TẢN MẠN XUNG QUANH CHUYẾN VỀ VIỆT NAM THỨ TƯ CỦA TÔI Trần Chung Ngọc | ||||||
Ba năm trước, 2007, chúng tôi đưa mấy đứa con và cháu nội ngoại về thăm Việt Nam, ba miền Bắc, Trung, Nam. Trong chuyến đi này, mục đích chính là để cho chúng biết chút ít về đất nước Việt Nam nên tôi không có thì giờ tìm hiểu về nhân tình, xã hội Việt Nam. Năm nay, 2010, chỉ có hai vợ chồng và vài người bạn về thăm Việt Nam. Đây là chuyến về thăm Việt Nam thứ tư của tôi, bỏ ngoài tai những lời kêu gọi của tên đầu tôm Matthew Trần: “không du lịch Việt Nam, không mua hàng Việt Nam v…v…” nhằm “đánh sụm nền kinh tế Việt Nam”, một tên Công giáo chống Cộng điên khùng hết chỗ nói. Tên này trên danh nghĩa chống Cộng nhưng thực ra là chống quốc gia Việt Nam. Hắn không về Việt Nam để mở mắt ra mà thấy rằng Việt Kiều nườm nượp về thăm quê hương, không phải là một lần mà nhiều lần. Có người năm nào cũng về. Có người về chỉ để may quần áo và mua những sản phẩm của Việt Nam mà mình ưa thích. Hắn cũng cho rằng nền kinh tế Việt Nam tùy thuộc ở số Việt Kiều về thăm quê hương và mua hàng Việt Nam mà không biết rằng theo Tổng cục Thống kê thì lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11 đạt gần 430,000 lượt. Như vậy, trong 11 tháng của năm 2010, Việt Nam đã đón khoảng 4,6 triệu lượt khách quốc tế (tăng 36, 5% so với cùng kỳ năm 2009) và vượt mục tiêu đón 4,2 triệu lượt do ngành du lịch đề ra từ đầu năm. Trong số này có khoảng hơn nửa triệu Việt Kiều. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch TPHCM ước tính, lượng khách quốc tế đến thành phố trong tháng 11/2010 đạt khoảng 250.000 lượt, tăng 38 % so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số khách đến trong 11 tháng năm 2010 là 2,85 triệu lượt. Tổng cục Du lịch dự kiến đón vị khách quốc tế thứ 5 triệu trong tháng 12 này. Một loại đầu óc như của Mathttew Trần thì không nên nói đến chuyện chống Cộng, chống như vậy chỉ làm xấu hổ lây cả đến cộng đồng người Việt ở hải ngoại, ngoại trừ một thiểu số cùng hội cùng thuyền với hắn và cũng ngu ngơ như hắn. Chẳng trách là hắn có tên thánh Matthew. Dự định đầu tiên của tôi là về dự lễ hội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long nhưng vì có những biến cố ngoài ý muốn nên tới ngày 21 tháng 10, 2010, chúng tôi mới lên đường về Việt Nam. Nhập cảnh Việt Nam thật dễ dàng, chỉ cần có chiếu khán có hiệu lực, không cần phải khai báo gì trên máy bay trước khi đến như trước đây. Chuyến đi năm nay kéo dài một tháng, chỉ ở hai thành phố lớn Saigon và Hanoi, thăm miền Tây sông nước Việt Nam: Hà Tiên, Cần Thơ, Rạch Giá, và Phú Quốc. Ngoài ra còn đi tham quan Camphuchia và Thái Lan. Đi thoải mái, dễ dàng, chẳng có ai làm khó dễ, chẳng có ai hỏi han giấy tờ, tuyệt đối chẳng có vấn đề gì. Một mục đích trong chuyến đi này của tôi là để tìm hiểu xem tình trạng Việt Nam ngày nay “tụt hậu nhất vùng Đông Nam Á” [theo con chiên Nguyễn Gia Kiểng trong bài “35 Năm Sau Ngày 30-4-1975 Vài Khẳng Định Cần Thiết”] hay để xem ”đất nước trong đói nghèo, khổ đau, lạc hậu, nhân quyền bị chà đạp” [theo con chiên đầu đàn LM Trần Quý Thiện trong bài “Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm Và Những Bài Học Lịch Sử”], và đời sống của người dân trong cái mà một số người chống Cộng như mê sảng, như điên cho rằng đang sống trong gông cùm của một cái “nhà tù vĩ đại” v…v…. như thế nào. Sau chuyến đi này thì tôi nhận thấy cái “tụt hậu nhất, nghèo nàn nhất, ngu dốt nhất, mê muội nhất” không phải là Việt Nam mà chính là đầu óc của các con chiên lớn nhỏ như LM Trần Quý Thiện hay Nguyễn Gia Kiểng, và của những kẻ chống Cộng điên cuồng như Matthew Trần ở trên. Nhưng thật ra, nói rằng đầu óc của các con chiên trên tụt hậu hay ngu dốt là không đúng, vì đầu óc của các con chiên thì đơn giản luôn luôn vẫn là như vậy, chẳng có thể thăng tiến hay tụt hậu. Những người chưa bao giờ về thăm Việt Nam thì chỉ nói mò về Việt Nam hoặc cố tình bịa đặt, nói sai sự thực, tiêu cực về Việt Nam trong tâm cảnh chống Cộng cực đoan và thường là “không đội trời chung với sự lương thiện trí thức”. Họ cứ ở trong những ốc đảo ngu dốt (từ của LM Trần Tam Tĩnh) nhắm mắt mà chống Cộng cho Chúa, hay cho lý tưởng Quốc Gia, trong khi Chúa của họ đang dần dần bị đào thải ở phương trời Âu Mỹ, và lý tưởng Quốc Gia đã trở thành lý tưởng của những băng đảng vô vương, vô pháp..trong một số cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ không hề nghĩ rằng mỗi năm có trên nửa triệu Việt Kiều về thăm quê hương và những người này có thể nhìn thấy tận mắt xã hội Việt Nam ngày nay ra sao cho nên làm sao có thể lừa dối họ bằng những thông tin dựng đứng, sai sự thực. Thật đúng như một Việt Kiều đã nhận xét,"Điều kỳ quặc hơn 30 năm qua: Họ là ai?", tôi chỉ ghi lại vài điều điển hình: Có điều kỳ quặc lạ lùng mà hơn 30 năm qua nguời ta không thể hiểu và lý giải được. Điều kỳ quặc ấy nằm ở chính cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Trong cộng đồng tha hương này, nổi lên những phần tử cặn bã mà đến nay người ta vẫn chưa biết đặt tên chính xác cho họ là gì. Họ là người Việt Nam nhưng họ không bao giờ muốn đất nước của họ mạnh lên. Mong ước của họ là quê hương họ mãi mãi lầm than đói khổ để họ còn lý do, còn danh nghĩa để mà đi chống Cộng. Họ lồng lộn ngăn cản đồng hương của họ mua hàng của chính đồng bào của họ ở quê hương họ làm ra bằng giọt mồ hôi của họ. Họ quyết liệt ngăn cản đồng hương của họ gửi tiền về quê nhà giúp người thân ruột thịt với những phong trào "không gởi tiền về VN làm giàu cho VC". Họ lồng lộn lên khi thấy đất nước của họ ngày càng thịnh vượng, họ như điên như cuồng khi các nước trên thế giới càng ngày càng kính trọng đất nước họ. Họ tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu đất nước họ, bôi đen bôi bẩn bôi nhọ đất nước họ. Hơn ba mươi năm qua người ta vẫn chưa tìm ra cái tên đích thực để gọi "CHÚNG NÓ LÀ CON GÌ". Lũ sinh vật chưa được đặt tên này đã tiến đến cái ngưỡng của bệnh điên cuồng. Trong mồm họ chất đầy tiếng chửi rủa, chất đầy những cặn bã thối tha nhất để sẵn sàng tuôn ra khi có dịp. Câu hỏi vẫn đặt ra với chúng ta: HỌ LÀ GIỐNG GÌ? Đọc Nguyễn Gia Kiểng, LM Trần Quý Thiện, và Matthew Trần ở trên, tôi cũng thắc mắc, không hiểu HỌ LÀ GIỐNG GÌ?. Tại sao họ không mở mắt ra mà nhìn để thấy đất nước Việt Nam ngày nay như thế nào. Trong “đất nước đói nghèo, tụt hậu, khổ đau, nhân quyền bị chà đạp” của những kẻ đầu tôm chống Cộng đến chiều này, hiện nay có khoảng 27 triệu chiếc xe gắn máy (nghĩa là trung bình cứ 3 người dân thì đã có 1 người sở hữu xe gắn máy), hơn 1 triệu xe hơi tư nhân trong đó có đủ các loại xe như Lexus, BMW v..v…. Saigon có khoàng 8 triệu dân và chính quyền Saigon đang quản lý hơn 4 triệu xe gắn máy, không kể vài trăm ngàn xe đang lưu hành nhưng không đăng ký với địa phương. Những hiểu biết trên và nhiều nữa về xã hội Việt Nam ngày nay là qua những cuộc tiếp xúc trực tiếp với người dân, với bạn bè và thân nhân, và qua báo chí, thống kê chính thức của các chính quyền địa phương.. Việt Nam ngày nay có hai mặt, mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi dễ thấy, còn mặt chìm thì khó thấy đối với những người về thăm quê hương trong một thời gian ngắn như tôi, nhưng chúng ta cũng có thể biết được phần nào nếu chịu khó hỏi han, nói chuyện với những tài xế taxi, hướng dẫn viên du lịch, những người bán hàng rong v…v… và điều rõ rệt là người dân địa phương không phải là không biết gì. Trái lại, họ biết rất rõ, và tự do nói ra thoải mái những điều họ biết về các nhân vật lãnh đạo, về chính trị, tham nhũng, tệ nạn xã hội, vấn đề giáo dục v…v… với những khách xa lạ như tôi.. Tôi chẳng thấy họ có vẽ gì là e sợ khi nói ra những những vấn đề như vậy. Báo chí cũng thẳng thắn nói ra những tệ nạn xã hội, những vấn nạn trong chính quyền v…v… Về mặt nổi thì phải nói rằng đất nước đã phát triển rất nhiều, vượt xa tình trạng dưới thời 2 nền Việt Nam Cộng Hòa khi xưa, về xã hội cũng như về nhân quyền, tự do. Trên khắp nước đường xá, cầu cống phát triển nhiều, cho nên vấn đề giao thông, chuyên chở hàng hóa mau chóng hơn trước. Miền Tây sông nước, những chiếc cầu nhỏ bắc qua sông lạch đã thay thế cho những cầu khỉ khi xưa. Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể ghi lại chi tiết về những điều tôi tìm hiểu về xã hội Việt Nam ngày nay và những tình cảm của tôi với đất nước, khoan kể đến những bức hình mà tôi chụp và những mẩu video mà tôi quay. Cho nên sau đây tôi chỉ ghi lại vài nét đặc biệt. Trước hết, có thể nói Việt Nam ngày nay là nước tự do nhất thế giới về vấn đề … xe cộ lưu thông, ít ra là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Số lượng xe gắn máy và xe hơi quá nhiều, đứng trên cao có khi nhìn không thấy đường xá đâu, vì xe phủ kín tất cả. Cảnh kẹt xe thường xuyên xảy ra nên xảy ra tình trạng người lái xe mô tô cứ thấy chỗ nào đường trống là chạy, nếu dưới đường không còn chỗ thì leo lên lề đường chạy. Xe mô tô đi ngược chiều và coi đèn đỏ như đèn xanh không phải là chuyện lạ. Người dân có thể qua đường bất cứ chỗ nào, khách du lịch không có kinh nghiệm thì không tài nào có thể qua đường nổi nếu cứ chờ cho hết xe hoặc đèn đỏ. Tôi không có vấn đề băng qua đường vì theo người dân, cứ đi, đi từ từ, ngó trước ngó sau, và với cảnh xe chạy như vậy thì xe chạy không thể nào chạy nhanh và họ sẽ tránh mình chứ mình không phải tránh họ. Có một bà đầm muốn qua đường mà không biết cách, sợ, nên phải thuê một xe taxi đi đến đầu phố rồi quay trở lại để qua bên đường bên kia. Xe taxi, xe tư nhân có thể quay vòng lại (U-turn) bất cứ chỗ nào có thể được, tuy rằng phía đường bên kia đông nghẹt xe. Cứ tiến ra từ từ và xe bên kia sẽ nhường. Tôi không biết rõ số lượng xe taxi nhưng chắc chắn là phải rất nhiều, vì 24 giờ trên 24, muốn gọi lúc nào cũng có. Ở TP Saigon có hai hãng Vinasun và Mai Linh đáng tin cậy. Ở Hà Nội thì Hanoi Tourist và Mai Linh. Nhưng lâu lâu cũng gặp một taxi dù, máy đo tiền nhảy vô tội vạ, và người đi nếu không biết đường thì rất có thể giá taxi tăng gấp đôi hoặc hơn nữa vì tài xế đi theo con đường dài và vòng vo nhất. Tôi vốn người Hà Nội nên đường sá khá thuộc, đôi khi còn phải chỉ cho một chú tài xế taxi mới vào nghề nên chưa thuộc đường nên đi đường nào, và có thể đi vòng để tránh kẹt xe. Nói chung thì đời sống người dân trên toàn quốc tương đối khá hơn trước nhiều. Điều này thật là rõ rệt, ít ra là trong các thành phố lớn như Saigon, Hanoi, nếu ta để tâm quan sát người dân ăn mặc, số khách trong những quán ăn tương đối đắt tiền, các nhà hàng ăn tự chọn (buffet).. Nhưng điều này cũng không có nghĩa là Việt Nam không có người nghèo, lợi tức ở dưới mức nghèo. Nhưng kế hoạch xóa đói giảm nghèo của Nhà Nước khá thành công, theo thống kê của ngoại quốc. Sức sống của người dân VN thật là mãnh liệt, tấp nập từ sáng sớm đến tối mịt. Một hiện tượng tôi không hiểu nổi là tối chủ nhật mà xe mô tô vẫn chạy tràn ngập đường phố, đa số là giới trẻ, có khi rất trẻ, không biết bao nhiêu tuổi và đã đủ tuổi lái xe mô tô chưa. Các cô cậu đứng xếp hàng dài trước tiệm kem ở đường Tràng Tiền để mua kem ăn. Tại sao họ không ở nhà mà lại cứ đổ ra đường, chạy lòng vòng cho tốn xăng. Tìm hiểu thì có người giải thích, ở nhà ngộp (có lẽ vì nhà chật hẹp và không đủ tiện nghi) nên ra đường cho thoải mái. Có thể nói không ai là không có điện thoại cầm tay, kể cả những người buôn thúng bán mẹt hay bán hàng rong. Ở trong những khu xá mà cư dân và người bán hàng quen thuộc nhau thì bạn có thể ngồi nhà mua hàng qua điện thoại cầm tay, từ một bó hoa, một nải chuối, một cân thịt, một con cá cỡ bao nhiêu, hay một bó rau muống v…v…, người bán sẽ chọn hàng tươi tốt, chỉ mươi phút sau là họ sẽ mang tới tận nhà. Đời sống số đông người dân thật vất vả, đầu tắt mặt tối, trừ những quan chức lớn và các đại gia. Nhưng người dân có vẻ thoải mái trong cuộc sống quen thuộc đó trong một đất nước thanh bình, ngày càng phát triển. Họ nói chuyện thời sự, chính trị, tham nhũng v…v… nhưng nói để mà nói chứ chẳng mấy quan tâm đến những vấn đề này. Chẳng có mấy người quan tâm đến dân chủ hay tự do ngôn luận hay tự do tôn giáo, những chiêu bài của vài chính khách sa-lông, những người không hề có hậu thuẫn của dân chúng. Đối với những người hiểu biết thì họ biết rất rõ, hung hăng nói bậy trong Tòa như Nguyễn Văn Lý thì không phải là tự do ngôn luận, thắp nến cầu nguyện với búa kìm và xà beng, cản trở lưu thông thì không phải là tự do tôn giáo. Hỏi về tên tuổi của những nhà tranh đấu cho dân chủ, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo ở trong nước, mà giới chống Cộng ở hải ngoại thổi phồng quá đáng, chẳng có mấy người biết đến. Cũng có người biết nhưng chỉ biết lơ mơ và không hề có một ý niệm nào về những người này. Họ chỉ muốn yên ổn làm ăn, sống theo nếp sống của họ, đừng có ai làm phiền đến họ, thoải mái tự do đi lễ nhà thờ hay lễ Chùa. Nhưng trời chẳng chiều người, vì ở một số địa phương, nạn cường hào ác bá vẫn tồn tại, cướp đất của dân sau bình phong quy hoạch nọ kia, thu hồi một phần tiền cứu trợ của dân. Cường quyền đã thắng công lý. Mong Nhà Nước quan tâm nhiều hơn đến những tệ nạn xã hội này và giải quyết thỏa đáng cho người dân. Ai cũng biết tham nhũng là một quốc nạn nếu cứ để nó tự do phát triển mà không kiềm chế. Tham nhũng bắt nguồn từ vô minh vì không ý thức được luật vô thường trong vũ trụ. Không ai có thể sống mãi và khi chết chẳng ai mang theo được cái gì. Chỉ trong vòng vài chục năm nữa là chẳng có ai quan tâm đến ông A, bà B ở nhà như thế nào, đi xe gì, ăn cái gì, uống rượu gì, có bao nhiêu vợ nhỏ hay chồng hờ. Cái chân lý này có ngay trước mắt mà tại sao con người không nhìn thấy, vẫn cứ lao đầu vào những chuyện phù du vô lương tâm trước dân nghèo. Có đáng không và lương tâm có yên ổn không. Ngày xưa tôi có đọc bài “Hai Khuôn Mặt” [Les deux visages] trong một cuốn sách Pháp nào đó, không còn nhớ. Đại khái câu chuyện là một người soi gương thấy khuôn mặt mình hồn nhiên rạng rỡ như một thiên thần. Sau một thời gian, soi gương lại thấy mặt mình như quỷ. Chẳng cần nói chúng ta cũng hiểu trong thời gian đó ông ta đã làm những gì. Tôi hi vọng những người còn đôi chút lương tâm sẽ biết ngừng ở đâu và ngày ngày hãy soi gương, nhìn kỹ vào khuôn mặt mình.. Việt Nam có nhiều chuyện lạ. Có một đoạn đường Đại La Thành “đắt nhất hành tinh”. Đó là nhận định chính xác của người dân. Lề đường hay vỉa hè thường là chỗ đậu xe gắn máy, tuy ở một số đường phố, Hàng Ngang, Hàng Đào v…v.. có bảng cấm. Điều quái gở nhất là vấn đề học sinh, từ mẫu giáo lên trên đều phải đi học thêm. Hiện tượng này có thể chỉ có trong các thành phố lớn. Thiên chức của nhà giáo trở thành thương chức. Ai cũng biết giáo dục là nền tảng xây dựng nước và giữ nước. Một nền giáo dục èo ẹt, nhồi nhét thì làm sao học sinh, sinh viên phát huy được những sáng kiến. Chỉ có thể đi bắt chước người chứ không có sáng tạo. Cái khó nó bó cái khôn, đạo đức nghề nghiệp trở thành thứ yếu, cơn sốt kinh tế đã làm cho những giá trị xã hội đảo lộn. Thời nào cũng vậy và ở đâu cũng vậy, kể cả ở Mỹ, lương giáo chức bao giờ cũng thấp so với những nghề nghiệp trí thức khác như bác sĩ, nha sĩ, kỹ sư v…v... Nhà giáo không cần gì hơn là có mức lương đủ sống để thi hành nhiệm vụ truyền lại kiến thức của mình cho lớp sau, và khuyến khích lớp sau hãy tiến xa hơn chính mình. Trò có hơn Thầy thì đất nước mới tiến bộ được. Thống kê mới nhất trình chiếu trên đài ABC cho thấy học sinh ở Thượng Hải, Trung Quốc, chiếm giải nhất về ba bộ môn: Toán, Khoa Học, và Văn chương. Trong 5 nước đứng đầu có Singapore và Nhật. Mỹ tụt xuống hạng 30. Phải nói Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản đã coi trọng nền giáo dục quốc gia như thế nào. Hi vọng Nhà Nước quan tâm đến nền giáo dục quốc gia nhiều hơn nữa, và đãi ngộ giáo chức cho xứng đáng với thiên chức của họ. Văn hóa Coca-Cola, đặt những giá trị xã hội trên tình dục (sex), tiền (money), và bạo lực (violence) đã ảnh hưởng phần nào đến Việt Nam. Giới trẻ mặc T-shirt thường phải có một câu tiếng Anh ngớ ngẩn trên đó. Chiếc áo dài duyên dàng đã bị thay thế phần nào bởi những quần Jean ống chật, để lòi cả rốn cả mông ra, cho như vậy là văn minh tiến bộ. Mặc Jean có thể thuận tiện trong những công việc hàng ngày, nhưng đâu cần phải khoe rốn khoe mông. Đám cưới thì cô dâu ăn mặc lòe xòe, đầm chẳng ra đầm, Việt chẳng ra Việt, vào nhà thờ làm đám cưới cho bảnh, mất tất cả những vẻ nghiêm trang, trang trọng truyền thống. Phim ảnh Nam Hàn, đừng có gọi là Hàn Quốc, vì vứt Bắc Hàn đi đâu, có ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa coca-cola. Nhưng rất hấp dẫn nếu chúng ta chỉ nhìn bề ngoài. Diễn viên trai gái trẻ đẹp, quần nọ áo kia, nhà cửa sang trọng để thu hút những kẻ vọng ngoại không có đầu óc, chỉ biết nhìn bề ngoài, không quan tâm gì đến nội dung cuốn phim. Có gì là đạo đức trong đó? Con trai, con gái đều thuộc loại đi ăn mày tình yêu. Không được thì vò đầu, khóc lóc, đâm đầu đi uống rượu, nôn ọe hay say khướt, hay vào nhà thờ cầu nguyện với một người Do Thái đã chết tám hoánh từ 2000 năm nay, bộ xương khô cùng vợ con mới tìm thấy ở Jerusalem. Đối thoại thì ngớ ngẩn đần độn và vô lý đến buồn cười. Chuyện phim thì làm để câu khách, bịp bợm. Nhà nghèo rớt mồng tơi, nợ đìa, nhưng lại đòi đi du lịch Hawai. Hơi một tí thì bỏ đi Mỹ học, tưởng rằng vào đại học Mỹ dễ lắm hay sao, mà muốn vào học lúc nào cũng được, hoặc sang Mỹ sống, làm như bố Mỹ, muốn nhập cảnh lúc nào cũng được, ở bao lâu cũng được.. Những điều cực kỳ vô lý và ngu xuẩn này có đầy trong các phim truyện. Con trai thì thô lỗ, lôi kéo bạn gái sềnh sệch, và bạn gái cử để yên bị lôi như lôi chó. Đàn bà cao sang mấy cũng túm tóc nhau uýnh lộn. Đó là văn hóa Nam Hàn nhưng chẳng có mấy người quan tâm mà chỉ nhìn vào mấy tên ranh con đẹp trai, mặt non choẹt mà làm giám đốc, trưởng phòng nọ kia, và mấy đứa con gái, tán trai trắng trợn mà không biết ngượng, mở miệng ra là cúi đầu “xin lỗi”, tuy chẳng có lỗi gì, bị mẹ chồng tát một cách rất vô lý cũng cúi đầu “con xin lỗi” v…v… Tiến bộ kỹ thuật đến đâu cũng không xóa bỏ được hình ảnh của một nền văn hóa hạ lưu qua các phim truyện. Loáng thoáng phim Việt Nam cũng bắt chước mấy cái dỏm của phim Nam Hàn. Sau mấy lần về thăm quê hương, đi khắp ba miền và cả cao nguyên, tôi thấy đất nước quả thật là đẹp. Người dân hiền hòa và hiếu khách. Tôi đã sống ở Mỹ trên 30 năm nhưng chưa bao giờ tôi có ý tưởng điên rồ là so sánh Mỹ với Việt Nam, và nhất là chưa bao giờ có ý tưởng chê bai sự nghèo khổ, kém phát triển của đất nước sau mấy chục năm chiến tranh. Bởi vì tôi nghĩ, nếu tôi còn ở lại quê hương thì tôi cũng thế thôi, cũng hòa mình trong nhịp sống của người dân. Cho nên tôi coi những người mở miệng ra là chê bai Việt Nam và những vấn nạn xã hội chỉ là những kẻ không có mấy đầu óc, vì thời thế nên sống ở nước ngoài, quay đầu lại với đất nước, và thực ra họ cũng chẳng biết gì về cái quốc gia mà họ đang sống trong đó, khoan nói là họ không có tư cách để nói về Việt Nam. Tôi cảm thấy khá buồn cười vì có một số mở miệng ra là chống Cộng mà đáng lẽ ra họ phải cám ơn Cộng. Thử hỏi, nếu không có Cộng thì họ có được ở những căn nhà giá cả triệu đô-la, đi xe tốt, và con cái học hành thành công, tốt nghiệp từ những đại học lớn của Mỹ. Ở lại trong nước thì đến đời nào họ mới có được một căn nhà như vậy, một chiếc xe như vậy, và con cái họ thì bao giờ được vào các trường đại học lớn ở Mỹ để học. Nếu có được phần nào như vậy thì cũng lại do ăn hối lộ, tham nhũng. Hay cũng lại như mọi người dân trong nước? Bảo là họ yêu nước nên chống Cộng? Tôi hoàn toàn nghi ngờ điều này. Họ chống vì hận thù cá nhân hoặc vì cuồng tín tôn giáo, bất kể Cộng đã cất đi cho hơn 80 triệu người dân gánh nặng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vì lý tưởng quốc gia chăng, nhưng bản chất lý tưởng quốc gia là gì? Ai có thể trả lời thỏa đáng cho tôi. Quốc gia của mấy người là quốc gia dưới cái dù của Pháp, là quốc gia của tên phán quan Tây Ban Nha Ngô Đình Diệm, mà chính quyền của ông ta đã giết 300000 người trong mưu đồ Ca-tô hóa miền Nam sau bình phong chống Cộng, giết hại người kháng chiến yêu nước, một điều mà Hiệp Định Geneva đã nói rõ là cả hai phe đều cấm trả thù những người theo Việt Minh hay theo Quốc gia. CS đã tôn trọng điều khoản này, nhưng quốc gia thì sao? Hay là quốc gia của Nguyễn Văn Thiệu dưới cái dù của Mỹ. Lý tưởng quốc gia được bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ. Chúng ta hãy nghe luận điệu của LS. Lê Duy San: Cuộc chiến Việt Nam mặc dầu đã được kết thúc trên ba chục năm nay, nhưng nhiều người vẫn còn tự hỏi, “Quân đội của chúng ta hùng mạnh như vậy, tinh thần chiến đấu của quân đội chúng ta anh dũng như vậy, nhiều quân nhân còn xâm chữ “Sát Cộng” vào cánh tay, còn đồng bào ta thì sợ Việt Cộng như cùi, như hủi, bọn chúng tới đâu là đồng bào ta bỏ chạy tới đó, vậy mà tại sao chúng ta lại thua Cộng Sản ? ” Chỉ có người ngu mới tự hỏi như vậy chứ còn người hiểu biết thì đã biết rõ nguyên nhân từ lâu rồi. Hãy bỏ nghề LS, trở lại trường học để học về lịch sử cận đại Việt Nam. Một câu hỏi ngắn: Nếu đúng Miền Nam được đa số người dân ủng hộ, làm hậu thuẫn, sợ Việt Công như cùi như hủi, thì làm sao Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam có thể sống sót và phát triển ở miền Nam, làm sao có hệ thống đưởng hầm Củ Chi, làm sao có Tết Mậu Thân, và cuối cùng làm sao chỉ trong 55 ngày của mùa Xuân 1975, cả một quân đội buộng súng, cả một chính phủ tan hàng (trước cả khi tướng Dương Văn Minh ra lệnh ngưng bắn !) v…v…, khiến cho quan thầy Mỹ phải tính chuyện rút lui trong danh dự, ít ra là ở ngoài mặt, chứ trong thực tế thì ai cũng nhớ ngày chót, Martin phải leo lên trực thăng ở nóc Tòa Đại Sứ để “rút lui trong danh dự”? Những lời nói khoa trương huênh hoang một cách ngu xuẩn như trên của ông LS không thể làm thay đổi được sự thật lịch sử. Việt Nam có nhiều vấn nạn cần phải giải quyết và có thể giải quyết được nếu lãnh đạo các cấp quan tâm đến đời sống của người dân hơn nữa. Việt Nam còn nhiều chuyện đáng nói nhưng không làm sao nói hết được nên tôi xin sang các đề mục khác. Trong thời gian ở Hà Nội tôi có ghé qua khu đất nổi tiếng cách đây mấy năm, nổi tiếng với ông Tổng Kiệt nhục nhã và sự cuồng tín của đám con chiên. Có vài hình ảnh đáng coi. Nhà Thờ Lớn Hà-Nội. Xây trên đất ăn cướp của Chùa Báo Thiên. Cảnh phụ huynh chờ đón con đi học về trước nhà thờ cửa đóng then cài.
Tôi vẫn phải nhớ ơn ông Tổng Kiệt nhục nhã, vì nhờ có ông qua vụ đòi đất ở Tòa Khâm Sứ và vài nơi khác mà người dân Việt Nam đã nhìn ra bộ mặt nô lệ, phi dân tộc, phi tổ quốc của Giáo hội Ca-tô Rô-ma Giáo tại Việt Nam. Chúng ta còn nhớ ông Tổng Kiệt đã bất chấp lời khuyên xây dựng của chính quyền, kéo dài màn cầu nguyện, nhưng chỉ với một văn thư của Hồng Y Bertone ở Vatican ban xuống là cả đàn cả lũ ríu rít dẹp cờ xí, búa kìm và xà beng, về cố thủ dưới chân cây thập ác. Ở hải ngoại người ta đưa ra luận điệu ngụy biện là cuộc thắp nến cầu nguyện mục đích chỉ là ngăn chận các quan chức chia chác nhau mảnh đất đó. Nhưng sự chia chác đất dân đã từng xảy ra khắp nơi từ trước, sao chẳng thấy giáo dân vác búa kìm và xà beng đến đòi để ngăn chận. Nếu may ra, chính quyền nhượng bộ, đòi được thì lại dâng cho Vatican, đơn giản chỉ có vậy thôi. Tôi cũng đã đến thăm khách sạn Hilton, nơi McCain ở miễn phí khi bị bắt làm tù binh. Có hình ông ta trở lại thăm nơi này. Có vài tấm hình chứng tỏ cả thế giới phản đối cuộc xâm lăng của Mỹ vào Việt Nam.
Ngày quốc tế chống chiến tranh Việt Nam
Tôi cũng đi thăm Chùa Bái Đính, ghé qua Hoa Lư, rồi đến thăm nhà thờ Phát Diệm.
Trong chuyến về Việt Nam kỳ này tôi có tham dự đi mấy “tour”: Ở miền Nam đi thăm miền Tây Nam: Hà Tiên, Cần Thơ, Phú Quốc và Rạch Giá. Sau đó đi Campuchia và ở miền Nam, lấy tour đi Thái Lan. Tôi nghĩ không cần phải mô tả những chuyến đi tham quan này. Vì phải đi nhìn thấy tận mắt mới thấy và cảm nhận được những hình ảnh như Chùa Hang (Hải Sơn) ở Hà Tiên, Bến Ninh Kiều và sinh hoạt của người dân ở chợ nổi Cái Răng ở Cần Thơ, những chiếc cầu dài, hoành tráng như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, bãi biển Phú Quốc v..v.. Cảnh hùng vĩ của Angkor Wat, Hoàng Cung, Chùa Vàng Bạc, và sinh hoạt trên nước của một cộng đồng người Việt trên Biển Hồ ở Campuchia. Bãi biển Pattaya, Phật 4 mặt, chùa Thuyền Wat Yannawa, Núi Phật Vàng với tượng Phật cao 140 m, tạc thẳng vào vách núi, dát vàng v…v…ở Thái Lan. Nhưng có vài sự kiện tôi muốn nói đến. Đó là ở Campuchia có một bức tượng hai quân nhân CS Việt Nam được dựng lên để ghi ơn CS Việt Nam đã sang dẹp tan CS Pol Pot.
Bức tượng ghi ơn CS Việt Nam ở thủ đô Phnom Penh Ở Thái Lan tôi muốn nói đến Pattaya. Trước khi đến Pattaya, Thái Lan, hướng dẫn viên du lịch cho biết, cảnh đặc biệt ở Pattaya là cứ mỗi ông Tây già là có một cô gái Thái trẻ cặp kè bên cạnh. Mà quả nhiên đúng như thế thật. Hỏi ra thì được biết, đó là sản phẩm văn hóa của lính Mỹ để lại. Trước năm 1962, Pattaya là một thành phố hiền hòa thiên về ngư nghiệp. Trong cuộc chiến chống Việt Nam, Mỹ có vài căn cứ không quân dùng để oanh tạc Việt Nam. Và Pattaya là nơi để lính Mỹ nghỉ trước khi tiếp tục đi thả bom. Lính Mỹ đi đến đâu thì đĩ điếm phát triển đến đó. Lý do là tiền đô la rất hấp dẫn đối với dân nghèo, và cái nghề cổ nhất thế giới, ít ra là có từ trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo (chuyện về Tamar), là nghề hái ra tiền. Ngày nay Pattaya nổi tiếng là “sin city”. Con gái ngồi bầy hàng cả đống, nhưng du khách Á Đông đừng có mơ mộng được họ mời gọi. Họ chỉ nhắm vào những ông Tây (nói chung là Âu, Mỹ) già. Những người có tiền đều gửi con đi nơi khác học vì không muốn chúng bị ảnh hưởng xấu của xã hội Pattaya. Chúng ta cũng không nên quên là sau 1965, khi Mỹ bắt đầu đổ quân vào Việt Nam, thì gái điếm đứng cao nhất trong bậc thang xã hội ở Nam Việt Nam. Thứ nhì là mấy ông Cha, Chúa thứ hai. Câu truyền tụng trong dân gian này chắc cũng chưa ai quên. Trong chuyến đi Việt Nam này tôi đã bỏ sót vấn đề sinh hoạt ăn chơi ban đêm ở các thành phố lớn như Saigon hay Hà Nội. Lý do rất đơn giản, vì tôi không biết gì về những sinh hoạt này. Ở tuổi tôi thì 9, 10 giờ tối đã lên chuồng rồi, chậm hơn gà vài tiếng. Vả lại từ xưa tới nay, ở Việt Nam cũng như ở Mỹ, tôi chưa bao giờ bén mảng đến phòng trà ca nhạc. Làm nghề giáo, nhất là nghề giáo ở Việt nam, có những ràng buộc tinh thần và đạo đức mà mình không thể vượt qua. Vài lời nói cho rõ: tôi không thích Cộng sản nhưng tôi không chống Cộng. Ngày xưa tôi đã chống nhưng ngày nay tôi thấy không có lý do để chống. Đối với tôi, Cộng sản đã đi vào quá khứ. Nhưng vẫn có những Chu Tất Tiến, Lữ Giang v…v… vẫn tiếp tục chụp mũ tôi hay Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang là thiên Cộng hay làm tay sai cho Cộng. Họ chẳng biết gì về chúng tôi mà cứ nói như bò rống. Họ khờ đến độ không hiểu rằng bây giờ Việt Nam đâu còn là Cộng Sản (Hình như sau nầy, khi Vatican thỏa hiệp với Hà Nội rồi thì Tú Gàn cũng “nhận” ra được điều nầy). Hãy về VN mà coi xem có cái gì có thể gọi là Cộng sản không. Đảng Cộng sản vẫn còn nhưng đó chỉ là một cái tên, không hơn không kém. Cứ dài mồm ra chống Cộng hay chụp mũ người khác là Cộng sản khi không còn Cộng sản và ở nơi không có Cộng thì có phải là điên không? Họ chỉ là những con bò mộng Tây Ba Nha màu đen, mỗi khi không đồng ý với ai nhưng không đủ trình độ phản biện, nên đeo cặp kính màu đỏ vào rồi húc càn. Chỉ có vậy thôi. Những người đó cần phải học thuộc lòng câu sau trên tờ Orange County Register, tôi có thêm vào những cụm từ trong dấu ngoặc: Những người chống (Cộng) [hay người Công giáo] có biết rằng trong thế giới ngày nay mà lên án một người nào là cộng sản [hay chống Công giáo] thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá lỗi thời và chứng tỏ rõ ràng là các người thiếu học vấn (và nhiều khi còn thiếu giáo dục). (Do you protestors [or Catholics] realize how ignorant it sounds to utilize and accuse someone of being a communist [or anti-catholic] in today's world? It's outdated and clearly demonstrates your lack of education.) Ai không đồng ý, xin mời lên tiếng.
Trần Chung Ngọc |
21 tháng 12 2010
Về Thăm Việt Nam
20 tháng 12 2010
Câu chuyện tình yêu Triều Tiên- Việt Nam
|
Một tình yêu anh hùng Lưu Quang Định
Hàm Hưng là một thành phố nhỏ nằm ở phía đông Bình Nhưỡng (thủ đô nước CHDCND Triền Tiên), sát bờ biển. Mùa hè năm 1971, Phạm Ngọc Cảnh - chàng sinh viên VN học năm thứ ba Trường Đại học Công nghiệp Hoá học Hàm Hưng về thực tập tại NM phân đạm Hàm Hưng. Cảnh thực tập trong phân xưởng máy nén khí dưới tầng 1. Còn Ri Yung Hi, cô gái Triều Tiên ấy làm việc ở phòng phân tích hoá, trên tầng hai. Cô thường mặc bộ quần áo công nhân màu xanh, tóc cắt ngắn, gương mặt xinh xắn. Còn anh là một chàng trai Việt với vầng trán rộng, đôi mắt sáng và trái tim đầy nhiệt huyết cứ ngỡ rằng mình đã muốn thì không gì cản trở được. Một tình yêu sét đánh. Thời gian tìm hiểu không dài. Chỉ là những buổi thứ bảy, chủ nhật được nghỉ về thăm nhà Ri Yung Hi, hay đi dạo dọc bờ biển. Nhưng đến hết 3 tháng thực tập, hai người đều đã hiểu rằng họ không thể sống thiếu được nhau. Đầu năm 1973, Cảnh tốt nghiệp về nước. Buổi tối cuối cùng hai người đi chơi với nhau, Cảnh rủ cô - bông cúc dại ở Hàm Hưng - về VN với anh. Cô bảo làm thế nào đi được? Cảnh nói: Ước gì cho em vào vali đưa lên tàu mà đi cùng. Cô nói: "Phải xa anh em chết mất. Nhưng dù sao em cũng đợi anh, yêu anh mãi mãi!". Thấy người yêu buồn, Cảnh an ủi: Thôi, anh về VN ra chiến trường chiến đấu vài năm. Hết chiến tranh, mọi việc thay đổi, anh sẽ quay lại đón em". Khi đoàn tàu liên vận quốc tế hú còi rời ga Bình Nhưỡng, cả hai đều tin rằng xa cách sẽ chỉ là 3 năm mà thôi. Thực tế ông trời đã thử thách họ gấp mười lần hơn thế...
Suốt một thập niên từ năm 1992 (khi anh bắt đầu công khai hoá mối tình của mình với gia đình, bè bạn) đến năm 2002 (khi được phía bạn đồng ý), không thể nhớ hết Cảnh đã gặp bao nhiêu quan chức, đã viết bao nhiêu lá đơn gửi Bộ Ngoại giao, Quốc hội, Nhà nước hai nước Việt - Triều nhờ can thiệp... Có một dạo chị đi bán hàng thuê cho một cửa hàng chăn ga gối đệm Hàn Quốc, có lúc đi dạy tiếng Hàn... Năm ngoái, chị đi bộ ngoài đường bị cành cây rơi vào đầu, phải nằm cấp cứu, khâu mười mấy mũi. Anh túc trực bên chị ngày đêm trong bệnh viện và từ đó không để chị phải đi làm nữa. Anh lắp truyền hình cáp có kênh KBS, Ariang cho chị xem, mua sách tiếng Hàn cho chị đọc... Căn hộ tuềnh toàng của họ (nơi vợ chồng Cảnh sống cùng cha và người em gái của anh) tuy không giàu của cải nhưng luôn đầy ắp tình yêu. Điều chạnh lòng duy nhất - mà tôi cũng không dám hỏi anh chị - nếu có có lẽ là thời gian nghiệt ngã kéo quá dài đã không cho phép họ có được một mụn con...
Nguồn : Lao Động 13/2/2006
|
18 tháng 12 2010
Trần Tiến: Người hát rong của thời Đổi mới
Trần Tiến: Người hát rong của thời Đổi mới
Jason GIBBS
Giống như mọi người Việt Nam cùng trang lứa, Trần Tiến đã sống qua những thời kỳ đầy gian khổ, nhưng cũng rất trọng đại. Anh sinh năm 1947 trong kháng chiến, trên một miền đồi gần sông Đáy ở vùng Sơn Tây, trong khi chạy càn của quân Pháp. Sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hà Nội, sau 1954, bố mẹ anh phải đi cải tạo. Do thành phần gia đình, cơ hội học hành của anh ban đầu bị hạn chế. Anh kể rằng đã trải qua thời trẻ sống lang thang trong những ngõ nhỏ Hà Nội. Vào lúc tuổi mới lớn, anh làm việc hậu trường cho một đoàn văn công tuyên truyền. Sau một thời gian, anh lên sân khấu và trở thành một giọng ca dự bị cho đoàn, rồi đảm nhiệm vai trò ca sĩ hát chính [1] .
Đoàn văn công biểu diễn ở vùng chiến sự và anh đi vào vùng Tây Nguyên và miền cao nguyên Lào. Thời gian này anh bắt đầu viết ca khúc. Ví dụ 1 là ca khúc “Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp” anh viết khi đang làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào năm 1968 (Đ.T. 1982, 6).
Ví dụ 1 - Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp
Này cô gái trên nương ơi chịu khó nuôi chiến sĩ
Người diệt thù vì dân ơ chưa về, Ô đê
Rồi mai đây đất nước vắng bóng thù
Đợi chờ anh lại về bên em người đẹp ơi anh về
Ơ này cô cô gái, ơ này cô gái Lào
Mình anh hát, mình anh lăm tơi
Múa một mình sao nó không đẹp, không đẹp, không đẹp, không đẹp
Em hỡi em ra đây cùng kêu lăm tơi khèn anh ngân vang
Trông kìa đôi tay mềm
Thân uốn cong lăm vông nhịp nhàng, nhịp nhàng, nhịp nhàng, nhịp nhàng
Anh đã nhìn thấy em cười tươi, trong tiếng cười ấm vui bạn bè
Ơi nụ cười sao duyên dáng
La na la nuôn na, la na la y nuôn na
Ơi cô em Sầm Nưa, nhớ thương anh đợi chờ.
Ca từ và nhạc của ca khúc gợi lên một điệu nhạc giải trí quen thuộc của Thái và Lào có tên lăm tơi và một điệu múa vòng tròn là lăm vông [2] . Khèn là một nhạc cụ thổi bản địa không cần có lưỡi gà được dùng trong những dịp lễ này. Tỉnh Sầm Nưa của Lào là một căn cứ của quân cộng sản Pathet Lào. Mặc dù bài hát liên quan đến chiến tranh và cuộc chiến đấu của Pathet Lào với sự hỗ trợ của Việt Nam, nó nói trực tiếp về những người phụ nữ hậu phương và sự ngóng đợi những người đàn ông từ mặt trận trở về. Bài ca khi đó đã tạo ra một sự say mê hơi lạ lẫm cho một bài hát Việt Nam và khi xuất hiện, nó đã được yêu thích cả ở Lào và Việt Nam [3] . Nó phục vụ cho mục đích truyên truyền cổ vũ tình đoàn kết và hữu nghị Lào-Việt, và đã giành được một giải thưởng ca khúc của cuộc thi “Tiếng hát át tiếng bom” [4] .
Năm 1971, Trần Tiến bị sốt rét ác tính và trở ra Bắc về Hà Nội. Sau đó anh theo học Nhạc viện, tốt nghiệp khoa thanh nhạc và sáng tác năm 1978. Những ca khúc đầu tiên sau khi tốt nghiệp mang chủ đề yêu nước. “Giai điệu Tổ quốc” là một bài ca ngợi lòng yêu nước, nói về những giai điệu anh nghe thấy từ sự hùng thiêng của sông núi, trong bài hát ru con, trong Truyện Kiều, và trong nhịp quân hành của những người lính ra trận. Chiến tranh lại trở thành một mối quan tâm trước sự xung đột với Khmer Đỏ năm 1978 và Trung Quốc năm 1979. Trước cuộc chiến bành trướng của Trung Quốc, anh viết bài “Những đôi mắt mang hình viên đạn”, đôi mắt của những người già và trẻ em đang khóc than từ nơi biên giới - trở thành động lực cho những người lính Việt Nam. Cũng trong khoảng thời gian đó, anh viết “Vết chân tròn trên cát”, một khúc ca ghi công những người thương binh trở về. Những vết chân tròn trong bài hát từ chiếc nạng gỗ của người cựu chiến binh, người đã tìm cho mình niềm khuây khoả trong công việc của thầy giáo làng quê miền duyên hải, nơi anh chơi cây đàn guitar của mình cho lũ trẻ (Gibbs 2006) [5] .
Trong thời gian này, một hình thức nổi lên trong âm nhạc phổ thông ở Việt Nam được gọi là nhạc nhẹ. Loại nhạc này mang một số hình thức được lấy từ mô hình ca khúc chính trị Đông Âu và nhạc cổ động diễn đàn của Xô-viết (estrada). Chính phủ nhận thấy, sau khi chiến tranh qua đi, có một nhu cầu nghe nhạc để thư giãn - mọi người muốn âm nhạc phải vừa vặn với nhịp điệu “nhộn nhịp, khẩn trương” của xã hội mới (Nguyễn Đức Toàn 2004 [1977], 703). Tuy nhiên, như một nhạc sĩ đã viết, mặc dù nhạc nhẹ “thường được dùng để đáp ứng đòi hỏi giải trí,... không hề có nghĩa là chức năng và tác dụng giáo dục của nhạc nhẹ hạn chế” (Phạm Đình Sáu 2004 [1978], 713). Những trào lưu Âu-Mỹ như nhạc rock đã tìm được con đường trở lại trong ca khúc Việt Nam thông qua hình thức này.
Hầu hết những ca khúc của Trần Tiến thời kỳ này thể hiện những hình thức giao thoa với đời sống xã hội. Ca khúc “Mặt trời bé con” nói về niềm vui được thấy những đứa trẻ háo hức xem tiết mục của anh, tìm thấy ý nghĩa trong sự hưởng thụ giản dị mà anh có thể mang lại cho chúng. Ca khúc “Thành phố trẻ” viết khoảng năm 1981 dùng những nhịp điệu rock để nhấn mạnh niềm lạc quan của đất nước.
Ví dụ 2 -Thành phố trẻ
Em đi đâu về? mà tóc đầy me!
Em ngồi em chải, nghĩ gì vui thế
Mà cười một mình.
Anh đi đâu về? dầu máy đầy tay
Lưng trần gió bể, nghĩ gì vui thế nhìn người vợ hiền. ( la la la ...)
Thành phố tôi (mang tình yêu) rất trẻ (như mùa xuân)
Bạn hãy nghe ... (vang lời ca) họ hát về mình,
Bằng trái tim ... (mang tình yêu) rất trẻ ... (như mùa xuân),
Bằng khát khao bỏng cháy...
Đêm khuya tiếng đàn xao xuyến hàng me
Có người lính trẻ, nhớ người bạn gái ngồi đàn một mình
Đi trong tiếng đàn thành phố tình ca
Thấy mình bỗng trẻ, ôm đàn tôi hát hoà cùng bạn bè.
Đó là chân dung của một thành phố, một tập hợp của những cá nhân tiên tiến được đặt trong một thế giới chia sẻ về công việc, tình yêu, tuổi trẻ và âm nhạc. Người vợ trong ca khúc yêu con đường rợp bóng cây rải lá me bay lên tóc cô. Người chồng hết mình trong lao động sản xuất tìm thấy niềm vui khi nhìn ngắm hạnh phúc riêng tư của mình. Thậm chí cả nỗi cô đơn của một người lính cũng có một chỗ trong bài hát. Mọi người trong thành phố của bài hát đều tràn đầy tuổi trẻ và sức sống. Đây là một khía cạnh hiện thực xã hội chủ nghĩa rất hợp thời – bài hát đã được thanh niên bình chọn là một trong mười ca khúc được yêu thích nhất năm 1982 (Thanh Bình 1982, 9) [6] .
Chân dung của “Thành phố trẻ” quả là quá tươi sáng khi so sánh với hiện thực lúc đó. Bản thân chính quyền Việt Nam đã nhận ra điều cần làm để cải cách, và những đổi thay cộng hưởng từ Liên Xô mở đường cho quá trình cải tổ (perestroika), ở Việt Nam gọi là đổi mới. Nhà lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Văn Linh đã khích lệ văn nghệ sĩ tấn công vào những vấn đề như "bệnh quan liêu, ức hiếp quần chúng,... ăn bám, sống phè phỡn trên lưng những người lao động chân tay và trí óc...” Để đáp ứng, năm 1987, Trần Tiến thành lập một ban nhạc rock có tên “Đen Trắng” [7] . Bài hát “Trần trụi 87” là tuyên ngôn mạnh mẽ nhất của anh về đổi mới, khắc hoạ một đất nước với những khẩu hiệu trống rỗng, nơi những người tài năng nhất bỏ ra nước ngoài, và sự hi sinh của những người lính cùng những nông dân đã nuôi giấu họ bị quên lãng (Gibbs 2006). “Rock đồng hồ” là một chân dung của một xã hội mà người lao động nghèo khổ được ví như chiếc kim giây mỏng mảnh chạy mãi không nghỉ, trong khi chiếc kim giờ - ám chỉ những quan chức nhà nước nhiều đặc quyền đặc lợi - hưởng mọi thành quả (Hiebert 1991). Kim giây chỉ được hỏi đến khi nào nó chết.
Ví dụ 3 - Rock đồng hồ
Bạn nhìn xem chiếc kim giây, khốn thân cho chiếc kim giây yếu gầy (tung tung, tích tắc)
Chạy loanh quanh suốt tháng năm, chạy như điên cho lũ kim kia nhích dần (tung tung, tích tắc)
Nhưng có ai xem đồng hồ, có mấy ai đi xem đồng hồ hỏi giây (tung tung tích, boong)
Rồi một hôm chiếc kim giây, chẳng ai chăm, chiếc kim giây yếu dần (tung tung, tích tắc)
Chạy loanh quanh đói nhăn răng, chạy như điên cho tới khi kim chết dần (tung tung, tích tắc)
Kim phút ư hay kim giờ? Không có kim giây coi như là bỏ đi (tung tung tích, boong)
Bao tháng năm vẫn âm thầm, nay chết đi kim giây mới được hỏi tên (tung tung tích, boong).
Tôi thấy bài hát này giống như một cách thể hiện của thời công nghiệp cho câu tục ngữ Việt Nam: “Nhất sĩ nhì nông / Hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”. Sự hoán đổi của hệ thống trật tự xảy ra khi mất mùa, cũng như thế, khi người lao động kiệt quệ, như tình cảnh họ ở Việt Nam những năm 1980, thì cũng chẳng có nhiều nhặn để mà cho các vị tai to mặt lớn.
Một bài hát khác khi đó, “Chuyện năm người”, vẽ nên một cái nhìn khác về những bộ phận tiêu biểu của xã hội.
Ví dụ 3 - Chuyện năm người
Có khu rừng thanh niên xung phong thiếu đàn ông, toàn con gái chưa chồng...
Họ cứ cười như điên như điên, chiến tranh thì liên miên, liên miên, họ không cười thì chết mất,
Mi phá mi rề mi phá mi rề mi lá...
Có một nàng tiểu thư con quan, sống giàu sang, đời sung sướng vô vàn...
Cô suốt ngày soi gương, soi gương, tìm nỗi buồn trong thi ca văn chương, cô không buồn thì chết mất,
Có một chàng nhạc sĩ lơ mơ, suốt đời yêu, suốt đời nhớ, nhớ, nhớ,
Có một gã chán đời lang thang, suốt đời say, suốt đời quên, quên, quên, không quên thì chết mất,
Có một người không quên, không say, không buồn vui, chẳng thương nhớ ai bao giờ,
Sớm lại chiều đi lên cơ quan, chiếc xe cà tàng một lon cơm khô,
Họ chẳng chết bao giờ...
Vì có sống bao giờ đâu, Họ chẳng sống bao giờ ....
Thì có chết bao giờ đâu...
Đoạn đầu kể về một đơn vị nữ thanh niên xung phong trẻ, những người trong thời chiến mở đường Hồ Chí Minh, bảo vệ đường tiếp vận, đối mặt với những hiểm nguy và khó khăn thường trực. Trần Tiến nói thẳng đến sự gian khổ chiến trận của họ và những khoảnh khắc điên dại được giải phóng bằng những trận cười. Thế giới này cũng được định hình với một quý cô được nuông chiều chỉ biết tìm nỗi buồn qua sách vở. Nhạc sĩ mơ màng và gã chán đời say sưa cũng được cho vào cảnh này. Bên cạnh những người khác đang sống thực sự, năm mẫu người này tồn tại thông qua những thói quen, mọi thứ họ cần là sự bằng lòng. Chính họ là những đối tượng cần nhắm tới của những khẩu hiệu cổ động có ở khắp nơi tuyên truyền cho tiến bộ không ngừng và việc tạo ra “con người mới” luôn đấu tranh, luôn luôn hoàn thiện.
Một nhà nghiên cứu âm nhạc viết về những buổi biểu diễn của Trần Tiến khi đó đã thừa nhận bài hát Việt Nam đến thời điểm đó vẫn chủ yếu mang chức năng của một “vũ khí tư tưởng” và nó là kết quả của sự thể hiện bị giới hạn. Cùng với những khẩu hiệu yêu nước và một tinh thần lạc quan không nghỉ, dường như cần có tinh thần phê phán xã hội, và để có được một cách thể hiện cảm xúc nhiều sắc thái hơn, những cảm xúc như nỗi buồn và nỗi đau đã bị ngăn cấm trước đó [8] . Ông hoan nghênh cách thể hiện âm nhạc của Trần Tiến và tìm thấy ở người nhạc sĩ “một tiếng nói riêng, có những bài… tạo được hiệu quả nghệ thuật, làm xúc động lòng mọi người...” (Tú Ngọc 2004 [1988], 158-161) [9] .
Trần Tiến trở thành một hình tượng đầy khích động trong xã hội, giành được sự quý mến rộng rãi trong những người yêu nhạc, nhưng đã húc phải bộ máy quan liêu – ban nhạc của anh bị đình chỉ sau 3 buổi diễn (Hiebert 1991). Năm 1988, anh sang thăm Liên Xô, trình diễn với một ban nhạc rock của sinh viên đại học Xô-viết cho khán giả gồm những công nhân và sinh viên Việt Nam. Anh được gán cho cái tên “Vysotsky của vùng nhiệt đới” - một so sánh với Vladimir Vysotsky (Владимир Высоцкий), một kịch sĩ / ca sĩ và nhạc sĩ Xô-viết huyền thoại, người đã viết những bài hát không được thừa nhận chính thức nhưng những bài hát về cuộc sống đương thời diễn ra đã gây tiếng vang trong xã hội Xô-viết [10] . Sự hoan nghênh dành cho Trần Tiến ở Liên Xô đã làm tăng lên vị thế của anh ở quê nhà (Lưu Trọng Văn 1989, 8; phỏng vấn Trần Tiến, 17.9.2005 tại TP Hồ Chí Minh).
Bài hát năm 1990 “Sao em nỡ vội lấy chồng” là một thành công đại chúng vang dội. Bài hát chỉ liên quan rất ít đến bài thơ “Lá diêu bông” của Hoàng Cầm, một bài thơ bí ẩn được viết năm 1959 trong thời kỳ nhà thơ bị trừng phạt do tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, là một nhóm các nghệ sĩ và trí thức tìm kiếm một cách thức thể hiện tự do trong việc phê phán mang tính xây dựng chính quyền nhưng đi quá giới hạn. Người kể chuyện trẻ tuổi trong bài thơ được một người phụ nữ nhiều tuổi hơn mà anh ta theo đuổi đưa ra một câu đố; tuy nhiên chiếc lá không bao giờ có, người phụ nữ sống cuộc đời riêng, lấy chồng và có con, trong khi ấy câu đố khiến cho chàng trai lang thang với một nỗi ám ảnh suốt đời và sự vỡ mộng. Trần Tiến dùng câu đố này và mối tình không được đền đáp để dệt nên một câu chuyện khác: người kể chuyện đi khắp nơi và khi quay về, người phụ nữ đã lấy chồng – nhưng ở đây là quá sớm.
Ví dụ 4 - Sao em nỡ vội lấy chồng
Lời ru buồn nghe mênh mang mênh mang sau lũy tre làng khiến lòng tôi xốn xang.
Ngày lấy chồng em đi qua con đê, con đê mòn lối cỏ về có chú bướm vàng bay theo em
Bướm vàng đã đậu trái mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì / Để lời ru thêm buồn
Ru em thời thiếu nữ xa rồi, còn đâu bao đêm trong xanh tát gàu sòng vui bên anh
Ru em thời con gái kiêu sa
Em đố ai tìm được lá diêu bông / Em xin lấy làm chồng.
Ru em đời thiếu nữ xa rồi, mình tôi lang thang muôn nơi đi tìm lá cho em tôi
Ru em thời con gái hay quên
Thương em tôi tìm được lá diêu bông / Sao em nỡ vội lấy chồng.
Một người viết đã phân tích bài hát này có một trường nghĩa rộng tuỳ theo hệ quy chiếu của người nghe. Khi một người đàn ông hát với quan điểm cho rằng người phụ nữ đã quá vội vàng và bỏ lỡ cơ hội có được hạnh phúc với anh ta, bất kể cô ta có khao khát hạnh phúc đó hay không. Khi hát từ chỗ đứng của người phụ nữ, cô có thể cảm thấy tiếc nuối về một người bạn đời lý tưởng mà cô sẽ không bao giờ có nữa [11] . Nhà nước lại có một cách nhìn khác về bài hát – nó đã được giải thưởng của phong trào Dân số và Kế hoạch hoá gia đình nhằm ủng hộ cho chính sách gia đình chỉ có 2 con của Việt Nam (Phỏng vấn Trần Tiến, 17.9.2005). Sức phổ biến của bài hát được nhân lên bội phần do giai điệu tương tự với hát dân ca quan họ (Nguyễn Thị Minh Châu 2004), mang lại sự chú ý đến vấn đề trong bài hát, và dĩ nhiên nhờ đó mà có thể thuyết phục được thanh niên Việt Nam kết hôn muộn hơn. Ca khúc đã được Liên Hiệp quốc tuyên dương vì vai trò góp phần điều hoà dân số khi ca sĩ dòng nhạc enka Hàn Quốc Kim Yonja hát với một dàn nhạc giao hưởng (Hiền Đức 2000).
Anh đã hỏi đùa khán giả trong một buổi biểu diễn năm 1989 là liệu họ có thích nghe những bài hát về “tái tổ chức, tình yêu, quê hương hay sinh đẻ có kế hoạch” (Hưng Quang 1989, 4). Khi đó, anh viết hai bài hát khác, về sau được chính quyền dùng để cổ động cho kế hoạch hoá gia đình. “Thượng đế buồn” là một câu chuyện có tính phúng dụ châm biếm về việc Thượng đế tạo ra voi nhưng lại không có cỏ để nuôi chúng. Cũng tương tự như quan hệ yêu đương vợ chồng sinh ra những đứa trẻ nhưng không chăm sóc chúng thường xuyên, một lần nữa đây là lời kêu gọi chăm sóc gia đình của mỗi người. “Cô bé vô tư” là lời hát của một cô bé vị thành niên, vẫn đang còn ham chơi. Cô nói với người đang tán tỉnh mình những thứ cô cần là sao, mây, giọt sương và một con dế “lang thang hát”. Cô cầu khẩn anh ta đừng yêu cô – cô còn bé lắm.
Trong những năm 1990, Trần Tiến tiếp tục viết những ca khúc với những nhận thức đi sát với đời sống xã hội. Lúc này Việt Nam đã mở cửa với thế giới, những hiện tượng văn hoá toàn cầu đã xâm nhập và lôi cuốn mọi người. Năm 1990, một hiện tượng như thế là mốt nhảy lambada. Thứ bị gọi là “điệu múa cấm” này gây sốc cho những người Việt Nam khi họ mô tả nó như một trận gió lốc khuyến khích tình dục tập thể công khai (Binh Nguyên, Viết Thông 1990, 7; Lam Hà 1990, 3). Lambada của Trần Tiến là một biểu tượng cho xu hướng ngưỡng mộ và học theo những điều của nước ngoài mà không cần phải cố gắng hiểu làm thế nào để đồng hoá được trong đời sống người Việt. Tên bài hát của anh minh hoạ cho điều này – nó là một sự đọc trại có chủ ý của từ lambada, khi chữ cái “d” đọc thành “z”, và thành một từ đồng âm với “lắm bà già” trong dòng thứ tư. Làng “Lambaza” của anh là làng Bần ở Hưng Yên, một làng có nghề truyền thống nổi tiếng làm tương đậu nành.
Ví dụ 5 - Lambada quê ta
Ơi cô gái thôn tương Bần có còn mặc áo tứ thân
Ôi cô gái thôn tưng bừng có còn chơi điệu trống quân
Đêm trăng sáng đi Tây về quê nhà em chơi điệu lam ba da lam ba da
Quê ta lắm bà già thích nhảy lam ba da
Quê ta lắm ông già yêu điệu lam ba da
Quê ta nhiều Honda nhiều Coca Cola nhiều những bữa dưa cà
Quê ta nhiều villa nhiều xe Toyota nhiều đứa bé không nhà
Quê ta người ta yêu tình yêu thương bao la bao la theo kiểu lam ba da / Lam ba da.
Ngôi làng mỗi khi vào hội thường các thiếu nữ mặc áo tứ thân truyền thống và hát trống quân. Đối với người trở về từ nước ngoài họ thấy những yếu tố truyền thống này trong lễ hội bên cạnh những mặt hàng nhập khẩu như Coca Cola, xe máy Honda, và xe hơi Toyota. Cũng trong lúc đó, họ ăn cơm dưa cà và vẫn còn những đứa trẻ không nhà. Đoạn hai có thêm “ma sa” và “Si da”, tức dịch vụ massage và bệnh AIDS (ban đầu các tài liệu tiếng Việt viết theo tiếng Pháp là SIDA - ND) vào danh sách những căn bệnh xã hội hiệp vần với chữ “lambaza”. Dùng một nhịp điệu khiêu vũ sôi nổi, nhạc sĩ đã nhắc lại những bài dân ca truyền thống, trong khi chỉ ra những cạm bẫy mà người Việt quá dễ dàng bị mất khả năng kháng cự và mắc phải nhưng lại không bị phê phán trước những hàng hoá nước ngoài mà một số thứ mang theo những tệ nạn xã hội. Thay vì doạ nạt ầm ĩ công chúng, bài hát của anh bật ra sự trào lộng trước những vấn đề xã hội.
Sáng tác sau đó của anh tiếp tục khai thác những vấn đề xã hội. Một bài hát năm 1995 là “Sói con ngơ ngác" nhìn vào vấn đề của những đứa trẻ, thường là mồ côi, ra thành phố để đi ăn xin hay đi làm. Mặc dù anh so sánh chúng với những con sói con vì chất hoang dại của chúng, anh cho rằng chúng không có lỗi bởi vì không có được tình yêu thương và dạy dỗ của cha mẹ. Bài hát “Chị tôi” là cái nhìn cảm thông đối với những người phụ nữ mang nặng những trách nhiệm gánh vác gia đình, không lấy được chồng. Về một số phương diện, bài hát này đi cùng bài “Sao em nỡ vội lấy chồng” làm thành một cặp câu chuyện ngược chiều nhau; ở bài “Chị tôi”, quyết định hôn nhân đã bị trì hoãn, tuy nhiên, sự hi sinh được thực hiện một cách cao cả. Một số tác phẩm gần đây của anh trở nên hướng nội nhiều hơn. Sau một trận ốm nặng thập tử nhất sinh, anh đã viết ca khúc “Sắc màu” với cái nhìn về những đường nét thông qua cuộc đời và sự tồn tại thông qua những bảng mầu, so sánh giới hạn của bức tranh được vẽ với cái hữu hạn của kiếp nhân sinh. “Mưa bay tháp cổ”, ca khúc được khán giả yêu thích trong cuộc thi Bài hát Việt 2005 gần đây thể hiện những nỗ lực của nhạc sĩ khi tìm hiểu những bí ẩn của một nền văn minh đi trước, xem sự hữu hạn của những nỗ lực con người như một ẩn dụ của sự hiểu biết đối với những đổi thay mà anh nhận ra trong những khắc thời gian đó (Hoài Vũ; Trọng Thịnh 2005)
Một nhạc sĩ lớp trước khi khảo sát bối cảnh âm nhạc của thời đổi mới đã ghi nhận Trần Tiến như một “một cây bút 'dấn thân' viết rất khỏe” (Hoàng Vân 2004 [1987]: 129). Trong thời gian đó, Trần Tiến nằm trong số những người tiên phong trong một biển cả văn hoá rộng lớn nhiều đổi thay, song hành với tác phẩm của những nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Bảo Ninh hay Nguyễn Duy. Một nhà phê bình văn học khi viết về những tác giả này đã khẳng định văn học cần trở thành một “miền đất khuyến khích những cảm xúc nhân văn, một khu vườn nơi tâm hồn con người được đơm hoa.” [12] Điều này đã và luôn là địa hạt của Trần Tiến. Nhạc sĩ có nói anh muốn viết thứ “âm nhạc nhập cuộc” (Nguyễn Thanh Đức 1987, 4-5) – để đương đầu với những hiện thực khó khăn của đất nước, nhân dân và cũng để nói lên khát vọng của họ. Anh đã đứng ở vị trí có sức lôi cuốn hàng đầu trong những buổi diễn, bởi vì anh hát về những chuyện thực mà công chúng muốn giãi bày. Một người viết khác đã xác nhận điều đó “Trần Tiến biết mọi người muốn gì, cần gì, và sau đó sẽ đi ra sao. Anh mang lại cho họ những thứ họ muốn, thoả mãn những thứ họ cần, và anh biết rõ rằng sau đó người ta tốt hơn” (Hưng Quang 1989, 4). Điều này mang đến cho tác phẩm của anh một tầm quan trọng có thể so sánh được với những tác phẩm của hai nhạc sĩ lớp trước là Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Trần Tiến dùng cách tiếp cận của hiện thực xã hội chủ nghĩa - sự tiếp xúc nghệ thuật với người dân và hoàn cảnh sống của họ - nhưng thay vì đưa nó vào minh hoạ cho những kế hoạch tiến triển không ngừng của nhà nước, anh dùng nó để ca ngợi chuỗi trải nghiệm đầy ắp của đời sống. Đây không phải là một tiếng nói bất đồng, mà là một tiếng nói khích lệ người Việt Nam và cổ vũ cho cuộc đời đầy màu sắc của họ.
- 7 Tiêu.
- 2004. “bé hạt tiêu / Thành phố trẻ – Trần Tiến”, đăng trên Diễn đàn Vietnafc (10 tháng Chín)
http://www.vietnafc.com/diendan/lofiversion/index.php/t7044.html [theo bản lưu trên Google February 21, 2005]. - Binh Nguyên and Viết Thông.
- 1990. “Lambada cơn lốc tràn vào thành phố”, Tuổi Trẻ (24 tháng 7), 7.
- Đ.T.
- 1982. “Trần Tiến nói về những ca khúc của mình”, Tuổi Trẻ 7/24 (3 tháng 4), 6.
- Gibbs, Jason.
- 2006. “An Unforgotten Song: Representations of the American War in Vietnamese Song after 1975”, bản tiếng Việt "Những biểu tượng của cuộc chiến tranh chống Mỹ trong ca khúc Việt Nam sau 1975” (Nguyễn Trương Quý dịch) talawas 21 tháng 2. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6496&rb=0206 2005. “Yellow Music Turning Golden,” bản tiếng Việt “Nhạc vàng 'hóa' vàng”, (Nguyễn Trương Quý dịch) talawas 23 tháng 6. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4775&rb=0206
- Hiebert, Murray.
- 1991. “Singing between the lines”, [Hát giữa những lằn ranh] Far Eastern Economic Review (February 21), 30-31.
- Hiền Đức.
- 2000. “Nhạc Trần Tiến – những ngẫu hứng từ dân ca”, Nhân Dân điện tử (May 13). http://www.nhandan.org/vn/vietnamese/20000513/bai-vh10.html. [xem 14.5.2000] Đăng lần đầu trên Thế Giới Mới.
- Hoài Vũ.
- “Lễ trao giải Bài hát Việt 2005: À í a "đoạt" cúp” Bài hát Việt 2005. http://baihatviet.vtv.vn/Index.aspx?Page=ViewNews&ItemID=535.
- Hoàng Vân.
- 2004 [1987]. “Ca khúc Việt Nam trên đường tìm tòi”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội: Viện Âm nhạc, 128-132. [bản gốc trên Thể thao – Văn hóa #34].
- Hưng Quang.
- 1989. “Ngọn lửa rừng - Trần Tiến”, Tuổi Trẻ Thủ đô (25 tháng 12), 4.
- Lam Hà. 1990. “Lambada, điệu múa khêu gợi dục tình”, Thanh Niên (29 tháng 7), 3.
- Lưu Trọng Văn.
- 1989. “Những chiếc hôn cho Trần Tiến”, Tuổi trẻ Chủ nhật #(9 tháng 3), 8.
- Lý Kiệt Luân.
- 1994. Vài chuyện làng văn Hà Nội. San Francisco, CA: Ngàn Lau.
- Nguyễn Đức Toàn. 2004 [1977]. “Trao đổi thêm về nhạc nhẹ”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội : Viện Âm nhạc, 700-703 [bản gốc trên Văn hoá Nghệ thuật #11].
- Nguyễn Thanh Đức.
- 1987. “Âm nhạc vào cuộc”, Tuổi trẻ #132 (14 tháng 11), 4-5.
- Nguyễn Thị Minh Châu.
- 2004 [1991]. “Một bài hát mới thịnh hành của một nhạc sĩ đang được ưa thích”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội: Viện Âm nhạc, 241-246. [Bản gốc trên Lá xanh: Phụ san Nxb. Quân đội Nhân dân #1].
- Nguyen, Tuan Ngoc.
- 2004. Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the Relationship Between Literature and Politics [Hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam: Phân tích về mối quan hệ giữa văn học và chính trị]. Luận văn tiến sĩ, Đại học Victoria University. Đăng trên mạng tại: http://eprints.vu.edu.au/archive/00000279/
- Phạm Đình Sáu.
- 2004 [1978]. “Bàn về nhạc nhẹ”, Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. tập 5b. Hà Nội : Viện Âm nhạc, 712-718 [bản gốc trên Văn hoá Nghệ thuật #1].
- Smith, Gerald Stanton.
- 1984. Songs to Seven Strings: Russian Guitar Poetry and Soviet “Mass Song.” [Những bài hát trên bảy dây đàn: Chất thơ trong guitar Nga và “Ca khúc quần chúng” Xôviết] Bloomington: University of Indiana Press.
- Thanh Bình.
- 1982. “Qua 10 bài hát đang được các bạn trẻ ưa thích nhất”, Tuổi Trẻ (28 tháng 4), 9.
- Thanh Thúy.
- 1988. “'Tôi đang thở nghĩa là tôi đang yêu. Tôi đang yêu, nghĩa là tôi đang sống...'”, Thanh Niên (7 tháng 11), 8-9.
- Trần Tiến. 1987. “Thành phố trẻ” trong Khi chúng mình xa nhau: tập ca khúc nhiều tác giả. Hà Nội: Nhà xuất bản Âm nhạc và Đĩa hát, 12-13. 1995. Tuyển chọn ca khúc Trần Tiến. Hà Nội: Nhà xuất bản Âm nhạc; Hội Nhạc sĩ Việt Nam. 2003. “Nhạc sĩ Trần Tiến trả lời phỏng vấn trực tuyến”, VnExpress (11 tháng 3) http://www.vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2003/08/3B9CA828/. [không năm]. Ca khúc Trần Tiến CD “Trần Tiến – chiến tranh & số phận”. CD tư liệu chưa xuất bản. [không năm]. Ca khúc Trần Tiến CD “Trần Tiến – Du ca Đồng nội.” Tư liệu chưa xuất bản.
- Trọng Thịnh.
- 2005. “Trần Tiến nói gì về “Mưa bay tháp cổ”?” Tiền Phong Online 26 tháng 5. http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=10526&Channel ID=7.
- Tú Ngọc.
- 2004 [1988]. “'Đối thoại 87' – một cách tiếp cận cuộc sống”. Hợp tuyển Nghiên cứu Lý luận Phê bình Âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX. Tập 5b. Hà Nội: Viện Âm nhạc, 156-160. [bản gốc trên Âm nhạc #2].
Bản tiếng Việt © 2006 talawas
[1]Tiểu sử tóm tắt dẫn theo Hiền Đức 2000.
[2]Tôi xin cảm ơn giáo sư Terry Miller, người đã nghe bản ghi âm ca khúc này với lời dịch của tôi và chỉ cho thấy những điểm tương tự với nhạc Thái và nhạc đồng bằng Lào. Ông cũng chỉ ra điệp khúc “la na la nuan na” là điệp khúc thông dụng trong kiểu nhạc lăm tơi.
[3]Đây là cảm xúc của một người yêu nhạc khi nhắc đến một buổi trình diễn sau năm 1975 của Trần Tiến ở một quảng trường Hà Nội : "Lần đầu nghe Trần Tiến, xa lắm rồi, tôi nhớ ở quảng trường Ngân hàng gần vườn hoa Chí Linh và vườn hoa Con cóc. Trần Tiến vừa hát vừa múa bài "Cô gái Sầm Nưa": "Ơi này cô gái Lào, mình anh hát mình anh Lăm-tơi, không đẹp không đẹp không đẹp, em hỡi em...", hai tay dẻo quánh, giọng ngọt, ánh mắt trai lơ.”
http://www.giaidieuxanh.vietnamnet.vn/bantronamnhac/2005/04/413991/. Xem thêm Trần Tiến 2003.
[4]Bài hát đoạt giải “A” trong cuộc thi – xem Nhạc sĩ Việt Nam hiện đại. Hà Nội: Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1997: 587.
[5]Hiebert (2000, 31) cho rằng bài hát này có một nội dung chống chính quyền. Ông dẫn lời nhạc sĩ “tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng mọi điều những người lính mang lại [cho đất nước] trong chiến tranh đã không còn lại gì - giống như một dấu chân tròn trên bờ cát.” Cho dù có dòng phụ dẫn này, bài ca vẫn được đề cao ở Việt Nam như một lời bày tỏ cảm kích và biết ơn đối với những người thương binh Việt Nam.
[6]Trên một diễn đàn thảo luận internet, một người Việt đã cho rằng “Thành phố trẻ” có liên quan đến thời kỳ Thanh niên xung phong, với ấn tượng bài hát được gắn với nhiệm vụ cho hoạt động này. Người viết này nhận thấy bài hát mang một cảm xúc giả tạo, nhưng vẫn thích nghe “văn công xung kích” hát, thích hơn là phần thu âm nhà nghề mang phong cách rock (7 Tiêu 2004).
[7]Anh nói đối với anh, nhạc rock là một “ý tưởng, một cảm xúc mạnh mẽ của tuổi trẻ, của con người. Nó là con đường mạnh mẽ và cô đọng để thể hiện những điều tôi muốn nói” (Hiền Đức 2000)
[8]Tôi đã thảo luận về vấn đề này trong bài “Nhạc vàng hoá ‘vàng’” [Yellow Music Turning Golden], Gibbs 2005.
[9]Quan sát của Tú Ngọc có đặt song hành những nhà văn và những nhà phê bình khi đó. Nguyen, Tuan Ngoc 2004 tổng kết quan điểm của những nhà văn cho rằng nhân vật văn học của hiện thực XHCN là “thô sơ và đơn giản, rất giống một đường thẳng, không có chút phức tạp, và không có những đấu tranh nội tâm. Lý tưởng và niềm tin của họ đã chọn một lần là không suy xuyển. Dường như họ không có những cuộc đời riêng tư, không có những đêm mất ngủ trong đời họ” (trang 267-8). Những nhà văn của thời Đổi mới đã tìm cách bỏ đi những công thức “nhân vật lý tưởng” và tạo ra nhân vật đa diện trong đời sống trong cách thức giàu tự nhiên hơn.
[10]Xem Smith (1984, 145-179) về một thảo luận về tác phẩm sáng tác của Vysotsky. Xem Thanh Thúy 1988 để có một sự đánh giá của một người Việt Nam về Vysotsky.
[11]Xem Lý Kiệt Luân (1994: 107) về một sự thể hiện đầy đủ hơn cho ý tưởng này và một cuộc thảo luận về những cách diễn giải mang tính nhạc đối với bài thơ.
[12]Lê Ngọc Trà. “Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực,” Văn học 16.7.1988, dẫn theo Nguyen, Tuan Ngoc 2004, 284.
Kim Jin Sun memoir - Hồi Ký của Kim Jin Sun
Hai bên bờ sông từ căn cứ trên núi Đầu Voi, nơi có một đại đội đặc công của quân giải phóng xuống đến làng được che phủ bởi một khu rừng tre. Chỉ có hai con đường đi qua khu vực đấy. Đây là con đường di chuyển của VC, nhưng do nó nằm quá gần với căn cứ đối phương nên việc phục kích tại đây là rất nguy hiểm. Theo con đường này, mỗi ngày những đứa trẻ chăn trâu dắt trâu đi qua vài ba lần. Buổi sáng chúng dắt trâu đi vào khu vực do VC kiểm soát, đến chiều thì chúng đưa trâu về, vừa đi vừa kiểm tra xem có quân Hàn quốc phục kích không. Sau đó chúng sẽ báo lại cho quân giải phóng bằng cách dùng khói hoặc ánh đèn. Để có một trận phục kích thành công, điều quan trọng với chúng tôi là làm sao để những đứa trẻ chăn trâu không phát hiện ra. Và chúng tôi cũng phải nghi binh làm ra vẻ như quân Hàn Quốc không có ý định phục kích ở đó.
Một hôm tôi định dùng một trung đội lập một trận phục kích quan trọng. Để làm được điều đó, tôi ra lệnh cho trung đội 1 phải diễn tập ngụy trang trong rừng tre sao cho không bị những đứa trẻ chăn trâu phát hiện. Chúng tôi lấy sợi từ các bao đay ra, gắn lá tre vào, sau đó phủ kín lên mặt mũi, thân thể sao cho từ ngoài nhìn vào vẫn tưởng như rừng tre. Để làm cho đối phương tin rằng chúng tôi không có ý định phục kích, tôi dẫn toàn đại đội đi lùng sục dọc rừng tre bên sông Lư Diêm. Sau đó tôi bí mật cho trung đội1 đã được nguỵ trang kỹ lưỡng chia làm 2 tổ đi phục kích ở cả 2 tuyến đường. Số còn lại tôi ra lệnh bắn vào xung quanh khu vực đó rồi quay về căn cứ. Điều này cốt để cho đối phương nghĩ rằng không hề có mai phục.
Khoảng 9 giờ sáng hôm sau, tổ phục kích ở một con đường do trung đội trưởng chỉ huy báo cáo về là đã bắt sống được1 nữ, còn 2 người khác đã thoát. Sau đó một lúc đã diễn ra cuộc đọ súng giữa 2 tổ phục kích của tôi với quân giải phóng. Như vậy tôi đã thất bại trong trận phục kích đó. Đáng lẽ ra không nên bắt cô gái đó mà cứ để cho đi qua. Sau đó phải nhẫn nại đợi cho đến tối khi họ quay về dẫn theo VC. Tôi ra lệnh cho bắn lung tung ra xung quanh rồi rút về làm ra vẻ như đã rút hết tổ phục kích về. Nhưng tổ phục kích do một trung sĩ chỉ huy thì vẫn ở nguyên vị trí tại một con đường khác.
Một cảnh quân đội VNCH bắt bớ dân làng |
Sau khi trời sáng, tôi dùng xe bọc thép đi tới hiện trường, trong thời gian đó tổ phục kích báo cáo là viện hạ sĩ đã bị mất một phần ngón cái do trúng mìn. Tôi đã bị sốc. Hạ sĩ Kim là một thuộc hạ thân tín của tôi. Tại hiện trường tôi lại một lần nữa được chứng kiến tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân giải phóng. Một trung uý bị chết do mìn Clâymo. Nhưng người lính đó chết trong tư thế ôm một quả lựu đạn đã rút chốt vào ngực với ý định giết chết tổ phục kích đến kiểm tra xác chết. Không hiểu con người lúc gần chết trong đau đớn tột cùng như vậy có khả năng rút chốt lựu đạn ôm vào người rồi mới chết như vậy không? Chỉ cần lay nhẹ người một chút là bản thân sẽ bị tan xác ngay tại chỗ cơ mà... Để làm được điều này cần phải có một tinh thần dũng cảm vô song. Hạ sĩ Kim đã bị trúng mìn trong lúc tìm cách buộc dây vào cái xác đó kéo đi để xử lý quả lựu đạn.
Khi tôi tới nơi vẫn còn một người lính giải phóng còn thoi thóp, mỗi khi anh ta thở máu lại trào ra trên lồng ngực. Dựa vào việc họ đem theo 3 khẩu AK, một M16 và một khẩu súng lục Liên xô cũng như những tài liệu có trong một viên trung uý thì có thể thấy rằng họ đang thi hành một nhiệm vụ rất quan trọng. Chúng tôi cho 5 cái xác chết đó lên xe thiết giáp và đem về căn cứ. Trong khi thực hiện nhiệm vụ bình định, chúng tôi nhận được sự chi viện của hai đại đội truy lùng của tiểu đoàn Mỹ và một đại đội quân nguỵ Sài gòn. Chúng tôi đã đi lùng sục và phục kích 3 ngày liền ở khu vực làng Vĩnh Long mà không phát hiện ra được một bóng VC nào. Tôi linh cảm thấy rằng nguyên nhân nằm ở chỗ chúng tôi cùng tác chiến với quân VNCH. Có lẽ trong số binh lính đó đã có người cung cấp thông tin cho VC, và điều này dẫn đến thất bại của chúng tôi.
Để trận này thành công, chúng tôi phải làm ra vẻ là trận đánh hợp đồng tác chiến với đại đội VNCH đã kết thúc, và sau đó chúng tôi sẽ tiếp tục tác chiến một mình. Nhưng trước đó tôi phải kiểm tra lại tinh thần cũng như sức lực của binh lính. Thêm vào đó, việc tiếp tế cũng cần phải được tiến hành trong bí mật. Tôi đã giải thích cho các trung đội trưởng là chúng tôi phải tiến tục trận đánh một mình nhưng đối với quân VNCH phải làm ra vẻ như chúng tôi sắp sửa rút. Sau khi chia tay, tôi đã báo cáo xin được tiếp tế lương thực và đạn dược bằng trực thăng tại một địa điểm không ai ngờ tới. Tôi đã bố trí trung đội 3 phục kích tại một địa điểm được cho là VC sẽ đi qua trong số các địa điểm mà chúng tôi đã lùng sục. Số còn lại thì di chuyển ra khu vực trống, làm các động tác nghi binh khác làm ra vẻđang rút lui về căn cứ. Nhưng trước khi chúng tôi về đến căn cứ thì đã nghe thấy tiếng nổ của mìn Clâymo từ hướng phục kích của trung đội 3. Trong những trận phục kích vừa qua, đây là lần đầu tiên VC xuất hiện giữa ban ngày.
Có lẽ quân giải phóng nhận được thông báo từ tình báo gài trong quân đội VNCH là chúng tôi đã rút hết về căn cứ rồi. Lần này họ cũng mang theo tài liệu, và trong số người chết có 1 sĩ quan. Còn một người khác bị trúng đạn vào chân. Nhưng trên chiến trường việc đem theo tù binh rất bất tiện nên anh ta đã bị bắn ngay tại chỗ. Sinh mệnh người lính cụt chân đó hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh tại chỗ cũng như tâm trạng của viên chỉ huy. Viên trung đội trưởng chỉ nói một câu cụt lủn: “bắn bỏ” và thế là người tù binh ấy đã bị giết.
Nguồn: Contact Press Images
File Name:
McC6802_Vietnam09.jpg
RESTRICTIONS check with CONTACT for details
Availability:
Request Form
Download Image
Contained in galleries:
Vietnam War Retrospective,Don McCullin: The Impossible Peace - Catalog, Don McCullin: Reporters Without Borders