Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Kiên Giang
QĐND - Thứ ba, 30/09/2008 | 7:24 GMT+7
QĐND - Ngày 29-9, Đại tá Ngô Minh Chánh, Đội trưởng đội qui tập hài cốt liệt sĩ K92 (Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang) cho biết: Tính đến ngày 29-9, Đội K92 đã tiến hành tìm kiếm và cất bốc 123 hài cốt liệt sĩ hy sinh trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Phú Quốc (khu vực đồi 100 ở thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc). Đây là nơi trước đây Trại tù binh cộng sản Phú Quốc của chế độ cũ chôn cất những chiến sĩ cộng sản bị địch tra tấn dã man và hy sinh.
Tất cả 123 hài cốt liệt sĩ đều được tìm thấy ở độ sâu hơn 4 mét và không thể xác định được danh tính. Một số hài cốt có lẫn đinh dài từ 6 đến 8cm, với các dấu hiệu bị đóng đinh vào thân thể. Đây là lần cất bốc hài cốt liệt sĩ thứ 5 kể từ năm 1984 đến nay và gần 1.000 hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy, qui tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Phú Quốc. Theo các cứ liệu lịch sử, từ năm 1968 đến 1973 đã có khoảng 4.000 chiến sĩ cách mạng bị địch tra tấn và hy sinh…
ĐẶNG TRUNG KIÊN
QĐND - Ngày 29-9, Đại tá Ngô Minh Chánh, Đội trưởng đội qui tập hài cốt liệt sĩ K92 (Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang) cho biết: Tính đến ngày 29-9, Đội K92 đã tiến hành tìm kiếm và cất bốc 123 hài cốt liệt sĩ hy sinh trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Phú Quốc (khu vực đồi 100 ở thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc). Đây là nơi trước đây Trại tù binh cộng sản Phú Quốc của chế độ cũ chôn cất những chiến sĩ cộng sản bị địch tra tấn dã man và hy sinh.
Tất cả 123 hài cốt liệt sĩ đều được tìm thấy ở độ sâu hơn 4 mét và không thể xác định được danh tính. Một số hài cốt có lẫn đinh dài từ 6 đến 8cm, với các dấu hiệu bị đóng đinh vào thân thể. Đây là lần cất bốc hài cốt liệt sĩ thứ 5 kể từ năm 1984 đến nay và gần 1.000 hài cốt liệt sĩ đã được tìm thấy, qui tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Phú Quốc. Theo các cứ liệu lịch sử, từ năm 1968 đến 1973 đã có khoảng 4.000 chiến sĩ cách mạng bị địch tra tấn và hy sinh…
ĐẶNG TRUNG KIÊN
Nhà tù Phú Quốc hay nhà lao Cây Dừa
Di tích Nhà tù Phú Quốc
Nhà lao này được xây dựng từ thời Pháp, thuộc xóm Cây Dừa trước đây nên mới có tên gọi như vậy. Thời Việt Nam Cộng Hoà, nhà lao Cây Dừa được mở rộng trở thành trại giam lớn nhất đương thời với tên gọi là Trại giam tù binh chiến tranh Phú Quốc hay Trại giam tù binh Cộng sản Phú Quốc.
Khu di tích ngày nay không rộng, nằm trên khu vực chính nhà lao cũ, có nhà trưng bày hiện vật xây hai tầng và khu trưng bày ngoài trời những hiện vật nguyên gốc và hầu như nguyên vị trí. Nhà lao Cây Dừa được công nhận là di tích lịch sử năm 1996 và bắt đầu mở cửa đón du khách đến tham quan. Nhà lao Cây Dừa đã đi vào văn học qua cuốn ký sự lịch sử của nhà văn Chu Lai.
Mỗi năm khu di tích đón hơn 10 nghìn lượt khách. Có những tù nhân cũ trở về thăm lại nhà ngục xưa. Nhiều du khách trẻ tuổi ở mọi miền đất nước, khi đến Phú Quốc du lịch, ngoài những thắng cảnh nổi tiếng, cũng không quên ghé thăm di tích này. Khách nước ngoài đến thăm di tích mỗi lúc một đông hơn. Còn học sinh trên đảo thường đến đây để học những trang sử sống động về Phú Quốc và lịch sử đấu tranh của dân tộc.
Lịch Sử nhà lao
Thời Pháp, nhà lao được gọi là Căn cứ Cây Dừa, có diện tích khoảng 40 ha, bao gồm bốn khu A, B, C, D, dùng để giam giữ những người chống Pháp. Căn cứ Cây Dừa hính thức hoạt động vào tháng 06-1953 đến tháng 07-1954 thì ngưng hoạt động (khi tù binh hai bên được trao trả).
- Năm 1956 chính quyền Sài Gòn cho sửa sang “Căn Cây Dừa” cũ lập nên trại “Huấn chính Cây Dừa” để giam giữ tù binh cộng sản. Năm 1967, lại cho xây dựng trại giam Tù Binh Cộng Sản Việt Nam. Đây là trại giam lớn nhất của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Giam giữ gần 40.000 tù binh, trong đó có 4.000 người đã hy sinh tại đây.
- Năm 1972, Trại giam có tất cả là 12 khu được đánh số từ khu 1 đến khu 12, mỗi khu lại được chia thành nhiều phân khu, thường có khoảng 4 phân khu trong 1 khu. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3.000 tù nhân. Một phân khu chứa được 950 tù nhân. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sỹ quan tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ. Bao quanh mỗi khu nhà lao là tầng tầng lớp lớp hàng rào kẽm gai 10 – 15 lớp ken dày, mắc dày đặc bóng đèn điện. Bên cạnh bộ máy cai ngục, lúc cao nhất tới bốn tiểu đoàn lính gác trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện cơ động, canh giữ, tuần tiễu ngày đêm. Ngoài biển có lúc một hải đoàn hải quân tuần tiễu vòng ngoài…
- Cuối năm 1972, xây thêm khu 13, 14. Đến đầu năm 1973 thì Hiệp định Paris ký kết. Trại giam không còn hoạt động nữa. Ngày nay nhà giam gần như hoang phế, chỉ còn lại đồng cỏ tranh mênh mông với vài trụ xi măng xiu vẹo và nền gạch loang lỗ, xa xa vài căn nhà mới mọc lên. Năm 1996, Nhà lao Cây Dừa được công nhận là khu di tích lịch sử cấp quốc gia và đang được trùng tu tái tạo để đón tiếp du khách.
- Ngày 17-04-2009, Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch quyết định đầu tư hơn 19 tỷ đồng tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích nhà lao Cây Dừa nhằm mở rộng việc trưng bày hiện vật, đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu lịch sử… của du khách trong và ngoài nước khi đến thăm Phú Quốc. Theo đó, từ nay đến hết năm 2009 sẽ tôn tạo và hoàn thành, đưa vào phục vụ các hạng mục: khu B2, cổng tiểu đoàn 7 quân cảnh, nhà và cổng Ban chỉ huy trại giam… Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch Kiên Giang làm chủ đầu tư tôn tạo, trùng tu di tích lịch sử này
Địa ngục trần gian
• “đóng kim”: dùng những cây kim chích đã cũ, đóng từ từ vào 10 đầu ngón tay.
• Chuồng cọp Catso: Chuồng cọp này được làm bằng sắt, bốn phía hình dáng kiểu contenơ loại nhỏ, có chiều rộng 1,87 m, dài 2,58 m, cao 2,07 m. Loại chuồng cọp này thiết kế để đàn áp tù nhân. Người tù bị giam vào đây, cửa khoá kín không còn ánh sáng, đêm lạnh ngày nóng. Bị giam lâu ngày ở đây, khi thả ra tù nhân sẽ không còn thấy đường, sức khoẻ và tinh thần giảm sút nghiêm trọng.
• Chuồng cọp kẽm gai: Đây là một trong các chuồng cọp được làm toàn bằng dây kẽm gai. Chuồng cọp này để ngoài trời, phân khu nào cũng có hai ba cái. Có hai loại: loại nhốt 1 người và loại nhốt 3 – 5 người. Kích thước chuồng cọp rất đa dạng. Có loại tù nằm dưới đất cát, có loại tù nằm trên dây kẽm gai. Có loại chỉ ngồi chứ không nằm hay đứng được. Có loại chỉ ngồi lom khom. Có loại chỉ đứng lom khom chứ không đứng thẳng hay ngồi xuống được, muốn ngồi phải ngồi trên kẽm gai. Tù nhân khi bị nhốt vào đây không được mặc quần áo dài, chỉ cho mặc quần cụt để phơi nắng phơi sương, hoặc phơi mưa suốt ngày đêm, mặc cho muỗi đốt. Tù nhân chỉ được ăn một phần cơm rất ít với muối hoặc ăn lạc chớ không có thức ăn. Mỗi ngày được 1 hoặc 2 ca nước uống. Tiêu tiểu tại chỗ, không được cho ra ngoài. Những đêm lạnh cóng thì bị dội nước để cho giải khát hay rửa chuồng. Những ngày nóng nực thì bị dội nước muối hay bị đốt lửa bên ngoài để cho cọp nhớ những trận cháy rừng. Bị giam trong chuồng cọp vài ngày là da bị lột, lên da non rồi lại bị cháy và lột tiếp. Có trường hợp tù nhân bị chết do quá nóng hay quá lạnh. Những người bị chết thì lôi xác ra đi vùi đâu đó quanh nhà lao.
• “ăn cơm nhạt”: tù nhân không được ăn muối, sau hai tháng mắt sẽ bị mờ, sau 5-6 tháng liền có người bị mù hẳn.
• “lộn vỉ sắt”: các tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau và lật ngửa làm “đường băng sân bay” rồi bắt tù binh cởi áo, cởi quần ngoài, chỉ còn chiếc quần đùi. người tù bị bắt cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau, sau vài lần là lưng người tù tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da tơi tả.
• “gõ thùng”: lấy thùng phuy úp lên tù nhân đang ngồi xổm, rồi gõ vào thùng. Tù nhân sẽ bị đau đầu, sẽ bị điếc vì tiếng gõ mạnh và sức ép không khí. Cũng bằng cách gõ vào thùng phuy đổ đầy nước, bên trong thùng là tù nhân. Kiểu tra tấn này có thể khiến tù nhân bị hộc máu vì sức ép của nước.
• “đục răng” và “bẻ răng”: kê đục vào sát chân răng của người tù, dùng búa đóng làm răng gẫy văng ra.
• “roi cá đuối”: giám thị dùng những chiếc roi cá đuối dài, đem phơi để đánh tù. Trước khi bị đánh, tù nhân phải cởi áo để bị đánh vào da thịt trần. Roi cá đuối thường quấn lấy thân nạn nhân, rồi giật ra, làm da thịt bị đứt theo. Giám thị sau đó có thể lấy muối ớt xát vào da thịt nạn nhân. Đầu năm 1970, phái đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế khi đến thị sát nhà tù Phú Quốc đã bắt gặp một chiếc roi cá đuối dính máu khô.
• “đóng đinh”: những chiếc đinh 3 phân được dùng để đóng vào các ngón tay của tù binh trong quá trình tra tấn. Mỗi lần bị đóng đinh, xương ngón tay của người tù bị vỡ nát. Ngoài ra còn có loại đinh 7, 8 phân hoặc cả tấc để đóng vào thân người tù ở các vùng: cổ chân, khớp vai, mắt cá, ống quyển, đầu. Có người bị đóng đinh đến chết, sau này khi bốc mộ vẫn còn đinh găm trong hài cốt.
• lấy bao bố trùm lên người tù rồi ném vào chảo nước sôi. Ba người tù ở phân khu C6 đã bị luộc chết.
• dùng bóng đèn công suất lớn để sát mặt người tù trong thời gian dài cho nổ con ngươi.
• dùng lửa đốt miệng, bộ phận sinh dục.
….
Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972. Các nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại nhà tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các vết sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Tháng 8 năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo về sự đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân. Sau các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên, tổng chỉ huy QLVNCH, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của tổ chức Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù.
Những cuộc vượt ngục vĩ đại
Theo tư liệu tại di tích, các thế hệ chiến sĩ bị tù đày tại đây đã làm nên kỳ tích: Tổ chức được 42 cuộc vượt ngục. Vượt ngục quả cảm theo đủ mọi cách có thể: bí mật vượt rào; đánh lính áp giải khi ra ngoài làm việc khổ sai để cướp đường chạy trốn; đào hầm ngầm lấy lối thoát ra… Gần trăm người hy sinh hoặc bị bắt trở lại, hơn 200 người thoát được ra ngoài, tiếp tục hoạt động.
Báo Tuổi Trẻ đã từng làm một phóng sự về một cuộc đào thoát vĩ đại của các tù binh trại A5 tại nhà lao Cây Dừa. Bài viết được đăng trên Tuổi Trẻ ngày 21-08-2006, nhân dịp kỷ niệm 61 năm ngày Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 02-09. Dưới đây xin được trích dẫn nguyên văn một phần nội dung bài viết:
Biết rằng chỉ một lần vượt ngục không thành là cầm chắc cái chết trong tay, nhưng các tù binh Phú Quốc vẫn quyết định tổ chức một cuộc đào thoát. Tham gia chiến dịch đào hầm vượt ngục toàn các tử tù. Trong số những người đào hầm vượt ngục tại trại A5 ngày ấy hiện còn sống ở TP.HCM có ông Nguyễn Văn Năng.
Ông Năng kể: “Sau khi tôi về khu A5, anh em tổ chức đào hầm. Khu trại A5 trước đó đã có một lần đào hầm vượt ngục nhưng bị lộ, lần này có 40 người tham gia. Trong đó chia thành từng nhóm bốn người lần lượt đào hầm, nếu chẳng may kế hoạch bị bại lộ thì anh em chỉ mất bốn người đầu tiên. Bốn người đầu tiên được phân công lãnh trách nhiệm là Nguyễn Văn Năng, Trần Xuân Việt, anh Mạnh (đã hi sinh ở đảo) và anh Năm (đang ở Đà Nẵng)”.
Nhật ký của cựu tù Nguyễn Văn Năng ghi rõ: “Bắt đầu từ ngày 25-1-1971, mở miệng hầm ở cuối phòng số 8, ngoài vỉa hè”. Bốn người chịu trách nhiệm mở miệng hầm là Thắng, Thuần, Tuấn và Tư đã chuẩn bị cho miệng hầm rất công phu: dùng cơm trộn với xà phòng, đất sét làm hộc miệng, dùng gỗ vạt nằm làm miệng và nắp hầm. Từ miệng hầm, đào sâu xuống 1,5m. Trước khi bắt tay đào hầm, mọi người đã nghiên cứu kỹ bối cảnh của khu trại A5: bên ngoài có nhiều lớp rào, có quân cảnh đi tuần. Bốn góc khu trại có bốn chòi canh của quân cảnh trực gác. Lớp rào ngoài cùng có quăng kẽm gai bùng nhùng. Ngoài lớp rào bùng nhùng này là trảng cỏ tranh rộng 100m, sau khoảng cỏ tranh đó là bìa rừng. Rừng Phú Quốc có cây to, chủ yếu là kiền kiền, bằng lăng. Cuộc đào thoát với sự tính toán rất công phu. Anh em đào hầm chia ra thành nhiều tổ: tổ cảnh giác, tổ giấu đất, tổ đào. Các tổ làm việc cật lực trong điều kiện bí mật tuyệt đối. Tổ giấu đất có nhiệm vụ nặng nề, phải giấu cho được khối lượng đất đưa lên từ 30m đoạn đường hầm ban đầu. Chiều sâu ban đầu là 1,5m, nhưng độ sâu này chỉ đào đến 30m. Sau đó đào cạn hơn. Đào hầm có nhiều kỹ thuật, ông Nguyễn Hữu Minh nhớ lại: “Đầu tiên chúng tôi ngắm hướng đào theo hàng rào cho thẳng, sau đó phải kiếm cây gỗ làm một cái thang rộng bằng đường kính lòng hầm, đào tới đâu kéo theo cái thang tới đó. Dụng cụ đào hầm chỉ là những đồ dùng sinh hoạt do tù binh tự làm như muỗng, ca, ấm, cà mèn… Đoạn đường hầm dài 120m, anh em tù ở phân khu A5 đào suốt năm tháng”.
Ngày 5-5-1971, đường hầm đã gần xong, chi bộ của khu trại A5 họp xem xét ai nằm trong danh sách vượt ngục, hàng trăm người xung phong, nhưng cuối cùng gút lại 28 người. Đến ngày 11-5-1971, một ngày trước khi vượt ngục, danh sách gút lại là 27 người. Đúng 9 giờ đêm 12-5-1971, 27 người tù lặng lẽ xuống hầm. “Lúc đó, cả đoàn trườn đi như rắn, như những chiến sĩ đặc công trong giờ xung trận. Tổ đi đầu phải chuẩn bị cây chống hàng rào, cây móc để treo hàng rào, các cọng thép để chốt các loại mìn, trái sáng, lựu đạn địch gài ở mỗi lớp rào mà ta chạm phải”, ông Năng kể.
“Ra đến trảng cỏ tranh, ngước lên thấy trời đêm đen đặc, gió thổi mát, cảm giác trong người lại như bị ngộp, một phần vì quá mừng, nghẹt thở, khớp cả hai chân không đi được. Cả đoàn dừng tại trảng cỏ tranh 5 phút rồi mới cắt đường chạy vào bìa rừng”, ông Năng nhớ lại giây phút được tự do. Luồn rừng ròng rã ba ngày thì gặp được du kích Dương Tơ. Đến tháng 6-1972 họ mới được đưa về đất liền tiếp tục chiến đấu. Mãi sau này họ mới biết do địch không phát hiện được đường hầm ngay, nên tối hôm sau (13-5-1971) một số anh em tù ở trại B5 gần đó chui qua “đi ké” 15 người, bị bắn chết hai người, 13 người thoát được.
Những bộ hài cốt liệt sĩ
Tính đến tháng 10-2008, người ta đã tìm được tổng cộng 1.028 bộ hài cốt liệt sĩ tại nhà lao Cây Dừa. Hầu hết đều là liệt sỹ vô danh, không rõ họ tên, tuổi, quê quán, không rõ ngày hy sinh, do quá trình bị địch bắt giam, tù đày tra tấn đến chết ở đâu thì vùi xác tại đó. Theo một số tư liệu lịch sử, hiện nay, dưới lòng đất vùng nhà lao Cây Dừa còn có gần 3.000 bộ hài cốt liệt sĩ chưa được tìm thấy. Nơi được xác định nhiều hài cốt liệt sĩ nằm lại là ngọn đồi phía Tây Nam nhà lao. Tại đây, người ta đã cho xây dựng Khu Tưởng niệm hoành tráng, đồ sộ. Mới đây, Đội K92 Kiên Giang phát hiện thêm 268 bộ hài cốt liệt sĩ, nâng tổng số hài cốt liệt sĩ hy sinh tại Nhà tù Phú Quốc đã được tìm thấy lên 1.336 bộ.
Di tích Nhà tù Phú Quốc |
Nhà lao này được xây dựng từ thời Pháp, thuộc xóm Cây Dừa trước đây nên mới có tên gọi như vậy. Thời Việt Nam Cộng Hoà, nhà lao Cây Dừa được mở rộng trở thành trại giam lớn nhất đương thời với tên gọi là Trại giam tù binh chiến tranh Phú Quốc hay Trại giam tù binh Cộng sản Phú Quốc.
Khu di tích ngày nay không rộng, nằm trên khu vực chính nhà lao cũ, có nhà trưng bày hiện vật xây hai tầng và khu trưng bày ngoài trời những hiện vật nguyên gốc và hầu như nguyên vị trí. Nhà lao Cây Dừa được công nhận là di tích lịch sử năm 1996 và bắt đầu mở cửa đón du khách đến tham quan. Nhà lao Cây Dừa đã đi vào văn học qua cuốn ký sự lịch sử của nhà văn Chu Lai.
Mỗi năm khu di tích đón hơn 10 nghìn lượt khách. Có những tù nhân cũ trở về thăm lại nhà ngục xưa. Nhiều du khách trẻ tuổi ở mọi miền đất nước, khi đến Phú Quốc du lịch, ngoài những thắng cảnh nổi tiếng, cũng không quên ghé thăm di tích này. Khách nước ngoài đến thăm di tích mỗi lúc một đông hơn. Còn học sinh trên đảo thường đến đây để học những trang sử sống động về Phú Quốc và lịch sử đấu tranh của dân tộc.
Lịch Sử nhà lao
Thời Pháp, nhà lao được gọi là Căn cứ Cây Dừa, có diện tích khoảng 40 ha, bao gồm bốn khu A, B, C, D, dùng để giam giữ những người chống Pháp. Căn cứ Cây Dừa hính thức hoạt động vào tháng 06-1953 đến tháng 07-1954 thì ngưng hoạt động (khi tù binh hai bên được trao trả).
- Năm 1956 chính quyền Sài Gòn cho sửa sang “Căn Cây Dừa” cũ lập nên trại “Huấn chính Cây Dừa” để giam giữ tù binh cộng sản. Năm 1967, lại cho xây dựng trại giam Tù Binh Cộng Sản Việt Nam. Đây là trại giam lớn nhất của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Giam giữ gần 40.000 tù binh, trong đó có 4.000 người đã hy sinh tại đây.
- Năm 1972, Trại giam có tất cả là 12 khu được đánh số từ khu 1 đến khu 12, mỗi khu lại được chia thành nhiều phân khu, thường có khoảng 4 phân khu trong 1 khu. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3.000 tù nhân. Một phân khu chứa được 950 tù nhân. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sỹ quan tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ. Bao quanh mỗi khu nhà lao là tầng tầng lớp lớp hàng rào kẽm gai 10 – 15 lớp ken dày, mắc dày đặc bóng đèn điện. Bên cạnh bộ máy cai ngục, lúc cao nhất tới bốn tiểu đoàn lính gác trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện cơ động, canh giữ, tuần tiễu ngày đêm. Ngoài biển có lúc một hải đoàn hải quân tuần tiễu vòng ngoài…
- Cuối năm 1972, xây thêm khu 13, 14. Đến đầu năm 1973 thì Hiệp định Paris ký kết. Trại giam không còn hoạt động nữa. Ngày nay nhà giam gần như hoang phế, chỉ còn lại đồng cỏ tranh mênh mông với vài trụ xi măng xiu vẹo và nền gạch loang lỗ, xa xa vài căn nhà mới mọc lên. Năm 1996, Nhà lao Cây Dừa được công nhận là khu di tích lịch sử cấp quốc gia và đang được trùng tu tái tạo để đón tiếp du khách.
- Ngày 17-04-2009, Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch quyết định đầu tư hơn 19 tỷ đồng tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích nhà lao Cây Dừa nhằm mở rộng việc trưng bày hiện vật, đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu lịch sử… của du khách trong và ngoài nước khi đến thăm Phú Quốc. Theo đó, từ nay đến hết năm 2009 sẽ tôn tạo và hoàn thành, đưa vào phục vụ các hạng mục: khu B2, cổng tiểu đoàn 7 quân cảnh, nhà và cổng Ban chỉ huy trại giam… Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch Kiên Giang làm chủ đầu tư tôn tạo, trùng tu di tích lịch sử này
Địa ngục trần gian
• “đóng kim”: dùng những cây kim chích đã cũ, đóng từ từ vào 10 đầu ngón tay.
• Chuồng cọp Catso: Chuồng cọp này được làm bằng sắt, bốn phía hình dáng kiểu contenơ loại nhỏ, có chiều rộng 1,87 m, dài 2,58 m, cao 2,07 m. Loại chuồng cọp này thiết kế để đàn áp tù nhân. Người tù bị giam vào đây, cửa khoá kín không còn ánh sáng, đêm lạnh ngày nóng. Bị giam lâu ngày ở đây, khi thả ra tù nhân sẽ không còn thấy đường, sức khoẻ và tinh thần giảm sút nghiêm trọng.
• Chuồng cọp kẽm gai: Đây là một trong các chuồng cọp được làm toàn bằng dây kẽm gai. Chuồng cọp này để ngoài trời, phân khu nào cũng có hai ba cái. Có hai loại: loại nhốt 1 người và loại nhốt 3 – 5 người. Kích thước chuồng cọp rất đa dạng. Có loại tù nằm dưới đất cát, có loại tù nằm trên dây kẽm gai. Có loại chỉ ngồi chứ không nằm hay đứng được. Có loại chỉ ngồi lom khom. Có loại chỉ đứng lom khom chứ không đứng thẳng hay ngồi xuống được, muốn ngồi phải ngồi trên kẽm gai. Tù nhân khi bị nhốt vào đây không được mặc quần áo dài, chỉ cho mặc quần cụt để phơi nắng phơi sương, hoặc phơi mưa suốt ngày đêm, mặc cho muỗi đốt. Tù nhân chỉ được ăn một phần cơm rất ít với muối hoặc ăn lạc chớ không có thức ăn. Mỗi ngày được 1 hoặc 2 ca nước uống. Tiêu tiểu tại chỗ, không được cho ra ngoài. Những đêm lạnh cóng thì bị dội nước để cho giải khát hay rửa chuồng. Những ngày nóng nực thì bị dội nước muối hay bị đốt lửa bên ngoài để cho cọp nhớ những trận cháy rừng. Bị giam trong chuồng cọp vài ngày là da bị lột, lên da non rồi lại bị cháy và lột tiếp. Có trường hợp tù nhân bị chết do quá nóng hay quá lạnh. Những người bị chết thì lôi xác ra đi vùi đâu đó quanh nhà lao.
• “ăn cơm nhạt”: tù nhân không được ăn muối, sau hai tháng mắt sẽ bị mờ, sau 5-6 tháng liền có người bị mù hẳn.
• “lộn vỉ sắt”: các tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau và lật ngửa làm “đường băng sân bay” rồi bắt tù binh cởi áo, cởi quần ngoài, chỉ còn chiếc quần đùi. người tù bị bắt cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau, sau vài lần là lưng người tù tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da tơi tả.
• “gõ thùng”: lấy thùng phuy úp lên tù nhân đang ngồi xổm, rồi gõ vào thùng. Tù nhân sẽ bị đau đầu, sẽ bị điếc vì tiếng gõ mạnh và sức ép không khí. Cũng bằng cách gõ vào thùng phuy đổ đầy nước, bên trong thùng là tù nhân. Kiểu tra tấn này có thể khiến tù nhân bị hộc máu vì sức ép của nước.
• “đục răng” và “bẻ răng”: kê đục vào sát chân răng của người tù, dùng búa đóng làm răng gẫy văng ra.
• “roi cá đuối”: giám thị dùng những chiếc roi cá đuối dài, đem phơi để đánh tù. Trước khi bị đánh, tù nhân phải cởi áo để bị đánh vào da thịt trần. Roi cá đuối thường quấn lấy thân nạn nhân, rồi giật ra, làm da thịt bị đứt theo. Giám thị sau đó có thể lấy muối ớt xát vào da thịt nạn nhân. Đầu năm 1970, phái đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế khi đến thị sát nhà tù Phú Quốc đã bắt gặp một chiếc roi cá đuối dính máu khô.
• “đóng đinh”: những chiếc đinh 3 phân được dùng để đóng vào các ngón tay của tù binh trong quá trình tra tấn. Mỗi lần bị đóng đinh, xương ngón tay của người tù bị vỡ nát. Ngoài ra còn có loại đinh 7, 8 phân hoặc cả tấc để đóng vào thân người tù ở các vùng: cổ chân, khớp vai, mắt cá, ống quyển, đầu. Có người bị đóng đinh đến chết, sau này khi bốc mộ vẫn còn đinh găm trong hài cốt.
• lấy bao bố trùm lên người tù rồi ném vào chảo nước sôi. Ba người tù ở phân khu C6 đã bị luộc chết.
• dùng bóng đèn công suất lớn để sát mặt người tù trong thời gian dài cho nổ con ngươi.
• dùng lửa đốt miệng, bộ phận sinh dục.
….
Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972. Các nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại nhà tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các vết sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Tháng 8 năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo về sự đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân. Sau các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên, tổng chỉ huy QLVNCH, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của tổ chức Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù.
Những cuộc vượt ngục vĩ đại
Theo tư liệu tại di tích, các thế hệ chiến sĩ bị tù đày tại đây đã làm nên kỳ tích: Tổ chức được 42 cuộc vượt ngục. Vượt ngục quả cảm theo đủ mọi cách có thể: bí mật vượt rào; đánh lính áp giải khi ra ngoài làm việc khổ sai để cướp đường chạy trốn; đào hầm ngầm lấy lối thoát ra… Gần trăm người hy sinh hoặc bị bắt trở lại, hơn 200 người thoát được ra ngoài, tiếp tục hoạt động.
Báo Tuổi Trẻ đã từng làm một phóng sự về một cuộc đào thoát vĩ đại của các tù binh trại A5 tại nhà lao Cây Dừa. Bài viết được đăng trên Tuổi Trẻ ngày 21-08-2006, nhân dịp kỷ niệm 61 năm ngày Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 02-09. Dưới đây xin được trích dẫn nguyên văn một phần nội dung bài viết:
Biết rằng chỉ một lần vượt ngục không thành là cầm chắc cái chết trong tay, nhưng các tù binh Phú Quốc vẫn quyết định tổ chức một cuộc đào thoát. Tham gia chiến dịch đào hầm vượt ngục toàn các tử tù. Trong số những người đào hầm vượt ngục tại trại A5 ngày ấy hiện còn sống ở TP.HCM có ông Nguyễn Văn Năng.
Ông Năng kể: “Sau khi tôi về khu A5, anh em tổ chức đào hầm. Khu trại A5 trước đó đã có một lần đào hầm vượt ngục nhưng bị lộ, lần này có 40 người tham gia. Trong đó chia thành từng nhóm bốn người lần lượt đào hầm, nếu chẳng may kế hoạch bị bại lộ thì anh em chỉ mất bốn người đầu tiên. Bốn người đầu tiên được phân công lãnh trách nhiệm là Nguyễn Văn Năng, Trần Xuân Việt, anh Mạnh (đã hi sinh ở đảo) và anh Năm (đang ở Đà Nẵng)”.
Nhật ký của cựu tù Nguyễn Văn Năng ghi rõ: “Bắt đầu từ ngày 25-1-1971, mở miệng hầm ở cuối phòng số 8, ngoài vỉa hè”. Bốn người chịu trách nhiệm mở miệng hầm là Thắng, Thuần, Tuấn và Tư đã chuẩn bị cho miệng hầm rất công phu: dùng cơm trộn với xà phòng, đất sét làm hộc miệng, dùng gỗ vạt nằm làm miệng và nắp hầm. Từ miệng hầm, đào sâu xuống 1,5m. Trước khi bắt tay đào hầm, mọi người đã nghiên cứu kỹ bối cảnh của khu trại A5: bên ngoài có nhiều lớp rào, có quân cảnh đi tuần. Bốn góc khu trại có bốn chòi canh của quân cảnh trực gác. Lớp rào ngoài cùng có quăng kẽm gai bùng nhùng. Ngoài lớp rào bùng nhùng này là trảng cỏ tranh rộng 100m, sau khoảng cỏ tranh đó là bìa rừng. Rừng Phú Quốc có cây to, chủ yếu là kiền kiền, bằng lăng. Cuộc đào thoát với sự tính toán rất công phu. Anh em đào hầm chia ra thành nhiều tổ: tổ cảnh giác, tổ giấu đất, tổ đào. Các tổ làm việc cật lực trong điều kiện bí mật tuyệt đối. Tổ giấu đất có nhiệm vụ nặng nề, phải giấu cho được khối lượng đất đưa lên từ 30m đoạn đường hầm ban đầu. Chiều sâu ban đầu là 1,5m, nhưng độ sâu này chỉ đào đến 30m. Sau đó đào cạn hơn. Đào hầm có nhiều kỹ thuật, ông Nguyễn Hữu Minh nhớ lại: “Đầu tiên chúng tôi ngắm hướng đào theo hàng rào cho thẳng, sau đó phải kiếm cây gỗ làm một cái thang rộng bằng đường kính lòng hầm, đào tới đâu kéo theo cái thang tới đó. Dụng cụ đào hầm chỉ là những đồ dùng sinh hoạt do tù binh tự làm như muỗng, ca, ấm, cà mèn… Đoạn đường hầm dài 120m, anh em tù ở phân khu A5 đào suốt năm tháng”.
Ngày 5-5-1971, đường hầm đã gần xong, chi bộ của khu trại A5 họp xem xét ai nằm trong danh sách vượt ngục, hàng trăm người xung phong, nhưng cuối cùng gút lại 28 người. Đến ngày 11-5-1971, một ngày trước khi vượt ngục, danh sách gút lại là 27 người. Đúng 9 giờ đêm 12-5-1971, 27 người tù lặng lẽ xuống hầm. “Lúc đó, cả đoàn trườn đi như rắn, như những chiến sĩ đặc công trong giờ xung trận. Tổ đi đầu phải chuẩn bị cây chống hàng rào, cây móc để treo hàng rào, các cọng thép để chốt các loại mìn, trái sáng, lựu đạn địch gài ở mỗi lớp rào mà ta chạm phải”, ông Năng kể.
“Ra đến trảng cỏ tranh, ngước lên thấy trời đêm đen đặc, gió thổi mát, cảm giác trong người lại như bị ngộp, một phần vì quá mừng, nghẹt thở, khớp cả hai chân không đi được. Cả đoàn dừng tại trảng cỏ tranh 5 phút rồi mới cắt đường chạy vào bìa rừng”, ông Năng nhớ lại giây phút được tự do. Luồn rừng ròng rã ba ngày thì gặp được du kích Dương Tơ. Đến tháng 6-1972 họ mới được đưa về đất liền tiếp tục chiến đấu. Mãi sau này họ mới biết do địch không phát hiện được đường hầm ngay, nên tối hôm sau (13-5-1971) một số anh em tù ở trại B5 gần đó chui qua “đi ké” 15 người, bị bắn chết hai người, 13 người thoát được.
Những bộ hài cốt liệt sĩ
Tính đến tháng 10-2008, người ta đã tìm được tổng cộng 1.028 bộ hài cốt liệt sĩ tại nhà lao Cây Dừa. Hầu hết đều là liệt sỹ vô danh, không rõ họ tên, tuổi, quê quán, không rõ ngày hy sinh, do quá trình bị địch bắt giam, tù đày tra tấn đến chết ở đâu thì vùi xác tại đó. Theo một số tư liệu lịch sử, hiện nay, dưới lòng đất vùng nhà lao Cây Dừa còn có gần 3.000 bộ hài cốt liệt sĩ chưa được tìm thấy. Nơi được xác định nhiều hài cốt liệt sĩ nằm lại là ngọn đồi phía Tây Nam nhà lao. Tại đây, người ta đã cho xây dựng Khu Tưởng niệm hoành tráng, đồ sộ. Mới đây, Đội K92 Kiên Giang phát hiện thêm 268 bộ hài cốt liệt sĩ, nâng tổng số hài cốt liệt sĩ hy sinh tại Nhà tù Phú Quốc đã được tìm thấy lên 1.336 bộ.
Ra đảo, truy tìm 3.000 bộ… hài cốt!
Ghi chép của Đỗ Doãn Hoàng
Biển xanh mơ, sóng trắng toát, huyện đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) mênh mông hiện ra trong nắng vàng. Dù không muốn bắt chước người khác, nhưng tôi vẫn cứ phải gọi Phú Quốc là Thiên đường du lịch, bởi sự mỹ miều của nắng, gió, biển xanh, mây trời kỳ ảo. Oái oăm thay, cũng trên “Thiên đường du lịch” này lại có một “Địa ngục trần gian” – nhà tù Phú Quốc – nơi mà trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, địch đã giam giữ tới 40.000 lượt tù cộng sản, đã đày ải, tra tấn cho đến chết khoảng 4.000 người đồng chí “gan vàng dạ sắt” của chúng ta. …
Hôm nay, vẫn dây thép gai, vẫn chuồng cọp kinh tởm, vẫn chày giã chết, vẫn chảo luộc sống tù nhân; vẫn những mảnh xương sọ của người cộng sản bị tra tấn bằng cách đóng hoăm hoắm một cây đinh hoen rỉ… được trưng bày. Vẫn sống trên đảo, cái tên cai ngục Bảy Nhu tàn độc khét tiếng với trò đóng đinh vào bất kỳ chỗ nào trên cơ thể, dùng thanh sắt nhổ gớm ghiếc lần lượt từng chiếc răng của rất rất nhiều người tù (đã 82 tuổi). Tôi đã kỳ công tìm gặp Bảy Nhu và bí mật ghi âm cả tiếng đồng hồ đối thoại với nhân vật “lẫy lừng” mai danh ẩn tích này (sau giải phóng, đi cải tạo về, chính quyền cơ sở phải có kế hoạch bảo vệ Bảy Nhu, bởi có quá nhiều người muốn giết chết ông ta).
Trong 4.000 người tù đã bị tra tấn cho đến chết ở cái địa ngục phi nhân tính tột độ kia, có 3.000 người vẫn chưa tìm thấy một mảnh xương cốt nào. Cuối năm 2008, tôi đã theo chân chiến dịch truy tìm di cốt lớn nhất trong lịch sử Việt Nam này.
Tượng đài Nắm Đấm, quả đấm to nhất thế giới, nơi đã khai quật được hơn 1000 bộ cốt:
Máy xúc làm việc suốt đêm ngày, dưới sự điều khiển của đội K92 để tìm di cốt:
Tượng đài "rùng rợn" niềm căm phẫn và ý chí cách mạng đặt ở trước cửa nhà tù Phú Quốc hiện nay:
Một cái xương sọ người tù cộng sản, khi được khai quật lên, vẫn bị đóng một cái đinh 10 hoen gỉ. Nhìn mà rợn người:
Tôi rất muốn chụp ảnh chung với những con người đang thực hiện nghĩa cử cao đẹp ở Phú Quốc (đội K92) để lưu giữ. Đã chụp, nhưng bức ảnh này phải… hạn chế công bố, không đăng báo, vì tôi và hai đồng chí đã… cười rất vô duyên, khi đứng ở dưới chân tượng đài Nắm Đấm, phía sau là la liệt hàng trăm cái bia liệt sỹ vô danh trên một nấm mộ khổng lồ. Thật ra, Đời, gặp được nhau ngoài nơi xa thẳm ấy, ở cái chỗ lạ lùng ấy, không vui sao được? Còn nỗi đau, nhiều thập niên qua và nhiều thế kỷ nữa chúng ta vẫn cứ đau, có đúng không, hàng nghìn các chú các bác (nghe nói có cả các cô, các bá) đã vị quốc vong thân ở Địa ngục trần gian – nhà tù Phú Quốc???
Vừa nhặt xương người vừa khóc
Địa ngục trần gian Nhà tù Phú Quốc đã kết thúc sứ mệnh đen tối của nó từ hơn ba chục năm trước, nhưng di cốt của quá nhiều chiến sỹ cách mạng bị tù đày “quẳng xác” ngoài đảo vắng biển xa, vẫn cứ bằn bặt. Đó là món nợ mà tất cả chúng ta phải nỗ lực để trả. Tôi đã tự nhủ điều này, mỗi lần ra Côn Đảo, Phú Quốc hay ngược nhà ngục Sơn La, Bắc Mê, Nghĩa Lộ… Đến tháng 5 năm 2008, hay tin về cuộc tìm kiếm hơn 3.000 bộ hài cốt còn “mất tích”, nhiều cựu tù Phú Quốc đã bật khóc. Những người hiểu về Phú Quốc và địa ngục trần gian kia đều rưng rưng. Ban “tìm kiếm” thành lập, một Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang làm trưởng ban, công việc cụ thể giao cho hơn 40 đồng chí lão luyện ở đội K92 thực thi (K92 là đơn vị của Tỉnh đội Kiên Giang, lực lượng “chuyên nghiệp” đã đào bới, kiếm tìm được tới 1.202 bộ hài cốt bộ đội tình nguyện Việt Nam hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở chiến trường Campuchia! – số liệu tính đến mùa khô năm 2008). Chỉ trong hơn 100 ngày vừa qua, đội K92 đã tìm được hơn 900 phần xương cốt xung quanh nhà tù Phú Quốc.
Đại tá Ngô Minh Chánh, đội trưởng K92 đón tôi ở Thành phố Rạch Giá, ông buồn rười rượi: chúng tôi đã rất thành công, đợt “sơ kết” đợt 1, với 130 bộ hài cốt; đợt 2, mới vừa triển khai đã được hơn hơn 800 bộ. Công việc thuận lợi, hai chiếc máy xúc hạng nặng làm việc hết công suất, nó đào tung những quả đồi và những cánh rừng. Nhiều năm qua, đã đi tìm và bốc hàng nghìn nghìn bộ cốt, nhưng chưa bao giờ chúng tôi huy động máy móc “dã man” như đợt này. Là bởi vì mật độ di cốt quá dày, cốt mà lại nằm ở tận mãi dưới 6m đất sâu. Hàng trăm cựu tù, cả các vị lãnh đạo có mặt trong lễ cầu siêu cho các liệt sỹ vừa rồi, cũng không ai lý giải nổi, vì sao “bọn ác” có thể vùi thi thể những người tù cộng sản ở dưới lòng đất sâu đến như vậy?
Sâu đến mức, khi xây dựng tượng đài (nghĩa trang) Nắm Đấm (hình quả đấm to và cao như tòa nhà ba tầng, nện lên nền trời, có lẽ đây là quả đấm lớn nhất thế giới) người ta có “vô tình” bới ra hàng trăm bộ hài cốt. Số này được bốc và nhang khói cẩn thận. Không ai có thể ngờ được là: bên dưới ngôi mộ tập thể bi thảm ở nghĩa trang Nắm Đấm, vẫn còn ba bốn lớp xương cốt ném chồng chất lên nhau nữa. Với giá thuê 4 triệu/ chiếc/ ngày đào bới, hai chiếc máy xúc liên tục gầm gừ hoạt động, bới mãi xuống “âm ty” mà vẫn còn hàng trăm di cốt. Có bộ xương được “đóng” tới 16 cái đinh mười (đinh to như ngón tay), có bộ được chằng trói bằng dây thừng, dây nhựa dẻo rất tàn độc. Hàng trăm chiếc đinh tra tấn người được nhặt ra khỏi các mớ xương, trung tá Nguyễn Văn Cao, đội phó đội K92 đem giao nộp cho cán bộ văn hóa địa phương để “trưng bày”, ai trông thấy cũng lạnh sống lưng. Có người chửi thề chí mạng vì căm phẫn. Có lẽ, bức ảnh về cái xương sọ người bị cắm đinh trong Nhà trưng bày tội ác ở Nhà tù Phú Quốc lâu nay, cũng sẽ phải… gỡ xuống để thúng đinh từng cắm vào sọ hàng trăm chiến sỹ cách mạng mới được khai quật vào “thế chỗ” thì nó mới xứng tầm!
Trong căn nhà quản trang bé tẹo của Nghĩa trang Nắm Đấm, 10 anh em của đội K92 tiếp tục mắc võng vào các song cửa, các móc treo trên tường để làm giường dã chiến mà tiến mãi vào rừng sâu tìm kiếm xương cốt người. Họ lập các cái lều bằng vải dù dằn di để che mưa nắng, mặc nắng vàng, mây trắng, trời xanh rất lãng mạn, mặc những người ăn sung mặc sướng đi đốt tiền ở thiên đường du lịch Phú Quốc. Anh em phải đi bộ lóc cóc vài cây số xin nước, đóng vào can nhựa, dùng tằn tiện. Chợ búa xa xôi, cơm bữa tự nấu dè sẻn. Vợ ốm, con đau trong đất liền, anh Cao và đồng đội vẫn phải bám trụ ở bìa rừng ngoài đảo, chỉ huy đội tìm kiếm thêm từng bộ từng bộ trong hơn 2.000 bộ di cốt đang được coi là “mất tích”.
Theo con đường đất đỏ quạch, cằn sỏi đá dẫn vào nghĩa trang buồn hiu lạnh lạnh; tôi phải leo núi đi sâu mãi vào những cánh rừng già để đến chỗ đang có người đào bới. Hàng nghìn mét vuông cây dại và rừng già đã được “dọn sạch” một cách bất đắc dĩ, để lực lượng công binh rà phá bom mìn, rồi đội K92 mới tiến hành khai quật, tìm kiếm. Tôi ngồi thu lu trên những núi đất đỏ, chằng chịt dây thép gai, nghĩ đến hàng nghìn người còn nằm ở đâu đây, mà nghĩ tới hơn 800 cốt người vừa mới được bới lên từ đất Mẹ mà thấy kiếp người sao nó mênh mang thật lạ. Anh Cao bảo, cửa rừng thâm u, gió biển xạc xào, nơi này hoang vắng tột độ, lại còn bạt ngàn bom đạn ém lại từ thời cũ, đôi lúc nhìn rừng mà chính anh em trong đội K92 còn thoáng so mình chợn rợn.Nhưng nghĩ đến những người “đồng đội” còn nằm lại giữa hoang lạnh mịt mù, lại thấy lòng mình nức nở. Có khi, máy xúc đang thò “tay” ngoạm mỗi gầu vài khối đất thì bị “kinh nghiệm hiểu biết xương cốt và lòng đất” của ai đó gào lên: dừng lại! “Dưới chân máy là 5 bộ xương người!”, kinh nghiệm của một người phán đoán. Bà con xanh mắt mèo, khi tay cuốc tay xẻng của các chiến sỹ nhẹ nhàng bới lên, đủ 5 bộ ở một hố chôn tập thể. Anh Minh Chánh bật mí: “Chúng tôi đào mãi, chỉ cần nhìn màu đất là biết có cốt (xương người)”.
Tôi đi dọc những triền đất đỏ vừa bốc lên bảy tám trăm bộ hài cốt các chiến sỹ cách mạng bị tù đày cho đến chết (tính đến đầu tháng 12/2008) và thắc mắc: có bộ cốt được chôn chung với 16 cái đinh, không biết chúng nó đóng thế nào mà đinh cắm ngần ấy chiếc vào một thi thể được nhỉ? Đinh cắm vào thịt thì rồi nó sẽ tự rụng ra khi cơ thể người tù bị phân hủy, thế thật ra là bao nhiêu cái đinh tất cả được cắm vào thi thể người tù bị đóng nhiều đinh nhất (khi chưa đem “quẳng xác” ngoài bìa rừng)? Báo cáo nhanh trong ít ngày đầu ra quân của đội K92 được ghi rõ bằng văn bản: cùng với 238 cây đinh mười đóng vào thân thể 130 đồng chí được khai quật trong đợt 1, còn có những chiếc cúc áo, chiếc lược khắc hình trái tim, “dây chuyền bằng nhôm có hình Phật bà Quan âm, một chiếc nhẫn thau làm bằng vỏ đạn”, một mảnh bom khắc tên người – hiếm hoi lắm, mới có được một cái túi ni lông chứa tên của người nằm dưới lòng đất sâu. Gần 900 người trong tổng số 4.000 người đã bỏ mạng ngoài hòn đảo có địa ngục trần gian này vừa được đội K92 tìm thấy, chỉ duy nhất anh Nguyễn Văn Khai (người Thanh Hóa) là có tên. Một người tử tế và nhanh tay nào đó đã viết tên anh, bỏ trong cái túi ni lông. Theo các nhân chứng, khi mà tù binh bị giết chết nhiều quá, lại sợ du kích các phía tấn công bất ngờ, bọn cai ngục bèn bắt bạn tù của anh Khai đem “đồng đội” đi chôn, và người bạn tù đã dùng một túi ni lông dán kín lưu danh bác Nguyễn Văn Khai cho… đội K92 đi tìm!
Anh Cao phủ một lá cờ đỏ sao vàng lên cái hòm gỗ chứa rất rất nhiều di cốt người tù thiệt mạng năm xưa. Hòm được kê lên một cái ghế vững chãi, dưới chân hòm là 3 con chó tinh khôn nằm canh giữ. Nắp hòm được mở, nhấc từng gói xương người được bó như bó giò ra, giọng anh Cao nghẹn ngào: chỉ một người có tên tuổi, địa chỉ. Tất cả, ai cũng là ai, ai cũng là người cộng sản chân chính đã sống đến giọt sống cuối cùng vì quê hương. Nhưng họ đã không được trông thấy ngày Bắc Nam sum họp. Nhưng họ đã mất hoặc nửa thế kỷ (nếu là liệt sỹ chống Pháp), hoặc hơn ba chục năm ròng nằm dưới lòng đất sâu (nếu là liệt sỹ thời chống Mỹ), họ mới được chúng tôi mang lên. Người bị đóng 16 cái đinh trên cơ thể, có người, khúc xương xống vẫn sừng sững một cây đinh cắm phập. Nhưng họ vẫn may mắn hơn hàng nghìn người còn nằm đâu đó dưới lòng đất, dưới những tán rừng, hoặc da thịt họ, xương cốt họ chỉ còn là một vệt mờ mờ hoa thổ (đất màu nâu còn lại sau khi thịt xương bị phân hủy toàn bộ) dưới cõi xa xôi. Quá nhiều nhân chứng (kể cả báo cáo của Sở LĐTBXH Kiên Giang mới đây) đều chính thức nói về việc máy bay của bọn cai ngục đã chở những người đau ốm đi chữa bệnh rồi không bao giờ đưa họ trở về nữa. Những người tù xấu số đã bị ném xuống Vịnh Thái Lan làm mồi cho cá dữ và đáy biển sâu. Cái việc họ trở về là bất khả. Do thế, nên cái việc kiếm tìm cho đầy đủ cơ số hàng nghìn người đã chết vì địa ngục trần gian nhà tù Phú Quốc là một nhiệm vụ thiêng, cao quý nhưng… bất khả hoàn thành trọn vẹn.
Thật khó để trọn vẹn, dẫu có những ngày, an hem khai quật một cái hố mà được gần 500 bộ xương cốt! Càng đào, càng nhặt xương càng thấy xót xa. Mùi xương thịt nồng nặc, có anh em ý nhị chạy ra góc rừng nôn ọe, rồi đeo khẩu trang, đốt cả thúng nhang trầm mù mịt để khử mùi, rồi lúi húi nhặt, hai trăm, ba trăm, rồi gần 500 bộ di cốt trong một cái hố chôn.
Sẽ là một cuộc kiếm tìm mãi mãi?
Biết vậy, nhưng vẫn phải làm. Chiến dịch truy tìm 3.000 bộ hài cốt kết thúc giai đoạn 1 với lễ cầu siêu cho 130 linh hồn người quả cảm đã ngã xuống. Cán bộ TƯ, cán bộ lãnh đạo từ Sài Gòn, từ Kiên Giang tề tựu đông đủ ở Phú Quốc, chỉ có hai ngả đường ra đảo là trên trời (máy bay) và trên biển (tàu thủy), thì cả hai ngả đều đông nghẹt, hết vé. Buổi lễ trang trọng, trời ào ào đổ mưa lớn như khóc than. Tuyệt nhiên không một ai xòe mũ mão hay dù (ô) ra che chắn. Họ đứng trước mưa, nỗi đau và niềm vui còn lớn hơn mưa nắng. Những người anh hùng của dân tộc nằm đó, chỉ là những bó xương nhỏ bé vô danh, quan khách chịu ướt cùng các chiến sỹ tận khổ trong “địa ngục trần gian” một chút thì đã sao? Buổi lễ hùng thiêng diễn ra trong mưa, mà không ai có cảm giác trời đang mưa nữa. Nhắc lại chi tiết này, anh Minh, Trưởng phòng Thương binh liệt sỹ và người có công của Sở LĐTB-XH Kiên Giang (đơn vị “chủ trì”, người sâu sát đại công trường tìm kiếm di cốt) không giấu nổi xúc động. “Chúng tôi đã phải đặt mua hàng trăm chiếc tiểu sành loại tốt từ Đồng Tháp chở xuống Rạch Giá, rồi thuê tàu gỗ vượt gần 200km mặt biển ra với các đồng chí vừa được tìm thấy cốt ngoài đảo Phú Quốc. Vét hết tiểu sành của Rạch Giá cũng chưa đủ”. Lại nghĩ, mới chỉ 130 bộ cốt mà đã tán loạn vì thiếu tiểu quách thế, đợt này, đón hơn hơn 800 “người tù cộng sản” một lúc (con số vẫn được tiếp tục bổ sung hằng ngày), biết lấy đâu chỉ đủ tiểu quách đây? Cái việc huy động tiểu quách “lịch sử” này, cũng thật là rớt nước mắt.
Giai đoạn 2 của dự án truy tìm hài cốt được triển khai, vẫn trong sự tận tụy của đội K92, vẫn bằng tiền tỷ đầu tư của Nhà nước, vẫn đều đặn, các ban ngành của huyện đảo Phú Quốc có cán bộ đến giao lưu, chia sẻ, động viên, tặng quà cho các chiến sỹ “đào mồ mả”. Khắp khu vực nhà tù Phú Quốc, đều là mồ chôn các chiến sỹ cộng sản anh dũng năm xưa. Diện tích khả nghi có di cốt khá rộng. Nhưng ngay cả đảo Phú Quốc với chiều dài mấy chục cây số cũng là quá hẹp so với việc tìm kiếm mà đội K92 đã làm năm bảy năm qua ở khắp chiến trường Campuchia. Đại tá Chánh kể, ở Campuchia, có khi đào bởi cả tháng, không tìm được bộ xương đồng đội nào, tháng sau quay lại, giữa mùa mưa, dùng xẻng gạy gạy một cái, vài bộ xương hiện ra. Có khi, tìm được cái thi thể còn nguyên vẹn do đất “kết”, phải đem ra bờ suối lóc thịt rồi gói gọn lại. Còn ở Phú Quốc, đã xác định được “tọa độ” sơ sơ, chỉ việc dùng máy xúc và cuốc xẻng tìm kiếm. Lại thêm cái thuận lợi là người tiếp phẩm cho nhà tù, ông Hai Nam vẫn sống; ông Bảy Nhu, tên ai ngục tàn độc, vẫn sống – họ sống ngay gần các công trường tìm di cốt. Thực tâm hai nhân vật “chỉ điểm” khai quật này thấy ân hận vì sự “tiếp tay” cho kẻ thù năm xưa, họ tận tâm giúp K92 tìm kiếm để mong chuộc lỗi lần dương thế và cả lỗi lầm với 4.000 người đã gửi nắm xương tàn ở “địa ngục trần gian”.
Tuy nhiên, cũng không phải là không có những cái khó khôn lường. Cốt nằm ở tít dưới lòng đất sâu, thông tin của nhân chứng rồi cũng… cạn kiệt, mà đến nay, hơn 2.000 bộ hài cốt vẫn bặt tăm. Việc chôn rấp các thi thể tù nhân hồi cũ, là một cách chôn tàn độc, thật ra kẻ địch chỉ ném xác họ ra bãi đất rồi quên hẳn, nên hành trình tìm kiếm rất mịt mù. Địa chỉ, danh tính của các bộ cốt hầu như không bao giờ có (điều này khác hẳn với cốt của quân tình nguyện ở Campuchia, bên đó mộ thường có “địa chỉ” rõ ràng, vật dụng chôn theo chu đáo, vì là đồng đội chôn nhau). Cách chôn tạm bợ đó, đã dẫn đến hậu quả là các bộ xương bị phân hủy rất nhanh, rễ cây cứ nhè chỗ có chất… “đạm” mà ăn vào, ăn đến độ không còn dấu tích của người nằm xuống. Vì thế, Trung tá Nguyễn Văn Cao thậm chí ghi âm, ghi hình lời kể của quá nhiều nhân chứng, thấy ai làm nương trong khu vực cũng dò hỏi, thấy ai mặc quân phục cũ cũng dò hỏi. Giống như một nhà điều tra, một nhà báo, anh cho tôi xem đoạn ghi âm, ghi hình những nhân chứng vô cùng sinh động. Nào có ai là không mong mỏi cho xương cốt của các người hùng quả cảm “vị quốc vong thân” kia thoát khỏi sự mất tích trong lòng đất lạnh? Có chị nạ dòng đi núi thăm nương về, ghé qua gặp anh Cao, báo cáo là chị cuốc đất, lưỡi cuốc oằn lên vì va phải toàn… xương người. Có người như ông Út Minh, nhà ngay ở gần khu vực tượng đài Nắm Đấm, vô tình gặp, thấy cụ mặc quân phục bạc màu, anh Cao bèn bắt chuyện. Ông kể: địch đã bị giam ông 6 năm, qua sáu bảy cái khu tù binh, đến trước giải phóng miền Nam mới được địch mang ra tận sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trao trả. Ông trực tiếp bị chính Bảy Nhu (người hàng xóm hiện nay) tra tấn bằng cách đè ra nhổ mất 6 cái răng. “Tui nằm trong tù từ năm 1966, suốt gần 7 năm, tui chỉ dám tính đường chết, chứ tịnh không có dám tính đường sống. Nó bắt tôi há mồm, hỏi cho xin cái răng, cho cái nào? Tui chán quá, bảo lấy cái nào thì lấy. Nó ghè thanh sắt vào, nhổ răng tui. Giật gẫy, nó bắt tui thò tay vào miệng mình lôi từng cái răng đỏ quạch máu ra, đặt lên bàn cho nó xem. Rồi nó bắt tui phải tự uống hết số máu chảy trong miệng tui ra, một giọt nào ứa ra ngoài, nó sẽ đánh chết” – cụ Út Minh nói. Những thông tin “mộc” về việc chôn xác tù cộng sản do ông Út Minh kể vô cùng quý giá đối với đội tìm kiếm hài cốt K92.
Vợ tôi nằm viện mấy tháng nay, phải nhờ người trông. Tôi bám trụ ngoài “chiến trường” này, vì cảm thấy trách nhiệm của mình quá lớn. Cả núi xương của những người cộng sản quả cảm đang chờ được bàn tay ấm nóng của người Việt hôm nay đến “cất bốc”. Cái vất vả của chúng tôi, có thấm tháp gì so với thế giới ngục tù tận khổ mà hơn 40.000 người cộng sản đã bị tù đày tra tấn ở Phú Quốc những năm xưa, có thấm gì so với sự lẫm liệt vị quốc vong thân của hơn 4.000 người đã ngã xuống kia? Không hô hào khẩu hiệu, không lên gân nắn giọng, anh Cao nói đều đều, xa xôi, trong gió lừng vị mặn mòi của cá biển phơi đượm nắng. Giọng anh run rẩy, da diết, bên mấy chục gói xương người được bó chặt như bó giò, có đánh số nhi nhít. Chưa đầy ba tháng trời, với sự tận tâm của bộ đội K92, gần một nghìn phần di cốt đã được tìm thấy. Hơn hai nghìn người cộng sản dũng cảm khác vẫn nằm đâu đó trong lòng đất đỏ rười rượi kia. Cuộc khai quật xương người lớn đệ nhất trong lịch sử Việt Nam vẫn đang được tiến hành cật lực ngay cả khi tôi đang viết những dòng này. Những ngày ở Phú Quốc, thấy anh lính trẻ cứ nhao ra nắng nỏ, với chai nước sôi để nguội giắt ở lưng rồi kiên nhẫn đánh lấn mãi vào các cánh rừng bom đạn cũ, lấn mãi vào lòng đất sâu bí ẩn với hàng nghìn bộ di cốt tủi hờn câm lặng, tôi chợt ngộ ra rằng: họ làm việc không chỉ vì nhiệm vụ. Không chỉ là một cái nghề. Mà họ đã xả thân vì một nghĩa cử, một món nợ ân tình mà lẽ ra chúng ta phải làm từ lâu, lẽ ra tất cả chúng ta đều phải có mặt ở đó để hành lễ… trả nợ ân tình.
(Ngày 22/11/2008, trong chuyến thăm và làm việc tại huyện đảo Phú Quốc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng đoàn đại biểu đã đến thăm “công trường” khai quật hài cốt các liệt sỹ nhà tù Phú Quốc và động viên các thành viên của đội K92). Đến nay, sắp năm cùng tháng tận 2008, tôi vẫn thường gọi điện cho anh Cao, để nghe anh cập nhật số lượng hài cốt mà đội đã đào được, mỗi lúc số liệu tăng vọt, có lúc vọt cả 500 bộ vì một hố chôn tập thể, tôi lại buồn buồn vui vui, chả biết muốn xót xa cùng các liệt sỹ hay là định chúc mừng đau đớn và “thành công” của đội K92 nữa. Thấy choáng ngợp, chất ngất trước những mất mát năm xưa.
Đỗ Doãn Hoàng
Kiên Giang: Truy điệu và an táng 300 hài cốt liệt sỹ nhà lao Cây Dừa, Phú Quốc
26/07/2009
Ngày 26.7, tỉnh Kiên Giang tổ chức lễ truy điệu và an táng 300 hài cốt liệt sỹ vừa tìm thấy tại nhà lao Cây Dừa, Phú Quốc.
Nhà lao Cây Dừa là trại giam lớn nhất dưới chế độ Mỹ ngụy. Trong chiến tranh chống Mỹ, đã có hơn 40.000 người yêu nước chiến đấu bị bắt và giam giữ tại đây, trong đó có hơn 4.000 người bị tra tấn đến chết.
Đến nay, sau 3 đợt nỗ lực tìm kiếm, Đội tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sỹ K92 của tỉnh đã tìm và đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sỹ Phú Quốc 1.506 hài cốt liệt sỹ.
Kỷ niệm 66 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7-1947 / 27-7-2013)
Nghĩa tình Phú Quốc
QĐND - Thứ Tư, 10/07/2013, 16:54 (GMT+7)
QĐND - Cách đây 5 năm, tôi đã hai lần tới Phú Quốc để chứng kiến việc tìm hài cốt liệt sĩ. Đó là một câu chuyện dài xúc động về những đồng chí, đồng đội của chúng tôi ở trại tù binh lớn nhất miền Nam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Gần 2000 hài cốt liệt sĩ được quy tập trong quãng thời gian 6 tháng! Có lẽ, đó là một kỷ lục mà cũng là sự tri ân, báo ân thiết thực nhất mà Đội tìm kiếm K92 đã thực hiện được.
Trước đó, những đồng đội của các liệt sĩ, với sự giúp đỡ của các ban ngành chức năng cũng đã tổ chức tìm kiếm hài cốt liệt sĩ tại Phú Quốc trong các năm từ 1995 đến 1997. Nhưng với ngần ấy thời gian, cũng chỉ quy tập được 968 hài cốt, trong tổng số khoảng 4000 người tù bị Mỹ và chính quyền Sài Gòn giết hại. So sánh như thế để thấy rằng, những gì mà Đội tìm kiếm K92 làm được quả là phi thường. Trong suốt 6 tháng đó, các anh, các chị đã xa gia đình để đến với Phú Quốc, đồng cam cộng khổ, lặn lội trên những cánh rừng, không quản ngại thời tiết, bom mìn, lắng nghe mọi thông tin từ các cựu tù Phú Quốc và người dân địa phương để quy tập được nhiều nhất hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ trên huyện đảo.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đưa hài cốt liệt sĩ về an nghỉ tại Phú Quốc. Ảnh: T.L
|
Chị Năm Nghĩa có một anh trai bị giam cầm tại Nhà tù Phú Quốc, đã bị địch giết hại, mộ chí của anh hiện đang yên nghỉ tại Phú Quốc. Là người lính, lại có thân nhân bị địch giết hại, coi các liệt sĩ như người anh ruột của mình, suốt nhiều tháng qua, chị Năm Nghĩa đã sát cánh cùng anh em trong Đội tìm kiếm K92 phát hiện được nhiều điểm tập trung số lượng lớn hài cốt liệt sĩ.
Nói về nghĩa tình đồng đội thủy chung, chúng tôi xin được nhắc đến tình cảm chân thành của người bạn tù Phú Quốc năm xưa. Đó là anh Tư Sang (Chủ tịch nước Trương Tấn Sang). Hai lần tổ chức đại lễ cầu siêu là hai lần anh Tư Sang có mặt để thắp nhang cho đồng đội. Tự tay châm thuốc lá lên mộ các liệt sĩ, anh Tư Sang xúc động nói: "...Trước đây, ở trong tù, anh em mình mười người chung nhau một điếu thuốc. Bây giờ, tôi châm cho hai anh em một điếu để cùng nhớ lại những ngày tháng năm xưa...". Còn nhớ, trong đợt cầu siêu lần thứ nhất, trời đổ mưa, một đồng chí bảo vệ sợ ảnh hưởng đến sức khỏe của anh nên bật ô che. Anh Tư Sang nói: "Bao nhiêu đồng đội của chúng ta còn đang chịu mưa rét, nằm rải rác đâu đó trên nền đất lạnh mà chưa được quy tập; những hạt mưa này có thấm gì so với sự hy sinh của các anh, hãy để tôi cùng đồng cảm chút ít với đồng đội...".
Không thể kể hết tình cảm của những người đang sống với các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Đội tìm kiếm K92 ngoài sự động viên về tinh thần, vật chất của đồng chí, đồng đội các liệt sĩ; bà con phật tử, nhân dân các địa phương lân cận; còn nhận được sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện ở mức cao nhất của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể tỉnh Kiên Giang và huyện Phú Quốc, các cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt là lực lượng vũ trang Quân khu 9, Vùng 5 Hải quân, Cảnh sát biển... Họ như được nhân lên bội phần sức mạnh, tình cảm và sự quyết tâm để tiếp tục tìm và quy tập được nhiều hơn nữa hài cốt liệt sĩ sau bao nhiêu năm bị vùi lấp dưới nền đất lạnh hoặc nằm sâu giữa biển khơi!
Trong quá trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ, Đội tìm kiếm đã phát hiện được rất nhiều hố chôn người tập thể. Xác người tù được chôn theo nhiều lớp, mỗi lớp chỉ cách nhau khoảng một mét đất, ngổn ngang với các tư thế đứng, nằm, ngồi, xuôi, ngược khác nhau. Có những lớp đất, đội quy tập đã tìm thấy hơn 80 hài cốt liệt sĩ. Những hố chôn tập thể này là những chứng tích tội ác man rợ nhất mà những kẻ nhân danh “tự do-dân chủ” đã gây ra đối với đồng bào của chúng ta. Theo một số nhân chứng còn sống sót thì gần như các tù nhân bị giết hại đều chỉ mặc một chiếc quần xà lỏn trên người!
Trước đó, khi tới thăm Bảo tàng Chiến tranh trên huyện đảo Phú Quốc, chúng tôi còn được nhân viên bảo tàng chỉ cho rất nhiều đinh, được nhổ từ những hộp sọ của người tù, chứng tỏ, kẻ địch còn có một hình thức tra tấn cực kỳ độc ác khác là đóng đinh vào sọ của tù nhân...
Rời Phú Quốc lần thứ hai sau đại lễ cầu siêu long trọng mà Hội Phật giáo Việt Nam chủ trì tổ chức, chúng tôi vẫn hẹn ngày trở lại Phú Quốc để được "gặp mặt" nhiều thêm nữa anh em, đồng chí, đồng đội vẫn chưa được quy tập hài cốt về Nghĩa trang liệt sĩ. Trên chuyến phi cơ từ huyện đảo Phú Quốc trở lại TP Hồ Chí Minh, nhìn từ trên độ cao xuống, Phú Quốc vẫn như một tượng đài sừng sững trước biển cả bao la.
NGUYỄN ĐÌNH CẦN
Thứ Năm, ngày 07 tháng 11 năm 2013
CẦN NGHIÊM TÚC XEM LẠI CÁCH XÁC ĐỊNH DANH TÍNH 129 HÀI CỐT LIỆT SỸ TÌM THẤY Ở PHÚ QUỐC THÁNG 10 NĂM 2008
*Tại chương trình giao lưu trực tuyến giữa Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng trên báo Năng lượng mới, tôi đã nêu câu hỏi này, nhưng NNC đã trốn tránh không trả lời.
NVM BLOG – ĐÂY LÀ MỘT CÁCH LÀM TUỲ TIỆN, CẨU THẢ MÀ KHÔNG CHỈ CÁC NHÀ NGOẠI CẢM, UBND TỈNH KIÊN GIANG, HUYỆN PHÚ QUỐC VÀ CÁC CƠ QUAN LIÊN QUAN CẦN PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM, LÀM SÁNG TỎ SỰ THẬT…
Tháng 10-2008, theo lời mời của Ban liên lạc cựu tù binh PHú Quốc vượt ngục ở TP Hồ Chí Minh do anh Vương Chí Dũng làm trưởng ban, tôi được đi cùng đoàn cựu tù binh PHú Quốc và các nhà sư thuộc chùa Vĩnh Nghiêm ra Phú Quốc dự đại lễ cầu siêu cho các anh hùng, liệt sĩ hi sinh tại Phú Quốc.
Theo Đại tá Ngô Minh Chánh, đội trưởng Đội tìm kiếm, qui tập hài cốt liệt sĩ K92 của Quân khu 9, người chủ trì, chỉ đạo trực tiếp công tác tìm kiếm qui tập hài cốt liệt sĩ nhà tù Phú Quốc : Đảo Phú Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống chống Mỹ từng có trại giam tù binh cộng sản giam giữ hơn 40.000 chiến sĩ cách mạng. Trong đó, có tới hơn 4.000 chiến sĩ hi sinh bởi những thủ đoạn tra tấn dã man của kẻ thù. Sau chiến tranh, Đảng, Nhà nước rất quan tâm tới công tác tìm kiếm hài cốt liệt sỹ song tính đến tháng 8-2008, qua 5 đợt tổ chức tìm kiềm, mới có 905 liệt sĩ được tìm thấy hài cốt. Buổi lễ cầu siêu hôm nay dành cho hơn 4.000 liệt sĩ hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cùng nhiều liệt sĩ hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt là hơn 3.000 liệt sĩ chưa tìm thấy hài cốt, thi thể các anh đang nằm đâu đó trong biển, trong rừng Phú Quốc.
Tháng 10-năm 2008, Bộ Tư lệnh Quân khu 9, UBND tỉnh Kiên Giang phối hợp tổ chức một đợt tìm kiếm hài cốt liệt sĩ hi sinh tại Phú Quốc lần thứ 6, có lớn nhất từ trước tới nay. Đến chiều 18-10), đội đã tìm thấy hài cốt 129 liệt sĩ. Khi tìm thấy hài cốt các đồng chí bị giết hại, chứng tích nhiều tù binh bị đóng đinh vào đầu vẫn còn nguyên vẹn khiến những người chứng kiến không sao cầm được nước mắt. Và cũng theo ban tổ chức buổi lễ, nhờ sự giúp đỡ của các nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng, Năm Nghĩa, trước giờ diễn ra lễ cầu siêu, 110 liệt sĩ đã tìm được danh tính, quê quán. Như vậy là thành tích của các nhà ngoại cảm rất “ổn”, không chỉ giúp tìm ra 129 hài cốt liệt sĩ mà còn rất nhanh chóng xác định danh tính 110 hài cốt, như vậy chỉ còn 19 hài cốt liệt sĩ chưa xác định được tên.
Tuy nhiên, có một điều khiến tôi băn khoăn, chưa thấy mấy thuyết phục là cách làm việc, xác định tên tuổi, quê quán các liệt sĩ có vẻ rất tuỳ tiện, nếu như không muốn nói là rất cẩu thả. Hôm đó, tôi tận mắt chứng kiến 129 hài cốt liệt sĩ được xếp trong các tiểu sành, phủ cờ đỏ sao vàng, trên mỗi bộ hài cốt đều đặt một nhành hoa phong lan. Một nhóm các nhà ngoại cảm đi đi lại lại trong phòng, trong đó có nhà ngoại cảm Năm Nghĩa (tuy không còn là bộ đội nhưng vẫn mặc quân phục đeo quân hàm thượng uý chuyên nghiệp nhìn rất oách) và một vài người khác mà tôi không biết tên. Riêng nhà ngoại cảm Bích Hằng thì đến gần tới giờ cầu siêu mới thấy xuất hiện, đội mũ rộng vành, đi tới đâu, cả rừng người vây quanh.
Cách mà các nhà ngoại cảm khi đó xác định danh tính liệt sĩ như thế này: Họ đứng im, hoặc ngồi im, mắt lim dim, tay người nào cũng cầm quyển sổ ghi ghi, chép chép. Mỗi khi nhà ngoại cảm đọc ra tên ai, địa chỉ như thế nào thì người đứng cạnh lại ghi vào sổ, có người khác lập tức ghi ngay lên mảnh giấy dán trên tiểu sành phủ cờ đỏ sao vàng. Cứ thế, chỉ trong một buổi chiều, nhà ngoại cảm đã xác định tới cả trăm bộ hài cốt, ai cũng có tên, tuổi, quê quán…Sự chóng vánh một cách quá “diệu kỳ” và rất…qua loa như thế khiến tôi, một trong số rất ít nhà báo có mặt ở Phú Quốc chiều hôm đó không khỏi phân vân. Năm ấy, danh tiếng mấy nhà ngoại cảm này còn nổi như cồn, VTV đều từng phát phóng sự về họ nhưng nhìn cách họ làm, tôi bỗng “sinh nghi”. Làm sao mà chỉ “mắt lim dim, mồm lẩm nhẩm, tay ghi ghi” là ra hết được danh tính liệt sĩ? Tại sao không lấy mẫu AND phục vụ cho tìm kiếm về sau? Tại sao không đối chiếu với danh sách tù binh, tài liệu phía quân đội Sài Gòn và đồng đội cựu tù Phú Quốc? Tại sao ngành thương binh xã hội và Ban CHQS huyện Phú Quốc, Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang không tham gia việc này mà lại “phó mặc” các nhà ngoại cảm?
Bao câu hỏi cứ dồn dập trong tôi. Sự hoài nghi cứ lớn dần. Tôi quan sát kỹ danh tính các liệt sĩ do nhà ngoại cảm xác định thì phát hiện thêm một điều bất cập nữa. Hầu hết liệt sĩ chỉ được xác định họ tên, quê quán đến cấp huyện là cùng, hầu như không có ai xác định đến cấp xã. Xin ghi lại tên một vài người mà tôi đã chụp ảnh lại: LS Tạ Hồng Thiện, H: Phù Mỹ, T: Bình ĐỊnh; LS Đặng Văn Hiển – Đức Thọ, Hà Tĩnh….”. Tôi tự đặt câu hỏi: Nhà ngoại cảm chỉ ước đoán rồi ghi tên tuổi theo kiểu “phương phưởng” thế thì ai mà chả “phịa” ra được khi mà chỉ xác định tên đến cấp huyện. Trong số 119 liệt sĩ đó, bao nhiêu người xác định tên đúng, bao nhiêu người chỉ là tên ảo do nhà ngoại cảm bịa ra?
Trước băn khoăn đó, tôi mạnh dạn đến bên nhà ngoại cảm Năm Nghĩa, hỏi: “Xin hỏi chị, bằng cách nào mà chị xác định được tên tuổi, quê quán các liệt sĩ?”. Nghe tôi hỏi, NNC Năm Nghĩa có vẻ không hài lòng, nhưng cũng trả lời cho xong: “Em hỏi thế thì chị biết hỏi ai. Thế mới là khả năng đặc biệt?”.
Vẫn chưa tin kết quả của nhà ngoại cảm là chính xác, tôi tìm gặp các anh Vương Chí Dũng, Trần Khánh Linh ở Ban liên lạc tù binh Phú Quốc vượt ngục, xin hỏi chuyện ghi danh tính liệt sĩ như thế có đúng không, các anh có thể xác định xem trong số 119 liệt sĩ đó có ai là đồng đội mình lúc trong tù không. Trả lời câu hỏi của tôi, hai anh và nhiều cựu tù binh có mặt hôm ấy đều không tìm thấy một liệt sĩ nào là đồng đội và nói rằng điều đó là không thể bởi có tới hơn 40.000 tù binh bị giam trong 7 năm và có tới hơn 4.000 liệt sĩ!
Thất vọng!
Tìm thấy hài cốt liệt sĩ đã khó.
Xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn khó hơn nhiều.
Thế mà các cơ quan chức năng của tỉnh Kiên Giang ngày đó lại phó mặc cho các nhà ngoại cảm để họ tự xác định theo một phương pháp rất trời ơi đất hỡi, không thể kiểm định, không có căn cứ, cũng chẳng biết đúng sai.
2/ LẬP MỘ, GẮN BIA LIỆT SĨ MỘT CÁCH RẤT “TRỜI ƠI ĐẤT HỠI”
Sự thất vọng không dừng lại ở đó!
Cũng ngay trong chiều hôm ấy, tại nghĩa trang liệt sĩ Phú Quốc, địa phương đã cho xây mộ, khắc bia có tên liệt sĩ theo…danh sách mà các nhà ngoại cảm xác định. Quyết định này khiến tôi sững sờ, kinh ngạc. Tôi mang điều này thắc mắc với các anh trong Ban liên lạc tù binh Phú QUốc vượt ngục với hàng loạt câu hỏi tại sao? Tại sao có thể dễ dãi thế? Tại sao có thể tin danh sách do NNC xác định là đúng 100%? Tại sao vội xây mộ, khắc bia ngay? Nếu danh tính đó là sai hoặc không có thật thì sao? Việc xây mộ rồi, khắc bia rồi có thể để lại hậu quả khôn lường khi về sau, thân nhân, gia đình đi tìm mộ sẽ tin đây là kết quả thật? Tại sao không coi danh sách liệt sĩ do NNC xác định chỉ mang tính tham khảo? Tại sao không đề mộ vô danh hoặc chưa xác định rõ sẽ khách quan hơn? Các anh đều ghi nhận ý kiến của tôi là thoả đáng nhưng địa phương đã quyết, hơn nữa tinh thần chuyến đi ấy là tổ chức đại lễ cầu siêu cho các liệt sĩ, không nên đưa ra nhiều chuyện phức tạp sẽ làm hỏng cả buổi lễ….
Tôi là nhà báo được các cựu tù binh vượt ngục mời tham gia lễ cầu siêu vì cảm kích loạt bài ký sự 9 kỳ tôi viết về các anh, không phải thành phần do địa phương mời nên cũng không thể tuỳ tiện góp ý hay phản bác cách làm thiếu cơ sở khoa học ấy. Nhưng với sự nghi ngờ đó, tôi không còn cách nào khác là chụp lại những bức ảnh về kiểu cách xác định danhtinhs liệt sĩ. Tôi thầm nghĩ, sẽ có một ngày cần phải trở lại câu chuyện này.
5 năm đã trôi qua, giờ đây câu chuyện các nhà ngoại cảm lại bất ngờ trở lên ồn ào công luận. Nhiều lắm những sai lầm. Nhiều lắm những mạo dựng. Nhiều lắm những nghi ngờ. Nhiều lắm những bức xúc, phẫn uất của không ít gia đình liệt sĩ. Lỗi ở các nhà ngoại cảm cũng có nhưng theo tôi, còn có một phần lỗi không nhỏ của chính quyền và các cơ quan chức năng. Như chuyện 119 hài cốt liệt sĩ ở Phú Quốc mà tôi kể trên đây, tôi đoan chắc có rất nhiều sai sót, tuỳ tiện, để lại hậu quả khôn lường. Lấy căn cứ gì để chứng minh 119 hài cốt ấy tương ứng với 119 cái tên liệt sĩ, quê quán liệt sĩ? Mơ hồ thế thì việc vội vàng dựng bia, xây mộ để làm gì? Để làm đẹp cho buổi lễ hay để cho trọn vẹn cái dự án khai quật, quy tập mộ liệt sĩ đã có đủ hạng mục mộ, bia? Năm tháng đã trôi qua, 5 năm qua có bao gia đình đã tìm được hài cốt thực sự từ những cái tên “phương phưởng” do NNC cấp rồi khắc lên bia mộ? Những cái tên đoán bừa, khắc sai như thế giờ đây cần thẩm định ra sao, nên để hay đập bỏ?
3/ LIỆT SĨ CÓ THẬT THÌ KHÔNG CÔNG NHẬN, LIỆT SĨ DO NNC “PHÁN” THÌ…OK!
ở lễ cầu siêu, tôi gặp cụ Nguyễn Thị Tuyết, 83 tuổi, mẹ liệt sĩ Tín – nhân vật chính trong bài viết Một mình thoát bầy sói trên báo Quân đội nhân dân hôm nào. Mắt mờ, tóc bạc, lưng còng, mẹ vẫn nằng nặc bắt con gái đưa ra Phú Quốc dự lễ cầu siêu để tìm hài cốt con trai. Khi thấy NNC Bích Hằng xuất hiện, mẹ chạy lại gần như quỳ xuống đưa di ảnh Anh Tín để nhờ cô ta giúp đỡ nhưng cô chỉ liếc mắt xem qua rồi nguây nguẩy bước đi, mặc kệ giọt nước mắt tiếc nuối xót thương của người mẹ già. Nước mắt người mẹ trong chiều Phú Quốc khiến tôi day dứt. Càng day dứt hơn khi trong đoàn dự lễ cầu siêu, có khá nhiều người mang theo hồ sơ xin làm thủ tục công nhận thương binh, liệt sĩ cho bản thân và thân nhân? Xót xa nhất là trường hợp anh Hồ Văn Lý, em liệt sĩ Hồ Văn Thông ở Xuân Lộc, Đồng Nai. HỒ Văn Thông là tù binh Phú Quốc bị địch tra tấn, hi sinh, nhiều đồng đội là cựu tù Phú QUốc vượt ngục đã xác nhận. Trong những lần quy tập trước, tên anh đã có trong nghĩa trang liệt sĩ Phú Quốc. Thế mà anh Lý cùng gia đình nhiều năm đi gõ cửa gắp các cơ quan chức năng của tỉnh Đồng Nai thì họ vẫn viện lý do nọ kia không công nhận liệt sĩ. Anh chua xót thốt lên: “Anh tôi hi sinh là có thật, có tên trong nghĩa trang liệt sĩ ở Phú Quốc mà còn không được công nhận là liệt sĩ thì tôi biết phải làm sao?”
Tôi cùng anh Lý, cùng đồng đội của anh Thông thắp hương cho anh Thông, đặt lên mộ anh một bông hồng đỏ thắm. “Dù rằng đời ta thích hoa hồng, kẻ thù buộc ta ôm cây súng”, lời bài hát của Diệp Minh Tuyền chợt vang lên day dứt trong tôi. Những người ôm cây súng để cho Tổ quốc yên bình hôm nay, họ còn nằm lại trên hòn Đảo ngục tù một thời nay là Đảo Ngọc này mà sao những vô cảm, lố lăng, thấp hèn còn gây khó dễ, không vinh danh các anh. Một con người có thật, một nấm mồ có thật thì không được công nhận trong khi hàng trăm hài cốt chưa rõ danh tính, chỉ nghe một nhà ngoại cảm “phán” thì từ huyện đến tỉnh, từ tỉnh đến Trung ương vội vàng công nhận, tin theo? Thế này là thế nào?
Năm năm đã trôi qua, tôi chưa có dịp quay trở lại Phú Quốc, nơi có nhà lao cây Dừa, địa ngục trần gian một thời. Tôi cũng không rõ sau này, thêm mấy đợt tìm kiếm hài cốt khác, nghe nói vẫn do những nhà ngoại cảm ấy trợ giúp, người ta đã tìm thấy thêm cả nghìn bộ hài cốt. Không biết sau này, các xác định danh tính ra sao hay vẫn “bổn cũ soạn lại”, nghe nhà ngoại cảm “chém gió” rồi vội vàng lập thêm cả nghìn bia, xây thêm cả nghìn mộ. Nếu vẫn tiếp tục sự cẩu thả ấy, thì tôi nghĩ câu chuyện không dừng ở nhầm lẫn nữa mà thực sự họ đã đơn giản, xem thường trước xương máu liệt sĩ. Việc nghĩ ra những cái tên một cách tuỳ tiện, không có cơ sở, không có kiểm chứng rồi tạc bia, hương khói hàng ngày chính là sự xúc phạm liệt sĩ, nếu không muốn nói là một TỘI ÁC? AI? Văn bản nào? Quy định nào cho phép họ làm điều đó!
Sự giúp đỡ của nhà ngoại cảm (nếu có) trong việc tìm ra hài cốt các anh là nên ghi nhận. Nhưng sự tuỳ tiện, lợi dụng cái gọi là “ngoại cảm” để xác định danh tính liệt sĩ kiểu đó thì không thể chấp nhận. Phải lên án, phải làm rõ, phảixử lý và khắc phục, sửa sai ngay.
Hãy hành động, vẫn chưa phải là muộn!
NGUYỄN VĂN MINH
Dưới đây là những hình ảnh về cách xác định danh tính liệt sĩ do các nhà ngoại cảm thực hiện ở Phú Quốc tháng 10-2008
NNC Năm Nghĩa (trái) và nhóm các nhà NC đang xác định danh tính liệt sĩ |
Phương pháp là "ngồi lim dim, miệng lẩm bẩm, tay ghi ghi" |
Những cái tên liệt sĩ rất phương phưởng, quê quán chỉ ghi đến cấp huyện |
Liệt sĩ Hồ Văn Thông có tên trong nghĩa trang liệt sĩ Phú Quốc, nhiều đồng đội xác nhận nhưng tỉnh Đồng Nai vẫn không công nhận anh là liệt sĩ |
Tác gỉa và anh Hà - một đồng đội liệt sĩ Hồ Văn Thông |