Ngay từ những ngày đế quốc Mỹ đánh bom miền Bắc, quân và dân miền Nam
rất đau xót, nôn nóng tìm cách trả thù cho đồng bào miền Bắc.
Tháng 8-1965, tôi đang công tác ở Ô Môn (Cần Thơ). Các đồng chí cán bộ xung quanh cơ quan tỉnh chất vấn tôi rất dữ dội về việc “Tại sao giặc Mỹ hỗn láo đánh miền Bắc mà ta trừng trị kém như vậy?”.
Số là cũng vào dịp đó, báo chí phương Tây nói nhiều đến tên lửa SAM của
Liên Xô giúp ta. Chúng đề cao tên lửa này, chắc để nói máy bay chúng bị
rớt là do tên lửa chứ không phải từ tầng tầng lớp lớp vũ khí phòng
không các loại của ta. Lý lẽ của anh em ta và lời bà con ta là: “Có tên
lửa SAM thì có thể hạ bất cứ máy bay nào, sao cứ để chúng lộng hành như
vậy?”. Các đồng chí và đồng bào đâu có hiểu hết khó khăn của chúng ta
lúc đó, song tấm lòng thì thật đáng quý.
Cuối năm 1965, Sư đoàn 9
đã tổ chức trận pháo kích vào sân bay Biên Hòa tiêu diệt hàng trăm máy
bay chiến đấu của Mỹ. Khẩu đội pháo do chiến sĩ Mai Tôi phụ trách đã vừa
đánh vừa động viên nhau: “Hãy trả thù cho đồng bào miền Bắc”. Quân và dân miền Nam muốn ngăn chặn tội ác của giặc Mỹ ngay tại dinh lũy của tội ác.
Cuối
năm 1966, máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội rất ác liệt. Quân và dân miền Nam
rất lo ngại. Từ căn cứ Vườn Thơm (Long An), Lê Minh Xuân, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn Bình Tân (Sài Gòn - Gia Định) quyết định mời Nguyễn Văn
Kịp (Đồng Đen) phụ trách lực lượng biệt động F100 của nội đô, bàn cách
đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Anh nói:
- Từ đây bọn chúng
bay ra Bắc giết hại đồng bào ta. Vậy mà ta để chúng yên ổn, ngang nhiên
phá hoại? Phải đánh dập đầu chúng ngay tại sân bay Tân Sơn Nhất.
Thế
là một trận đánh “Trả thù cho Hà Nội” đã được tổ chức và đánh thắng.
Hàng trăm máy bay Mỹ bị tiêu diệt cùng bọn phi công và lính bảo vệ. Trận
đánh ấy đã để lại một hình ảnh đẹp: một chiến sĩ của chúng ta
là Nguyễn Văn Mao dựa vào chiếc máy bay đã bị tiêu diệt để đánh trả kẻ
thù đang vây chặt. Anh hy sinh, nhưng không gục xuống mà vẫn dựa lưng
vào chiếc máy bay, sừng sững trước mặt kẻ thù. Câu chuyện ấy đã đến với
Lê Anh Xuân và trở thành bài thơ bất hủ “Dáng đứng Việt Nam”.
Từ
đầu tháng 12-1972, quân và dân miền Nam rất nóng lòng trước những trận
B52 đánh vào Hà Nội ngày càng ác liệt. Chúng tôi ở trong này đã chịu bao
trận B52, hiểu rõ sự tàn bạo của những loạt bom Mỹ đối với rừng núi,
xóm làng ở miền Nam. Song chúng tôi chưa thể hình dung được: phố
phường chật hẹp, nhân dân đông đúc ở Hà Nội sẽ bị đau thương tang tóc
to lớn đến mức nào, nếu những loạt B52 đổ xuống. Và rồi, từng ngày, từng
ngày nỗi đau của chúng tôi càng lớn bởi giặc Mỹ càng leo thang. Quân và
dân miền Nam ở bất cứ đâu đều tổ chức các trận đánh trả thù cho miền
Bắc, cho Hà Nội.
*
* *
Từ cuối năm 1972, chúng
tôi đã được thông báo nội dung cơ bản của Hiệp định Paris mà ta và Mỹ
sắp ký kết. Cuộc chiến tranh chống Mỹ khá ác liệt nên ai cũng mong có
đôi lúc “thư giãn” để chuẩn bị đi tiếp đến giai đoạn giành chiến thắng
hoàn toàn. Chúng tôi nghiên cứu kỹ từng điều khoản của hiệp định dự thảo
và rất vui về thắng lợi to lớn của ta trên bàn hội nghị. Chúng tôi thán
phục các đồng chí ở bàn đàm phán Paris.
Thế rồi, được tin: phía
Mỹ đã lật lọng, bày vẽ thêm nhiều điều khoản, kéo dài ngày ký Hiệp định
Paris. Chúng tôi khá buồn, bởi một khi hiệp định chưa ký thì cuộc chiến
tranh sẽ ngày càng ác liệt. Chúng ta phải giành thắng lợi to lớn hơn nữa
trên chiến trường mới buộc kẻ thù ký hiệp định. Bom đạn ngày càng dữ
dội, lại có thêm nhiều đồng bào, đồng chí thương vong. Chiến dịch Nguyễn
Huệ đã mở ra một vùng giải phóng mới ở Lộc Ninh, Bù Đốp... song những
trận đánh ác liệt ở Phước Long, An Lộc, Đường 14... vẫn kéo dài. Những
đơn vị xe tăng của quân giải phóng đã xuất hiện trên miền Đông Nam bộ...
Miền
Nam tiếp tục chiến đấu kiên cường và nóng lòng chờ đợi ngày ký kết hiệp
định. Đồng bào miền Nam lại xót xa khi được tin: kẻ địch đánh phá rất
ác liệt trên miền Bắc. B52 kéo cả đàn vào Hà Nội. Thế là giặc Mỹ không muốn ký kết hiệp định lập lại hòa bình. Chúng muốn buộc chúng ta trả giá cho tự do, yên bình. Hà Nội đánh mạnh lập nên “Điện Biên Phủ trên không”. Miền Nam đánh mạnh mở những vùng giải phóng rộng lớn.
Chúng tôi biết có thể Hiệp định Paris sắp được ký và đồng nghĩa với sự
đánh phá ác liệt của kẻ thù trước khi đặt bút ký hiệp định. Tin báo địch
đánh phá dữ dội miền Bắc cùng với những trận B52 dội xuống căn cứ cách
mạng miền Nam. Riêng tôi đã được nghe đài báo tin: máy bay Mỹ thả bom,
bắn rốc két vào số 35 và 37 Lý Quốc Sư, Hà Nội. Gia đình tôi lại ở số
33A. Có ai hy sinh trong trận bom này không? Tôi ôm mặt bàng hoàng, ra
bìa rừng ngồi lo lắng. Các anh trong ban biên tập gọi tôi đến phân công
viết bài chia sẻ đau thương với Hà Nội và nêu quyết tâm của quân và dân
miền Nam đánh mạnh để trả thù. Tôi ngồi vào chiếc bàn tre. Nhà bên cháu
bé bập bẹ hát bài mà chúng tôi yêu thích:
...Ta muốn vươn lên bay về Hà Nội, dù có hy sinh tay súng không rời...
Tôi
vừa khóc, vừa viết ngay trong đêm bài tùy bút “Hà Nội ơi, có chúng tôi
đáp lời...”, bài được đăng ngay trên tuần báo Giải Phóng số đầu tháng
1-1973. Báo Giải Phóng được gửi đến các chiến trường, được các chiến sĩ
và đồng bào hưởng ứng. Có một chuyện cảm động: một cán bộ tuyên truyền
từ miền Tây Nam bộ lên R học (sau này anh là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh tận
cùng Tổ quốc) đã khóc khi đọc bài báo đó. Anh lấy sổ tay chép toàn bài
báo và giữ cho đến bây giờ...
Từ trước đến mãi sau này, đặc biệt
từ năm 1972, quân và dân miền Nam với những trận đánh vào Biên Hòa, Tân
Sơn Nhất, vào Sài Gòn... đã thực hiện lời thề: “Giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc”. Bây giờ và mãi sau này, chúng tôi chẳng bao giờ
quên được hình ảnh những chiến sĩ, đồng bào quây quần bên chiếc radio,
đã nhảy lên hoan hô quân và dân Hà Nội, hoan hô miền Bắc bắn hạ những
chiếc B52. Thế rồi có tin từ khoảng cuối tháng 1-1973 sẽ ký kết
Hiệp định Paris. Chúng tôi vui mừng chờ đợi - kể cả chờ đợi sự trả thù
ác liệt của Mỹ. Ai cũng biết, trước khi Kít-sinh-giơ hạ bút ký Mỹ sẽ dội
bom đánh phá ác liệt vào vùng giải phóng chúng ta để đỡ tức cho thất
bại này. Các cơ quan đơn vị củng cố hầm hào, không cho anh em đi xa công
sự. Các lớp học đêm, các bữa ăn cũng ở dưới hầm lớn có nắp. Tất cả
chuẩn bị cho một thắng lợi to lớn nhưng sẽ phải trả thêm máu.
Đêm
26-1-1973, lệnh báo động sắp có máy bay B52 đánh vùng giải phóng. Chúng
tôi cho tất cả anh em xuống hầm. Hàng đàn máy bay B52 liên tiếp đánh
vào khu căn cứ trong đó có Ban tuyên huấn Trung ương Cục. Nhiều căn hầm
của Đài phát thanh Giải Phóng, Thông tấn xã Giải Phóng... bị sập. Lại có
thêm anh em hy sinh.
Chúng tôi biết: Hiệp định sắp được ký kết.
Kẻ thù đang điên cuồng say máu cho đến phút cuối cùng. Và sáng
27-1-1973, Đài phát thanh Giải Phóng báo tin Hiệp định Paris được ký
kết. Một “Điện Biên Phủ trên không” của Hà Nội chưa đủ làm cho
chúng tỉnh ngộ. Phải có nhiều “Điện Biên Phủ trên không” và dưới đất ở
miền Nam.
Cả cơ quan nhảy lên khỏi miệng hầm sung sướng
reo hò. Lúc đó chúng tôi tin hòa bình sẽ được lập lại, sẽ không còn
chiến tranh và ai cũng tin mình đã sống đến giờ phút hòa bình.
Chúng
tôi được lệnh di chuyển cơ quan từ rừng núi biên giới về vùng giải
phóng Tân Biên (Tây Ninh). Trên đường trong vùng giải phóng đã có xe
hơi, xe gắn máy, xe bò kéo đi lũ lượt giữa ban ngày. Đồng bào từ các nơi
tránh giặc cũng về vùng giải phóng cất nhà giữa đồng trống, ở các trảng
tranh. Quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi vùng giải phóng. Con đường vận
chuyển súng đạn, lương thực đã có thể đi từ Hà Nội đến Lộc Ninh, Thiện
Ngôn rồi theo đường sông đến tận đồng bằng sông Cửu Long.
Huyện
Tân Biên - trong đó có sân bay Thiện Ngôn - được giải phóng. Theo quy
định của Ủy ban Liên hiệp bốn bên, vùng giải phóng Xa-mát sẽ xây dựng
một chốt của ủy ban quốc tế và sân bay Thiện Ngôn sẽ trở thành nơi trao
trả tù binh của hai bên.
Hiệp định Paris mới được thi hành trên
đất Việt Nam. Vùng giải phóng Campuchia vẫn còn bom đạn ác liệt. Các cơ
quan đơn vị của ta đóng gần biên giới lại chịu mất mát, hy sinh. Chúng
tôi vui vì đồng bào miền Bắc không còn bị máy bay Mỹ tàn phá. Vượt qua
bom đạn Mỹ, miền Nam đã nhận thêm súng đạn, lương thực và cả trà, thuốc
lá từ miền Bắc gửi vào.
Nhân dân miền Nam hiểu rất rõ
ràng: sự phối hợp chặt chẽ giữa những trận “Điện Biên Phủ” ở miền Nam và
“Điện Biên Phủ trên không” của Hà Nội đã buộc kẻ thù phải ký Hiệp định
Paris. Quân và dân miền Nam đã tiếp tục giáng cho kẻ thù nhiều trận
“Điện Biên Phủ” nữa để đi đến toàn thắng.
ĐINH PHONG
04/12/2012