29 tháng 4 2010

BẢY NHU: ÁC QUỶ CHIẾN TRANH HIỆN ĐANG CÒN ĂN CHAY NIỆM PHẬT TẠI PHÚ QUỐC


dinhphdc
 wrote on Dec 24, '11, edited on Dec 24, '11

Nhân dịp 30/4 vĩ đại, có người đặt hàng viết về tên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam!


Cái con Phạm Thị Thảo (Thao cũng được) Giang là con nào ấy nhỉ? Bài này nó có sử dụng một số tư liệu của thằng Lãng Quân, đề nghị bí mật smile

Trò chuyện với tên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam!

Phóng sự dài kỳ của Phạm Thị Thao Giang

Tôi đã kỳ công ra với đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang), tìm gặp bằng mọi giá, đối thoại và lén chụp ảnh viên cai ngục khét tiếng đã được sử sách, báo chí, thông tin bảo tàng và các nguồn tư liệu - nhân chứng sống hãi hùng nhắc đến quá nhiều ấy. Ông ta năm nay 83 tuổi, tên là Trần Nhu (thường gọi Bảy Nhu), sống ẩn dật trên một quả đồi hoang vắng, xanh mải miết toàn cây bạch đàn, hằng ngày ăn chay niệm Phật và nen nét với nỗi ám ảnh tội lỗi. Ông ta biết rõ mình là quỷ đội lốt người, đã hành hạ, tàn sát bao nhiêu người trẻ ưu tú của non sông Việt, nên ngay cả lúc gần đất xa trời này, Bảy Nhu vẫn cứ đeo đẳng nỗi hốt hoảng vì sợ bị “ai đó” trả thù. Ông Nhu tuyệt đối cấm chụp ảnh mình, cực kỳ hạn chế tiếp xúc với... đồng loại. Quả là, không ai ngờ viên cai ngục kỳ lạ, dị mọ, quái đản cổ đeo cả một ống bơ toàn răng tù nhân đó vẫn còn đang... sống.

 Viên cai ngục Bảy Nhu ở tuổi 83 tại đảo Phú Quốc

Có chi tiết thế này: từ thế giới “địa ngục trần gian” ở ngoài hòn đảo “thiên đường du lịch” trở về, tôi trò tiếp tục chuyện người tù cộng sản ông Vũ Minh Tằng (đang sống tại xã Vĩnh Hảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ông Tằng mang đến “Bảo tàng Các chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày” do ông Lâm Văn Bảng xây dựng (ở xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội) tặng... 9 cái răng của mình.

Ông Tằng đã “phục kích” nhiều ngày, bới các đống phân của mình trong chuồng cọp biệt giam, để tìm và giữ bọc răng đó suốt hơn 30 năm ròng, sau khi tên cai ngục kia đánh gẫy của ông, bắt ông nuốt vào bụng mình toàn răng và máu... Nghe tôi kể Bảy Nhu còn sống, tôi khoe ra những chụp ảnh và cả tiếng đồng hồ băng ghi âm từ đảo Phú Quốc, ông Tằng (71 tuổi) nghiến những chiếc răng già hổng hoác còn lại mà khóc: “Cái thằng ấy nó chưa chết ư? Ối trời ơi, nó vẫn còn sống thật không?”, rồi ông đau đớn hồi tưởng lại... 6 năm trời chết đi sống lại, bị tra tấn tàn độc bởi một bầy ác quỷ trong nhà tù. Ông Tằng lại thở hắt ra: “Nghĩ cho chùng, Nhà nước mình để cho nó (Bảy Nhu) sống, là rất nhân đạo, cũng lại hoá ra rất tốt, nếu nó không còn sống, thì ngoài hàng nghìn người đã chết thì chưa kể, còn hàng vạn người bị tra tấn bằng các trò của Quỷ Sa-tăng như tôi đây, có đem kể lại chuyện bị hành hạ, bị bắn giết, vứt xuống biển hết sức kinh dị cho con cháu nghe, chửa chắc đã có ai tin. Chuyện thật mà nó cứ xa xôi như ở cõi khác, ở kiếp khác ấy. Hoá ra, cái giống quỷ như thằng Nhu, lại vẫn có ích cho... Đời”.


“Gậy biệt ly”, “Vồ sầu đời”, và cái “hữu ích” của việc Bảy Nhu còn sống !

“Bảy Nhu - viên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam!” - viết như vậy, tôi biết, sẽ có người cho tôi là hồ đồ, hoặc hơi quá... xúc động , khi gọi gọi Bảy Nhu như thế. Song, độc giả Tuổi trẻ thủ đô cứ cho phép tôi tạm gọi như vậy, vì những lý do rất đáng xem xét sau đây: bởi, “đào bới” suốt sử sách - tư liệu của ngàn năm lịch sử, từ thời nguyên thuỷ, thời phong kiến, thời bị ách xâm lược của cú diều Thực dân, Đế quốc, tôi chưa bao giờ nghe, đọc, xem được một có tù ngục nào dã man với viên cai ngục bằng xương bằng thịt mà lại kinh thiên động địa như cặp bài trùng khét tiếng: thượng sỹ Bảy Nhu - nhà tù Phú Quốc. Tôi đã nhiều lần lục tìm bằng tất cả các nguồn tư liệu, sách báo, giai thoại, mà chưa thấy ở nơi nào, có lưu hành chuyện về đủ trò 24 ngón tra tấn “danh bất hư truyền” được ghi trong nhiều sử sách và... sổ sách (của Nhà tù), được đặt tên “lâm ly bi đát” như vậy cả (kiểu như “Vồ sầu đời”, “Gậy bịêt ly”...). Các trò của Quỷ Sứ, gồm: từ đập vỡ mắt cá chân, dùng ván và đinh ốc ép cho vỡ lồng ngực tù nhân đến dùng kìm rút móng chân móng tay, dùng giẻ tẩm dầu đốt cháy… dương vật, dùng cây sắt nhổ dần từng chiếc răng chính trị phạm; thậm chí cả: móc mắt hoặc dụng bóng điện lớn để gần mắt cho đến khi mắt chín nổ “đòm đọp” mới thôi, luộc “phạm nhân” trong chảo nước sôi cho các “bạn tù” chiêm ngưỡng… Bạn đã nghe ở đâu có những chuyện như ở dưới ngục A Tỳ của ông Diêm Vương như thế chưa? - đấy là chưa kể, hàng nghìn nhân chứng còn sống sờ sờ ra đó với các phần thân thể tàn phế, câu chuyện của họ, những bức ảnh của họ, các hiện vật bảo tàng biết nói đang trưng bày ở Phú Quốc, Sài Gòn, Hà Nội. Tất cả là những lời tố cáo đanh thép nhất.

Đế quốc đã cút, Nguỵ quyền đã thảm bại, đảo Phú Quốc vẫn óng ả nắng vàng, vẫn mượt mà biển xanh, đích thị là một thiên đường du lịch, một con gà đẻ trứng vàng của ngành công nghiệp không khói Việt Nam trong thế kỷ 21. Nói chuyện xưa là để ngẫm chuyện nay, không hiểu sao, trong những chuyến bay Sài Gòn - Phú Quốc, những chuyến tàu xé toang mặt biển từ Rạch Giá đi An Thới, cái dự định tìm gặp bằng được tên đao phủ khét tiếng Trần Văn Nhu cứ ám ảnh tôi mãi. Anh em công an, bộ đội biên phòng, giới nhà báo, văn nghệ sỹ ở thành phố Rạch Giá đã kể với tôi nhiều chuyện về Bảy Nhu, dù hầu hết trong số họ chưa ai trông thấy Nhu bằng xương bằng thịt bao giờ! Chuyện nào cũng ly kỳ như trong tiểu thuyết, rồi ai cũng khuyên tôi nên bỏ ý định đi tìm Bảy Nhu. Có người bảo, ông Nhu không bao giờ chấp nhận gặp một ai nữa đâu, ông ta lánh đời, ăn chay trường, niệm Phật để mong sau này về cõi âm, đỡ phải bị “đền tội” thông qua việc bọn quỷ nó cho vào cối giã sống, hoặc hai tên quỷ ngồi hai bên, nhâm nhi cứa đứt cổ Nhu bằng một sợi dây đàn khò khử đêm ngày. Có người bảo, vì quá nhiều người muốn lén giết chết Nhu cho hả lòng lương thiện của mình, nên Nhu sống biệt tăm trong hang núi giữa một bầy chó béc-giê và hệ thống súng ống cướp được từ thời loạn lạc, ông ta dữ dằn tìm phương kế tự bảo mình (?)...

Lịch sử ghi rõ: Nhà tù Phú Quốc có diện tích hơn 400ha, gồm 44 phân khu, trong 7 năm tồn tại của mình (từ năm 1966 đến 1973 khi hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, các bên trao trả tù binh), nơi đây đã giam giữ và tra tấn tàn độc với ít nhất 40.000 tù nhân cộng sản và thường dân yêu nước, trong đó khoảng 4.000 người đã chết thảm vì những trò tra tấn tàn độc nhất, ác quỷ nhất. Thi thể của họ bị ném xuống biển hay vùi rấp ven các cánh rừng, rông núi ngoài đảo xa. Năm 2009, tôi cũng đã có mặt, chứng kiến đội quy tập mộ liệt sỹ (k92) của Tỉnh đội Kiên Giang cất bốc, quy tập cả nghìn bộ hài cốt tù nhân ở khu vực nhà ngục Phú Quốc; vừa rồi trở lại, nhìn những cánh rừng tan hoang hang hốc bởi cuộc khai quật mồ liệt sỹ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đó, tôi đã khóc và nghĩ rằng: lẽ ra Truyền hình Việt Nam phải tổ chức truyền hình trực tiếp sự kiện bi tráng quá sức tưởng tượng này. Sóng hình quốc gia ở đâu? Sao mà cứ đi “trực tiếp” quá nhiều chương trình “nực cười” đến mức bị “Táo Truyền hình” đưa ra rỉa rói rồi công luận hả hê như vậy nhỉ? Máy xúc máy ủi làm việc hết công suất, có hố chôn tập thể, gồm cả 500 bộ hài cốt, nhiều bộ xương, sau gần nửa thế kỷ bị chôn rấp, vẫn cứ đau đớn găm bên mình tới 16 cái đinh mười do cai ngục tra tấn khi xưa.

Trong hồ sơ của Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc, hiện còn lưu giữ hồ sơ về 24 ngón đòn tra tấn “bài bản và hiệu quả” mà các viên cai ngục đều đã thực hành, đúc rút, lưu truyền “nức tiếng”. Trong suốt mấy chục năm các ngón đòn độc địa kia đã giúp trại tù Phú Quốc vang danh với sứ mệnh của một địa ngục trần gian, nơi mà các viên cai ngục vào vai dã thú một cách hoàn hảo nhất. Còn các công trình, tác phẩm, tư liệu của nhiều tác giả, nhiều nhân chứng viết về nhà ngục Phú Quốc thì đều có nhắc đến 45 hình thức tra tấn tù nhân độc ác ngoài sức tưởng tượng, trong đó đặc biệt “choáng váng” là những trò “sáng tạo vượt bậc” do Bảy Nhu và đồng bọn quái đản của chúng áp dụng trên thân thể chính đồng bào yêu nước của chúng, thông qua các dụng cụ tra tấn “danh bất hư truyền”: Vồ sầu đời và gậy biệt ly. Rằng: bị cái vồ ấy đã đụng vào là coi như sầu đời, chết ném xuống biển làm mồi cho cá dữ, sống thì cũng sầu đời mãn kiếp với các thương tật khiếp vía (vồ sầu đời); còn cái gậy ấy, ai đã bị nếm, coi như ly biệt gia đình, đồng đội và cả... cõi dương gian (gậy biệt ly). Hàng chục nhân chứng đã đem thân tàn ma dại của mình ra chứng minh cho sức mạnh của gậy biệt ly, vồ sầu đời, cả các cái gậy cái vồ ấy đều đã được trưng bày tại Phú Quốc và nhiều địa phương, cả những bức ảnh nạn nhân đã chết và còn sống; cả các pho tượng tạc hình nhân bị tra tấn kinh dị nhất..., tất cả hiện lên trước mắt tôi, với lời thuyết minh của các nhân viên phòng trưng bày tại Nhà tù Phú Quốc. Nhưng, ngần ấy vẫn chưa thật sự ám ảnh và khiến tôi phải mất ăn mất ngủ vì sợ hãi, như là khi đã gặp và trò chuyện với Bảy Nhu.

 Ông Vũ Minh Tằng, khi đem 9 cái răng "định mệnh" của mình "hiến tặng" cho bảo tàng chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày (Phú Xuyên, Hà Nội).

Cũng theo hồ sơ lưu trữ, ở Trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam/ Phú Quốc, có ít nhất 24 ngón đòn tra tấn cực kỳ hiểm ác được bọn chúng “đúc kết kinh nghiệm” và “ghi chép thành văn bản” để chuyền tay nhau “học tập”, “thực hành”. Trong đó, có ngón đòn “đục răng” là khủng khiếp nhất, man rợ nhất. Và Thượng sĩ Nhu (Bảy Nhu) được bầy ác quỷ ở các khu giam tôn làm “sư phụ” của ngón đòn này. Ông Nguyễn Minh Hoàng, một cựu tù Phú Quốc, hiện sinh sống ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị tên Thượng sĩ Nhu đục mất hai chiếc răng trong thời gian ba ngày ba đêm. Anh (Hoàng) bảo với tôi: “Bọn chúng cùm tay cùm chân rồi lấy hai mảnh ván bắt ốc vít xiết ép ngực cho há miệng ra. Và sau đó, tên Thượng sĩ Nhu dùng đồ nghề chạm khắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ để đục răng tôi. Gã làm nhẩn nha như là giỡn chơi nhưng đau nhói buốt tận óc, khiến tôi chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần...”. Rất nhiều tù nhân thân thể tiều tụy khi bị tra tấn bằng ngón đòn đục răng đã phải từ giã cõi đời vì không sao chịu đựng nổi. “Gã đục răng tù nhân để dành được cả mấy bơ sữa bò rồi kết lại thành chuỗi tràng hạt đeo tòng teng trên cổ, ngó giống hệt Sa Tăng đeo xâu đầu lâu trên người trong truyện Tây du ký !” (Trích tác phẩm đã công bố của tác giả Nguyễn Tam Mỹ).

Ngồi chung một bàn trà với “thượng sỹ bẻ răng” Trần Văn Nhu

Một vị đại tá của Tỉnh đội Kiên Giang rất chu đáo bố trí tôi ra đảo, rồi nhờ người dò la tung tích, tìm đến nhà Bảy Nhu. Sở dĩ anh biết ông già 83 tuổi Trần Văn Nhu, là bởi: tỉnh đội tổ chức cất bốc hàng nghìn hài cốt của những người bị tra tấn đến chết “vứt xác” ra bờ biển, triền đồi thời nhà tù Phú Quốc còn nguyên chức năng đen tối là cái “địa ngục trần gian” của cả vạn người yêu nước Việt Nam, trong quá trình đi tìm kiếm rất mệt mỏi, kỳ công, có người hiến kế: không ai rành rẽ việc giết người và chôn rấp người tù... viên cai ngục Bảy Nhu, sao không gọi hắn ra làm “chỉ điểm”? Các chiến sỹ đội K92 bèn tính kế cho mời ông Nhu làm “cố vấn”, hướng đạo, ông nhớ rõ mấy trăm người chôn ở đâu, mấy trăm người ném xuống biển nào, ông hãy lấy công chuộc tội đi chứ.

 Viên cai ngục khét tiếng một thời - Bảy Nhu - ở tuổi ngoài 80, người “căm ghét” chụp ảnh, trong cuộc trò chuyện với chúng tôi.

Nhờ “sức ép” từ phía lực lượng vũ trang, nhờ sự cài cắm nhiệt tình của một Đại tá quân đội đương công tác, lại thêm sự hào hiệp của ông Hai Nam - con người hào hoa từng “mang tội với cách mạng” do có tham gia làm tiếp phẩm cho Trại tù binh Phú Quốc năm xưa (người mà Nhu rất tin tưởng) - tôi đã “đột kích” vào nhà Trần Văn Nhu, “thưởng trà” với một cụ già 83 tuổi, nghe ông ta thú nhận tội ác. Tôi nghe tiếng thở dài khọt khẹt của ông Nhu kèm theo cái câu biện minh cho việc mình làm Quỷ Sứ của mình và đồng bọn, nghe não nề làm sao: “Ngày ấy, loạn ly, “mình ở trong tay nó” (Mỹ - Nguỵ), không ít những người trai như tôi đây, sống cái cảnh trời gọi ai người nấy dạ, biết làm sao được...”.

(còn nữa)

dinhphdc wrote on Dec 24, '11, edited on Dec 24, '11
Bài 2:
Đối thoại sởn gai ốc giữa 1000 cái răng và 01 con quỷ...

71 tuổi, ông Vũ Minh Tằng già yếu lẩy bẩy. “Tôi là Bí thư chi bộ trong nhà tù, tháng 12 năm 1971, sau khi tôi tổ chức cho anh em vượt ngục. Thằng Nhu cho tôi vào chuồng cọp, biệt giam. Nó đập vỡ hai đầu gối tôi, vỡ vụn lạo xạo như những cái vỏ trứng bị vò nát. Tôi ngất đi, nó dùng “Gậy biệt ly” bằng sắt, to như cái ống tuýp nước vả gẫy từng chiếc răng của tôi. 9 chiếc răng cả thảy. Tôi giờ vẫn đi được, nhưng đi nó liêu xiêu, nó chênh chao như người phải gió ấy”. Nói rồi, ông cụ nhỏ thó, quê mùa ấy cứ ngồi bần thần, không khóc, không tức giận, dường như có một nỗi hoang mang kinh hãi nào đó cứ bám riết lấy ông suốt 40 năm qua.

Hàng nghìn cái răng cùng “lên tiếng”

Bảy Nhu đã trở thành người phụ trách các phân khu nhốt tù binh cộng sản, thành người trực tiếp vặn bẻ răng, lấy mắt cá chân của người tù trong suốt nhiều năm, hàng trăm người đã là nạn nhân của “trò chơi tàn độc” này. Nhiều tài liệu cho thấy, Bảy Nhu thậm chí còn sưu tầm răng mà hắn đã vặn của những người tù, hắn để trong một cái mũ sắt lố nhố “kính thưa các loại răng”, hắn coi đó là một cái thú tiêu khiển. Cái “thú” súc vật và bệnh hoạn nhất mà thế gian này từng biết đến, hàng nghìn cái răng đã bị vặn “sống” như thế! Đôi mắt lạnh, giọng nói của Bảy Nhu rít lên, hắn cầm một cái thanh sắt, bắt các người tù há miệng, “mày cho tao xin một cái răng, mày cho cái nào thì cứ nói thẳng ra…?”. Rồi hắn gõ mạnh, giật tới, có người tù ngất đi. Lúc tỉnh lại, Bảy Nhu bảo: mày mà để phun giọt máu nào ra sàn nhà nữa, tao sẽ giết chết, mày hãy uống máu của mày, nuốt hết máu vào trong bụng đi nhé. Rồi thò tay vào mồm, nhặt trả tao cái răng của mày.
 Hơn 1000 di cốt của người tù ở địa ngục trần gian Nhà tù Phú Quốc được khai quật vừa qua, nhiều bộ xương vẫn còn bị găm tới 16 cái đinh sắt.

Tôi (người viết bài này) rợn người mất ngủ liền mấy đêm, khi nghe tận tai giọng kể của cụ Út Minh (đang sống ở gần nhà... Bảy Nhu ngoài đảo Phú Quốc), người tù Cộng sản kiên cường bị nhổ răng ấy. Hàng trăm nhân chứng khác (trong đó có ông Tằng) cũng đã kể như vậy khi đến thăm lại “chiến trường xưa” Phú Quốc. Các cụ chua xót, hãi hùng tường thuật lại, ai cũng nói giống ai, đến mức, các cô hướng dẫn viên du lịch về nguồn ở Nhà tù Phú Quốc nghe đã quá quen thuộc. Và, nhiều người nghe tin Bảy Nhu còn sống thì hùng hổ leo đồi đi tìm đòi… “giết chết chúng nó”. Nhưng khi thấy Bảy Nhu ăn chay, niệm Phật, già nua quá thể, cũng già nua như chính những người tù còn sót lại đến hôm nay thì họ đã bật khóc, thương mình và xót cho kiếp người của viên cai ngục - Bảy Nhu...

Trở lại nhân chứng, người tù cộng sản Nhà tù Phú Quốc bị vặn răng tên là Út Minh. Khi đoàn khai quật cả nghìn bộ hài cốt ngoài Tượng đài Nắm Đấm (gần nhà tù) đang rầm rộ dùng máy xúc máy ủi bóc đất đá tìm kiếm các phần thi thể của bốn nghìn người tù cộng sản bị chôn vùi dưới 5-6 mét đất sâu, thì có một người lính già, mặc quân phục bạc màu đến miệng hố ngồi bần thần, gườm gườm nhìn Bảy Nhu, khi ông Nhu đang được “trưng dụng” tìm chỉ các hố chôn tập thể. Thấy Nhu “bốc phét” nhiều quá, cụ Út Minh mất bình tĩnh, vác gậy dồn đuổi, chửi bới lanh tanh bành. Một cụ già hom hem đuổi đánh một cụ già lẩy bẩy! Cụ già Nhu sợ hãi trốn mất. Thượng tá Nguyễn Văn Cao (tỉnh đội Kiên Giang), người phụ trách công trường khai quật thấy kỳ lạ, bèn bắt chuyện. Ông Út Minh căm phẫn kể: sau nhiều năm ở nhà tù, lúc giải phóng (1975), ông đã quyết tâm không về quê, mà tình nguyện sống ở gần khu vực… hố khai quật. Bởi, trong ông, nỗi ám ảnh địa ngục trần gian quá lớn. Địch đã bị giam ông 6 năm, qua sáu bảy cái “phân khu” tù binh, đến năm 1973, ông Út Minh được địch mang từ Phú Quốc, ra tận sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trao trả. Ông trực tiếp bị chính Bảy Nhu (người hàng xóm hiện nay) tra tấn bằng cách đè ra nhổ mất 6 cái răng. “Tui nằm trong tù từ năm 1966, suốt gần 7 năm, tui chỉ dám tính đường chết, chứ tịnh không có dám tính đường sống. Nó bắt tôi há mồm, hỏi cho xin cái răng, “mày cho tao cái nào?”. Tui chán quá, bảo: ông lấy cái nào thì lấy, cái răng nào trong mồm tôi mà chẳng là răng... của ông! Nó ghè thanh sắt vào, nhổ răng tui. Giật gẫy, nó bắt tui thò tay vào miệng mình lôi từng cái răng đỏ quạch máu ra, đặt lên bàn cho nó xem. Rồi nó bắt tui phải tự uống hết số máu chảy trong miệng tui ra, một giọt nào ứa ra ngoài, nó sẽ đánh chết, quẳng xác xuống biển” - cụ Út Minh nói, giống như những gì mà cụ Tằng đã kể với tôi, dù hai người chưa bao giờ biết đến nhau, dù từ sau khi được phóng thích, cụ Tằng chưa bao giờ trở lại Phú Quốc.

“Tôi giữ 9 chiếc răng để nhớ về một cái “địa ngục”, để sau này con cháu nó bỏ vào quan tài cho tôi”

Những chiếc răng xấu số đã lên tiếng. Tôi đem những câu chuyện đó ra hỏi ông Bảy Nhu. Những tưởng viên cai ngục khi xưa, ông già lạnh lùng và tinh quái hôm nay sẽ “cãi bay cối đá”, sẽ dùng đủ mọi thủ thuật “hỏi cung” tù binh độ nọ để biện minh cho các hành vi tàn ác “lẫy lừng” của mình. Không ngờ, ông già Nhu rất điềm đạm, rất ưu thời để rồi... công nhận tất cả.

Căn nhà nằm biệt lập trong đồi bạch đàn, con đường đất đỏ, rậm rịt, tối om, nồng nã mùi lá mục dẫn tôi và ông Hai Nam (người đưa đường, cũng là một tiếp phẩm của trại tù binh Phú Quốc khi xưa, từng đi cải tạo về và nay tham gia nhiều hoạt động xã hội hữu ích, được chính quyền cơ sở và các đoàn thể hiện nay tặng rất nhiều giấy khen, bằng khen; là chủ hãng nước mắm Nam Hương nổi tiếng ở Phú Quốc) vào nhà Trần Văn Nhu. Để có được cuộc trò chuyện giữa tôi và ông Nhu, điều không thể thiếu là các cuộc gọi điện thoại “dọn đường” đầy năn nỉ của ông Hai Nam, bởi ông Nhu tin ông Nam lắm, chẳng gì thì giữa cô đơn, mặc cảm quá lớn ngoài hòn đảo bé nhỏ này, ông Nhu vẫn coi ông Hai Nam là “cùng hội cùng thuyền” với mình. Ông Nam dặn tôi kỹ càng, mua quà gì, nói thế nào, đừng nhắc tới cái gì, và muốn ghi âm, chụp ảnh thì phải làm lén ra sao. Ông Nhu đã già lắm, dù giọng vẫn còn khoẻ. Da đen sạm, xù xì như chuối chín trứng cuốc, răng gẫy mất nhiều, nhưng nói năng rất rành rọt. Trả lời các câu hỏi của khách rất cao tay, biết lảng chuyện và biết dẫn chuyện theo cái lối mà mình muốn... Quả, không hổ danh một viên cai ngục “nức tiếng”, từng lấy lời khai, từng tìm cách ép cung, khủng bố tinh thần và hạ sát nhiều trăm người tù cộng sản đứng vào hàng kiên trung nhất của chúng ta.

Khi tôi hỏi về cung cách “lấy răng”người khác, tại sao ông thích lấy răng cho vào bộ “sưu tập”, ông Nhu trả lời qua loa, rồi nhanh chóng lảng chuyện. Cái đầu hói, tia nhìn lạnh lẽo, dò xét, câu nào của ông Nhu cũng chứa đầy sự mặc cảm. Tôi bảo, tôi là cháu ông Hai Nam, đi nghiên cứu về lịch sử vùng Phú Quốc, qua thăm và tặng chút tiền, quà cho ông Nhu dưỡng sức về già, dẫu thế nào thì ông Nhu cũng đã ở tuổi gần đất xa trời, và người ta bình đẳng trước tuổi già và cái chết. Tôi không kỳ thị, lịch sử không kỳ thị, ông biết ăn chay, niệm Phật, ông thật sự ân hận như thế là mừng cho đời ông lắm rồi. Ông Nhu có vẻ yên tâm, tuy nhiên, thỉnh thoảng ông vẫn giật mình ngắc mình ra khỏi câu chuyện, mà thảng thốt: “Cháu có phải nhà báo không đấy?”, ông tuyệt đối dị ứng, và “cấm tiệt” chuyện quay phim chụp ảnh là vì thế.

Bảy Nhu nói:
“Tui quê ở Đồng Tháp, tui cũng con nhà tử tế lắm chớ. Nhưng tôi sinh ra, bị “bọn chúng nó” (Mỹ - Nguỵ) bắt phải đi lính, rồi đời nó lầm lạc như vậy đó. Sinh năm 1926, năm 20 tuổi tôi đã bị giặc “tổng động viên”, phục vụ trong chính quyền ngụy rất là khổ sở. Năm 1967, khi Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc (Nhà tù Phú Quốc) vừa mới được chính quyền Sài Gòn thành lập, tôi được “chúng nó” điều ra hòn đảo này. Lúc đầu, nó bảo, ra đảo 3 tháng sẽ được về với vợ ở Sài Gòn, rồi 6 tháng, rồi ở suốt 7 năm ròng, tôi phải làm “đao phủ” ở đó cho đến đến khi nhà tù giải thể luôn (năm 1973).

“... Sau giải phóng, nhiều người rủ tôi về Đồng Tháp sống để quên hắn cái chỗ tội ác kinh khủng này đi, nhưng tôi không về. Dẫu thế nào, thì cuộc đời tôi đã gắn bó với vùng đảo này. Đã 4 lần các thế lực ở Mỹ muốn tôi nhập cảnh sang bên đó, để “đền đáp” những cống hiến của tôi với “đế quốc” và chính quyền Sài Gòn cũ (?); nhưng, tôi đã không đi, tôi muốn ở lại đây, tôi muốn chết ở đây. Tôi nói lại nhé: gia đình tôi ở Đồng Tháp, có em trai, chị dâu, cháu tôi đều tham gia hoạt động Cách mạng, là những người Cộng sản chân chính (?); vì thế, lúc tôi mới ra đây làm quản lý nhà tù, các “ông” (chính quyền Sài Gòn cũ) thử thách tôi ghê lắm, họ theo dõi tôi từng ly từng tý. Vì thế tôi phải nỗ lực làm việc (tra tấn tù nhân thật tàn ác?), để chứng minh là mình hết lòng trung thành với họ. Kẻo họ sẽ thủ tiêu tôi. Dần dà…”. Ông Nhu bỏ lửng câu nói, hình như trong đầu ông lại thêm một lần lặp lại câu hỏi đầy nghi kỵ “Cháu là nhà báo phải không”. Có lẽ, nếu cứ để ông Nhu nói, ông sẽ kể: “Dần dà, tôi mới tàn ác như thế chứ, mới đeo ống bơ đi “xin răng” và xin mắt cá bà con nước Việt mình, của những người yêu nước chân chính ở “địa ngục trần gian” như thế chứ” (!!?).

Bảy Nhu thở dài: “Nhiều người tù từng bị tôi tra tấn, họ đến thăm lại chiến trường xưa, họ kể lại những năm tháng họ dùng thìa dĩa đào hầm bí mật trốn khỏi nhà tù, rồi họ vỗ vai tôi như những người bằng hữu. Điều đó làm tôi thấy hổ thẹn!”. Ông Nhu khoe tôi tấm ảnh chụp chung với các người tù quả cảm đến kinh hoàng. Có người mất tới 91% sức khỏe, bị mù mắt, bị vặn răng bởi ông Nhu, nhưng khi gặp lại, họ vẫn chụp ảnh chung, vẫn tha thứ tất cả, lời đề tặng mặt sau tấm ảnh người cựu tù gửi từ Sài Gòn ra Phú Quốc cho viên cai ngục Bảy Nhu: “Chúc anh Nhu dồi dào sức khỏe”. Nếu tôi từng cảm thấy kỳ dị, sửng sốt vì tội ác ở nhà tù Phú Quốc, thì giờ đây, điều làm tôi bất ngờ hơn là sự tha thứ của đồng bào mình, đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại kể trên. Giọng ông Nhu vẫn đều đều như vọng lên từ một cõi không dính dáng gì đến trần gian: “Bốn nghìn người chết, trước năm 1971, ai chết thì chôn rấp ra ngoài bìa rừng. Xe quân cảnh chở xác người ra, nó ném xuống đấy, rồi nó chạy vội về kẻo sợ du kích bắn tỉa”.

Nghe đến đây, bất giác, tôi nhớ đến ông Vũ Minh Tằng ở Vụ Bản, Nam Định.

Ông Tằng nghẹn lời kể: “Tôi bị bắt ở Quảng Ngãi, vào tháng 9 năm 1967, địch nó xịt hơi ngạt vào hang đá Chẹt rồi đưa tôi ra Nhà tù Phú Quốc. Tên Nhu và bọn quân cảnh đã đập vỡ mắt cá chân của anh em tù binh, lấy cơm, trộn vào máu, chấm vào các thùng phân của chính chúng tôi, nắm thành viên bắt anh em phải ăn. Ăn cơm với máu và phân người.

Chúng nó “lấy” răng tôi bằng cách, dùng những thanh sắt như cái tuýp nước, to hơn đầu ngón tay cái một chút. Nó bắt mình há miệng, nó đánh gẫy từng cái răng, lại đổ nước vào. Bụng tôi trướng lên. Như có ai dùng dao rạch dọc miệng, cuống họng và ổ bụng mình. Tôi ngất đi, 9 cái răng ở trong bụng tôi. Trong chuồng cọp, nó để một cái thùng sơn ở góc nhà, lâu lâu thì tù nhân lại đi cầu (đại tiện) vào đó. Bị tra tấn nhiều, có khi tôi ngồi hàng tiếng đồng hồ, nó chỉ “ra” được cục phân bằng ngón tay út ấy, chờ mãi các cái răng của mình mới lần lượt được “đi cầu” ra, tôi lại vò đám phân của mình, tìm răng, rồi bọc vào xi-líp (quần đùi). Tôi giấu răng tôi ở đó suốt những năm lao tù, cho đến tận ngày trở về. Tôi giữ suốt 39 năm qua với hy vọng, khi tôi chết, 9 cái răng sẽ theo tôi vào trong quan tài. Tôi đã dặn con cháu mình như thế!”.

Nói xong, vân vê 9 cái răng, ông Tằng nấc lên, ông khóc ngon lành như một đứa trẻ.

(còn nữa)

dinhphdc
 wrote on Dec 24, '11
Bài 3:

Cận cảnh một phiên “ăn thịt người” của “bầy quỷ sống” Bảy Nhu và đồng bọn!

Có một sự thật như sau: từ khi nhà ngục Phú Quốc hết sứ mệnh địa ngục trần gian của nó (năm 1973), “bức màn đen tối” che phủ các “sân khấu” tra tấn bất nhân kiểu nhổ răng, lấy mắt cá chân, tẩm đốt dương vật tù nhân, luộc người trong chảo nước sôi… đã được vén lên. Gậy biệt ly, vồ sầu đời đã theo lời kể của hàng nghìn, hàng vạn người tù sống sót tỏa đi khắp mọi miền. Viên cai ngục Bảy Nhu cũng trở nên khét tiếng qua nhiều tài liệu bảo tàng, nhiều cuốn sách, bài báo đương thời và sau này. Tuy nhiên, vì thời gian xa xôi dần, vì một bên là “địa ngục” của “quỷ sống” ẩn dật với một bên là tráng chí của những người Cộng sản quật cường đã về lại quê hương, cho nên, các câu chuyện về mấy chục ngón đòn tra tấn đã đi vào “văn sách” của Trại tù binh kia vẫn bảng lảng đó đây, cứ như là huyền thoại.

Và, đó là lý do để người viết bài này quyết tâm đi tìm Bảy Nhu, gặp, trò chuyện với các nạn nhân của các trò “ăn thịt người” mà Nhu cùng các “thuộc hạ” của ông ta đã tiến hành. Tiếp theo, với sự trung thực trong từng chi tiết nhỏ nhất, người viết xin được “phục dựng” lại một phiên tra tấn tàn bạo nhất mà lịch sử loài người đã từng có được...
 


Có khi, hứng lên là quân cảnh “nã” vài quả cối, khênh 80 xác tù nhân đi

Ông Vũ Minh Tằng kể: Tháng 9 năm 1967, sau khi bị bắt ở hang đá Chẹt ngoài Quảng Ngãi, tôi bị địch “di lý” ra Nhà tù Phú Quốc, tra tấn dã man. Bấy giờ tôi 27 tuổi, đã có vợ và 2 con ở quê nhà Nam Định. Sau khi đưa khoảng gần 100 đồng đội vượt ngục thành công, lại bị lộ do địch “cài” người giả làm tù nhân vận động “chiêu hồi”, thế là tôi bị Nhu và đồng bọn nhốt vào chuồng cọp.

Tại đây, tôi đã chứng kiến nhiều người chết bởi tay Nhu lắm. Có ngày nhiều thì khoảng 80 người tù bị giết chết, có ngày ít nhất cũng 20 “mạng”. Tôi miêu tả để nhà báo hình dung: tường chuồng cọp rộng 24 m2, trần chỉ cao có 1,8m - thế mà nó lèn vào đó 3 - 4 tầng người nằm ngồi, đè lên nhau như trong một cái bu gà đầy ự. Bờ tường sắt dày tới 20cm. Nó có một cái lỗ thông hơi, ở đó chỉ đút lọt được một cái cổ tay người, chứ không vừa được cái nắm đấm. Thế là, chúng tôi cứ thay nhau đến gần lỗ thông hơi đó để hít được hơi sương biển bên ngoài, với hy vọng là mình sẽ còn sống được. Bên trong ngột ngạt lắm. Người sống và người chết ở lẫn lộn, đôi khi không tài nào phân biệt được, vì rất nhiều người thoi thóp. Cứ thấy người chết đến đâu, nó lại lèn thêm một đợt nữa vào cho đầy “chuồng” (đủ lưu lượng 300 người!).

Đợt mà tôi sống sót ra khỏi chuồng cọp, cả chuồng chỉ còn sống có 18 anh em thôi. Trong khi, lúc nào ở đó cũng chặt cứng lưu lượng là 300 người trong diện tích 24 m2! Ví dụ hôm nay chết 70 người, tối đến nó đếm xác, khênh đi, lại lèn thêm 70 người khác vào thay thế. Trong 24 m2 đó, có đủ người Việt, Lào, Cam Pu Chia,... đủ người miền Trung, Nam, Bắc cả.

Tôi không thể nào quên được, vào tháng 12 năm 1971, hôm đó cũng tối trời như thế này, khoảng vào giờ tôi nói chuyện với anh đây (21 giờ), Nhu và đám quân cảnh điệu tôi ra khỏi chuồng cọp. Nó dùng chày đập dần dần, từng nhát một, đập vỡ đầu gối tôi, đóng đinh vào hai chân tôi, từng chiếc đinh một. Tôi thấy đầu gối mình lạo xạo, vỡ vụn, rồi tôi không biết gì nữa. Nó lại đổ nước vào mặt cho tôi tỉnh. Tôi thầm lạy bố mẹ, thầm vĩnh biệt vợ và các con, rồi tính đường để chết. Nhưng nó không muốn tôi chết ngay. Nó muốn tôi phải vào chuồng cọp, biệt giam, rồi tra tấn thật nhiều ngày cho đến chết. Nó không bắn cho tôi chết luôn đâu! Nó muốn mình phải chết một cách từ từ, vừa chết vừa nhớ lại về quê hương, đất nước, bố mẹ, vợ con, chết âm chết ỉ, chết đi sống lại cơ. Có ngày ở chuồng cọp đó chết tới 70 - 80 “khênh” (“thuật ngữ” ông Tằng và đồng đội dùng để chỉ những người chết bị khênh đi) đấy; nó từ từ cho từng xác người vào quan tài sau thời gian xác người và người sống bị lèn chung trong phòng sắt 24 m2 kia. Nó chậm rãi mang từng cỗ quan tài đi... ném xuống biển. Nó bắt tôi nhìn các cảnh kinh hoàng đó. Nó để cho tôi co tay sờ vào đầu gối mình lạo xạo, chi chít những cái đinh sắt dài mười phân (centimet). Sau gần 40 năm, đầu gối của tôi bây giờ vẫn chắp vá từng mảnh lục cục, lạo xạo, sờ vào đó có cảm giác rõ ràng, các chốt đinh nó vẫn sâu hoắm còn đây, nhìn rõ lắm.

Sau màn đập mắt cá chân, đóng đinh vào cơ thể, là đến “đặc sản” riêng có của Nhu: đục răng. Vẫn một cái tuýp nước bằng sắt, nó ghè vào miệng tôi, ghè đến lúc tôi ngất, nó cho đổ nước bắt tôi uống, uống đến trướng bụng tôi lên. Tôi ngất 9 lần sau mỗi cú ghè và tôi lần lượt nuốt 9 cái răng của tôi vào bụng, cùng với rất nhiều máu. Nhu không được “vinh dự” ngồi chờ nhìn tôi nhằn ra 9 cái răng của tôi ra, đặt lên bàn “cống” cho nó, chắc nó hậm hực lắm. Tôi luôn tin là tôi sẽ chết vì tay Nhu, tôi phải chết cho đáng mặt nam nhi thời đất nước còn lầm than! Tôi là Phó Bí thư chi bộ ở trại tù, tôi vận động anh em học tập chính trị, chống bọn “chiêu hồi”, vượt ngục bất cứ khi nào có thể. Biết thế, nên Nhu và đồng bọn càng tổ chức nhiều trò tàn độc hơn để hăm dọa.

Đến mức như thế này thì anh bảo là… có rách giời rơi xuống không. Có lúc thằng quân cảnh gác ở chòi gác, đang yên đang lành, Nhu hứng chí ra lệnh đáp (bắn) một quả cối 82 xuống khu tù nhân, vài ba chục “khênh” (người chết), rồi có những lần 80 khênh. Chúng nó tuyên bố, kể cả chết hết đám đó (tù binh) nó chỉ mất năm cắc, là 5 xu thôi (trong khi lương của Nhu là hơn 10 cây vàng/ tháng). Rằng, nó lập một cái văn bản, nói rằng giới cầm quyền giam giữ tù binh nhìn thấy tù nhân nổi loạn, nên buộc lòng phải thi hành nhiệm vụ, phải nã vài quả cối 82 vào để trấn an tình hình. Thế là, xác người lại chôn rấp ngoài bìa đồi, hoặc ném thẳng xuống biển, sẽ không ai biết đấy là đâu.

Tôi ra khỏi nhà tù, mất 66% sức khỏe. Cảm ơn anh cho tôi xem lại những bức ảnh ông Nhu ở tuổi 83 bây giờ, tôi không thể ngờ ông ta còn sống, không thể ngờ nhà nước ta lại nhân đạo tha thứ cho hắn. Nếu gặp, tôi sẽ nói: “Mày tra tấn tao dã man quá, có vẻ như mày không phải là một con người nữa, Nhu ạ”. Tôi sẽ không đuổi đánh ông ta như cụ Út Minh mà nhà báo kể, là bởi vì, việc ông ta tiếp tục sống, là một việc cũng rất hay cho lịch sử. Là một lời tố cáo đanh thép nhất, là nhân chứng sống của địa ngục trần gian nhà tù Phú Quốc năm xưa. Mặt khác, nhìn vào sự độc địa của Nhu và đám quân cảnh, người ta còn thấy sự quật cường, sự can trường của những người tù chính trị ở Phú Quốc bấy giờ.

Tôi còn nhớ, khi gần đến ngày buộc phải thả bọn tôi ra theo Hiệp định Paris (năm 1973), Nhu còn “tiếc nuối” bảo tôi là: “Mày có một cỗ ván (quan tài) rồi, nhưng mà mày không được chui vào cỗ ván đó (ý là còn sống sót). Chứ mày chui vào (chết vì tra tấn) thì bọn tao cũng thả mày xuống biển”. Ông ta rất khát máu.

Bảy Nhu: “Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, quý hóa lắm!”

“Nhân nào quả nấy, tôi và Nhu cũng đã gần đất xa trời cả rồi, oán thán nhau, cũng chẳng ích gì nữa” - ông Tằng thở dài, ngồi im lặng như một pho tượng trong bảo tàng. Từ nanh vuốt của quỷ ngoài đảo Phú Quốc ra Bắc, ông Tằng được điều về công tác tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, làm đội phó đội an dưỡng hơn 1 năm trời. Sau đó, ông về quê, sống nốt phần đời với sự tàn phế mất 66% sức khỏe, với nghề làm ruộng. Bây giờ, ông Tằng hưởng chế độ của “bệnh binh 2”, mỗi tháng được 1,1 triệu đồng trợ cấp. Trong thì buổi “gạo châu củi quế”, giá cả leo thang chóng mặt, ông Tằng sống khốn khó, vết thương cũ hành hoành, ông đi lại chệnh choạng do đầu gối vỡ dập nhiều mảnh, đầu choáng liên tục vì thiếu máu não Chưa hết, ông Tằng còn phải nuôi thêm người em trai tàn tật, bị gẫy cột sống từ năm 13 tuổi, năm nay đã ngoài 60 tuổi. Bà vợ ông Tằng thì cũng đã 72 tuổi, đầu gối lúc nào cũng xưng như cái ấm ủ do bệnh “thấp khớp đớp tim”, “bà ấy nhà tôi sống bằng thuốc chứ không sống bằng cơm thịt rau cỏ như người thường đâu”. Tuổi già và nỗi tủi phận nào đó dâng lên, làm giọng cụ già hom hem Vũ Minh Tằng nghẹn lại, có gì đó thật chua xót.

Oái oăm và tình cờ thay, khi gặp chúng tôi, ông Nhu cũng bị bệnh khớp hành hạ ghê lắm, đi cà nhắc y như… vợ ông Tằng. Nhà khó khăn, đàn con cháu, người tai nạn chết, người sống nghèo ít học khắp nơi. Song, dường như sự thanh bần nào đó, sự chay tịnh niệm Phật vớt vát cuối đời nào đó của ông cũng đã là sự ưu ái quá lớn của xã hội ta, của số phận với ông Nhu rồi. Trước lúc chia tay, run run nhận món quà của người khách xa, ông Nhu hồ hởi khoe: thế là nội ngoại tôi có đủ 6 đứa cháu rồi. Tôi muộn đường con cái, vì lúc ở ngoài đảo, cuộc sống chẳng khác gì các tù nhân, tôi có được gần vợ đâu mà đẻ. Vợ ở tít mãi Sài Gòn.
“Tôi đi cải tạo, nhờ tinh thần cải tạo tốt, tôi được trở về nhà với đàn con của mình sớm hơn so với “bản án” khoảng 2 năm. Thế mà người ta kéo đến, người ta dằn hắt, bảo rằng sao thằng ác ôn nó lại được tha về. Tôi về, mặc áo lành người ta cũng chửi, mặc áo rách người ta cũng chửi. Nhiều người cứ xông lên đòi giết chết tôi. Chính quyền cơ sở đã bảo vệ tôi. Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, họ thư thứ cho tôi, nghe nói ở nước ngoài, chữ Đồng bào không dịch được ra tiếng Tây, quý hóa lắm. Tôi tình nguyện làm công tác xã hội để chuộc lỗi lầm là vì thế” - Bảy Nhu tỏ ra xúc động nói.

Ông Bảy Nhu còn ngụy biện nhiều lắm: “Mỹ nó không đánh mình đâu, chúng nó chỉ có 1 thằng giám sát cai quản, đánh sao nổi, mình làm sai là nó ghi vào “sổ đen” cái điều đó, có hành vi gì đó là đưa ông lớn nó, ông lớn nó gọi điện thoại xử lý mình. Thằng Mỹ nó chỉ đi lù lù không có nói hết. Trước 1970, kỷ luận lỏng lẻo, muốn đánh đập, tra tấn ai là tùy. Sau này mới “chặt” đó. Sau này mà đánh người không trong diện đánh, có khi nó phế truất ra khỏi quân cảnh, đi làm bộ binh đánh nhau thừa sống thiếu chết ở ngoài hòn tên mũi đạn kia kìa (?!). Vào quân cảnh là danh giá, khó khăn lắm, chứ bộ”.

Dù buốt xót, dù choáng váng và ít nhiều mất mát niềm tin vào lòng nhân ái ở đời, song, chúng ta cũng cần phải sớm ghi lại những cảnh “kinh dị” này.

Bởi đó là Lịch Sử.

Phạm Thị Thảo Giang

dinhphdc wrote on Jun 12, '10, edited on Dec 24, '11

Hồi ức đen của viên cai ngục nhà tù Phú Quốc

Mà không phải xa xôi huyền thoại gì, cuối năm 2008 - đầu năm 2009 vừa rồi, Đội K92 của Tỉnh đội Kiên Giang chỉ “ra quân” trong hai chiến dịch, đã phát hiện và cất bốc được tới khoảng 1.300 phần di cốt, có những hố chôn tập thể với 500 con người đã nằm cô quạnh suốt mấy chục năm bên bìa rừng.

Có bộ xương người Cộng sản vì nước quên thân khi cất bốc, người ta vô cùng hãi hùng phát hiện ra có tới 16 cái đinh sắt khổng lồ đóng khắp cơ thể.Với cuộc truy tìm hài cốt lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam này (3.000 bộ), câu chuyện về địa ngục trần gian với những con quỷ sứ đội lốt người dần được hiện lên, như thước phim quay chậm vô cùng thuyết phục.

Khu Chuồng Cọp

Bọn chúng đập vỡ mắt cá chân, dùng ván và đinh ốc ép cho vỡ lồng ngực tù nhân; dùng kìm rút móng chân móng tay, dùng giẻ tẩm dầu đốt… dương vật, dùng cây sắt nhổ dần từng chiếc răng chính trị phạm; móc mắt hoặc dùng bóng điện lớn để gần mắt cho đến khi mắt chín nổ “đòm đọp” mới thôi, luộc người trong chảo nước sôi…

Trong hồ sơ của Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc, hiện còn lưu giữ hồ sơ về 24 ngón đòn tra tấn “bài bản và hiệu quả” mà các viên cai ngục đều đã thực hành, đúc rút, lưu truyền trong suốt mấy chục năm nó làm sứ mệnh của địa ngục trần gian.

Bất ngờ thay, viên cai ngục được coi là tàn ác nhất nhà lao Cây Dừa, năm nay 83 tuổi, vẫn đang sống, ăn chay trường, nhang khói niệm Phật ở khu đồi hẻo lánh ngoài đảo Phú Quốc>.

Gian nan tìm viên cai ngục

Khi tôi có ý định đi tìm viên cai ngục từng móc mắt, nhổ răng các tù binh Cộng sản, nhiều người đã cực lực phản đối. Có người bảo, ông ta sống ẩn dật trên nương rẫy hoang vu rậm rạp ngoài xó đảo, với bầy chó hung dữ canh gác, tuyệt đối không tiếp xúc với ai.


Có người cảnh báo: Bảy Nhu (viên cai ngục, tên thật là Trần Văn Nhu) làm Giám thị trưởng quyền sinh quyền sát một thời, hắn sống được đến giờ, là nhờ một quyền năng bí ẩn của thế lực nào đó, gặp hắn rất nguy hiểm. Tôi không tin vào những điều đồn thổi đó. Chỉ ngặt vì không tài nào lần ra con đường đến khu vực mà Bảy Nhu đang sinh sống. Và điều tôi băn khoăn nhất là khi vượt biển ra An Thới là sẽ nói gì với ông ta - một đao phủ của địa ngục.

alt

Đại tá, Đội trưởng Đội K92, anh Nguyễn Minh Chánh đón tôi ở TP Rạch Giá. Anh Chánh đã dẫn quân đi khắp núi rừng Campuchia xa xôi, rậm rạp trong nhiều năm, cất bốc hàng vạn bộ hài cốt bộ đội tình nguyện Việt Nam. Hiện nay, chính đội quân của anh, cũng đã tìm kiếm và quy tập được hơn 1.000 bộ hài cốt các chiến sỹ Cộng sản đã vì nước quên thân ở nhà tù Phú Quốc.

Đại tá Chánh bảo: Tôi có gặp Bảy Nhu một lần để hỏi ông ta khai quật ở khu vực nào thì trúng địa điểm nhất. Ông ta là người tra tấn, rồi trực tiếp hoặc ra lệnh quẳng xác tù nhân ở đâu, ông ta phải nhớ chứ. Anh vào đó, rất khó tìm đường, càng khó tìm được lý do để có thể gợi cho ông ta mở miệng, khi mà ông ta đã quá mặc cảm, quá cảnh giác trước các cuộc tìm kiếm nhân chứng ác ôn của nhà lao Cây Dừa.

Tôi giới thiệu anh với một người, người này là chỗ chí thân, lại là chỗ cùng mang nỗi mặc cảm là người quản lý của nhà tù Phú Quốc ác ôn ngày xưa kia. Họ có chung nỗi mặc cảm lớn; nhưng ông  này hào hiệp, tôi mà gọi điện giới thiệu, ông ấy sẽ giúp anh.

Người đó là ông Hai Nam. Chừng gần 70 tuổi, vốn là tiếp phẩm cho nhà lao, sau thời gian cải tạo, ông Hai Nam đã gần như xóa hết mặc cảm “diều hâu cú vọ” của nhà tù tàn ác, giờ là cán bộ văn hóa của thị trấn với bằng khen giấy khen giăng kín phòng khách, là chủ hãng nước mắm Nam Hương nổi tiếng.

Ông Hai Nam là chỗ quen biết lâu năm và am hiểu cuộc đời Bảy Nhu. Sau cả buổi sáng thuyết phục, ông Nam dè dặt: để tôi gọi điện cho ông ta xem đã. Ông ấy càng già, càng khép mình quanh khu vườn hẻo lánh đó. “Vào đó, cháu bảo cháu là cháu ruột của chú Nam, là người nghiên cứu lịch sử nhà tù Phú Quốc, muốn qua thăm, tặng quà cho Bảy Nhu”.

Người đàn ông râu bạc dùng chiếc Dream chở tôi đi theo những con đường dốc, qua những cánh rừng bạch đàn tối đến một ngôi nhà nhỏ. Bước vào khu vườn, ông Hai Nam thở hắt ra: “Chúng tôi khổ nhục, sống trong cái thời buổi chúng nó bắt lính tàn bạo. Trời gọi ai thì người nấy phải dạ, mà chú”. Dường như nỗi tủi phận dâng ngập lên, từ bấy đến cuối cuộc tiếp xúc với Bảy Nhu, ông Hai Nam chỉ ngồi im, khẽ vuốt vuốt bộ ria mép dày, cứng và bạc

Lý thuyết ngụy biện của quỷ

Kiên quyết không cho phép… chụp ảnh. Da mồi, sạm đen, tóc bạc, đầu hói, hai hàm răng gẫy mất nhiều phần, Bảy Nhu nói chuyện mệt mỏi, mắt luôn nhìn lơ đầy mặc cảm. Dù tôi và ông Hai Nam giới thiệu thế nào, Bảy Nhu vẫn luôn cảnh giác. Bảy Nhu luôn biết cách tránh những câu hỏi trực diện, kiểu như: ai nghĩ ra trò “nhổ răng” các người tù, ông đã nhổ răng họ bằng dụng cụ gì? Việc tẩm dầu vào giẻ đốt dương vật của người tù có thật không? Dù sám hối rất nhiều thông qua việc ăn chay và niệm Phật, nhưng trong ký ức đen đầy máu, hình như Bảy Nhu vẫn kinh hãi những người đã có ý định trả thù mình.


Bảy Nhu luôn ngụy biện cho sự tha hóa và man rợ của mình: Tui quê ở Đồng Tháp. Sau giải phóng, nhiều người rủ tôi về Đồng Tháp sống để quên hẳn cái chỗ tội ác này đi, nhưng tôi không về. Đã 4 lần các thế lực ở Mỹ muốn tôi nhập cảnh sang bên đó, để đền đáp những cống hiến của tôi với đế quốc và chính quyền Sài Gòn cũ. Nhưng tôi muốn ở lại đây.

Sinh năm 1926, năm 20 tuổi tôi đã bị giặc tổng động viên bắt phải đi lính cho chúng. Sau này, tôi tiếp tục phục vụ trong chính quyền ngụy. Năm 1968, khi Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc vừa mới được chính quyền Sài Gòn thành lập, tôi được điều ra hòn đảo này. Lúc đầu, nó bảo, ra đảo 3 tháng sẽ được về với vợ ở Sài Gòn, rồi 6 tháng, rồi ở đến khi nhà tù giải thể luôn.

Gia đình tôi ở Đồng Tháp, có em trai, chị dâu, cháu tôi đều tham gia hoạt động Cách mạng. Vì thế, các “ông” quản lý nhà tù và chính quyền Sài Gòn thử thách tôi ghê lắm, họ theo dõi tôi từng tí. Vì thế tôi phải nỗ lực làm việc (tra tấn tù nhân thật tàn ác?), để chứng minh là mình hết lòng trung thành với họ. Kẻo họ sẽ thủ tiêu. Dần dà…

Dần dà, Bảy Nhu đã trở thành người phụ trách các phân khu nhốt tù binh Cộng sản, thành người trực tiếp vặn bẻ răng, lấy mắt cá chân của người tù. Nhiều tài liệu cho thấy, Bảy Nhu thậm chí còn sưu tầm răng mà hắn đã vặn của những người tù, để trong một cái mũ sắt.

Đôi mắt lạnh, giọng nói của Bảy Nhu rít lên, hắn cầm một thanh sắt, bắt các người tù há miệng nói: “Mày cho tao xin một cái răng, mày cho cái nào…?”. Rồi hắn gõ mạnh, giật tới, có người tù ngất đi. Lúc tỉnh lại, Bảy Nhu bảo: Mày mà để phun giọt máu nào ra sàn nhà, tao sẽ giết chết, mày hãy uống máu của mày, nuốt hết. Rồi thò tay vào mồm, nhặt trả tao cái răng của mày. Tôi rợn người khi nghe tận tai giọng kể của người tù Cộng sản kiên cường bị nhổ răng ấy.

Hàng trăm nhân chứng khác cũng đã kể như vậy khi đến thăm lại chiến trường xưa Phú Quốc, kể đến mức, các cô hướng dẫn viên ở nhà tù Phú Quốc nghe quá quen thuộc, nhiều người nghe tin Bảy Nhu còn sống thì hùng hổ leo đồi đi tìm đòi… “giết chết chúng nó”. Nhưng khi thấy Bảy Nhu ăn chay, niệm Phật, già nua quá thể, họ đã dừng lại. Họ lại tha tội cho Bảy Nhu một lần nữa.

Khi đoàn khai quật cả nghìn bộ hài cốt ngoài tượng đài Nắm Đấm (gần nhà tù) đang rầm rộ dùng máy xúc máy ủi bóc đất đá tìm kiếm các phần thi thể của 4.000 người tù Cộng sản bị chôn vùi dưới 5-6 mét đất sâu, thì có một người lính già, mặc quân phục bạc màu đến miệng hố ngồi bần thần.

Trung tá Nguyễn Văn Cao, người phụ trách công trường bèn bắt chuyện. Ông căm phẫn kể: Sau nhiều năm ở nhà tù, lúc giải phóng (1975), ông đã quyết tâm sống ở gần khu vực… hố khai quật, vì nỗi ám ảnh địa ngục trần gian. Địch đã giam ông 6 năm, qua sáu bảy cái khu tù binh, đến trước giải phóng miền Nam mới được địch mang ra tận sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trao trả.

Ông trực tiếp bị chính Bảy Nhu (người hàng xóm hiện nay) tra tấn bằng cách đè ra nhổ mất 6 cái răng. “Tui nằm trong tù từ năm 1966, suốt gần 7 năm, tui chỉ dám tính đường chết, chứ tịnh không có dám tính đường sống. Nó bắt tôi há mồm, hỏi cho xin cái răng, cho cái nào? Tui chán quá, bảo lấy cái nào thì lấy. Nó ghè thanh sắt vào, nhổ răng tui. Giật gẫy, nó bắt tui thò tay vào miệng mình lôi từng cái răng đỏ quạch máu ra, đặt lên bàn cho nó xem. Rồi nó bắt tui phải tự uống hết số máu chảy trong miệng tui ra, một giọt nào ứa ra ngoài, nó sẽ đánh chết” - cụ Út Minh nói.

Bảy Nhu thở dài: “Nhiều người tù từng bị tôi tra tấn, họ đến thăm lại chiến trường xưa, họ kể lại những năm tháng họ dùng thìa dĩa đào hầm bí mật trốn khỏi nhà tù, rồi họ vỗ vai tôi. Điều đó làm tôi thấy hổ thẹn!”. Ông Nhu khoe tôi tấm ảnh chụp chung với các người tù quả cảm đến kinh hoàng.

Có người mất tới 91% sức khỏe, bị mù mắt, bị ông Nhu vặn răng, nhưng khi gặp lại vẫn chụp ảnh chung, vẫn tha thứ tất cả. Nếu tôi từng cảm thấy kinh hoàng vì tội ác ở nhà tù Phú Quốc, thì giờ đây, điều làm tôi như “chết lặng” đi là sự tha thứ của đồng bào mình, đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại.

Khi Nhà nước tiến hành phục dựng nhiều hạng mục của nhà tù Phú Quốc, trưng bày những tấm ảnh thảm khốc về việc tra tấn, giết chóc tù nhân, Bảy Nhu xin được giúp những người làm việc đó dựng lại tội lỗi của chính ông ta và chế độ mà ông ta hầu phục.

Ông chỉ cho cán bộ biết từng quả đồi, nơi nào sẽ chứa nhiều hài cốt người tù nhất. Đồi 37, đồi 100, cứ đào khắc thấy cốt, cả nghìn bộ. Cả trăm vụ vượt ngục, vụ đả đảo chế độ nhà tù, hội họp, rải truyền đơn, treo biểu ngữ; vụ nào khi đem xử lý, thậm chí cũng có người bị hành quyết ngay lập tức.

Bị tra tấn, luộc người, đóng đinh khắp cơ thể, thì kiểu gì chẳng chết. 4.000 người chết, trước năm 1971, ai chết thì chôn rấp ra ngoài bìa rừng. Xe quân cảnh chở xác người ra, ném xuống đấy, rồi nó chạy vội về kẻo sợ du kích bắn tỉa. Cho nên, dù khai quật cả nghìn phần di cốt như vừa qua, cũng chỉ gặp một vài tử sỹ có tên họ kèm theo (là ông Nguyễn Văn Khai, người Thanh Hóa).

Vì sao xuất hiện những bộ cốt có tên họ? Vì khi đồng đội bị chết, nhiều bạn tù đã thương cảm viết tên người xấu số vào mảnh giấy rồi gói trong giấy nilon, để hy vọng sau này con cháu sẽ có thể tìm thấy các bậc Anh hùng.

Khu bãi tha ma chồng chất thây người tù đó, thật là đáng sợ. Giờ đây, khi tôi chỉ cho cán bộ khai quật, người ta không lý giải được là bởi tại làm sao mà thây người bị vùi dưới 5-6 mét đất sâu hoắm. Xe cuốc gào rú suốt ngày đêm, mà dưới đất đen vẫn còn xương người.

Tôi còn nhớ, năm 1968, trại tù binh có tổ chức san ủi khu vực nghĩa địa, cho nên xương người bị khỏa lấp hết. Có người bảo, nhân viên nhà tù người ta làm như vậy, là bởi vì họ sợ các tổ chức nhân quyền, giám sát quốc tế sẽ đến kiểm tra, sẽ phát hiện ra bao điều tàn độc, vô lối, thất nhân tâm.

Sau năm 1971, trước sức ép nhiều mặt, Ban quản lý nhà tù bèn cho thành lập khu “Nghĩa địa tù binh Cộng sản” rộng 11.000m2, với “cổng chào” là hai cây thông khổng lồ, một thanh ván bắc ngang trang trí biển hiệu đàng hoàng. Thế nhưng hình thức tra tấn thì vẫn đủ 24 “món” của ngục A Tỳ.

Kỹ nghệ giết người

Bảy Nhu dè dặt trong chuyện trò đến mức… cao thủ. Có lẽ cái nghề thẩm vấn, tra khảo moi thông tin, tạo dựng các ăng ten (như cách nói của ông ta) để điều tra, ly gián mấy chục nghìn người tù binh Cộng sản suốt nhiều năm đã tạo cho ông ta sự bài bản cáo già trong giao tiếp đó?

Ông ta thích nói về những sám hối và nỗi khổ của mình khi sứ mệnh đen tối của nhà tù Phú Quốc kết thúc, ông ta chung sống với những người còn mãi mãi hãi hùng vì tội ác của ông và đồng bọn:

“Tôi đi cải tạo, nhờ tinh thần cải tạo tốt, tôi được trở về nhà với đàn con của mình sớm hơn so với “bản án” khoảng 2 năm. Thế mà người ta kéo đến, người ta dằn hắt, bảo rằng sao thằng ác ôn nó lại được tha về. Tôi về, mặc áo lành người ta cũng chửi, mặc áo rách người ta cũng chửi. Nhiều người cứ xông lên đòi giết chết tôi.

Chính quyền cơ sở đã bảo vệ tôi. Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, họ tha thứ cho tôi, nghe nói ở nước ngoài, chữ Đồng bào không dịch được ra tiếng Tây, quý hóa lắm. Tôi tình nguyện làm công tác xã hội để chuộc lỗi lầm, tôi am hiểu về các hố chôn tập thể, các quy cách thủ tục, các vấn đề còn gây nhiều tranh cãi ở nhà tù.

Tôi ở lại gần khu vực nhà tù mà không về Đồng Tháp hay ra nước ngoài theo các quan thầy, là vì lẽ đó. Tôi tiếc là hồi khai quật được rất nhiều hài cốt ở khu vực tượng đài Nắm Đấm, tôi đã bảo người ta rằng, tôi nhớ rõ vụ san ủi năm 1968, phải đào tiếp xuống để cất bốc các chiến sỹ lên, họ sợ làm như thế sẽ gây hư hại đến di tích.

Y như rằng, bây giờ lại tiếp tục phải đào lại và thấy rất nhiều cốt. Nhiều khu vực, rễ cây ăn hết các phần thi thể, rất tội. Tôi bảo, hãy cứ đào, nhiều chỗ chỉ còn đất đen hay đất màu hoàng thổ, lại có mấy miếng vải thôi, cũng cứ phải bốc. Vì sao? Vì rằng, đem đất ấy bỏ vào chậu nước, nếu thấy nổi váng lên, là đất có xương cốt thịt da người tù đấy. Kinh nghiệm của tôi là như thế mà”.

Nhiều đoạn Bảy Nhu lại tìm cách ngụy biện để cố chạy trốn khỏi tội ác tày trời của mình:


“Thời buổi trời gọi ai người nấy dạ mà. Ở đâu thì phải theo đó. Thời buổi mà mình ở trong tay nó thì nó bảo mình đi lính phải đi lính thôi, chứ mình không có biết phải cãi lại nó như thế nào đâu. Nó bảo đi ít ngày rồi về, ai ngờ đi mãi (đến giải phóng). Sau này mình mới hiểu được vấn đề tội ác của mình, sau này mới hiểu được xã hội chủ nghĩa là cái xã hội tốt đẹp thật sự. Thật sự trước đây không biết cái đó, chứ nó gây tội ác xong hết trơn, nó bỏ chạy bỏ lại một mình mình. Lúc mình ở ngoài đảo (làm cai ngục) với bọn ở ngoài đó, nó nói bậy lung tung. Mình không nhận ra là, bọn tay sai của chế độ cũ kia, nó chỉ làm lung tung kiếm tiền thôi, chứ không có lý tưởng gì hết. Nó bảo là Việt cộng ốm (gầy) đến mức treo tàu lá chuối không rớt (rơi). Nó đang đánh vào tâm lý chiến mà mình không biết”.


Có khi bị hỏi độp thẳng tưng, ông ta cũng tiết lộ nhiều chuyện chưa bao giờ công luận, sách sử từng “nghe”:

Hỏi: Hồi đó ông chấp nhận làm nhiều việc ác quá, chắc được giặc nó trả lương cao?


Bảy Nhu: 
Lương tôi là 1.400 đồng, tiền bây giờ trả không nổi đâu (ý là không ai có tiền mà trả được mức lương ấy đâu). Bấy giờ chỉ chưa đến 10 đồng một chỉ vàng, mà mình nhận 1.400 đồng, tức là 14 cây vàng/tháng. Nuôi vợ con với lại ăn nhậu thoải mái!


Bảy Nhu hồi tưởng quá khứ với giọng mệt mỏi nghe như vọng từ âm phủ. Bây giờ, Bảy Nhu đã ngoài 80 tuổi, ở tuổi ấy, như người ta nói, quỷ thần không chấp nhặt họ nữa. Có người bảo sao độc ác như vậy mà Bảy Nhu vẫn sống. Nhưng tôi nghĩ: ông ta phải sống để chứng kiến lòng nhân ái của con người trên mảnh đất này đối với ông ta, sống để những ký ức đen đầy máu chảy hành hạ ông ta.

Cho dù ông ta ăn chay trường và niệm Phật cũng chưa chắc đuổi được quỷ sứ ra khỏi con người mình. Tôi cảm thấy nhẫn tâm hỏi về cái ác, cái việc đóng 16 cái đinh dọc một cơ thể người, đóng đinh to, cắm phập sâu hoắm đến mức mấy chục năm sau khi Nhà nước ta tổ chức đào hố chôn tập thể lên, những cái đinh vẫn còn nguyên.

Bảy Nhu im lặng, ông ta kể về việc chúng nó dùng ván có đinh tra tấn người, về việc có người bị đánh chân tay gẫy cù lìa làm hai ba đoạn, có khi nó xé người ta làm bốn mảnh. Chúng nó chứ không phải là Bảy Nhu. Sẽ không ai bất ngờ khi ông Nhu nói thế và thậm chí phủ nhận nhiều tội ác của mình - dẫu rằng đã có hàng nghìn tù nhân sống sót mà không có mắt cá chân, không có răng, mù mắt, tàn phế đã về lại Di tích Nhà tù Phú Quốc và tố cáo Bảy Nhu cùng đồng bọn…

Tôi cũng không bất ngờ khi trích các báo cáo truy tìm hài cốt của Sở LĐTB&XH Kiên Giang năm 2008 (với các trường đoạn viết về các di cốt vĩnh viễn không bao giờ được tìm thấy, bởi ban cai quản nhà tù Phú Quốc đã lùa các tù binh lên máy bay, ném xuống Vịnh Thái Lan) cho Bảy Nhu nghe, ông ta thở hắt như đuổi khách: “Hồi xưa máy bay quân sự là của Mỹ thôi ấy, toàn là người Mỹ lái chứ bọn tôi lái đâu mà chúng tôi biết”.

Tôi rời bỏ ngôi nhà của Bảy Nhu như một đứa trẻ chạy khỏi ngôi nhà của một con quỷ trong nỗi kinh hãi tưởng vỡ cả trái tim. Không ai có thể cầm lòng về những người con đấu tranh cho tự do và độc lập của dân tộc đã bị tra tấn vô cùng man rợ ở hòn đảo này.

Tôi biết rằng, tôi sẽ không bao giờ có đủ can đảm để trở lại ngôi nhà của Bảy Nhu nữa cho dù ở đó có một Bảy Nhu già nua đang từng ngày từng đêm sống với những hồi ức đen đầy máu và tự đày đọa mình bằng chính tội ác của mình.

Bây giờ, thi thoảng tôi vẫn gặp những cơn ác mộng và thấy cảnh những cai ngục nhà tù Côn Đảo vặn những chiếc răng của những tù nhân ở đó. Những hành động ấy chỉ là của những con quỷ ác độc. Có ai, hay có kẻ nào biện hộ cho những hành động thú tính ấy không?

Nhưng dân tộc này đã tha thứ cho một trong những ác quỷ đó – Bảy Nhu. Với tất cả những gì Bảy Nhu đã làm với những con người bị giam cầm ở Côn Đảo thì ông ta đáng bị tử hình 10 lần. Nhưng Cách mạng và nhân dân đã tha tội cho ông ta, nghĩa là đã hồi sinh cho ông ta 10 lần

Theo hồ sơ lưu trữ, ở Trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam Phú Quốc, có 24 ngón đòn tra tấn cực kỳ hiểm ác được bọn chúng đúc kết kinh nghiệm và ghi chép thành văn bản để chuyền tay nhau học tập, thực hành. Trong đó, có ngón đòn đục răng là khủng khiếp nhất, man rợ nhất. Và Thượng sĩ Nhu được bầy ác quỷ ở các khu giam tôn làm sư phụ của ngón đòn này.

Anh Nguyễn Minh Hoàng - cựu tù Phú Quốc, hiện sinh sống ở thành phố Biên Hòa - Đồng Nai, bị tên Thượng sĩ Nhu đục mất hai chiếc răng trong thời gian ba ngày ba đêm. Anh bảo với tôi: “Bọn chúng cùm tay cùm chân rồi lấy hai mảnh ván bắt ốc vít siết ép ngực cho há miệng ra. Và sau đó, tên Thượng sĩ Nhu dùng đồ nghề chạm khắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ để đục răng tôi. Gã làm nhẩn nha như là giỡn chơi nhưng đau nhói buốt tận óc, khiến tôi chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần...”. Rất nhiều tù nhân thân thể tiều tụy khi bị tra tấn bằng ngón đòn đục răng đã phải từ giã cõi đời vì không sao chịu đựng nổi. “Gã đục răng tù nhân để dành được cả mấy bơ sữa bò rồi kết lại thành chuỗi tràng hạt đeo tòng teng trên cổ, ngó giống hệt Sa Tăng đeo xâu đầu lâu trên người trong truyện Tây du ký !”. Anh Nguyễn Minh Hoàng kể.

(Trích tác phẩm đã công bố của tác giả Nguyễn Tam Mỹ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét