về cuộc đời và sự nghiệp của Petőfi, GS. VS. Németh G. Béla đã có một đánh giá ngắn gọn và chuẩn xác:
Ở nước ngoài, cho đến nay, Petőfi là nhà thơ được biết đến nhiều nhất của Hungary. Ông là người Hungary được thánh thần sủng ái. Ông được nhận tất cả để trở thành một thi hào lớn: tài năng, lịch sử và số phận. Sống hai mươi sáu năm, ông để lại một sự nghiệp mang tầm kích thế giới, đánh dấu bước biến chuyển thời đại trong nền văn học của xứ sở ông”. (“Lịch sử Văn học Hungary” - A magyar irodalom története, NXB Kossuth, năm 1982).
Đã và vẫn có thể bắt chước ông, cũng như đã và vẫn có thể tránh mọi thứ khiến ta nghĩ đến phong cách của ông, nhưng bất cứ một nhà thơ nào viết bằng tiếng Hung, không thể tránh được mối tương giao tinh thần với ông.  
Những bài phê bình, nghiên cứu, sách vở viết về ông chứa đầy cả một thư viện, từ những góc nhìn mới, thời nào người ta cũng nói thêm được những điều mới về ông.Một phần thi nghiệp của ông chẳng những được biết đến rộng rãi, mà còn trở thành những bản dân ca mà ai cũng thuộc, chỉ có điều nhiều người không biết đó là của ông. Không thể biết tiếng Hung, nếu không thuộc ít nhất dăm bảy khổ thơ Petőfi. Và cuối cùng, ông là thi sĩ vĩ đại nhất của Hungary trên trường quốc tế: nếu một người ngoại quốc có chút hiểu biết văn hóa nghe đến từ “văn học Hung”, trước tiên, họ phải nghĩ đến Petőfi!.


Đó là những từ trân trọng mà nước Hung đã dành cho Petőfi Sándor, nhà thơ, vị anh hùng dân tộc, một trong những người con ưu tú nhất của xứ sở này, mà độc giả Việt Nam đã có dịp biết tới qua những vần thơ hào sảng của thi phẩm “Tự do, Ái tình” - "Szabadság, szerelem".

SZABADSÁG, SZERELEM!

Szabadság, szerelem!
E kettő kell nekem.
Szerelmemért föláldozom
Az életet,
Szabadságért föláldozom
Szerelmemet.

Pest, ngày 1-1-1847
TỰ DO VÀ ÁI TÌNH

Tự do và ái tình
Vì các người ta sống
Vì tình yêu lồng lộng
Tôi hiến cả đời tôi
Vì tự do muôn đời
Tôi hy sinh tình ái.
Thơ Petőfi mang sức mạnh biểu cảm mạnh mẽ vì ông đi thẳng vào nhân dân, sử dụng thứ ngôn ngữ tinh tế, nhưng dễ hiểu và đơn giản của người dân. Petőfi chủ trương coi trọng nội dung, xem phần tư tưởng như trung tâm của các thi phẩm, coi nó quan trọng hơn sự hoàn thiện hình thức thi ca. Tuy nhiên, có thể coi rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông như những viên ngọc toàn bích cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện, như “Az alföld” (Vùng bình nguyên, 1844), “A Tisza” (Sông Tisza, 1847), “Reszket a bokor, mert…” (Bụi cây run rẩy, vì…, 1846), “Szeptember végén” (Cuối tháng chín, 1847), “Szabadság, szerelem...” (Tự do và ái tình, 1847), “Minek nevezzelek?” (Anh biết gọi em là gì?, 1848), “Nemzeti dal” (Bài ca Dân tộc, 1848), “Föltámadott a tenger…” (Biển thét gào, 1848), “Európa csendes, újra csendes…” (Châu Âu lại tĩnh lặng…, 1849)... 

Qua đời khi mới 27 tuổi, Petőfi để lại hàng ngàn bài thơ và một di sản tinh thần lớn lao cho các thế hệ thi sĩ Hungary mà “bất cứ một nhà thơ nào viết bằng tiếng Hungary, không thể tránh được mối tương giao tinh thần với ông”, thi ca và cuộc đời của Petőfi Sándor, vĩ nhân từ một xứ sở rất xa và lạ đối với Việt Nam, lại được biết đến rất sớm ở nước ta qua những bản dịch (với ngôn ngữ trung gian là tiếng Pháp) của nhiều nhà thơ Việt Nam như Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Tú Nam…

Thi nghiệp và con người của thi sĩ - người đã thổi lửa vào những vần thơ - còn có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà thơ - chiến sĩ Việt Nam thông qua những bản dịch Việt ngữ giữa thế kỷ 20, cho thấy sự đồng điệu giữa tình cảm và tâm thế của những nhà thơ, đặc biệt, mảng thơ của Petőfi về đề tài tình yêu và bổn phận ái quốc của người trượng phu thời ly lạc đã có ảnh hưởng rất lớn đến Phùng Quán, một gương mặt nổi bật của phong trào Nhân văn Giai phẩm thuở nào. Thi phẩm “Hôn” (1956) nổi tiếng của Phùng Quán, với những vần thơ rực lửa “Nhưng dù chết em ơi - Yêu em anh không thể - Hôn em bằng đôi môi - Của một người nô lệ“, là một ví dụ điển hình về sự đồng điệu giữa tình cảm và tâm thế của hai nhà thơ, hai dân tộc cách nhau một khoảng rất xa về địa lý.

Lần lại những trang lịch sử, Petőfi Sándor (tên thật là Petrovics Sándor) chào đời tại vùng Kiskőrös trong một gia đình lao động nghèo. Thuở nhỏ, ông học hành thất thường và đến năm 16 tuổi, bị cha từ, ông bắt đầu cuộc đời lang bạt của một lãng tử. Làm giúp việc tại Nhà hát Quốc gia, ông đã có những năm tháng lăn lộn với nghề kịch nghệ. 19 tuổi, ông đạt được thành công đầu tiên trong văn chương với bài thơ “Quán rượu” (A borozó). Cũng trong năm đó, lần đầu tiên, ông ký bút danh Petőfi dưới thi phẩm “Trên đất nước tôi” (Hazámban).

Nhà văn, nhà thơ
Szendrey Júlia (1828-1868)
"Nàng thơ" của Petőfi Sándor
Sống bần hàn, đói khát thường xuyên, nhiều bận, chỉ nhờ bạn bè giúp đỡ mà Petőfi Sándor mới thoát khỏi cảnh khốn cùng. Tuy nhiên, cũng nhờ cuộc đời phiêu bạt nay đây mai đó, ông có dịp đi bộ qua rất nhiều vùng - từ làng mạc đến thị thành - nước Hung, chứng kiến những cảnh đời bất hạnh và có những trải nghiệm mà ít người ở độ tuổi 20 như ông có được.

Ngày 8-9-1846, tại một dạ hội ở vùng Nagykároly, nhà thơ làm quen với Szendrey Júlia, một cô gái học thức, gia cảnh khá giả. Trong nhiều tháng trời, Szendrey lưỡng lự trước tình yêu bất ngờ và say đắm của nhà thơ: do đôi bên không được "môn đăng hộ đối" nên thân phụ Júlia còn cấm cô gặp gỡ hoặc thư từ với Petőfi.

Một phần vì vậy, cô gái 18 tuổi không có quyết định dứt khoát và đã chối từ lời cầu hôn của thi sĩ. Dầu vậy, Petőfi vẫn cảm thấy người thiếu nữ đã mang lại mùa xuân trong ông, như qua thi phẩm tươi tắn "Em yêu mùa xuân" - "Te a tavaszt szereted...", với ước vọng có nhau trong đời:
TE A TAVASZT SZERETED…

Te a tavaszt szereted,
Én az őszt szeretem.
Tavasz a te életed,
Ősz az én életem.
 
Piros arcod a tavasz
Virító rózsája,
Bágyadt szemem az ősznek
Lankadt napsugára.
 
Egy lépést kell tennem még,
Egy lépést előre,
S akkor rájutok a tél
Fagyos küszöbére.
 
Lépnél egyet előre,
Lépnék egyet hátra,
S benne volnánk közösen
A szép meleg nyárba.

Szatmár, 1846. október 7 – 10
EM YÊU MÙA XUÂN...

Em yêu mùa xuân
Anh yêu mùa thu
Mùa xuân là đời em
Mùa thu là đời anh

Gương mặt em ửng hồng
Là nụ hồng hé nở mùa xuân
Ánh mắt anh mệt nhoài
Là tia nắng héo hắt mùa thu

Anh cần phải đi thêm một bước
Một bước về phía trước
Và khi ấy anh đến
Ngưỡng cửa mùa đông lạnh lẽo

Giá em bước tới một bước
Giá anh lùi lại một bước
Thì chúng ta sẽ cùng nhau
Trong mùa hè ấm, đẹp

NCTG dịch nghĩa.
Cuối tháng Mười một năm ấy, Petőfi viết thêm "Bụi cây run rẩy, vì..." mang âm hưởng và hình thức một bản dân ca, như lời tỏ tình mới với người yêu với câu hỏi ở cuối bài như một lời cầu xin: "Còn yêu anh nữa không?"
RESZKET A BOKOR, MERT...

Reszket a bokor, mert
Madárka szállott rá.
Reszket a lelkem, mert
Eszembe jutottál,
Eszembe jutottál,
Kicsiny kis leányka,
Te a nagy világnak
Legnagyobb gyémántja!

Teli van a Duna,
Tán még ki is szalad.
Szivemben is alig
Fér meg az indulat.
Szeretsz, rózsaszálam?
Én ugyan szeretlek,
Apád-anyád nálam
Jobban nem szerethet.

Mikor együtt voltunk,
Tudom, hogy szerettél.
Akkor meleg nyár volt,
Most tél van, hideg tél.
Hogyha már nem szeretsz,
Az isten áldjon meg,
De ha még szeretsz, úgy
Ezerszer áldjon meg!

Pest, 1846. november 20. után.
BỤI CÂY RUN RẨY, VÌ...

Bụi cây run rẩy, vì
Con chim nhỏ đậu xuống
Hồn anh run rẩy, vì
Anh nghĩ đến em yêu
Anh nghĩ đến em yêu
Người con gái nhỏ
Viên kim cương lớn nhất
Của thế gian này.

Sông Danube dâng tràn
Có khi nước ngập bờ
Trái tim anh cũng khó
Giữ được nỗi lòng mình
Yêu anh không, nhành hồng của anh?
Vì anh yêu em
Nhiều hơn hết thảy
Người trên đời này.

Những khi ở bên nhau
Anh biết em đã yêu
Khi ấy, mùa hè nóng
Giờ, mùa đông lạnh lẽo
Dẫu không còn yêu anh nữa
Cầu Chúa ban phước lành cho em
Nhưng nếu vẫn còn yêu
Hãy ban phước cho em ngàn lần hơn thế!

NCTG dịch nghĩa.
Bài thơ là một đỉnh cao của thơ tình Petőfi năm 1846, trong đó, có sự hòa hợp giữa hy vọng và nỗi nghi ngờ, nói đúng hơn, sự nghi ngờ xuất hiện rất nên thơ trong niềm hy vọng. Trong thi phẩm này, nhà thơ đã sử dụng những phép tu từ, so sánh của thi ca dân gian một cách nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả cao.

Những vần thơ đẹp nhất và mang tính tiên trị của Petőfi Sándor
là dành cho Szendrey Júlia, người yêu và người vợ ông...
"Bụi cây run rẩy, vì..." được đăng lần đầu vào trung tuần tháng Giêng 1847 trên tạp chí "Những hình ảnh cuộc sống" (Életképek). Đọc báo, Júlia biết rằng những tình cảm mà nhà thơ dành cho cô vẫn còn nguyên vẹn sau nhiều tháng xa nhau. Cô đã trả lời ngắn gọn Petőfi: "Ngàn lần, Júlia".

Rốt cục, gia đình Júlia phải chấp thuận mối tình của hai người và họ đã làm lễ cưới ngày 8-9-1847, đúng dịp kỷ niệm 1 năm ngày quen nhau. Tuy nhiên, cặp vợ chồng trẻ không được nhận bất cứ sự giúp đỡ gì về phía gia đình và phải tự lo liệu cho cuộc sống.

Đầu năm 1948, Szendrey có thai, nhưng Petőfi không chờ được đến khi cậu con trai Zoltán tròn tuổi tôi (ngày 15-12-1949): ngày 31-7, nhà thơ đã mất tích trong trận chiến giành độc lập dân tộc ở vùng Segesvár (có nhiều khả năng ông hy sinh tại đó).

Szendrey Júlia là nguồn cảm hứng để Petőfi sáng tác những thi phẩm lãng mạn nhất, như "Không lạ, nếu anh lại sống" (Nem csoda, ha újra élek), "Gọi tên em là gì?" (Minek nevezzelek?), "Mùa thu tới, thu lại tới" (Itt van az ősz, itt van újra) và nhất là "Cuối tháng Chín" (Szeptember végén), một thi phẩm chứa chất những hồ nghi chính yếu của nhà thơ về cuộc sống, tình yêu và cái chết.
SZEPTEMBER VÉGÉN

Még nyílnak a völgyben a kerti virágok,
Még zöldel a nyárfa az ablak előtt,
De látod amottan a téli világot?
Már hó takará el a bérci tetőt.
Még ifju szivemben a lángsugarú nyár
S még benne virít az egész kikelet,
De íme sötét hajam őszbe vegyűl már,
A tél dere már megüté fejemet.
Elhull a virág, eliramlik az élet...
Űlj, hitvesem, űlj az ölembe ide!
Ki most fejedet kebelemre tevéd le,
Holnap nem omolsz-e sirom fölibe?
Oh mondd: ha előbb halok el, tetemimre
Könnyezve borítasz-e szemfödelet?
S rábírhat-e majdan egy ifju szerelme,
Hogy elhagyod érte az én nevemet?
Ha eldobod egykor az özvegyi fátyolt,
Fejfámra sötét lobogóul akaszd,
Én feljövök érte a síri világból
Az éj közepén, s oda leviszem azt,
Letörleni véle könyűimet érted,
Ki könnyeden elfeledéd hivedet,
S e szív sebeit bekötözni, ki téged
Még akkor is, ott is, örökre szeret!

Koltó, tháng 9-1847
CUÔI THÁNG CHÍN

Dưới thung lũng hoa vẫn còn nở rộ
Lá xanh vẫn mượt mà bên cửa sổ
Nhưng mắt em có thấy nét trời đông?
Đỉnh núi mờ xa tuyết trắng như bông

Tim anh vẫn rực lửa hè nóng bỏng
Máu đỏ đào xuân rực rỡ tràn trề
Nhưng tóc anh đã nhuốm màu thu đọng
Đầu lạnh sương đông u ám tái tê

Hoa rụng lá rơi đời trôi mải miết
Lại đây em... lòng anh đợi em ngồi
Đầu em ngả ngực anh nào có biết
Ngày mai còn xõa tóc đội tang tôi?

Nếu một mai anh xuôi tay vĩnh biệt
Lệ em còn rỏ đẫm mắt anh không?
Liệu rồi đây một mối tình thắm thiết
Có xóa tên anh em giữ trong lòng?

Đừng em! tấm khăn tang em đừng vứt
Xé lòng anh cô quạnh lạnh dưới mồ
Anh sẽ lại xin em làm kỷ vật
Lau lệ hồn anh nhỏ xuống xương khô

Mặc! Mặc ai đổi lòng đi bước nữa
Trái tim này vĩnh viễn của em tôi
Khăn tang kia anh xiết kìm máu ứa
Để mãi yêu em dù đã-giã-từ-đời

(AK dịch)
Bản thảo viết tay của thi phẩm "Cuối tháng Chín"
bài thơ được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới
Không chỉ là một nhà thơ lớn, Petőfi còn được biết tới như nhà anh hùng dân tộc và điều này đã để lại dấu ấn đặc biệt trong thi nghiệp của ông với hai mảng thơ đề tài tiêu biểu - tình yêu lứa đôi và hồn dân tộc, bổn phận ái quốc của người trượng phu thời ly lạc.

Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, ông còn là người đổi mới thi ca Hungary bằng cách đưa nhiều đề tài mới vào thơ: thơ ngợi ca tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, vợ chồng, ngợi ca những miền đất, phong cảnh của quê hương đất nước...

Để rồi, trong những giờ khắc đầu của năm 1848 lịch sử, khi cả châu Âu rung chuyển vì những cuộc cách mạng dân chủ, Petőfi đã có trong mình những cảm xúc tràn đầy về tự do và tình yêu, như trong thi phẩm ngắn mà ông viết cho mình nhân ngày sinh nhật thứ 25 trước đó một năm: “Tự do và Ái tình - Vì các ngươi ta sống…”.

Vào khoảnh khắc ấy, ông thổ lộ: “Tôi cảm nhận cách mạng như chú cẩu cảm nhận cơn địa chấn…” Và, trong những vần thơ rực lửa, Petőfi Sándor đón chờ cuộc cách mạng toàn cầu vì một xã hội dân chủ, công bằng, vì nền độc lập của những xứ sở.



Cuộc đời Petőfi đã trở thành huyền thoại và hầu như, mọi người dân Hung đều biết tất cả về ông với sự sùng kính chân thành. Đời ông rộng mở và sáng tỏ như chính những vần thơ ông. 

Ai cũng biết Petőfi sinh vào đúng đêm Giao thừa năm 1823. Ai cũng biết sinh thời, trong 26 năm ngắn ngủi, Petőfi đã sáng tác hàng ngàn bài thơ với những chủ đề như tình yêu, lòng yêu nước, yêu tự do, dân chủ, ý chí dân tộc quật cường…, và ông đã chứng tỏ sự xác tín trong tâm tình của mình bằng chính cuộc đời: tên tuổi ông gắn liền và rạng ngời với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1848, với mục tiêu đưa nước Hung trở thành một quốc gia độc lập. 

Ai cũng biết Petőfi hy sinh năm 1849 tại trận chiến chống quân Áo ở vùng Segesvár, trên tư cách một nhà cách mạng Hung mang tư tưởng cương quyết và cấp tiến nhất của thời đại ông sống, một thi sĩ của dân tộc, của châu Âu. 

Không phải ngẫu nhiên mà tên tuổi Petőfi đã được đưa vào hàng những văn sĩ lớn của châu Âu thời bấy giờ, những người mang trong mình ngọn lửa dân chủ, cách mạng, như Byron (Anh), Pushkin (Nga), Heiné (Đức), Mickiewicz (Ba Lan) và Viktor Hugo (Pháp). Và, nếu chỉ hạn chế trong khuôn khổ văn học, tất cả những gì diễn ra sau đó trong nền thi ca Hung đều có khởi nguồn và xuất xứ từ ông!

Petőfi đọc “Bài ca Dân tộc” - Tranh của Zichy Mihály
Petőfi Sándor đã đốt cháy mình trong cuộc cách mạng gắn liền với tên tuổi ông. Ngày 15-3-1848, “Ngày Petőfi” trong lịch sử Hung, trước Bảo tàng Quốc gia tại trung tâm thủ đô Budapest, thi sĩ đã đọc “Bài ca Dân tộc” (Nemzet dal), thi phẩm được coi là bài ca tượng trưng cho cuộc cách mạng dân chủ Hung.

Đó là một khúc hát bi tráng và hào hùng, với ngôn từ ngắn gọn và mang âm hưởng hồi kèn chiến đấu, có sức mạnh như một đạo quân, trong trận chiến đòi các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi quyền độc lập dân tộc.

Là một trong những thi phẩm được biết đến nhiều nhất của thi hào, nhà cách mạng Petőfi Sándor (theo nhà thơ Illyés Gyula, bản thân tác giả cũng rất thích bài thơ này), “Bài ca Dân tộc” được sáng tác vào ngày 13-3-1848, đêm trước của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1848 khai sinh nước Cộng hòa Hungary theo thể chế đại nghị hiện đại.

Tác phẩm lớn này vang lên vào khởi điểm của cuộc cách mạng (15-3-1848) và từ đó, được coi là hiệu kèn chiến đấu thúc giục mọi người dân Hung. Đưa ra hình ảnh đối lập giữa quá khứ điêu tàn và thực tại thôi thúc, giữa cảnh nô lệ đớn đau và niềm vui tự do sáng lạn, “Bài ca Dân tộc” là một khúc ca lãng mạn và bi hùng, hừng hực niềm khát khao tự do của tinh thần quật khởi Hungary.

Được đưa vào chương trình giảng dạy phổ cập, “Bài ca Dân tộc” đã được rất nhiều nghệ sĩ lớn của Hungary thể hiện, cũng như, được phổ nhạc rất thành công và trọn vẹn bởi ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng Tolcsvay László. Ở Việt Nam, dịch giả Vũ Ngọc Cân đã chuyển ngữ thi phẩm này.

NEMZETI DAL

Talpra magyar, hí a haza!
Itt az idõ, most vagy soha!
Rabok legyünk vagy szabadok?
Ez a kérdés, válasszatok! –

A magyarok istenére
Esküszünk,
Esküszünk, hogy rabok tovább
Nem leszünk!

Rabok voltunk mostanáig,
Kárhozottak õsapáink,
Kik szabadon éltek-haltak,
Szolgaföldben nem nyughatnak.

A magyarok istenére
Esküszünk,
Esküszünk, hogy rabok tovább
Nem leszünk!

Sehonnai bitang ember,
Ki most, ha kell, halni nem mer,
Kinek drágább rongy élete,
Mint a haza becsülete.

A magyarok istenére
Esküszünk,
Esküszünk, hogy rabok tovább
Nem leszünk!

Fényesebb a láncnál a kard,
Jobban ékesíti a kart,
És mi mégis láncot hordtunk!
Ide veled, régi kardunk!

A magyarok istenére
Esküszünk,
Esküszünk, hogy rabok tovább
Nem leszünk!

A magyar név megint szép lesz,
Méltó régi nagy hiréhez;
Mit rákentek a századok,
Lemossuk a gyalázatot!

A magyarok istenére
Esküszünk,
Esküszünk, hogy rabok tovább
Nem leszünk!

Hol sírjaink domborulnak,
Unokáink leborulnak,
És áldó imádság mellett
Mondják el szent neveinket.

A magyarok istenére
Esküszünk,
Esküszünk, hogy rabok tovább
Nem leszünk!

Petőfi Sándor, Pest, ngày 13-3-1848
BÀI CA DÂN TỘC

Hỡi mỗi người dân, Hungary
Vận mệnh Tổ quốc đang lâm nguy
Độc lập tự do hay nô lệ?
Cơ hội ngàn năm, quyết định đi!

Dưới ánh hào quang của Chúa Trời
Chúng con xin thề, chỉ tiến thôi!
Cương quyết không chịu làm nô lệ
Dù phải hy sinh cả cuộc đời.

Chúng ta chịu khổ, nhiều trăm năm
Đau thương nô lệ, nói lên rằng
Thà rằng phải chết, vì tranh đấu
Còn hơn chịu nhục lũ xâm lăng.

Dưới ánh hào quang của Chúa Trời
Chúng con xin thề, chỉ tiến thôi!
Cương quyết không chịu làm nô lệ
Dù phải hy sinh cả cuộc đời.

Hãy đừng như những kẻ đê hèn
Cuộc sống ích kỷ, đang kề bên
Hiện thân là những kẻ sợ chết
Bán rẻ đất nước, run sợ lên.

Dưới ánh hào quang của Chúa Trời
Chúng con xin thề, chỉ tiến thôi!
Cương quyết không chịu làm nô lệ
Dù phải hy sinh cả cuộc đời.

Xiềng xích đang đeo ở trên tay
Cơ hội ngàn năm, đang có đây
Hãy vứt xiềng xích, cầm thanh kiếm
Như giành chiến thắng vào trong tay.

Dưới ánh hào quang của Chúa Trời
Chúng con xin thề, chỉ tiến thôi!
Cương quyết không chịu làm nô lệ
Dù phải hy sinh cả cuộc đời.

Làm thân nô lệ, nhiều năm rồi
Biết bao nhục nhã, âm thầm trôi
Chiến thắng hôm nay, rũ sạch hết
Tự hào lại đến, những niềm vui.

Dưới ánh hào quang của Chúa Trời
Chúng con xin thề, chỉ tiến thôi!
Cương quyết không chịu làm nô lệ
Dù phải hy sinh cả cuộc đời.

Vì dân, vì nước, đã hy sinh
Thế hệ mai sau, nhắc tên mình
Ghi nhận công lao, thiêng liêng nhất
Sống rất anh hùng, chết quang vinh.

Dưới ánh hào quang của Chúa Trời
Chúng con xin thề, chỉ tiến thôi!
Cương quyết không chịu làm nô lệ
Dù phải hy sinh cả cuộc đời.

Hoàng Sơn (một cựu DHS Việt Nam tại Hung - dịch và đăng trên diễn đàn VNKATONÁK của các cựu học viên quân sự Việt Nam tại HungaryBudapest ngày 9-7-2006

Từ những trường học, những tiệm cà phê, cùng thi hào Petőfi và bản “Yêu sách 12 điểm”, giới trẻ học đường đã lao vào một cuộc cách mạng lãng mạn nhưng không cân sức. Giới quý tộc, được sự trợ giúp của các thế lực quân sự nước ngoài, đã phản công dữ dội. Một cuộc chiến bảo vệ độc lập và tự do dân tộc diễn ra và Petőfi Sándor, nhà thơ với những thi phẩm thấm đẫm tình yêu nước và tự do, đã không muốn đứng ngoài cuộc, cho dù bạn hữu ông ngăn cản, không muốn ông phải liều mình.

Và, điều xấu nhất đã xảy ra đối với Petőfi và dân tộc Hung: 6 giờ chiều ngày 31-7-1849, thi sĩ của tình yêu và lòng ái quốc đã ngã xuống trong một trận chiến ở vùng Segesvár, để lại đứa con thơ duy nhất vừa tròn nửa năm tuổi!

Đất nước Hung, trong một thời gian dài, không thể tin và không muốn tin vào sự ra đi vĩnh viễn của người con ưu tú của mình. Nhiều huyền thoại đã được truyền tụng, rằng Petőfi không hy sinh, ông chỉ bị bắt và đi đày ở Siberia, rằng ông đã trở về… Illyés Gyula, nhà thơ nổi tiếng của Hung thế kỷ XX, một hậu duệ xuất sắc của Petőfi, đã viết như sau trong cuốn sách về Petőfi:
Các bạn có thể nói với một bà mẹ rằng con trai bà đã qua đời ở một miền xa xôi nào đó. Bà sẽ không tin. Và nếu bằng lý trí, với thời gian, bà đành bằng lòng với thực tế ấy, thì trong lòng bà, trái tim bà vẫn dội nên niềm hy vọng trước một nguồn tin ngược lại, cho dù nó vô lý đến đâu đi nữa, rằng con bà vẫn còn trên cõi đời này…


*
Dưới đây xin giới thiệu hai bài thơ về người dân của Petőfi Sándor cùng bản dịch tiếng Việt.

A NÉP

Petőfi Sándor

Egyik kezében ekeszarva,
Másik kezében kard,
Igy látni a szegény jó népet,
Igy ont majd vért, majd verítéket,
Amíg csak élte tart.
Miért hullatja verítékét?
Amennyit ő kiván
Az eledelbül és ruhábul:
Hisz azt az anyaföld magátul
Megtermené talán.

S ha jő az ellen, vért miért ont?
Kardot miért foga?
Hogy védje a hazát?... valóban!...
Haza csak ott van, hol jog is van,
S a népnek nincs joga.

(Pest, 1846. június–augusztus.)

Người dân

Người dịch: Vũ Ngọc Cân

Một tay cầm đòn cày
Một tay mang gươm giáo
Người dân thường suốt đời
Đổ mồ hôi và máu
Để đổi lấy đói nghèo

Sao phải đổ mồ hôi?
Muốn đồ ăn, quần áo
Cho mình sống một đời
Đất mẹ sản sinh đủ
Lao động tất thế rồi!

Kẻ thù đến vì sao dân đổ máu?
Vì sao phải cầm giáo cầm gươm?
Bảo vệ Tổ quốc chăng?... Nhưng sự thật!...
Tổ quốc chỉ có ở đâu lợi quyền cũng có
Mà người dân thì chẳng có lợi quyền!

Pest, khoảng tháng 4 đến tháng 8 năm 1846

Nguồn: Ba nhà thơ vĩ đại Hungary, NXB Thanh niên, 2010
A NÉP NEVÉBEN

Petőfi Sándor

Még kér a nép, most adjatok neki!
Vagy nem tudjátok, mily szörnyű a nép,
Ha fölkel és nem kér, de vesz, ragad?
Nem hallottátok Dózsa György hirét?
Izzó vastrónon őt elégetétek,
De szellemét a tűz nem égeté meg,
Mert az maga tűz; ugy vigyázzatok:
Ismét pusztíthat e láng rajtatok!
S a nép hajdan csak eledelt kivánt,
Mivelhogy akkor még állat vala;
De az állatból végre ember lett,
S emberhez illik, hogy legyen joga.
Jogot tehát, emberjogot a népnek!
Mert jogtalanság a legrútabb bélyeg
Isten teremtményén, s ki rásüti:
Isten kezét el nem kerűlheti.

S miért vagytok ti kiváltságosok?
Miért a jog csupán tinálatok?
Apáitok megszerzék a hazát,
De rája a nép-izzadás csorog.
Mit ér, csak ekkép szólni: itt a bánya!
Kéz is kell még, mely a földet kihányja,
Amíg föltűnik az arany ere...
S e kéznek nincsen semmi érdeme?

S ti, kik valljátok olyan gőgösen:
Mienk a haza és mienk a jog!
Hazátokkal mit tennétek vajon,
Ha az ellenség ütne rajtatok?...
De ezt kérdeznem! engedelmet kérek,
Majd elfeledtem győri vitézségtek.
Mikor emeltek már emlékszobort
A sok hős lábnak, mely ott úgy futott?

Jogot a népnek, az emberiség
Nagy szent nevében, adjatok jogot,
S a hon nevében egyszersmind, amely
Eldől, ha nem nyer új védoszlopot.
Az alkotmány rózsája a tiétek,
Tövíseit a nép közé vetétek;
Ide a rózsa néhány levelét
S vegyétek vissza a tövis felét!

Még kér a nép, most adjatok neki;
Vagy nem tudjátok: mily szörnyű a nép,
Ha fölkel és nem kér, de vesz, ragad?
Nem hallottátok Dózsa György hirét?
Izzó vastrónon őt elégetétek,
De szellemét a tűz nem égeté meg,
Mert az maga tűz... ugy vigyázzatok:
Ismét pusztíthat e láng rajtatok!

(Pest, 1847. március.) pusztíthat e láng rajtatok!

Thay mặt nhân dân

Người dịch: Phạm Hổ

Hãy gấp rút trao cho dân những gì dân đòi hỏi
Các ngài không biết ư: dân mà vùng lên sẽ thành niềm kinh hãi
Khi dân không đòi, mà giật lấy, chẳng buông ra
Có thật các ngài chưa nghe tên của Gioóc Đô-xa
Các ngài bắt Đô-xa ngồi trên sắt nung thiêu chết
Nhưng tâm hồn Đô-xa lửa nào thiêu huỷ được
Vì tâm hồn Người rừng rực cháy luôn
Hãy coi chừng, ngọn lửa Người còn gieo lắm tai ương

Trước kia, dân chỉ đòi thức ăn để sống
Vì như loài thú thôi, dân đã sống bấy nay
Từ kiếp thú, giờ dân thành người thật
Và cho người đó, quyền lợi phải trao tay
Quyền lợi! Phải trao quyền lợi làm người cho quần chúng
Thiếu quyền lợi là một tổn thương rất lớn
Đối với danh dự những con người Thượng đế sinh ra
Kẻ nào không trao, Thượng đế sẽ không tha

Tại sao các ngài hưởng đủ điều ân huệ
Tại sao quyền lợi kia chỉ có nghĩa với các ngài?
Cha ông các ngài chiếm đất đai Tổ quốc
Nhưng chính mồ hôi của dân đã chảy dài trên đất
Có nghĩa gì đâu khi mồm có thể nói: mỏ đây!
Mà phải có những bàn tay moi lấy đất này
Cho tới lúc những vỉa vàng xuất hiện
Không giá trị gì ư? Những bàn tay lao động?

Và các ngài, các ngài đã từng tuyên bố huênh hoang
"Tổ quốc này, quyền lợi này là của chúng ta"
Các ngài sẽ làm gì, chỉ các ngài thôi, khi địch đến
Tấn công các ngài, Tổ quốc các ngài?
Xin lỗi vậy, tôi nêu lên câu hỏi
Phần nào tôi đã quên những chiến công anh dũng của các ngài ở Đ-ơ
Các ngài có định dựng một kỳ đài vòi vọi
Dưới chân những anh hùng hôm ấy xéo nhanh chân?

Nhân danh vinh quang của toàn nhân loại
Quyền lợi kia, các ngài hãy trao trả nhân dân
Nhân danh cả Tổ quốc có thể bị nguy vong
Nếu thiếu nhân dân, rường cột mới của bức thành chống địch
Những hoa hồng của Hiến pháp kia, các ngài giành chiếm hết
Chỉ để cho dân toàn những cành gai
Hãy gieo quanh các ngài những cánh hồng tươi đẹp
Và hãy nhận phần mình, phần những cành gai

Hãy gấp rút trao cho dân những gì dân đòi hỏi
Các ngài không biết ư: dân mà vùng lên sẽ thành niềm kinh hãi
Khi dân không đòi, mà giật lấy, chẳng buông ra
Có thật các ngài chưa nghe tên của Gioóc Đô-xa
Các ngài bắt Đô-xa ngồi trên sắt nung thiêu chết
Nhưng tâm hồn Đô-xa lửa nào thiêu huỷ được
Vì tâm hồn Người rừng rực cháy luôn
Hãy coi chừng, ngọn lửa Người còn gieo lắm tai ương

Pest, 3-1847
Nguồn: Thơ Petofi, NXB Văn hoá, Viện Văn học, 1962
Sau khi cuộc cách mạng dân chủ tư sản 1848 thất bại, Hungary phải chịu ách thống trị độc đoán của Áo cho đến năm 1867, khi Đế chế Áo - Hungary (hay chính xác hơn là Nền Quân chủ Áo - Hungary) ra đời như kết quả của sự thỏa thuận giữa triều đình Áo không đủ lực để biến Hungary thành một phần của đế chế Áo đơn độc, và Hungary luôn có ý muốn giành độc lập nhưng cũng không đủ sức mạnh để thực hiện ý nguyện đó.

Trong những thập niên cuối của nửa sau thế kỷ 19, Hungary có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế, đặc biệt là nền công nghiệp. Thủ đô Budapest sau khi được hợp nhất từ các thành phố Buda, Pest và Óbuda, được hình thành và hoàn chỉnh với những đại lộ và công trình kiến trúc nổi bật, nhiều nhà hát, tòa soạn báo xuất hiện, các nhà xuất bản cũng mọc lên hàng loạt. Tinh thần tự tôn dân tộc và ái quốc vẫn được gìn giữ trong lòng giới trí thức, văn nghệ sĩ - đặc biệt, được gia tăng trong dịp kỷ niệm một ngàn năm Vương quốc Hungary (896-1896) - và tiếp tục được duy trì trong các sáng tác của họ.

Trên đà ấy, sau thi ca một bước, nhưng nền văn xuôi và kịch nghệ Hungary đã sản sinh nhiều tên tuổi lớn như Kemény Zsigmond (1814-1875, tiểu thuyết gia lớn của trường phái Lãng mạn Hungary), Madách Imre (1823-1864, nhà văn, nhà thơ, tác giả vở kịch được coi là kinh điển nhất trong nền kịch nghệ Hungary, “Az ember tragédiája” - “Tấn thảm kịch con người”, Vũ Ngọc Cân dịch), Jókai Mór (1825-1904, tiểu thuyết gia, tác giả “A kőszívű ember fiai” - "Con trai người có trái tim đá”, Lê Xuân Giang dịch, tác phẩm lớn ca ngợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1848-49), Mikszáth Kálmán (1847- 1910, nhà văn, ký giả), Gárdonyi Géza (1863-1922, nhà văn, tác gia nổi bật của văn học Hungary đầu thế kỷ 20 với những tác phẩm lớn đề tài lãng mạn lịch sử như “Egri csillagok”, “Láthatatlan ember”, “Ido regénye”... "Những ngôi sao thành Eger”, Lê Xuân Giang dịch; “Tâm hồn bí ẩn” và “Nàng Iđo”, Hà Anh My dịch).

Để kết thúc, mời theo dõi bản dịch Việt ngữ một thi phẩm xinh xắn của Petőfi Sándor về tình yêu đôi lứa, để thấy rằng sự thể hiện tâm hồn và tình yêu của mọi dân tộc trên thế giới này cũng hàm chứa rất nhiều điểm tương đồng, giản đơn và nồng thắm. Đó là bài “Em yêu nhất mùa xuân” - "Te a tavaszt szereted…", được sáng tác năm tác giả 23 tuổi, ba năm trước khi ông ra đi:

Em yêu nhất mùa xuân
Anh yêu nhất mùa thu
Vì mùa xuân giống em
Vì mùa thu giống anh

Mặt em đỏ hồng hồng
Là dáng hồng xuân đấy
Ánh mắt em long lanh
Như ánh trời thu vậy

Nếu anh bước chân lên
Một bước, rồi bước nữa
Anh sẽ đến bên thềm
Của mùa đông giá lạnh

Nhưng nếu anh lùi về
Còn em thì bước tới
Ta sẽ gặp gỡ nhau
Giữa mùa hè chói lọi.

Nguyễn Hoàng Linh
Trần Lê