08 tháng 3 2013

Hôm nay, ngày 8-3-2013

Nhằm ngày 27 tháng giêng âm lịch. 

Theo phong tục truyền thống của người Việt, giỗ kỵ được tính theo lịch âm, thì ngày 14-3-1988 - ngày xảy ra cuộc hải chiến Trường Sa - cũng là ngày 27 tháng giêng, năm Mậu Thìn.
Ngày hôm nay, trên cả nước sẽ có 64 đám giỗ trong gia đình những người lính hải quân và đồng đội của các anh chắc cũng đang tưởng niệm. 



07 tháng 3 2013

Hugo Chavez và cuộc Cách mạng Bolivar

Chưa bao giờ trong lịch sử châu Mỹ Latinh, một nhà lãnh đạo chính trị lại đạt đến tính hợp pháp về dân chủ không thể chối cãi được đến như thế. Từ khi ông lên nắm quyền năm 1999, 16 cuộc bầu cử đã diễn ra tại Venezuela. Hugo Chavez đã thắng 15 lần, mà lần gần đây nhất là vào ngày 7/10/2012. Ông luôn luôn đánh bại đối thủ của mình với một khoảng cách từ 10 đến 20 điểm. Tất cả các tổ chức quốc tế, từ Liên minh châu Âu rồi Liên minh các quốc gia Nam Mỹ và Trung tâm Carter cho đến Tổ chức các quốc gia châu Mỹ đều đồng thanh thừa nhận sự minh bạch của những cuộc kiểm phiếu. James Carter, cựu Tổng thống Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng, hệ thống bầu cử của Venezuela “tốt nhất thế giới”.

Công cuộc phổ cập giáo dục tiến hành từ năm 1998 đã đạt được những kết quả đặc biệt. Nhờ chiến dịch xóa nạn mù chữ mang tên Misión Robinson I, gần 1,5 triệu người Venezuela đã biết đọc, viết và làm tính. Tháng 12/2005, UNESCO công bố nạn thất học đã được thanh toán ở Venezuela. Số trẻ em được đi học đã tăng từ 6 triệu năm 1998 lên 13 triệu năm 2011 và tỷ lệ đến trường ở cấp tiểu học từ đây là 93,2%. Misión Robinson II đã được phát động để đưa toàn bộ nhân dân lên bậc trung học. Thế là tỷ lệ đến trường ở bậc trung học đã tăng từ 53,6% năm 2000 lên 73,3% năm 2011. Các Misión Ribas và Sucre đã giúp hàng trăm ngàn thanh niên có thể theo học các lớp đại học. Số sinh viên đã tăng từ 895.000 năm 2000 lên 2,3 triệu năm 2011, với sự thành lập những trường đại học mới.

Về mặt sức khỏe, hệ thống y tế công cộng của nhà nước đã được thiết lập để bảo đảm toàn dân Venezuela được chăm sóc y tế miễn phí… Từ năm 2005 đến 2012, có 7.873 trung tâm y tế đã được thành lập ở Venezuela. Số thầy thuốc đã tăng từ 20 cho 100.000 dân năm 1999 lên 80 cho 100.000 dân năm 2010, nghĩa là tăng 400%. Misión Barrio Adentro đã tiến hành 534 triệu lần khám sức khỏe. Gần 17 triệu người đã được chăm sóc như thế trong khi hồi năm 1998, không đến 3 triệu người được chăm sóc sức khỏe một cách đều đặn. Tỷ lệ trẻ sơ sinh chết non giảm từ 19,1‰ năm 1999 xuống còn 10 ‰ năm 2012, tức giảm 49%. Tuổi thọ tăng từ 72,2 năm vào năm 1999 lên 74,3 năm 2011. Nhờ Chiến dịch Milagro phát động năm 2004, 1,5 triệu người Venezuela bị cườm và một số bệnh khác về mắt đã tìm lại được thị giác.

Từ 1999 đến 2011, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 42,8% xuống còn 26,5% và tỷ lệ cực nghèo giảm từ 16,6% còn 7%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em đã giảm gần 40% từ năm 1999. 5 triệu trẻ em được hưởng thực phẩm miễn phí thông qua Chương trình thực phẩm học đường. Năm 1999, con số đó chỉ là 250.000. Tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm từ 21% năm 1999 xuống còn dưới 3% năm 2012. Năm 1999, Venezuela sản xuất 51% thực phẩm tiêu thụ ở trong nước. Năm 2012, mức sản xuất là 71% trong khi việc tiêu thụ thực phẩm đã tăng 81% từ năm 1999. Nếu mức tiêu thụ năm 2012 cũng thấp như năm 1999 thì Venezuela đã sản xuất 140% thực phẩm tiêu thụ ở trong nước.

Từ 1999, tỷ lệ calo do người Venezuela tiêu thụ đã tăng 50% nhờ Sứ mệnh Thực phẩm (Misión Alimentación), quá trình này đã tạo ra một dây chuyền phân phối gồm 22.000 cửa hàng thực phẩm (MERCAL, Casas de Alimentación, Red PDVAL), nơi mà các sản phẩm được trợ cấp khoảng 30% mức giá. Việc tiêu thụ thịt đã tăng 75% từ năm 1999. Theo FAO (Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc), Venezuela là nước tiến bộ nhất trong việc diệt trừ nạn đói ở châu Mỹ Latinh và vùng Caribe.

Năm 1999, 82% dân chúng được dùng nước sạch. Bây giờ là 95%. Trong thời Chavez cầm quyền, chi tiêu xã hội đã tăng 60,6%. Trước 1999, Venezuela chỉ có 387.000 người cao tuổi nhận được trợ cấp hưu trí. Con số đó bây giờ là 2,1 triệu.

Xếp hạng về chỉ số phát triển con người (HDI) trong Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP), Venezuela đã đi từ hạng thứ 83 năm 2000 (0,656) lên hạng 73 năm 2011 (0,735), gia nhập hàng ngũ các quốc gia có chỉ số HDI cao. Hệ số Gini, giúp cho sự tính toán về bất bình đẳng (trong phân phối thu nhập) ở một nước đã hạ từ 0,46 năm 1999 xuống 0,39 năm 2011. Theo UNDP thì Venezuela, nước có hệ số Gini thấp nhất châu Mỹ Latinh, là nước có ít bất bình đẳng nhất ở trong vùng.

Từ 1999, 700.000 căn hộ đã được xây ở Venezuela. Từ 1999, chính phủ đã giao lại cho dân bản địa trên 1 triệu hécta đất đai. Cải cách ruộng đất đã giúp cho hàng chục nghìn nhà nông có được đất đai của họ. Tổng cộng, trên 3 triệu hécta đất đai đã được phân phối.

Việc quốc hữu hóa xí nghiệp dầu hỏa PDVSA năm 2003 đã giúp Venezuela lấy lại được quyền tự chủ về năng lượng. Quốc hữu hóa các lĩnh vực điện lực và viễn thông (CANTV và Electricidad de Caracas) đã giúp chấm dứt tình trạng độc quyền và giúp phổ cập việc tiếp cận các dịch vụ này.

Từ 1999, trên 50.000 hợp tác xã đã được thành lập trong tất cả các ngành của nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 15,2% năm 1998 xuống còn 6,4% năm 2012, bằng cách tạo ra 4 triệu việc làm. Lương tối thiểu đã tăng từ 100 bolivar (16USD) năm 1999 lên 2.047,52 bolivar (330USD) năm 2012, nghĩa là tăng hơn 2.000%. Đây là lương tối thiểu tính bằng USD cao nhất châu Mỹ Latinh. Năm 1999, 65% dân chúng có việc làm chỉ lĩnh lương tối thiểu. Năm 2012, chỉ còn 21,1% những người lao động hưởng mức lương này mà thôi.

Ở một độ tuổi nhất định, người lớn không đi làm được hưởng một số tiền bảo trợ tương đương với 60% lương tối thiểu. Phụ nữ đơn chiếc và người tàn tật được nhận một món trợ cấp bằng 80% lương tối thiểu. Thời gian làm việc giảm còn 6 giờ/ngày và 36 giờ/tuần mà không giảm mức lương.

Nợ công giảm từ 45% tổng sản phẩm quốc nội năm 1998 xuống 20% năm 2011. Venezuela đã trả các món nợ trước thời hạn và đã rút khỏi Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới.

Tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người tăng từ 4.100USD năm 1999 lên 10.810USD năm 2011. Năm 2012, tỷ lệ tăng trưởng của Venezuela là 5,5%, thuộc hàng cao nhất thế giới.

Theo báo cáo hằng năm của World Happiness, năm 2012 Venezuela là nước đứng thứ 2 trong những nước có cuộc sống hạnh phúc nhất châu Mỹ Latinh, sau Costa Rica và đứng thứ 19 trên thế giới, trên Đức hoặc Tây Ban Nha.

Sự ủng hộ trực tiếp của Venezuela cho châu Mỹ còn quan trọng hơn của Hoa Kỳ. Năm 2007, Venezuela đã ủng hộ không dưới 8,8 tỉ USD bằng hiện vật, tài trợ và giúp đỡ về năng lượng còn chính quyền Bush chỉ chi có 3 tỉ. Sự thành lập Petrocaribe năm 2005 đã giúp cho 18 nước châu Mỹ Latinh và vùng Caribe, với 90 triệu người, được mua dầu hỏa trợ giá khoảng 40-60% và bảo đảm an ninh năng lượng của mình. Venezuela cũng giúp đỡ cho các cộng đồng nghèo khó nhất của Hoa Kỳ bằng cách cung cấp xăng cho họ theo giá trợ cấp.

Sự thành lập Liên minh Bolivarian vì các dân tộc châu Mỹ của chúng ta (ALBA) năm 2004 giữa Cuba với Venezuela đã đặt nền móng cho một liên minh hòa nhập trên cơ sở hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau, tập hợp 8 nước thành viên, lấy con người làm trung tâm cho dự án xã hội, với mục tiêu là chống nạn nghèo đói và chống việc gạt bỏ công dân bên lề xã hội. Hugo Chavez là người khởi xướng việc thành lập Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latinh và Caribe (CELAC) lần đầu tiên tập hợp 33 nước trong vùng, tự giải phóng khỏi sự giám hộ của Hoa Kỳ và Canada. Hugo Chavez đã đóng một vai trò then chốt trong tiến trình hòa bình ở Colombia. Theo Tổng thống Colombia Juan Manuel Santos thì: “nếu chúng tôi đạt được một dự thảo chắc chắn về hòa bình, với những tiến bộ rõ rệt và cụ thể trước kia chưa hề đạt được với FARC (Lực lượng Vũ trang Cách mạng Colombia), đó cũng là nhờ sự tận tụy và sự bảo đảm của Tổng thống Chavez và Chính phủ Venezuela”.

Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Venezuela đã sử dụng vệ tinh của chính mình (Bolivar và Miranda) và từ đây đã tự chủ trong lĩnh vực công nghệ không gian. Internet và viễn thông sẵn sàng phục vụ trên toàn lãnh thổ.

Nguồn: Le Grand Soir, Telegraph

Hugo Chavez và Chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI ở châu Mỹ Latinh.

Vậy là Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la U-gô Cha-vết đã không kịp xây dựng "chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI" ở châu Mỹ La-tinh.

Đêm 5 rạng ngày 6 tháng 3, Ông qua đời tại bệnh viện quân y ở Ca-ra-cát vì bệnh ung thư. Vê-nê-xu-ê-la tuyên bố bảy ngày quốc tang. Đám tang của Tổng thống Cha-vết sẽ được tổ chức vào ngày thứ Sáu ngày 8 tháng 3.

Theo lời tướng Giô-sê Óc-lê-la (Jose Ornella), chỉ huy đội bảo vệ và là người đã ở cạnh lãnh đạo của mình suốt hai năm qua, cho tới phút cuối cùng của đời Ông, Tổng thống Cha-vết đã mất vì một cơn nhồi máu ngày 5/3 tại Ca-ra-cát, những lời cuối cùng mà Ông thốt lên trước khi tắt thở mà viên tướng cận vệ đọc được theo những mấp máy trên môi Ông là: “Tôi không muốn chết, đừng để tôi chết vì tôi yêu tổ quốc mình và tôi đã hy sinh mọi sự vì nó”.

Khi còn mạnh khỏe, Ông ;từng thổ lộ rằng, ông mơ ước sau khi rời khỏi chính trường sẽ về làm giáo viên tiểu học ở một trường nào đó hẻo lánh. Ông còn nói rằng, Ông muốn sống thật lâu và khi già, sẽ ngồi đọc sách cho cháu chắt nghe dưới bóng cây sum suê bên cạnh dòng sông lộng gió. Tiếc thay, mơ ước đó của Ông đã không trở thành hiện thực.

U-gô Cha-vết và hai con gái.
Lần cuối cùng người ta nhìn thấy Ông tươi tỉnh xuất hiện trên truyền hình là vào tháng 12/2012. Mặc dù có thể coi đó là một tin dữ không bất ngờ nhưng quả thực cái chết của Ông là một tổn thất to lớn đối với người dân Vê-nê-xu-ê-la và phong trào cánh tả ở châu Mỹ La-tinh. Sự nghiệp cứu dân độ thế của người chiến sĩ rất kiêu hùng và độc đáo này đã bị bỏ dở.

Tuy nhiên, đã có thể nói rằng, dù mới chỉ 14 năm giữ cương vị nguyên thủ quốc gia ở một trong những đất nước quan trọng nhất châu Mỹ La-tinh nhưng Ông đã thực hiện được những lời hứa của mình trước dân tộc. Bản thân Ông tự gọi mình là “tín đồ của đạo giải phóng” và quả thực Ông đã giải phóng được đất nước mình thoát khỏi nhiều tai ách của quá khứ.

Theo nhận xét của triết gia San-ti-a-gô Za-ba-la, đồng tác giả của cuốn sách Cộng sản thông diễn học (cùng với Gi-an-ni Van-ti-mô), trong những năm cầm quyền của Ông ở Vê-nê-xu-ê-la đã giảm rõ rệt tỉ lệ những người bần hàn và mù chữ. Tờ La Stam-pa của I-ta-li-a đã dẫn lời GS Za-ba-la nhấn mạnh rằng, trong cuốn sách Cộng sản thông diễn học, hai tác giả đã khẳng định rằng Ông có thể là tấm gương để Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma học tập. Những nỗ lực không mệt mỏi của Ông đã giúp ông đưa đất nước Vê-nê-xu-ê-la thoát khỏi những lời nguyền nghèo đói trầm kha. 70% dân số Vê-nê-xu-ê-la đã vượt qua được ngưỡng bần hàn.

Theo Hiến pháp, cuộc bầu cử tổng thống của đất nước phải được tổ chức không muộn hơn 30 ngày sau khi người đứng đầu nhà nước qua đời. Tạm thời điều hành đất nước sẽ là phó Tổng thống Ni-cô-lát Ma-đu-rô Mô-rốt (Ni-cô-lát Ma-đu-rô Moros).


05 tháng 3 2013

Chiến tranh Việt - Trung 1979 những điều chưa biết

Chiến tranh năm 1979 - Cách nhìn từ người Nga

Việt Nam vẫn đang kiêu hãnh về những chiếc đầu lâu của lính Trung Quốc trong rừng rậm
Việt Nam đã anh dũng đẩy lùi cuộc tấn công của Trung Quốc cách đây 30 năm. Mối thù nghịch giữa hai nước tiếp tục trong hơn 2.000 năm.
 
Cách đây 2500 năm, lãnh thổ của Việt Nam đã từng lan rộng tới Sông Yangtze (phía nam sông Dương Tử). Người Việt Nam đã chứng tỏ cách đây 30 năm rằng họ có thể vẫn còn tiến hành được một cuộc chiến tranh.

Chiến tranh biên giới Việt-Trung.png
 
Cuộc chiến đã nổ ra năm 1979 bởi vì những mối quan hệ căng thẳng giữa Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết và Trung Quốc. Hai chế độ cộng sản đang tranh giành ảnh hưởng đối với các quốc gia trong phe xã hội chủ nghĩa. Bắc Kinh đã không thể khoác lác được về bất cứ thành công nào: phạm vi ảnh hưởng của họ chỉ bao gồm có hai nước Albania và Kampuchea.
Pol Pot đã tấn công sang những vùng lãnh thổ biên giới của Việt Nam năm 1978. Hà Nội đã đáp trả bằng cách đưa quân tràn sang Kampuchea từ tháng 12-1978. Trung Quốc đã có được một lý do để xen vào phe Pol Pot và xâm chiếm Việt Nam cốt để làm suy yếu ảnh hưởng của Liên Xô trên thế giới.Hoa Kỳ đứng đằng sau cuộc xung đột: nước này đang đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản.
Hoa Kỳ khi đó đã đặt Trung Quốc vào vị trí chống lại các nước đồng minh của Liên Xô bằng hứa hẹn sẽ trợ giúp Bắc Kinh.
Đội quân Trung Quốc hùng hậu với 600.000 người đã tấn công Việt Nam dọc theo toàn tuyến biên giới dài 1.460 km.
Việt Nam chỉ có hai sư đoàn để chống lại 44 sư đoàn Trung Quốc. Khoảng 85% binh lính Việt Nam khi đó đang đóng tại Campuchea, cách xa hàng ngàn cây số.
Tuy nhiên, Trung Quốc đã thất bại trong một cuộc chiến tranh chớp nhoáng: Việt Nam đã hành động tuyệt vời mà không cần có vai trò cơ bản của các lực lượng chính quy.

Các đơn vị biên phòng và dân quân địa phương đã tỏ rõ sức kháng cự mãnh liệt trước kẻ thù xâm lược. Những toán quân Trung Quốc chỉ di chuyển được có 15 km trong lãnh thổ Việt Nam trong ba ngày đầu của cuộc chiến. Chỉ vài ngàn lính biên phòng Việt Nam nhưng đã ngăn cản được cả một đoàn quân.
Chỉ sang ngày thứ ba dân quân Việt Nam mới tham chiến. Các toán quân Trung Quốc di chuyển dọc theo những con đường hẹp trong rừng rậm – địa thế xung quanh rất tiện lợi cho việc gài bẫy. Các binh lính Việt Nam dần dần đã chia cắt quân đội địch thành nhiều mảnh.
Một nhóm cố vấn Liên Xô đã tới Việt Nam ngày 19 tháng Hai 1979. Moscow đặt quân đội ở Đông Âu của mình trong tình trạng báo động cao độ và đã hăm doạ tràn qua Trung Quốc. Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô khi đó đang tiến vào vùng biển Trung Quốc. Các chiến đấu cơ Xô Viết chuyển vận một nhóm quân đội Việt Nam từ Campuchea về , để có thể tổ chức được một đội quân Việt Nam hùng hậu 100.000 người. 

 Trung Quốc bắt đầu rút các toán quân của họ vào ngày 5 tháng Ba. Họ đã tuyên bố chiến thắng nhưng không bao giờ giải thích lý do vì sao họ lại thất bại trong việc bảo vệ Pol Pot, đồng minh khát máu của mình. Mãi mười năm sau Việt Nam mới rút quân khỏi Campuchea, sau khi đã đánh bại Khmer Đỏ.
Các binh lính Việt Nam đi theo sau cuộc triệt thoái của quân đội Trung Quốc trong hai tuần và đã tiêu diệt 62.500 lính Trung Quốc. Họ còn phá hủy tới 50% vũ khí hạng nặng của quân đội Trung Quốc được sử dụng cho cuộc gây hấn này.
Những dấu tích của cuộc chiến vẫn còn vang vọng lại cho tới hôm nay. Cách đây không quá lâu, mỗi sinh viên Việt Nam đang học tập tại các trường y khoa địa phương được chấp thuận để mang vài ba cái đầu lâu của binh lính Trung Quốc từ trong rừng rậm cho các lớp học thực tâp. Cuộc tấn công bất ngờ năm 1979 đã chứng tỏ rằng Việt Nam có một trong những đội quân thiện chiến nhất trên thế giới, họ hiểu rõ cách làm sao để bảo vệ vùng đất quê hương mình. 
 
Nguồn: Sergei Balmasov

Nhân dân Việt Nam đã và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù

Báo mạng Trung Quốc những ngày này nổi lên một số bài viết nói về cuộc chiến Việt - Trung 1979.
Trước khi cuộc chiến 1979 diễn ra thì với tinh thần Quốc tế Cộng Sản , nhân dân ,chính phủ Trung Quốc cùng các nước XHCN anh em đã giúp đỡ chí tình nhân dân Việt Nam trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Tháng 11 năm 1977 Tổng Bí thư Lê Duẩn phát biểu rằng "Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Trung Quốc, 700 triệu người dân Trung Quốc đã ủng hộ mạnh mẽ cho người dân Việt Nam, lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc là hậu phương vững chắc cho nhân dân Việt Nam."

Cuộc chiến Việt - Trung nổ ra, tại thời điểm đó Chủ Tịch Cuba Fidel Castro lên tiếng phản đối cuộc chiến mạnh mẽ nhất và sau đó là ở Hoxha, Albania. Trung Quốc đã bị sốc khi bị lên án mạnh mẽ của Thế giới. Cuộc chiến tranh Việt - Trung nổ ra cộng đồng Quốc tế đã có những phản ứng khác nhau:

1 . Chính phủ Lào đưa ra tuyên bố: "Chính phủ và nhân dân Lào không muốn nhìn thấy sự kiện này, lập trường của Lào là không thay đổi kêu gọi các bên tạo khung hợp tác để cùng ngồi lại bàn đàm phán. Tất cả các binh lính Trung Quốc phải rút khỏi lãnh thổ Việt Nam ngay lập tức." Rõ ràng chính phủ Lào công khai hỗ trợ chính quyền Việt Nam.

2. Với Liên Xô, Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô Gromyko khẳng định: "Ngay lúc này Trung Quốc rút quân ngay lập tức khỏi lãnh thổ Việt Nam chưa phải là quá muộn, thực hiện càng sớm càng tốt." Có thể thấy Liên Xô đã ra lời cảnh báo rất cứng rắn và dứt khoát.

3. Chính phủ Mỹ tuyên bố rằng: "Trung Quốc có quyền trong khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương và đóng vai trò ảnh hưởng chính trị nhất định ... Tuy nhiên xung đột Việt - Trung cần được giải quyết bằng biện pháp hòa bình." Tuyên bố của Mỹ vẫn còn nặng yếu tố Liên Xô. Các tàu chiến của Liên Xô liên minh giữa hai nước đã đẩy mạnh hoạt động tại khu vực Đông Nam Á.

4. Anh và Úc: "hai nước này đã chính thức ngưng cung cấp tài chính tái thiết cho Việt Nam để phản đối cuộc chiến của Việt Nam tại Campuchia."Văn bản này không đề cập đến hai từ "Trung Quốc" ...

5. Chính phủ Pháp cho biết: "Việt Nam nên từ bỏ cuộc chiến tại Campuchia để làm cho Trung Quốc lo ngại ở cuộc chiến này, Liên Xô đã nhiều lần đe dọa họ sẽ tham gia vào cuộc chiến ... Tuy nhiên văn bản cũng cho biết Trung Quốc không nên lâm vào cuộc đối đầu rủi ro với Liên Xô. " Những tuyên bố của Pháp thể hiện sự phẫn nộ với sự "bá quyền" của Liên Xô, rõ ràng Pháp đang nghiêng về Trung Quốc.

6. Chính phụ nội các Nhật Bản: " Nhật bản tỏ thái độ hối tiếc cho hai bên đã để xẩy ra cuộc chiến." Rõ ràng đây là một phát biểu mang tính chất thường lệ của ngoại giao do ngoại giao của Nhật Bản đã phải theo Hoa Kỳ từ sau chiến tranh Thế giới thứ 2.

Với các quốc gia Đông Nam Á, họ không vội vàng xúc phạm Trung Quốc, đó là tuyên bố cơ bản của các nước ĐNA. Chỉ có Singapore đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc sự ảnh hưởng của cuộc chiến với sự suy thoái kinh tế Việt Nam.

Rất nhiều các quốc gia và vùng lãnh thổ họ nghiêng về phía Trung Quốc.

Theo một bình luận của báo chí Hồng Kông cho rằng: Trung Quốc đã buộc phải sử dụng vũ lực, và đây là lần đầu tiên. Liên Xô đã kích động một cuộc đấu tranh với Trung Quốc với hai mục đích:
Trung Quốc hiện đang trải qua một chiến dịch hiện đại hóa với quy mô rộng lớn và tất cả các nỗ lực đã tập trung cho sự việc này. Nhưng với Liên Xô thì lại khác, một Trung Quốc hiện đại và lớn mạnh sẽ là một nguy cơ xấu đối với Moskva ...
Quan trọng hơn Liên Xô ngày càng cảm thấy bị cô lập trên Thế giới. Ngoài các đồng minh Liên Xô cả Thế giới lên án cuộc chiến Việt Nam tại Campuchia, trong mắt người Trung Quốc, ... Hà Nội liên tiếp chọc tức và từ chối thương lượng hòa bình để giải quyết bất đồng và cuối cùng Bắc Kinh không chịu đựng được tình hình.
Lần đầu tiên Trung Quốc hỗ trợ các phương tiện tuyền thông Hồng Kông để tuyên truyền cho cuộc chiến, lại có các phân tích của Đài Loan rằng Trung Quốc đã cố gắng để phá hủy tất cả các công sự và loại bỏ các lực lượng chính của Việt Nam tham gia vào cuộc chiến để làm ra có vẻ có sự tiến bộ về quân sự của Trung Quốc gần đây.

Chính phủ Pakistan có một tuyên bố ngoại giao làm tổn thương lòng tự trọng của Việt Nam, Pakistan cho biết: "Vi phạm hiện nay của Trung Quốc rõ ràng là để làm Hà Nội kiệt sức trong vấn đề Trung - Ấn và cả Thế giới khẳng định lại một lần nữa rằng Bắc Kinh không phải là một con hổ giấy". Đó là tuyên bố của Pakistan. Sau khi cuộc chiến Việt - Trung kết thúc, Pakistan cho biết Ấn Độ đã bí mật hỗ trợ Việt Nam và điều đó là một trong những lý do hợp tác quân sự Pakistan và Trung Quốc trở nên gần gũi hơn.

Thái độ của Bắc Triều Tiên với Việt Nam rất đáng xem xét.

Bắc Triều Tiên và Việt Nam cùng thuộc khối XHCN và cùng với Kim Nhật Thành theo dòng Stalin, với Liên Xô, Cuba lên Án Trung Quốc, ngoài Nam Tư gần như tất cả các nước Đông Âu, thậm chí cả các đồng minh của Trung Quốc tại Châu Âu, Albania đã công khai đứng về phía Việt Nam. Nhưng Trung Quốc vẫn không thể ngỡ ngàng bằng thái độ của Kim Il Sung Bắc Triều Tiên.

Kim Nhật Thành đã chống lại áp lực của điện Kremlin với các dọng điệu rõ ràng.

"Khi có tham vọng nhưng không đủ sức công với sự "ngớ ngẩn", các lãnh đạo Việt Nam đã đưa đến việc phá hủy nền kinh tế, gây nguy hiểm cho nền độc lập của quốc gia họ! Một cuộc chiến với Trung Quốc, tôi không thể đánh giá hết mức độ thiệt hại, chính phủ Bắc Triều Tiên và một số nước ủng hộ Trung Quốc trong cuộc chiến tranh tự vệ với Việt Nam."

Chúng ta có thể thấy trong lời tuyên bố này của Bắc Triều Tiên là họ đã xúc phạm Việt Nam để ủng hộ Trung Quốc và làm theo "cuộc chiến tranh tự vệ của Trung Quốc chống Việt Nam" nhưng bản chất thực sự của cuộc chiến là Trung Quốc xâm lược lãnh thổ Việt Nam. Từ các hành động ngoại giao Kim Il Sung đã ủng hộ Trung Quốc dùng vũ lực, về chiến lược Kim Nhật đã rõ ràng công khai gây thù hận với Liên Xô, có thể nói Kim Il Sung hoàn toàn là một chỗ dựa cho Trung Quốc ở Bắc Kinh.
Sau năm 1979 Kim Nhật Thành đã bắt đầu hướng dẫn để con trai ông Kim Jong Il kế nhiệm, Kim Jong Il bắt đầu tham gia quản lý Ủy ban Quốc Phòng. Người ta nói rằng Kim Il Sung đã hình thành đường dây với Trung Quốc bởi con trai.

Tại sao Kim Il Sung, cha và con trai đã hỗ trợ Trung Quốc trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam? Vũ điệu mà họ chơi với Việt Nam là gì? Điều gì làm cho từ ngữ của họ trở nên cấp tiến?

1. Kim Il Sung và con trai ông trong thời gian đó đã cùng với các lãnh đạo Trung Quốc thông suốt với nhau. Trung - Hàn Quốc biên giới hai bên đã đặt quan hệ hữu nghị không lâu sau khi cuộc chiến Nam Bắc Triều tiên kết thúc. Trong một thời gian dài Trung Quốc đã phải trả một cái giá đắt cho chiến tranh Triều Tiên, nhưng Kim Il Sung, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và các lãnh đạo khác của Trung Quốc vẫn cảm thấy sự thân thiết. Việc Đặng Tiểu Bình "trừng phạt" Việt Nam và được sự ủng hộ của Bắc Triều Tiên cho thấy tình cảm hai nước anh em.

2. Với các tác động của phía Trung Quốc đối với việc thành lập sự chống đối Việt Nam của Kim Il Sung ở Bình Nhưỡng, Việt Nam đã rất bất mãn trong thái độ đó, quan hệ Triều - Việt đã lạnh nhạt trong thế kỷ qua, hầu như cắt tất cả các liên hệ giữa hai nước. Vì vậy Triều Tiên hỗ trợ Trung Quốc trong cuộc xâm lược này.

3. Sự thể hiện của cha con Kim Sung trong chiến tranh Việt - Trung đã mang lại lợi ích chiến lược cho không chỉ Trung Quốc mà còn có lợi cho cả Đông Bắc Á. Tại thời điểm này Moscow đến Hoa Kỳ bày tỏ lo ngại rằng quân đội Trung Quốc đặt ra nhiệm vụ tấn công hạm đội 7 tại Nhật Bản, Okinawa, trên biển 200 dặm về phía Tây Nam họ thực hiện các cuộc bắn thử tên lửa. Anh dự định thực hiện theo lời hứa để bán đứng Trung Quốc... Mô hình chiến lược thay đổi đáng kể với Trung Quốc.

4. Triều Tiên trong những năm qua đã có những tính khác biệt dưới thời Kim Jong Il, tiếp tục từ chối quyền lực chính trị tập trung vào quyền lực các lực lượng quân sự...

5. Kim Jong
Il là lá chắn cho sự mở rộng của Liên Xô của Trung Quốc, quan hệ Xô - Triều cũng thăng trầm theo thời gian. Trung Quốc đã chuẩn bị để đón nhận hai cuộc chiến biên giới Việt - Trung và Xô - Trung, người Triều nghĩ rằng nó cũng có lợi ích riêng của họ khi Trung Quốc tấn công Việt Nam và mối quan tâm của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

6. Bắc Triều Tiên đã mở một con đường cho Trung Quốc "có lý ". Khi Đặng và báo chí Mỹ hỏi về mục tiêu cuộc chiến này: "Mục tiêu của chúng tôi chỉ đơn giản là phá vỡ niềm tự hào của Việt Nam rằng sức mạnh quân sự đứng thứ 3 Thế giới chỉ là thần thoại, chúng tôi không muốn chiếm đất. Hơn nữa cần cho họ biết rằng họ không thể làm bất cứ điều gì họ muốn. " Bắc Triều Tiên ngay lập tức có một bài xã luận rằng cái gọi là "làm bất cứ điều gì họ muốn" là cuộc xâm lược Lào, Campuchia nhưng cũng có hàng trăm lần Trung Quốc xâm lược.

Sau đó các tài liệu đã chứng minh rằng vào năm 1979, Kim Il Sung, cha và con trai đã thông qua các kênh ngoại giao khác nhau để hỗ trợ Trung Quốc, với Trung Quốc họ có cảm giác của lòng biết ơn sâu sắc và không chút nghi ngờ.