Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ tích. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ tích. Hiển thị tất cả bài đăng

07 tháng 5 2019

Từ Trang An Biên đến Kẻ Chợ: Sách - sử

Ngày xửa ngày xưa tổ tiên ta bị giặc cướp phá sách vở, hủy hoại chữ viết nên văn hiến chỉ được truyền lại qua ngôn ngữ truyền khẩu.

Sau khi khôi phục Tự chủ hồi thế kỷ X, tổ tiên ta lại làm sách vở nhưng sách vở chữ viết đời trước không còn suốt hàng ngìn năm, nên cơ sở để dựng lại lịch sử VN từ Thời đại Hồng Bàng (鴻龐, 2879 - 258 TTL) đến thời Vua An Dương rồi đến trước thời Tự chủ đều là chép lại từ dã sử, huyền sử, truyền thuyết, thần tích, hoặc sách vở, tài liệu lịch sử TQ. Các sách của ta kể cả chính sử ra đời muộn hơn nhiều so với các sách của TQ cho nên các sự tích và tên tuổi, địa danh... chắc là có sự chép lại từ sách TQ.

Từ truyện chí:

Những câu chuyện dân gian lưu truyền các truyền thuyết huyền thoại được ghi chép lại trong các văn bản thần tích và các sách Hán - Nôm, với hệ thống sự tích các nhân vật từ Thời đại Hồng Bàng cho đến những truyền thuyết: "Lý Thái Tổ", "Truyện Chu Văn An", "Sự tích chùa Một Cột", "Lê Quý Đôn", "Chùa Trấn Quốc"… thời Đại Việt. Tiêu biểu trong số các sách Hán - Nôm là cuốn sách tổng hợp các câu chuyện truyền thuyết, có thể là thần tích, cũng có thể là truyền miệng thời cổ còn giữ được: "Việt điện U linh tập", theo Giáo sư Dương Quảng Hàm (楊廣涵, 1898 - 1946, nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, được bổ nhiệm làm thanh tra Trung học vụ, rồi làm Hiệu trưởng của trường Bưởi, bị Pháp bắt đem giết sau ngày 19/12/1946) viết trong "Việt Nam văn học sử yếu", là của tác giả không rõ tên đời Lý tập hợp các truyền thuyết về thần linh nước Việt ở thời xa xưa.
Cuốn sách chứa đựng thế giới quan thần bí, mang tư tưởng thần linh chủ nghĩa trộn lẫn với ý thức hệ phong kiến... nếu tước đi cái vỏ tôn giáo thì đằng sau câu chuyện của các thần linh lại bao trùm và phản ánh những lý tưởng tốt đẹp và niềm tin tưởng chân thành của nhân dân ngày xưa. Tuy là cuốn sách viết về những chuyện thần linh nhưng "Việt điện" lại biên soạn có thiên hướng khoa học, chép dẫn một cách trung thực từ nguồn tài liệu sách dẫn và tiếp tục được nhiều nho sĩ đời sau ra công tục biên, bổ sung, hoặc sửa chữa, thêm bớt, thành ra sách có thêm các phần "Tục biên" (hay "Tục bổ"), "Trùng bổ", "Phụ lục" gồm 4 quyển, tổng cộng 41 truyện.

Vào cuối thời Trần, cuốn sách Hán - Nôm thứ hai tập hợp các truyền thuyết và cổ tích dân gian thời cổ còn giữ được: "Lĩnh Nam chích quái" (嶺南摭怪, "Chọn lựa những chuyện quái dị ở đất Lĩnh Nam", viết tắt "Lĩnh Nam") được xuất bản. Theo "Việt Giám vịnh sử tập" ("Tập thơ vịnh sử làm tấm gương soi của nước Việt", của Hoàng giáp 黃甲 Đặng Minh Khiêm [鄧鳴謙, 1456 - 1522, đỗ năm Đinh Mùi 1487 dưới triều Lê Thánh Tông, năm Tân Dậu 1501, làm Thị thư Hàn lâm viện [翰林院, cơ quan chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình như chiếu, chỉ, sắc, dụ, chế, cùng với các cơ quan học thuật khác đảm nhiệm trọng trách nghiên cứu, giảng dạy kinh vện, phụ trách việc khoa cử, thị tùng văn học, khi cần còn đảm nhận trách nhiệm Khâm sai {欽差, chức vụ tạm thời do vua đặc phái ra ngoài để giải quyết các công việc nội chính hoặc ngoại giao}], vâng mệnh đi sứ sang nhà Minh, năm Kỷ Tỵ 1509 đi sứ sang nhà Minh lần thứ 2, khi về, được thăng chức Tả Thị lang [左侍郎, cùng với Hữu Thị lang 右侍郎 là chức quan phó cho quan đứng đầu trong một bộ] Bộ Lại [吏部, cơ quan giữ việc quan tước, phong tước, ân ban thuyên chuyển, lựa chọn, xét công, bãi truất và thăng thưởng, bổ sung quan lại, cung cấp người cho các nha môn], rồi Thượng thư [尚書, chức quan đứng đầu một bộ] Bộ Lễ [禮部, cơ quan giữ việc lễ nghi, tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu, biểu văn, các quan chầu mừng, tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, tăng lục, đạo lục, giáo phường, đồng văn nhã nhạc, phiên dịch, tiếp tân sứ thần cống nạp, khách khứa nước ngoài] kiêm Phó Tổng tài Sử quán và coi việc ở Chiêu Văn cục); Sách "Kiến văn tiểu lục" ("Chép vặt những điều thấy nghe", của "nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến", Tam nguyên 三元 Lê Quý Đôn [黎貴惇, 1726 - 84], ông đỗ đầu kỳ thi Hương 1743 - Giải nguyên 解元, thi Hội 會 1752 - Hội nguyên 會元 và thi Đình 1752 ông đỗ Bảng nhãn nhưng vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như ông đỗ đầu - Đình nguyên, cả ba kỳ thi đều đỗ đầu thì gọi là Tam nguyên, ông vốn tên Lê Danh Phương, vì không muốn trùng tên với thủ lĩnh nông dân đang nổi lên chống triều đình Nguyễn Danh Phương [阮名芳, 1690 - 1751, tức Quận Hẻo], nên sau khi đỗ Giải nguyên năm 1743 ông đổi tên thành Lê Quý Đôn); và "Lịch triều hiến chương loại chí" (歷朝憲章類誌, "Phép tắc các triều đại chép theo thể phân loại", viết tắt "Lịch triều", bách khoa toàn thư đầu tiên của VN, ghi chép dữ liệu lịch sử từ Thời đại Hồng Bàng đến thời Lê mạt của nhà bác học Phan Huy Chú [潘輝注, 1782 - 1840, tác giả "Hoàng Việt dư địa chí" và nhiều sách khác] gồm 49 quyển, soạn xong năm 1821) cho là "Lĩnh Nam" do Trần Thế Pháp (陳世法, một danh sĩ ở khoảng cuối đời Trần, sách sử biên chép rất ít về ông, chỉ biết ông là người nổi tiếng văn chương, được cử làm một chức quan nhỏ tại Tàng thư Quốc tử giám [國子監, cơ quan dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền, được xem là trường đại học đầu tiên thành lập đầu thời nhà Lý]) biên soạn.

Nguyên là việc khoa cử 科舉 được mở ra từ đời nhà Lý, đến đời Hoàng đế thứ sáu nhà Lý, Anh Tông (英宗皇帝, 1138 - 75, Lý Thiên Tộ (李天祚, 1136 - 75]) triều đình đã tổ chức cho các học sinh đến học ở nhà Thái học, cũng gọi là nhà Quốc học, tức là sinh viên ở trường đại học quốc gia duy nhất của thời đó, tham dự khoa thi Thái học sinh 太學生, thi đỗ gọi là đỗ Thái học sinh, học vị Thái học sinh được xem là tương đương học vị Tiến sĩ 進士 sẽ đặt ra từ khoa thi Đại tỷ Thủ sĩ (gọi tắt là Đại tỷ [thi lớn], hay Đại khoa) năm Giáp Dần 1374, người đỗ đầu được xem là tương đương Trạng nguyên (狀元, về sau còn gọi là Đình nguyên 鼎元 hay Điện nguyên 殿元). Từ khoa thi Quý Sửu 1213 năm thứ ba niên hiệu 年號 Kiến Gia (建嘉, 1210 - 24) đời Hoàng đế thứ tám nhà Lý, Huệ Tông (惠宗皇帝, 1211 - 24, Lý Sảm 李旵, hay Lý Hạo Sảm, 1194 - 1226), để phân biệt cao thấp, học vị Thái học sinh được chia làm Tam giáp 三甲: Đệ nhất giáp 一甲, Đệ nhị giáp 二甲, Đệ tam giáp 三甲. Đệ nhất giáp Thái học sinh được xem là tương đương Trạng nguyên, cho nên bảng danh dự ghi tên những người đỗ đạt (Khoa bảng 科榜) trong hạng Tam giáp được ghi vào Chính bảng còn gọi là Giáp bảng (甲榜, còn lại ghi vào Phó bảng [副榜, phụ bảng, cũng gọi là Ất bảng 乙榜]). Giáp - Ất ngày xưa dùng làm số đếm như 1 - 2, hay để gọi ai đó không rõ tên: anh Giáp - anh Ất, nay vẫn còn câu nói "không biết giáp ất gì ...". Thi Thái học sinh duy trì cho đến khoa thi Canh Thìn đời Hoàng đế đầu tiên nhà Hồ [胡朝, 1400 - 07], Thánh Nguyên [聖元皇帝, 1400, Lê Quý Ly 黎季犛 / Hồ Quý Ly 胡季犛 / Hồ Nhất Nguyên 胡一元, 1336 – 1407] năm 1400).
Sang nhà Trần, ngay từ đời Hoàng đế đầu tiên nhà Trần, Thiện Hoàng (善皇皇帝, 1225 - 58, sau đổi thành Văn Hoàng 文皇, nguyên húy là Trần Bồ [陳蒲, 1218 - 77] sau đổi thành Trần Cảnh 陳煚, con thứ hai nên còn được gọi là Trần Nhị Lang 陳二郎, Miếu hiệu Thái Tông [太宗, nên sử sách chép ông là Trần Thái Tông 陳太宗]), việc giáo dục và khoa cử đã tổ chức chu đáo hơn triều Lý, khoa thi Thái học sinh Nhâm Thìn 1232 năm thứ 8 niên hiệu Kiến Trung (建中, 1225 - 32, đời Trần Thái Tông) triều đình sửa thứ bậc học vị Tam giáp thời Lý: Đệ nhất giáp gọi là Trạng nguyên, Đệ nhị giáp là Hoàng giáp, Đệ tam giáp là Thái học sinh. Để rộng đường khoa cử, ngoài phép thi Thái học sinh ba kỳ như đời trước lại định phép thi Đại tỷ để lấy học trò, gồm hai giai đoạn, được tổ chức cho:

  • Thái học sinh
  • Thuộc quan ở Tam quán (cho con cái các quan ở ba quán [viện]: Sùng văn quán, Nho lâm quán, Tú lâm cục [秀林局, trông nom, dạy bảo con các quan viên] được lấy vào vừa làm việc vừa học tập)
  • Thị thần học sinh (con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở 6 cục Ngự tiền cận thị chi hậu, ở Trung thư giám)
  • Tướng phủ học sinh (con cái của các thân vương, thân công, hoàng tử, công chúa, các tướng công hầu bá thuộc họ hàng thân thích của nhà vua được nhà nước cử học quan đến dạy tại phủ đệ của mình)
  • và người làm quan có tước phẩm.

Từ năm thứ 15 niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình (天應政平, 1232 - 51 đời Trần Thái Tông), Bính Ngọ 1246 các khoa thi Đại tỷ được mở xen lẫn với các khoa thi Thái học sinh, tổ chức quy củ, định niên hạn 7 năm một khoa, xuất thân theo thứ bậc, lại đặt Đệ nhất giáp ra ba bặc: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa 探花, gọi là Tam khôi (三魁, được thực hiện qua một kỳ thi do triều đình tổ chức tại Đình điện Hoàng cung, cho nên gọi là thi Đình 狀, nhưng thi Đình lúc này còn là kỳ thi cuối cùng của khoa thi Đại tỷ chưa tách ra thành một khoa thi riêng). Người đỗ các khoa thi Đại tỷ, trừ Tam khôi, Hoàng giáp còn lại đều gọi là đỗ Thái học sinh, hai khoa trước chỉ chia bậc Giáp, Ất, nay mới lấy Tam khôi, tên yết trong Chính bảng.

Sách "Lĩnh Nam" cũng như "Việt điện" chép những truyện thần thoại từ thời thái cổ gắn với nguồn gốc, di tích văn hóa dân tộc Việt đến những sự tích thời Bắc thuộc, thần tích liên quan với những nhân vật lịch sử thời Lý - Trần, nhưng có nhiều khác biệt. "Lĩnh Nam" có nhiều truyện mang tư tưởng, tình cảm phóng khoáng hơn. "Việt điện" và "Lĩnh Nam" có nhiều cổ tích về Kẻ Chợ, nhất là "Lĩnh Nam" chứa tới hai phần ba cuốn sách, cũng như "Việt điện", "Lĩnh Nam" cũng được nhiều nho sĩ đời sau ra công tục biên, bổ sung, hoặc sửa chữa, thêm bớt.
"Việt điện" được nhuận chính lớn vào triều Hoàng đế thứ sáu nhà Trần, Hiến Tông (憲宗皇帝, 1329 - 1341, Trần Vượng [陳旺, 1319 - 1341]), Lý Tế Xuyên đã ra công sưu tầm rộng khắp những tục truyền, tài liệu dân gian, những bản thần tích, thần phả, sử dụng và viết lại một số truyện vốn đã được ghi chép trong các bộ sưu tập của những tác giả TQ và thời Bắc thuộc và sách mới trong nước, soạn nối theo phần cuối "Việt điện", kể về công tích 27 vị thần được thờ trong các đền miếu thời Lý - Trần, gồm 27 thiên (truyện), chia làm 3 mục "Hạo khí anh linh" (sự tích thiêng liêng), "Nhân quân" (vua), "Nhân thần" (bề tôi). Theo bài "Tựa đề" năm Khai Hựu (開祐, 1329 - 41) nguyên niên đời Trần Hiến Tông, 1329 của Lý Tế Xuyên thì ông đã chọn kể theo phương châm:
"những bậc sáng suốt, ngay thẳng mới gọi là thần; không phải những loại dâm tà, yêu quái, ma quỷ cũng gọi là thần đâu!..."
Ngoài ra còn những sách khác nữa nhưng kể hai cuốn này thôi, vì về sau sẽ trích dẫn nhiều.

Đến sách sử:

Về sách sử, những sách vở hiện còn cho biết một số bộ sử xuất hiện sớm nhất, vào thời nhà Lý có: "Sử ký" (史記, của Đỗ Thiện) và "Đại Việt ngoại sử" (không rõ tác giả, được nhắc tới trong sách "Việt điện"). "Sử ký", theo nhà Việt Nam học Liên Xô A. B. Polyakov:
"Vào khoảng các năm 1127 - 40 (khoảng triều Lý Nhân Tông và Hoàng đế thứ năm nhà Lý, Thần Tông [神宗皇帝, 1128 - 38, Lý Dương Hoán {李陽煥, 1116 - 38}]) Sử thần nhà Lý là Đỗ Thiện đã soạn ra, chép bao quát toàn bộ lịch sử nước Việt từ thời thượng cổ đến cuối triều Lý Nhân Tông.
...
Bộ 'Sử ký' mang đậm tính chất truyền thống sử học Đạo Bụt"
"Việt chí" (越志, có lẽ là cuốn sử đầu tiên thời nhà Trần) được soạn khoảng đời Trần Thái Tông, sách "An Nam chí lược" (安南志略, "Lược ghi về An Nam", viết tắt "Chí lược", của Lê Tắc [hay Trắc hoặc Thực, 黎崱, 1263 - 1342] biên soạn khi sống lưu vong tại TQ, hoàn thành khoảng những năm 1330, ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa từ đầu thời ngìn năm Bắc thuộc đến cuối đời Trần, có lẽ đây là một công trình khảo cứu về Đại Việt lâu đời nhất còn lại, do một người gốc Việt soạn) chép:
"Trần Tấn (có bản chép Trần Phổ) được Thái Vương (Trần Thái Tông) dùng làm Tả tàng, thăng đến Hàn trưởng, từng làm (tác) sách 'Việt chí'..."
Nhà Việt Nam học Liên Xô P. V. Pozner cho rằng Trần Phổ hoàn thành "Việt chí" vào khoảng 1233 khi Đạo Bụt còn thịnh hành. Các cuốn sử tiếp theo của nhà Trần là  "Đại Việt sử ký" (大越史記, do Bảng nhãn 榜眼 Lê Văn Hưu [黎文休, 1230 - 1322] biên soạn, xong năm 1272, gồm 30 quyển,viết tắt "Đại Việt") và "Đại Việt sử lược" (大越史略, có sách ghi và "Việt sử lược", viết tắt "Sử lược", cuốn sử biên niên thuộc hàng sớm nhất còn được lưu truyền cho đến nay nhưng còn nghi vấn về tác giả).
"Đại Việt" được xem là bộ sử chính thống đầy đủ đầu tiên, do Thái thượng hoàng đế (太上皇帝, hay Thái thượng hoàng 太上皇, gọi tắt Thượng Hoàng 上皇) nhà Trần, Thái Tông (1258 - 77) và Hoàng đế thứ hai nhà Trần, Thánh Tông (聖宗皇帝, 1258 - 78, Trần Hoảng [陳晃 / Trần Uy Hoảng 陳威晃, 1240 - 90]) chính thức sai nhà sử học được xem là đầu tiên, Lê Văn Hưu biên soạn quốc sử để để nhà Trần có thể học hỏi kinh nghiệm từ quá khứ của Đại Việt trong việc cai trị và củng cố nền độc lập của đất nước trước các triều đại phương Bắc. Có một giai thoại về Lê Văn Hưu thuở bé:
"Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Người thợ rèn thấy thấy vậy, bèn ra một vế đối:
- Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi sắt.
Lê Văn Hưu liền đối:
- Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi giành lấy khôi nguyên"
Lê Văn Hưu quả nhiên giành khôi nguyên, năm 17 tuổi dự khoa thi Đại tỷ Đinh Mùi, năm thứ 16 niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình (天應政平, 1232 - 51) đời Hoàng đế Trần Thái Tông, 1247, đỗ liền Bảng nhãn. Cùng đỗ với Lê Văn Hưu là Trạng nguyên 13 tuổi Nguyễn Hiền (阮賢, 1234 - 56), Thám hoa 13 tuổi Đặng Ma La (鄧麻羅, 1234 - 85), Tam khôi trẻ nhất trong lịch sử.
Sau khi thi đỗ, Lê Văn Hưu được giữ chức Kiểm pháp quan, làm đến Thượng thư Bộ Binh, rồi giữ chức Hàn lâm viện học sĩ (翰林院學士, theo "Lịch triều", mục "Quan chức chí", quan chế đời Trần trong Hàn lâm viện có chức "Hàn lâm viện học sĩ" [có chữ "viện" 院] và "Hàn lâm học sĩ phụng chỉ" [翰林學士奉旨, không có chữ "viện"] là chức chưởng quan, trên chức Hàn lâm viện học sĩ) kiêm Giám tu Quốc sử (Giám tu: 監修, chức quan đứng đầu Quốc sử viện [國史院, cơ quan lo việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ] gọi ngắn là Giám tu Quốc sử 監修國史), trong thời gian biên soạn "Đại Việt" Lê Văn Hưu đã có cơ hội chứng kiến một trong những sự kiện chủ yếu trong thời Trần là cuộc kháng chiến của Đại Việt chống quân Đại Nguyên (Ön Yehe Monggul Ulus / 大元朝 1271 - 1368) lần thứ nhất năm 1258 cũng như các mối đe dọa liên tục từ nhà Nguyên sau đó.
Điều kiện lịch sử giai đoạn này giải thích lý do vì sao "Đại Việt" chọn thời điểm khởi đầu từ khi Triệu Đà (趙佗, 257 - 137 TTL) lập nước Nam Việt (南越國, 204 - 111 TTL). Căn cứ vào nền độc lập của Nam Việt trong thời Hán (漢朝, 206 TTL - 220), Lê Văn Hưu coi Triệu Đà là người đầu tiên và là một điển hình tốt trong số các quân chủ biết quan tâm đến nền độc lập của đất nước. Các nhà sử học sau này từ Ngô Thì Sĩ (吳時仕, 1726 - 80, nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, cháu nội Ngô Trân, người cùng Ngô Chi Thất đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được mệnh danh là "Ngô gia văn phái" 吳家文派, nhóm các nhà văn thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam [nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội], hoạt động từ đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ thứ XX, cũng là tên một bộ sách tập hợp các tác phẩm của các thành viên trong "Ngô gia văn phái" do Ngô Thì Chí [吳時俧, 1753 - 88 con thứ Ngô Thì Sĩ] đề xướng và khởi công biên soạn tập đầu tiên], được Phan Huy Chú đánh giá là người có "Học vấn sâu rộng, văn chương hùng sĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia, là một đại gia ở Nam Châu [Sơn Nam Thượng]" trong các nhân vật ở thế kỷ XVIII) đến hiện đại sẽ phê phán quan điểm này vì các quân chủ Nam Việt đều là người Hán.
"Đại Việt" được Lê Văn Hưu biên soạn theo hình thức cuốn sử TQ "Tư trị thông giám" (資治通鑑, của Tư Mã Quang [司馬光, 1019 - 86, nhà sử học, Thừa tướng nhà Tống] và cộng sự), chép cho tới Hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của nhà Lý, Chiêu Hoàng (昭皇皇帝, 1224 - 25, Lý Phật Kim [李佛金, sau đổi là Lý Thiên Hinh {李天馨, 1218 - 78}], Nữ Hoàng đế duy nhất của VN nhưng không phải vua bà đầu tiên, nếu như tính Vua Bà Trưng, "Nữ Hoàng đế" và "Nữ Vương" đều có nghĩa là vị quân chủ mang giới tính nữ, nhưng Hoàng đế thì lớn hơn Vương, giải thích sau, Bà Trưng à Nữ vương, còn Chiêu Hoàng là Nữ hoàng đế, cả hai bà đều là người duy nhất mang tước hiệu của mình, đều là Nữ quân chủ).
"Đại Việt" hoàn thành và dâng lên Hoàng đế Trần Thánh Tông tháng Giêng năm 1272, được Hoàng đế xuống chiếu ban khen và ban thưởng rất hậu.
"Sử ký" và "Đại Việt ngoại sử" đều đã mất và chưa có bằng cớ gì chứng tỏ có quan hệ với "Đại Việt". Chỉ có "Việt chí" và "Sử lược" là có ít nhiều liên hệ với "Đại Việt", song "Việt chí" cũng đã mất, còn mối quan hệ giữa "Đại Việt" và "Sử lược" thì ý kiến các chuyên gia sử học chưa nhất trí được. Sách "Chí lược" chép:
"Lê Văn Hưu vừa có tài, vừa có hạnh, làm phó quan (và thầy học) của Vua lớn Chiêu Minh (昭明大王, Thừa tướng 宰相 Thượng tướng Thái sư 太師 Trần Quang Khải [陳光啓, 1241 -1294]), thăng làm kiểm pháp quan, sửa (tu) sách 'Việt chí'..."
Dựa vào đó và một số tài liệu khác, một số nhà sử học trong đó có Yamamoto Tatsuro (Nhật Bản) và Trần Kính Hòa (Chen Ching Ho, Hồng Kông), cho rằng "Đại Việt" được biên soạn dựa trên cơ sở bộ "Việt chí".
P. V. Pozner thì cho răng năm 1272, Sử thần Lê Văn Hưu đã tiến hành xử lý lại toàn bộ công trình của Đỗ Thiện - Trần Phổ theo quan điểm của Nho giáo, loại bỏ đoạn cuối viết về thời gian trị vì của Lý Chiêu Hoàng, hoàn thành vào năm 1278. Tuy nhiên, quan điểm của Lê Văn Hưu ít tính chất Nho giáo hơn nhiều so với các sử thần đời sau, nhất là từ thời Hậu Lê, gần như hoàn toàn dựa trên quan điểm Nho giáo, sở dĩ như vậy vì mối quan tâm chủ yếu của Lê Văn Hưu luôn là nền độc lập và sự bình đẳng của Đại Việt trước láng giềng phương Bắc. Do đó bộ "Đại Việt sử ký" của Lê Văn Hưu được xem là tác phẩm cần thiết khẳng định nền tự chủ của người Việt.

"Sử lược" theo A. B. Polyakov thì từ "Sử ký" của Đỗ Thiện mà biên soạn ra:
"... vào khoảng năm 1223 - 40, sử thần nhà Trần là Trần Phổ đã hiệu đính lại tác phẩm này ('Sử ký') thành hai quyển I và II, đồng thời chép tiếp về nhà Lý, làm thành quyển III. Tác phẩm mới gồm 3 quyển này được gọi là 'Việt sử lược', chịu sự ảnh hưởng nhất định của Nho giáo, điều đó đặc biệt thấy rõ ở quyển III, là quyển do Trần Phổ đã biên soạn. Cuối cùng, trong khoảng năm 1377 - 88, bộ 'Việt sử lược' được Trần Phổ (hoặc một người khác) bổ sung thêm phần thế phổ nhà Trần (phụ bản), rồi đổi tên nó thành 'Đại Việt sử lược'"
Nhà Thư tịch học Trần Văn Giáp (1902 - 73, từng làm việc tại EFEO chuyên về thời đại Trung cổ, cùng với học giả Hoàng Xuân Hãn [1908 - 96, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục, đồng thời là một kỹ sư, nhà toán học, người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học đầu tiên, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội và nhân văn với cụm công trình "Lịch sử và Lịch Việt Nam" [gồm: "Lý Thường Kiệt", "La Sơn Phu Tử", "Lịch và Lịch Việt Nam"]) và Vũ Hy Trác (1911 ~ 46, Trưởng ban dạy học Hội truyền bá quốc ngữ, Chủ tịch Lâm thời xã Khánh Thịnh, huyện Yên Khánh [nay là xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô], Ninh Bình sau Cách mạng tháng Tám, mất tích khoảng nằm 1946) sáng lập Hội Truyền bá Quốc ngữ, soạn cuốn "Vần quốc ngữ" đề xướng học chữ Việt theo phương pháp "i-tờ" năm 1938, rồi làm việc ở Bộ Giáo dục, Ban nghiên cứu Sử - Địa thuộc Vụ Văn học nghệ thuật, Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa, tiền thân của Viện Sử học, nghiên cứu các sách cổ chữ Nho và chữ Nôm, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về khoa học và công nghệ năm 2001) đoán định "Sử lược": "làm xong sau sách của Lê Văn Hưu" và tác giả có thể là Trần Chu Phổ (陳周普), vì tra trong "Đại Việt sử ký toàn thư" (大越史記全書, viết tắt "Toàn thư", do nhà sử học thời Hậu Lê, Ngô Sĩ Liên 吳士連 chủ biên) thì thấy đời Trần Thái Tông có viên quan tên là Trần Chu Phổ thi đỗ Đệ tam giáp Thái học sinh khoa thi Nhâm Thìn năm Kiến Trung thứ 8, đến năm 1251 được bổ làm Sử quan, giữ chức Ngự sử Trung tướng (sau đổi là Trung úy), về sau làm đến chức Tư đồ, tước Phụ quốc công nên Giáo sư Trần Văn Giáp cho rằng Trần Tân hay Trần Phổ chính là Trần Chu Phổ.
Giáo sư Trần Quốc Vượng coi "Sử lược" là bản tóm tắt của "Đại Việt":
"Nói Lê Văn Hưu là tác giả bộ chính sử thứ nhất của Việt Nam vẫn là đúng đắn.... Trước 'Đại Việt sử ký' của ông, vẫn chưa có sách nào gọi là chính sử. Sách của Trần Chu Phổ có lẽ là sách 'Việt sử lược' hay 'Đại Việt sử lược', cũng chỉ được coi như loại sách sử riêng, làm xong sau sách của Lê Văn Hưu, không được triều đình công nhận là chính sử chăng, nên không được phổ biến (có lẽ vì thế mà Ngô Sĩ Liên không nhắc đến hay dựa vào). Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là giả thuyết thôi"
Một số nhà nghiên cứu sau này căn cứ công bố của Phó Giáo sư Trần Ngọc Thêm về gia phả họ Trần ở Hà Tĩnh và công bố của Phó Giáo sư Trần Bá Chí dựa trên "Quan du tạp lục" (của Nguyễn Hoằng Nghĩa, 1785 - ?, đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi năm thứ 16 đời Hoàng đế thứ hai nhà Nguyễn Gia Long, Minh Mạng (明命皇帝, 1820 - 1841, Nguyễn Phúc Đảm 阮福膽 / Nguyễn Phúc Kiểu [阮福晈, 1791 - 1841), 1835, làm quan trải đến chức Hàn lâm viện Biên tu, Thự Tri phủ Tĩnh Gia [Thanh Hóa]) cho rằng tác giả "một người khác" là nhà sử học nổi tiếng đời Trần, Sử Huy Nhan (史希顏, ? - 1421, nhà văn, được xem là một Trạng nguyên vì đã đỗ đầu kỳ thi Hội năm Quý Mão 1363) vốn tên là Trần Hy Nhan, nhưng giỏi sử nên được nhà vua ban cho họ Sử, làm quan đến chức Nhập nội hành khiển (Tể tướng), viết "Sử lược" vào đời Hoàng đế thứ chín nhà Trần, Duệ Tông (睿宗皇帝, 1372 - 1377, Trần Kính 陳曔 / Trần Đoan [陳煓, 1337 - 1377]).
"Sử lược", như A. B. Polyakov nói, gồm ba quyển, chép các việc từ thượng cổ đến đời Hoàng đế Lý Huệ Tông (cha của Công chúa Thuận Thiên [順天公主, Lý Oanh {李罃, 1216 - 1248}, Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu {顯慈順天皇后, 1237 - 1248, Hoàng hậu thứ hai}] và Công chúa Chiêu Thánh [昭聖公主, Chiêu Thánh Hoàng hậu {昭聖皇后, 1225 - 1237, Hoàng hậu đầu tiên và Lý Phế hậu 李廢后 của Hoàng đế Trần Thái Tông, Phế hậu đầu tiên của nhà Trần năm 19 tuổi vì bà chưa sinh được con nối dõi}]); và một Phụ bản chép niên hiệu các Hoàng đế nhà Trần.
Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần (nhà sử học, trưởng khoa Việt Nam học Đại học Bình Dương, tác giả của nhiều bộ sách lịch sử, văn hóa) viết về giá trị của sách trong "Lời bạt in" cuối sách "Đại Việt sử lược" (bản dịch của Nguyễn Gia Tường, Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính) do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm1993:
"'Đại Việt sử lược' là một trong những tác phẩm xuất hiện sớm nhất của lịch sử học Việt Nam... Dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì 'Đại Việt sử lược' vẫn là một cuốn sách quý. Đọc 'Đại Việt sử lược, không những bạn sẽ hiểu được diện mạo kinh tế và xã hội cũng như thế thứ các đời, không những hiểu được đặc trưng văn hóa dân tộc với nhiều thành tố phong phú khác nhau, mà còn hiểu được quan hệ bang giao của đất nước với các quốc gia trong khu vực... đã diễn ra trước triều Trần..."
Dưới triều Hoàng đế thứ tám nhà Trần, Nghệ Tông (藝宗皇帝, 1370 - 72, Trần Phủ (陳暊 / Trần Thúc Minh 陳叔明 1321 - 94] ở ngôi Thượng hoàng hơn 20 năm [1372 - 94], còn gọi là Nghệ Hoàng 藝皇)có Trạng nguyên Hồ Tông Thốc (胡宗簇, 1324 -1404, đỗ năm 1341) năm 1372 làm Hàn Lâm viện học sĩ, năm 1386 được phong làm Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, đã soạn các bộ sách sử "Việt Nam thế chí", "Việt sử cương mục" và tập thơ "Thảo nhàn hiệu tần". Hồ Tông Thốc là người đầu tiên đưa ra danh xưng "Việt Nam" với ý nghĩa là quốc hiệu, người đầu tiên có quan điểm độc đáo, đúng đắn về Thời đại Hồng Bàng cùng mối quan hệ giữa huyền thoại và lịch sử. Nguyên bản các bộ sách của Hồ Tông Thốc, theo thiên "Văn tịch chí" bộ "Lịch triều" đồ sộ, đã bị quân Minh cướp đem về Kim Lăng, nay đã mất, nhưng may mắn "Lời tựa" tác phẩm "Việt Nam thế chí" được Phan Huy Chú chép lại trong "Văn tịch chí", cho biết "Việt Nam thế chí" chép 18 đời Vua Hùng và các đời nhà Triệu:
“Huống chi đất Việt ta ở vào cõi xa, sự hiểu biết cũng khác, từ đời Hồng Bàng thời gian xa cách, trong lúc mở mang, sách vở chưa đủ, lễ nhạc chưa làm, nếu cho là có thực thì bởi đâu mà biết? Nếu cho là không có thì bởi đâu mà xét ra? Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt ở tiếng vang, chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký từng đời mà thôi, còn những sự tích lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bậc quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Độc giả nếu lưu tâm nhận kỹ, có sức suy nghiệm thì ngọc & đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ…” 

Lại mất sạch sách vở và làm lại:

Đầu thế kỷ XV, quân Minh tràn xuống xâm lược nước ta, tiến hành cuộc cướp phá sách vở, hủy diệt những gì có chữ viết mà không mang đi được như bia đá... Các bộ sách "Đại Việt" và "Sử lược" cũng như những sách vở khác của ta bị nhà Minh cướp mang về TQ hoặc hủy bỏ nên thất truyền, tuy nhiên nội dung của "Đại Việt" cùng các lời bình luận của Lê Văn Hưu về các sự kiện lịch sử đã được nhà sử học Phan Phu Tiên (潘孚先, 1370 - 1462) ghi lại và dùng làm tư liệu biên soạn bộ chính sử đầu tiên của nhà Hậu Lê, thừa mệnh Lê Nhân Tông.
Theo thần phả làng Đông Ngạc (nay thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) thì Phan Phu Tiên đỗ Thái học sinh năm 1396 dưới triều vị Hoàng đế thứ 11 và áp chót nhà Trần, Thuận Tông (順宗皇帝, 1388 - 98, Trần Ngung {陳顒 / Trần Nhật Hỗn [陳日焜, 1377 - 99]) và từng bổ chức quan.
Còn theo "Toàn Việt thi lục" ("Sao lục toàn tập thơ Việt", bộ hợp tuyển thơ chữ Hán từ nhà Lý đến đời Lê Thánh Tông, do Lê Quý Đôn, biên soạn) thì cho rằng Phan Phu Tiên đỗ khoa Hoành từ (lời văn dồi dào, rộng rãi, tỏ ra có học lực cao sâu, thi Hoành từ để chọn người văn hay, học rộng) tại hành doanh Bồ Đề (ở thôn Phủ Hựu, huyện Gia Lâm, Hà Nội, vì trong doanh có 2 cây bồ đề, nên gọi là Doanh Bồ Đề) năm 1426.

Nguyên Lê Lợi khi xưng Vua Bình Định  lãnh đạo Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 27) đã nhận thức rõ muốn đuổi được giặc xây dựng và củng cố chính quyền vững mạnh cần có đội ngũ quan lại được đào tạo theo con đường khoa cử Nho giáo, nên trong khi đang khởi nghĩa đã tổ chức thi học trò văn học, ra đề bài thì là "Bảng văn dụ thành Đông Quan", lấy đỗ 50 người, bổ chức An phủ sứ các lộ bên ngoài và chức viên ngoại lang ở 6 bộ trong Kinh. Khoa này Đào Công Soạn (陶公僎, 1381 - 1458, người Tiên Lữ, Hưng Yên) đỗ đầu khi 46 tuổi, được bổ dụng làm An phủ sứ ngay, lại được lệnh đi sứ vào thành Đông Quan (thời nhà Hồ dời kinh đô nước Đại Ngu [大虞國, "Ngu" 虞: “sự yên vui, hòa bình"] vào Tây Đô [西都 hay Tây Kinh 西京, "Kinh đô phía Tây" trên địa phận hai thôn Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã Vĩnh Tiến và thôn Đông Môn nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá] nên đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, "Kinh đô phía Đông"; Sau khi quân Minh xâm lược đánh bại cha con Hồ Quý Ly, năm 1408 vào đóng ở Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan, với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của nhà Minh).
Sau khi giành lại độc lập dân tộc, Vua Bình Định từ điện Tranh ở Bồ Đề vào thành Đông Quan, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, lấy lại quốc hiệu Đại Việt, đổi Đông Quan thành Đông Kinh, xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại vương, hiệu là Lam Sơn động chủ, đặt niên hiệu Thuận Thiên (順天, 1428 - 33), đã lưu tâm sắp đặt việc học ngay, xây dựng lại khoa cử, luật lệ, kinh tế, chế tác lễ nhạc, đồng thời thu thập lại sách vở, mở mang trường học:
"hạ chiếu cho trong nước dựng nhà dạy dỗ nhân tài, trong kinh có Quốc Tử giám, bên ngoài có nhà học các phủ. Nhà vua thân hành chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú sung bổ vào học sinh các cục chầu cận, chầu ở ngự tiền và sung vào Giám sinh ở Quốc Tử giám, lại hạ lệnh cho viên quan giữ trách nhiệm tuyển rộng cả con em nhà lương gia ở dân gian sung vào Sinh đồ ở các phủ, đặt sư nho để dạy bảo"
Năm thứ nhất Thuận Thiên, Kỷ Dậu 1429 Vua lớn Thuận Thiên mở thi khoa Minh kinh bác học (Minh kinh tức là hiểu rõ nghĩa các kinh [sách], thi Minh kinh tức để chọn người hiểu nghĩa sách chắc chắn), hạ chiếu cho quân nhân các lộ và những người ẩn dật ở rừng núi, cùng các quan từ tứ phẩm trở xuống, ai thông kinh sử, thì đến cả sảnh đường ở Ðông Đô để thi. Thi kinh nghĩa hoặc luận, phú hay văn sách. Tùy tài bổ dụng, không kể thứ tự.
Sử chép Phan Phu Tiên đỗ thứ ba khoa thi này, được bổ làm Đồng tu sử ở Viện Quốc Sử. Bộ sử đầu tiên của nhà Hậu Lê được Phan Phu Tiên soạn nối tiếp "Đại Việt" bằng giai đoạn lịch sử từ năm 1223 khi Hoàng đế Trần Thái Tông lên ngôi cho đến khi quân Minh rút về nước năm 1427 sau chiến thắng của Vua Bình Định, gồm 10 quyển mang tên "Đại Việt sử ký tục biên" (大越史記續編, hay "Quốc sử biên lục") nhưng đã thất truyền.

Năm Quý Sửu 1433, Lê Thái Tổ định lệ 6 năm mở một khoa thi ở địa phương (cấp đạo, mà sau này là thi Hương), năm tiếp sau mở khoa thi ở kinh đô cho những người đỗ đạt năm trước (thi Hội), tuy nhiên vẫn chưa định phép thi Hương, thi Hội, chưa lấy đỗ Tiến sĩ.
Năm Thiệu Bình (紹平, 1434 - 1439) thứ nhất, 1434 đời Lê Thái Tông, định khoa thi chọn học trò, đặt ra thể lệ thi cử: Bắt đầu từ năm Thiệu Bình thứ 5, Mậu Ngọ 1438 tổ chức thi Hương ở các đạo, cứ 3 năm một lần thi lớn vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, coi đó làm quy định lâu dài. Phép thi Hương có 4 kỳ khác nhau, gọi là bốn trường: Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa; Kỳ II: chiếu, chế, biểu; Kỳ III: thơ phú; Kỳ IV: văn sách; Quan trường chấm bài thi thì xếp các thí sinh theo hạng ưu (hạng nhất), bình (hạng nhì), thứ (đủ để đỗ), và liệt (rớt). Thi xong kỳ nào chấm bài kỳ ấy, ai đỗ vào thi tiếp kỳ sau, ai trượt thì về. Thi đỗ kỳ III, vào kỳ IV không đỗ thì được nhận học vị Sinh đồ (生徒, dân gian gọi là ông Đồ).
Sinh đồ không được triều đình bổ dụng nhưng đối với trong làng, trong tổng thì địa vị đương sự thăng từ hạng thường dân lên hạng chức sắc, có chân trong hội đồng kỳ mục, được miễn sưu dịch, và khi có cỗ bàn trong đình thì được ngồi chiếu trên.
Sinh đồ tuy có tiếng thi đỗ nhưng không được bổ dụng nên nhiều người thi đi thi lại nhiều lần để cố đạt cho được học vị Hương cống. Lần thứ nhất đỗ gọi là "ông Đồ", lần thứ hai vẫn đỗ Sinh đồ thì gọi là "ông Kép", lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là "ông Mền". Như cụ Đoàn Tử Quang (chuyện cụ rất hay, kể sau), mãi tới năm 49 tuổi, cụ mới lần đầu tiên trở thành ông Đồ và cũng chỉ trở thành ông Kép khi đỗ ông Đồ lần thứ hai lúc đã 66 tuổi và cuối cùng cụ đỗ Hương cống năm 82 tuổi. Hay cụ thân sinh Tam nguyên Yên Đổ 三元安堵 Nguyễn Khuyến (阮勸, 1835 - 1909, tên thật là Nguyễn Thắng 阮勝) là Nguyễn Tông Khởi (阮宗起, 1796 - 1853) thường gọi là Mền Khởi do đỗ ông Đồ ba khóa.
Thi qua cả bốn kỳ thì đỗ Hương cống (鄉貢, kẻ sĩ / học trò ở hương thôn để dâng lên, cống lên triều đình - ông Cống), thường mỗi khoa lấy đỗ 72 người, đỗ đầu gọi là Giải nguyên. Hương cống ngoài quyền lợi như Sinh đồ còn được bổ nhiệm làm quan trong những ngạch thuộc cửu phẩm, được ban áo mũ, làng xã phải phục dịch đón tiếp vinh quy và năm sau được dự thi Hội. Thể lệ thi Hương từ đời Lê Thái Tông sang đời Lê Nhân Tông quy định người nào do Sinh đồ mà đỗ Hương cống thì được sung vào Giám sinh, người nào đang là quân nhân mà đỗ Hương cống thì không được sung vào Giám sinh mà vẫn là Hương cống.
Sang năm Thiệu Bình thứ 6, 1438 tổ chức khoa thi cho Hương cống ở sảnh đường tại kinh đô, vào các năm Sửu, Mùi, Thìn, Tuất. Hương cống dự thi được gọi là Cống sinh (tức là học trò được tiến cống lên triều đình) hay Cống sĩ (kẻ sĩ được tiến cống), khoa thi gọi là "Hội thi Cống sĩ" (tức là người đã đỗ thi Hương tụ hội lại ở kinh đô để thi, do đó gọi là thi Hội). Phép thi Hội cũng bốn trường như thi Hương; Cống sĩ đậu ba kỳ là đậu Tam trường thi Hội, vì khoa thi Hội khó nên Tam trường thi Hội đã có thể được bổ nhiệm chức vụ quan trọng; Đậu cả bốn kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, được dự thi Đình, đã là đậu đại khoa, vì thi Đình chỉ xếp hạng Tiến sĩ chứ không loại bỏ ai (tuy nhiên có ngoại lệ, sẽ kể sau). Cống sĩ đỗ đầu gọi là Hội nguyên, nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị Cống sĩ.
Một tháng sau thi Hội tổ chức thi Đình tại cung điện để Hoàng đế xếp loại Tiến sĩ. Chỉ sau khi thi Đình, Cống sĩ trúng cách thi Hội mới được xếp loại Tiến sĩ và mới được công nhận là có học vị Tiến sĩ, ngoài Tam khôi và Hoàng giáp, còn lại đều được ban danh hiệu Đồng Tiến sĩ xuất thân (同進士出身, còn gọi là Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân, giống như Thái học sinh thời Lý - Trần), Tiến sĩ đỗ đầu gọi là Đình nguyên (tức Trạng nguyên). Thi Đình đến đây mới chính thức thành lập, học vị đặt ra rõ ràng, truyền đến thời nhà Nguyễn Gia Long.
Đến năm 1828 Minh Mạng đổi cách gọi Sinh đồ thành Tú tài - ông Tú, Hương cống gọi là Cử nhân (cất người, dâng người tài) - ông Cử. Nhà Nguyễn Gia Long cũng bỏ không lấy Trạng nguyên. Như bài trước đã nói, ai đậu cả Giải nguyên, Hội nguyên, Đình nguyên gọi là Tam nguyên, như Nguyễn Khuyến đậu Giải nguyên năm 1864, Hội nguyên và Đình nguyên năm 1871 (Hoàng giáp, khoa này không lấy cả Bảng nhãn, Thám hoa nên Hoàng giáp là Đình nguyên), được gọi là Tam nguyên Yên Đổ.

Bộ chính sử thứ hai của nhà Lê sơ và là bộ quốc sử chính thống cũ nhất còn được lưu truyền nguyên vẹn tới ngày nay, được Lê Thánh Tông vào tháng Giêng năm Hồng Đức thứ 10 (Kỷ Hợi, 1479) sai sử quan trong Sử quán do Ngô Sĩ Liên đứng đầu, biên soạn. Ngô Sĩ Liên tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, từng giữ chức vụ thư ký trong nghĩa quân, nhiều lần được Vua Bình Định cử đi giao thiệp với quân Minh trong những thời kỳ đôi bên tạm hòa hoãn để củng cố lực lượng, đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Hội Nhâm Tuất, năm thứ 3 Đại Bảo (大寶 hay Thái Bảo 太寶, 1440 - 42) đời Lê Thái Tông, 1442, từng giữ chức Đô Ngự sử đời vị Hoàng đế thứ tư nhà Lê sơ, Thiên Hưng (天興皇帝, tháng mười 1459 - 6 tháng sáu 1460, Lê Nghi Dân [黎宜民, 1439 - 60]) và Lê Thánh Tông rồi bị giáng xuống làm Hữu Thị lang bộ Lễ, Tư nghiệp Quốc Tử Giám kiêm chức Tu soạn ở Sử quán.
Ngô Sĩ Liên đã dựa trên các tác phẩm của Lê Văn Hưu, Hồ Tông Thốc và Phan Phu Tiên chỉnh lý bổ sung tư liệu từ nhiều nguồn dã sử, truyền thuyết, các bản truyện chí, có thể là "Việt điện" hay "Lĩnh Nam" cùng với những lời truyền tụng để biên soạn bộ sử bao quát lịch sử trong hơn bốn thiên niên kỷ. Ngô Sĩ Liên rất mực đề cao “Việt sử cương mục”, tác giả của nó được xem là vượt cả Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, ông viết trong bài tựa:
"Riêng có bộ “Việt sử cương mục”của Hồ Tông Thốc làm là ghi chép thận trọng mà có phương pháp, bình luận sự việc thiết đáng mà không rườm rà, cũng gần hy vọng được. Nhưng sau cơn binh lửa, sách ấy không truyền” 
Không thấy Ngô Sĩ Liên nhận xét gì về tác phẩm "Việt Nam thế chí" của Hồ Tông Thốc, nhưng chính ông là người đã đi tiếp con đường Hồ Tông Thốc khai sáng, con đường đưa Thời đại Hồng Bàng vào sử, khi chia bộ sử thành hai phần:
"Ngoại kỷ toàn thư" (外紀全書, bắt đầu từ thời điểm truyền thuyết 2879 TTL đến hết năm 938, năm Ngô Quyền [吳權, 898 - 944, 1 trong 14 anh hùng dân tộc tiểu biểu] làm nên trận chung kết lịch sử toàn thắng của dân tộc trong cuộc đọ sức nghìn năm với phương Bắc rên vùng đất trang An Biên ở cửa sông Bạch Đằng [白藤江之战]; Trong khi Lê Văn Hưu thiết lập điểm khởi đầu cho lịch sử là sự việc Triệu Đà thành lập nước Nam Việt thì Ngô Sĩ Liên đi xa hơn nữa khi xác định Vua Kinh Dương và Lạc Long Quân trong truyền thuyết là tổ tiên của người Việt, họ Hồng Bàng là triều đại đầu tiên của người Việt, nghĩa là có trước nhà Hạ [夏朝, ~2100 - 1600 TTL, triều đại đầu tiên trong truyền thuyết của người Hoa Hạ] hơn 600 năm);
và "Bản kỷ toàn thư" (本紀全書, bắt đầu từ năm 939, năm Ngô Quyền lên ngôi Vua [吳王, 939 - 944] thành lập nhà Ngô [吳朝, 939 - 965], trở thành vị vua đầu tiên của dân tộc sau ngìn năm Bắc thuộc, "vua của các vua").
Vua Ngô Quyền không đặt Niên hiệu, không có Miếu hiệu, Thụy hiệu hay Tôn hiệu chính thức mà chỉ có Tôn hiệu không chính thức do các sử gia tôn gọi trong sử sách xưa nay là Ngô Tiên chúa, Vua Tiền Ngô 前吳王, về các "hiệu" này lại sẽ nói sau. Tuy nhiên, sách "Thiền Uyển tập anh" (禪苑集英, tài liệu lịch sử cổ nhất của Đạo Bụt hiện có, soạn quãng đời Lý - Trần, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần) tại Quyển Thượng chép về Thiền phái Vô Ngôn Thông (無言通, 759 - 826, một vị Thiền sư TQ, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải [百丈懷海, 720-814], theo đúng dòng Thiền của Thiền sư Huệ Năng [慧能, 638 - 713], chủ trương đốn ngộ [giác ngộ nhanh chóng]), gồm 37 thiên, cả thảy 38 vị, trong thiên thứ năm "Đại sư Khuông Việt" có nhắc đến Hoàng đế Ngô Thuận.
Quốc sư Khuông Việt (匡越, 933 - 1011, hậu duệ nhà Ngô, nguyên tên là Ngô Chân Lưu [吳真流, người hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, huyện Sóc Sơn, Hà Nội], tu chùa Phật Đà ở hương, thuộc đời [hay thế hệ] thứ 4 dòng thiền Vô Ngôn Thông). Ngô Chân Lưu là vị Thiền sư được phong Tăng thống (僧統, sư đứng đầu trông quản Đạo Bụt) đầu tiên trong lịch sử Đạo Bụt VN. "Sử lược" ghi:
"Năm Thái Bình (太平, 970 - 979, niên hiệu của Hoàng đế Đinh Tiên) thứ hai, 971 đặt phẩm trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ"
"Việt sử Toàn thư" cũng chép:
"Năm Thái Bình thứ hai bắt đầu định phẩm cho văn võ Tăng đạo ... Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là Khuông Việt đại sư".
Theo "Phả hệ họ Ngô Việt Nam" thì Thiền sư Khuông Việt vốn tên là Ngô Xương Tỷ, con cả Vua Thiên Sách (天策王, 951 - 954, Ngô Xương Ngập [吳昌岌, ? - 954]), anh của Sứ quân [使君, 965 - 968, Ngô Xương Xí [吳昌熾, 944 -> 950 - ?]). "Thiền Uyển tập anh" chép Thiền sư Khuông Việt thuộc dòng dõi Hoàng đế Ngô Thuận. Sách chú thích Hoàng đế Ngô Thuận chính là Vua  Ngô Quyền, dù sử chưa từng chép Vua xưng Hoàng đế nhưng không biết vì sao sách lại chép như vậy, có lẽ  là tôn xưng.
Do bản gốc của "Đại Việt" được sử dụng trong các tác phẩm của Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên, nên rất khó phân biệt phần do Lê Văn Hưu viết và phần do người khác viết. Nội dung ban đầu của "Đại Việt" chỉ còn lại dưới hình thức 30 lời bình luận của Lê Văn Hưu về các sự kiện và nhân vật lịch sử được ghi lại trong "Toàn thư" rằng: "Lê Văn Hưu viết..." (黎文休曰). Bóng dáng "Đại Việt sử ký tục biên" những lời bình luận của Phan Phu Tiên cũng có thể thấy trong phần ghi chép lịch sử từ Trần Thái Tông đến năm 1427. Ngô Sĩ Liên cho rằng hai bộ sách của họ Lê và họ Phan tuy
"rõ ràng, có thể xem được" (蹟彰可鑒: chương chương khả giám)
nhưng
"ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa đáng, văn tự còn có chỗ chưa ổn, người đọc không khỏi có chỗ còn chưa vừa ý" (而記志猶有未僃義例猶有未當文字猶有未安讀者不能無憾焉: nhi ký chí do hữu vị bị, nghĩa lệ do hữu vị thường, văn tự do hữu vị an, độc giả bất năng vô hám yên)
vậy nên ông đã sửa chữa, chép lại hai bộ sách này
"có việc nào sót quên thì bổ sung thêm vào, có lệ nào chưa đúng thì cải chính lại, văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi đi, gián hoặc có việc hay dở có thể khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê mùa ở sau" (事有遺忘者補之例有未當者正之文有未安者改之間有善惡可以勸懲者贅鄙見於其後: sự hữu di vong giả bổ chi, lệ hữu vị đáng giả chính chi, văn hữu vị an giả cải chi, gian hữu thiện ác khả dĩ khuyên trừng giả, chuế bỉ kiến ư kì hậu)
Mặc dù viết trong bài tựa "Toàn thư" - "Ngoại kỷ":
"Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi"
Nhưng Ngô Sĩ Liên lấy văn hóa, văn minh Hoa Hạ làm hệ thống qui chiếu, tỏ rõ cái mặc cảm tự ti dân tộc, cái phong thái mà như Giáo sư Trần Quốc Vượng viết: “Nam nhân Bắc hướng". Trong khi Lê Văn Hưu dành mối quan tâm hàng đầu là nền tự chủ của đất nước trước TQ thì Ngô Sĩ Liên lấy lịch sử TQ làm tiêu chuẩn đánh giá các sự kiện trong lịch sử Việt. Khi bình luận về một sự kiện, một nhân vật Ngô Sĩ Liên thường trích dẫn một đoạn từ các tác phẩm kinh điển của Nho giáo hoặc các tác phẩm khác của TQ như "Tống thư" (宋書, cuốn thứ 6 trong "Nhị thập tứ sử" [二十四史, 24 sách lịch sử, được gọi chung là chính sử TQ], do Thẩm Ước [沈約, 441 - 513] người nhà Lương [梁朝, 502 - 557, còn gọi là nhà Nam Lương 南梁朝] thời Nam - Bắc triều [南北朝, 420 - 589], viết và biên soạn, ghi chép lại các sự kiện lịch sử 60 năm của nhà Lưu Tống [宋朝, 420 - 479]) để làm hoa mỹ thêm lời bình luận của mình.
Xuất phát từ quan điểm Nho giáo, Ngô Sĩ Liên cũng thường đưa ra các nhận xét tiêu cực về các nhân vật lịch sử có hành vi trái ngược với quan điểm Nho giáo, có vẻ như Ngô Sĩ Liên cố gắng xác lập và giảng dạy các nguyên tắc đạo đức dựa trên các khái niệm của Nho giáo, nhiều lần đề cập khái niệm "tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức" của người quân tử, quân tử phải có cả phẩm chất tốt và cách cư xử công bằng. Ngô Sĩ Liên cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của người quân tử bằng cách chỉ ra sự khác biệt giữa một người quân tử và một kẻ tiểu nhân hay xác định kết quả đạt được đối với một người quân tử. "Toàn thư" hoàn thành vào tiết đông chí, khoảng tháng Một năm Kỷ Hợi (13/12/1479), gồm 15 quyển, nhưng lại không được khắc in, xuất bản. Ngô Sĩ Liên sau đó còn biên soạn "Tam triều bản kỷ" 三朝本紀, ghi chép lịch sử ba triều Hoàng đế Lê Thái Tổ, Thái Tông và Nhân Tông.

Sách "Việt điện" lại được Tiến sĩ Nguyễn Văn Chất (1422 - ?, đỗ năm 1448 dưới triều Lê Nhân Tông, làm đến Tư nghiệp Quốc tử giám [đứng đầu là chức quan Tế tửu, Tư nghiệp đứng thứ hai sau Tế tửu] và đi sứ sang TQ) soạn thêm phần "Tục biên" gồm 3 truyện.
Sách "Lĩnh Nam" cũng được nhuận chính vào những năm Hồng Đức đời Lê Thánh Tông, Tiến sĩ Vũ Quỳnh (武瓊, 1452 - 1516, đỗ năm Hồng Đức thứ 8, 1478, làm đến Thượng thư các bộ: Công [工部, cơ quan trông coi việc xây dựng thành lũy, đắp đê, xây dựng cầu cống đường sá, việc thổ mộc, tu sửa các công trình khi cần thiết, xây dựng cung điện, lăng tẩm], Binh [兵部, cơ quan quản lý việc binh bị, kén chọn, huấn luyện quan quân, ghi chép binh lính, khí giới, quân lệnh], Lễ, Tư nghiệp Quốc tử giám và Sử quan đô tổng tài) trong bài "Tựa", cho biết ông đã tìm được sách và tiến hành nhuận chính vào năm Hồng Đức thứ 23 (Nhâm Tý, 1492).
Cùng thời gian, Hoàng giáp Kiều Phú (1447 - ?, đỗ khoa Ất Mùi năm Hồng Đức thứ 6, 1476) cùng một số người khác cũng nhuận chính cho sách, đặt nhan đề "Lĩnh Nam chích quái truyện". Trong bài "Hậu tự" đề năm Hồng Đức thứ 24 (Quý Sửu, 1493), Kiều Phú nói rõ mức độ sửa chữa theo quan điểm của ông nhiều hơn, so với bản của Vũ Quỳnh.

Thời Hoàng đế thứ chín nhà Lê sơ, Tương Dực (襄翼皇帝, 1509 - 1516, Lê Oanh [黎瀠 / Lê Trừu 黎晭, 1495 - 1516]), vào năm thứ 3 niên hiệu Hồng Thuận (洪順, 1509 - 1516) 1511, Sử quán Đô Tổng tài Tiến sĩ Vũ Quỳnh soạn xong bộ quốc sử "Đại Việt thông giám thông khảo", gồm 26 quyển, nội dung và thời gian tương tự "Toàn thư" chỉ khác về mặt phân ranh giới giữa "Ngoại kỷ" và "Bản kỷ", bộ sách sau này thất truyền. Năm 1514, Tiến sĩ Lê Tung, (đỗ năm 1484, đời Thánh Tông, vốn tên là Dương Bang Bản, được ban quốc tính và đổi tên là Tung, giữ chức Thiếu bảo, tri Kinh diên sự, tước Đôn thư bá, Thượng thư Bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc tử giám đời Lê Tương Dực, ông có tham gia khởi nghĩa giúp Giản Tu công Lê Oanh chống Hoàng đế thứ tám nhà Lê sơ, Đoan Khánh [端慶皇帝, 1505 - 09, Lê Tuấn {黎濬, 1488 - 1509}], nổi tiếng là một bạo chúa và hoang dâm, người đời gọi là Quỷ vương 鬼王, Giản Tu công đánh bại tất cả các đạo quân do Đoan Khánh gửi đến, kéo quân vào kinh thành, Đoan Khánh sợ hãi trốn vào phường Nhật Chiêu được ít hôm bị một vệ sĩ cũ bắt được đem nộp cho Giản Tu công, liền giam Đoan Khánh vào cửa Lệ Cảnh, phế truất ngôi vị Hoàng đế, giáng xuống làm Mẫn Lệ công 愍厲公 rồi bức phải uống thuốc độc tự vẫn, xác Đoan Khánh bị đem đi nhét vào súng thần công bắn cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng, sau Lê Y [黎椅, 1506 - 27] lên ngôi Hoàng đế thứ 10 và áp chót nhà Hậu Lê giai đoạn Lê sơ, Chiêu Tông [黎昭皇宗, 1516 - 22] mới đặt tên thụy cho là Hoàng đế Uy Mục 威穆皇帝]), soạn "Việt giám thông giám tổng luận" (越鑑通考總論, trên cơ sở của bộ "Đại Việt thông giám thông khảo"), theo ghi chép của Phan Huy Chú:
"Vũ Quỳnh tiến sách Thông Khảo, Tương Dực đế muốn nhặt những điều cốt yếu để làm tổng luận cho tiện xem, mới sai Lê Tung làm sách này".
Vũ Quỳnh còn soạn sách "Tứ triều bản kỷ" 四朝本紀, ghi chép lịch sử bốn triều Hoàng đế Lê Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông (肅宗皇帝, 1504 - 05, Lê Thuần [黎㵮, 1488 - 1505]) và Lê Uy Mục.
Thời Lê Chiêu Tông, Hoàng giáp Đặng Minh Khiêm vâng mệnh sửa lại sách sử.

Thời Mạc, nho sinh Đoàn Vĩnh Phúc, từng làm việc ở Tú lâm cục, thuộc Hàn lâm viện cũng tham gia bổ sung cho "Lĩnh Nam", Phan Huy Chú viết trong "Lịch triều":
"... Hai quyển trước (ý nói của Vũ Quỳnh và Kiều Phú) là sách cổ truyền, một quyển sau là do người họ Đoàn thời ngụy Mạc, lấy ở U linh tập mà theo ý mình cắn xén để phụ vào sau"
Nhà Mạc rất trọng khoa cử, mở nhiều khoa thi theo lệ nhà Lê ba năm một khoa, kén được nhiều nhân tài nên mới chống chọi được với nhà Lê mà giữ Đông Kinh (hay Kinh Kỳ), thời gian này đã trở thành một đô thị sầm uất, người phương Tây đến buôn bán đọc trại âm tên Hán - Việt Đông Kinh thành Tông Kinh (viết là Ton Kin, Ton Kin, Tongking, Tongkin, Tonkin, Tunquin, Tonquin, Tunquini tùy ngôn ngữ, họ cũng dùng Kecho hay Cachao để ghi Kẻ Chợ) trong 65 năm.
Khoa cử thời Mạc có mấy điều đáng chú ý: Khoa thi Hội không chỉ mở ở kinh đô mà còn được mở ở các địa phương, như Nguyễn Bỉnh Khiêm (阮秉謙, 1491–1585) đỗ khoa thi Hội Ất Mùi 1535, năm thứ 6 niên hiệu Đại Chính (大正, 1530 - 40) đời Hoàng đế thứ hai nhà Mạc, Thái Tông (太宗皇帝, 1530 - 40, Mạc Đăng Doanh [莫登瀛, 1500 - 40]) tại Trường thi Hương trấn Hải Dương (làng Mậu Tài, tổng Mao Điền nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương), vốn được lập ra từ giữa thế kỷ XV để tổ chức các kỳ thi Hương của trấn Hải Dương, nhưng vào thời nhà Mạc đã bốn lần tổ chức khoa thi Hội ở đây;
Từ năm thứ tư niên hiệu Thuần Phúc (淳福, 1562 - 65) đời Hoàng đế thứ năm nhà Mạc, Anh Tổ (茂洽皇帝, 1562 - 92, Mạc Mậu Hợp [莫茂洽, 1560 - 92]) 1565, kỳ đệ tứ khoa thi Hội, bài phú phải làm bằng chữ Nôm, một sự kiện chưa từng có trong khoa cử nước ta;
Và nhà Mạc là triều đại duy nhất có người phụ nữ đầu tiên và duy nhất trong lịch sử khoa bảng Nguyễn Thị Ngọc Toàn (阮氏玉瓚, 1574 - 1654, tên khác Nguyễn Thị Duệ 阮氏叡 / Nguyễn Thị Du 阮氏游) giả trai để dự việc đèn sách, dự thi Hội năm Giáp Ngọ, 1594 đời Hoàng đế thứ tám nhà Mạc và Vua thứ hai họ Mạc thời hậu kỳ ở Cao Bằng, Càn Thống (1592 - 1625, Mạc Kính Cung [莫敬恭, ? - 1625]) và đỗ Thủ khoa.

Khoảng những năm Cảnh Trị ((景治, 1663 - 1671) đời Hoàng đế thứ 19 nhà Hậu Lê và thứ tám giai đoạn Trung hưng, Huyền Tông (玄宗皇帝, 1662 - 71, Lê Duy Vũ [黎維禑 / Lê Duy Hi 黎維禧, 1654 - 71]), Vua thứ ba họ Trịnh (主鄭 / 鄭王, 1599 - 1787, nhân dân, sách vở vẫn gọi là Chúa Trịnh, vọng tộc phong kiến cai trị Bắc Hà [北河, 1599 - 1787, vùng lãnh thổ Đại Việt từ sông Gianh, Quảng Bình trở ra Bắc, nhân dân, sách vở vẫn gọi là Đàng Ngoài], kinh đô tại Đông Kinh, và vì Đông Kinh là trung tâm hành chính và thương mại Bắc Hà nên Tonkin được người phương Tây dùng để chỉ toàn xứ Bắc Hà, Tonkinoise, Tunquini... tức là Vương quốc Đông Kinh hay nước An Nam 安南國) là Tây Định (西定王, 1657 - 82, Trịnh Tạc [鄭柞, 1606 - 82]) giao cho một nhóm văn quan, khảo đính các bộ quốc sử cũ đồng thời biên soạn quốc sử tiếp nối từ năm 1533 khi nhà Hậu Lê bắt đầu Trung hưng đến năm 1662 cuối đời Hoàng đế thứ 17 / 19 nhà Hậu Lê và thứ sáu / tám giai đoạn Trung hưng, Thần Tông (神宗皇帝, 1619 - 43 và 1649 - 62, Lê Duy Kỳ [黎維祺, 1607 - 62]) nhằm khắc in ban hành cho cả nước. Chủ biên là Quốc lão Thái bảo Yên Quận công, Phạm Công Trứ (范公著, 1600 - 75) đang giữ cương vị Tham tụng (参從, chức Tể tướng 宰相 thay cho tên gọi "Bình chương quân quốc trọng sự" [平章軍國重] bắt đầu từ thời Vua Trịnh thứ nhất, Bình An [平安王, 1599 - 1623, Trịnh Tùng {鄭松, 1550 - 1623}] cho đến Vua Trịnh thứ 10 Đoan Nam [端南王, 1782 - 86, Trịnh Tông {鄭棕 / Trịnh Khải 鄭楷, 1763 - 86}]).
Công việc khảo đính các bộ quốc sử cũ, theo Phạm Công Trứ, gồm trước tác của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh, ghi chép lịch sử từ thời họ Hồng Bàng cho đến trước đời Lê Thái Tổ, năm 1428 và "sách trước" (前書: tiền thư, có lẽ là bản thảo của Quốc sử quán, có thể là "Tam triều bản kỷ" của Ngô Sĩ Liên, "Tứ triều bản kỷ" của Vũ Quỳnh và thậm chí có thể cả các bản thảo ghi chép trong khoảng 1527 - 1533 khi nhà Hậu Lê chưa Trung hưng) chép từ đời Lê Thái Tổ đến đời Hoàng đế thứ 11 nhà Hậu Lê và cuối cùng giai đoạn Lê sơ, Cung Hoàng (恭宗皇帝, 1522 - 27, Lê Xuân [黎椿, 1507 - 27]).
Theo ghi chép của Phạm Công Trứ bộ sử "Đại Việt thông giám thông khảo" của Vũ Quỳnh chép từ Thời đại Hồng Bàng đến Vua Vạn Thắng (萬勝王, 967 - 967, Đinh Bộ Lĩnh [丁部領, 924 - 979]) dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước là "Ngoại kỷ" và "Bản kỷ" chép từ lúc Vua Vạn Thắng xưng Hoàng đế Đại Thắng Minh, lập ra nhà Đinh đặt tên nước là Đại Cồ Việt, triều đại mở đầu chế độ phong kiến tập quyền và thời kỳ tự chủ với một chế độ đứng đầu bởi một Hoàng đế của nước Việt, mở nền chính thống cho thời đại phong kiến độc lập đến đầu thời Lê Thái Tổ. Phạm Công Trứ đã ảnh hưởng quan điểm này của Vũ Quỳnh và chép mở đầu phần "Bản kỷ" bộ quốc sử mới cũng từ triều Đinh. Trong văn bản bộ quốc sử mới, những lời bình luận các sự kiện lịch sử của Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh được chép rõ "sử thần Ngô Sĩ Liên bàn" 史臣吳士連曰, "Sử thần Vũ Quỳnh bàn" 史臣武瓊曰. Tổng luận của Lê Tung được các soạn giả đưa toàn bộ vào phần đầu của bộ quốc sử mới.
Để biên soạn tiếp nối quốc sử, ngoài "Tam triều bản kỷ", "Tứ triều bản kỷ" còn có những bản thảo ghi chép nhiều đời sau, bị sử gia theo nhau sao lục nhầm lẫn mà Phạm Công Trứ gọi là tệ: "hợi 亥 lầm ra thỉ 豕, ngư 魚 lầm ra lỗ 魯" (vì tự dạng chữ hợi 亥 gần giống chữ thỉ 豕, tự dạng chữ ngư 魚 gần giống chữ lỗ 魯 nên hay viết nhầm, chữ tác 作 đánh chữ tộ 祚, chữ ngộ 遇 thành chữ quá 過) cho nên phải hiệu đính để "rửa bỏ được thói quen theo nhau lâu dài ấy" (洗相沿之故習, tẩy tương duyên chi cố tập). Các soạn giả đã tìm đến khá nhiều các nguồn tư liệu bên ngoài triều đình như "Sử ký dã biên" 史記野編, "Dã sử của Đăng Bính", "sách sót lại của người đương thời dâng hiến" ... trong bộ quốc sử mới ghi rõ một lời bàn khá dài của Đăng Bính (lai lịch tới nay chưa rõ ràng) ở cuối phần "Bản kỷ thực lục", tỏ rõ thái độ phê phán nhà Mạc và Hoàng đế sáng lập Thái Tổ (太祖皇帝, 1527 - 29, Mạc Đăng Dung), bênh vực và ngợi ca nhà Lê trung hưng.
Bộ quốc sử hoàn thành vào mùa thu năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Trị thứ 3, tức là năm 1665, cũng mang tên "Toàn thư", chép từ Thời đại Hồng Bàng đến hết năm 967 khi nhà Đinh được thành lập, thống nhất đất nước là "Ngoại kỷ" (hiệu đính sử cũ); "Bản kỷ toàn thư" (本紀全書, hiệu đính sử cũ) chép từ năm 968 đời Đinh Tiên Hoàng đến hết năm 1433 kết thúc triều đại Lê Thái Tổ; "Bản kỷ thực lục" (本紀寔錄, hiệu đính sử cũ và chỉnh lý sách trước) chép từ năm 1434 đời Lê Thái Tông đến hết năm 1527 khi nhà Lê sơ sụp đổ, nhà Mạc thành lập và phụ chép lịch sử từ năm 1527 đến năm 1532 khi nhà Hậu Lê chưa Trung hưng; "Bản kỷ tục biên" (本紀續編, viết mới) chép từ năm 1533 đời Lê Trang Tông đến khi Lê Thần Tông băng hà năm 1662, dài hơn 235 năm so với "Toàn thư" của Ngô Sĩ Liên, gồm 23 quyển. Năm 1676, sau khi Phạm Công Trứ mất, Vua Trịnh giao công việc sửa quốc sử cho Tham tụng kiêm Thượng thư Bộ Công Hồ Sĩ Dương (胡士揚, 1621 - 1681, hậu duệ Hồ Tông Thốc).

Khoảng năm 1679, Tiến sĩ Nguyễn Nam Kim đã làm thêm phần "Tục biên" cho "Lĩnh Nam" gồm 4 truyện. "Việt điện" được Tiến sĩ Cao Huy Diệu (người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, trấn Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội, nội tổ của danh sĩ Cao Bá Quát [高伯适, 1809 -1855], đỗ Sinh đồ năm 1707, Tiến sĩ năm 1715 đời Hoàng đế thứ 22 nhà Hậu Lê và thứ 11 giai đoạn Trung hưng, Dụ Tông [裕宗皇帝, 1705 - 1731, Lê Duy Đường {黎維禟 / 黎維禎, 1679 - 1731}]), được bổ làm tri huyện Quốc Oai, sau lần lượt trải chức Giám tu Quốc sử, Thị lang (侍郎, chức quan phó của quan đứng đầu) Bộ Lại (吏部, cơ quan giữ việc quan tước, phong tước, ân ban thuyên chuyển, lựa chọn, xét công, bãi truất và thăng thưởng, bổ sung quan lại, cung cấp người cho các nha môn), Thượng thư (尚書, chức quan đứng đầu) Bộ Hộ (戸部, cơ quan giữ việc ruộng đất, nhân khẩu, kho tàng, thu phát, bổng lộc, đồ cống nạp, thuế khoá, muối và sắt, điều hòa nguồn của cải nhà nước, có sách chép Bộ Lại), khi còn ở chức Giám tu, đã ra công viết bổ chú và phần tiếm bình. Tham gia sửa chữa với Cao Huy Diệu còn có người cùng thời là Lê Hữu Hỷ người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, đỗ Đồng tiến sĩ năm 1700, làm quan đến Giám sát ngự sử đốc đồng Sơn Tây.

Năm 1681, Hồ Sĩ Dương mất, đến khoảng năm 1697 công việc biên soạn quốc sử được Vua thứ tư họ Trịnh, Định Nam (定南王, 1682 - 1709, Trịnh Căn [鄭根, 1633 - 1709]) giao cho một nhóm văn thần do Tham tụng kiêm Thượng thự Bộ Hình Lê Hy (1646 - 1702) đứng đầu, khảo đính bộ "Toàn thư". Đối với thành quả của nhóm Phạm Công Trứ trước đó ba thập kỷ, Lê Hy tự nhận mình chỉ "chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy" (訛者正之純者録之, ngoa giả chính chi, thuần giả lục chi) còn thế thứ, phàm lệ, niên biểu đều theo đúng như sử cũ.
Nhóm Lê Hy đã sửa lại nhiều chi tiết sai lệch về lịch pháp và thiên văn trong bản "Toàn thư" của nhóm Phạm Công Trứ, cô gọn lời văn, cắt bỏ hoặc bổ sung nhiều sự kiện lịch sử. Đồng thời "tìm kiếm chuyện cũ, tham khảo các sách dã sử loại biên" (蓃獵舊跡參諸野史, sưu liệp cựu tích tham chư dã sử) biên soạn tiếp lịch sử từ năm Cảnh Trị thứ nhất đời Lê Huyền Tông (1663) đến hết đời Hoàng đế thứ 20 nhà Hậu Lê và thứ 9 giai đoạn Trung hưng, Gia Tông (嘉宗皇帝, 1671 - 75, Lê Duy Cối [黎維禬, 1661 - 75]), nối tiếp "Bản kỷ tục biên". Bộ quốc sử hoàn thành vẫn lấy tên "Toàn thư", được khắc in toàn bộ toàn bộ 24 quyển và ban bố phát hành đầy đủ vào mùa đông năm thứ 18 niên hiệu Chính Hòa (正和, 1680 - 1705) đời Hoàng đế thứ 20 nhà Hậu Lê và thứ 9 giai đoạn Trung hưng, Hy Tông (僖宗皇帝, 1675 - 1705, Lê Duy Cáp [黎維祫, 1663 -1716]), Đinh Sửu 1697. Các bộ quốc sử sau này như "Đại Việt sử ký tiền biên" (大越史記前編, của Ngô Thì Sĩ, viết tắt "Tiền biên"), "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" (欽定越史通鑑綱, do Quốc sử quán triều Nguyễn Gia Long soạn thảo vào khoảng năm 1856 - 1884, viết tắt "Khâm định" ... đều được biên soạn dựa trên cơ sở của bộ "Toàn thư" này.

Năm thứ 10 niên hiệu Cảnh Hưng (景興, 1740 - 86) đời Hoàng đế thứ 26 nhà Hậu Lê và áp chót giai đoạn Trung hưng, Hiển Tông (顯宗皇帝, 1740 - 86, Lê Duy Diêu [黎維祧, 1717 - 86]), 1749, Vũ Đình Quyền phụng chỉ soạn thêm 2 truyện cho "Lĩnh Nam" ở phần "Tăng bổ".
Năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757), Ôn Quận công 温郡公 Vũ Khâm Thận (武欽慎, 1680 - 1731, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm Đinh Mùi 1727, sau đổi tên là Lân) đã góp thêm nhiều truyện mới cho "Lĩnh Nam", ở truyện "Trành quỷ hiển linh truyện" có chua rõ là do Vũ Khâm Lân ghi lại.
Năm 1771, Kim Muội Liễn (không rõ lai lịch), đã phụng lục và kiểm xét cho "Việt điện". Danh sĩ họ Gia Cát ở Hồng Đô, tỉnh Hải Dương, từng làm Chủ bạ Bộ Lễ năm 1774 thêm vào non 20 truyện, bớt đi hoặc viết hẳn lại một số truyện, đặt lại tên sách là "Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập" (Sửa sang, mô phỏng và bình giải mới tập truyện về cõi u linh của nước Việt), viết bài "Tựa" có đoạn:
"... tập sách này làm ra từ triều Lý, từ trước sách chép của Lê Văn Hưu, để ghi lại các sự việc... Kịp đến triều Trần, chàng họ Lý (chỉ Lý Tế Xuyên) lại làm nối theo phần cuối, sưu tầm rộng khắp, góp thành tập sách này..."
Ngoài ra, còn có Lê Tự Chi, Tam Thanh quán đạo nhân, Nguyễn Hầu, Nguyễn Đình Giản, v.v... cũng đã đóng góp ít nhiều cho "Lĩnh Nam".

Cũng khoảng thời gian này, Ngô Thì Sĩ đã biên soạn các sách sử: "Việt sử tiêu án" (越史標案, "Những nghi án nêu lên trong sử Việt" hoàn thành năm 1775, chép những nghi án từ thời thượng cổ Hồng Bàng đến giai đoạn ngoại thuộc nhà Minh, viết tắt "Tiêu án") và "Tiền biên". "Tiền biên" chép lịch sử từ Thời đại Hồng Bàng đến Ngô sứ quân gồm 7 quyển là "Ngoại kỷ", từ nhà Đinh đến hết thuộc Minh, gồm 10 quyển là "Bản kỷ". Phần đầu sách liệt kê danh sách các nhà sử học: Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Tả tướng Nguyễn Nghiễm (阮儼, 1708 - 76), Ngô Thì Sĩ. Bình luận các sự kiện và nhân vật, người biên soạn có trích lời bàn của các sử gia trên, bài tổng luận của Lê Tung được chép toàn bộ,
Hai bộ sách này của Ngô Thì Sĩ là hai công trình có giá trị lớn, thể hiện rõ ông là nhà sử học vừa có tinh thần làm việc khoa học cẩn trọng, có nhiều phát hiện mới và suy nghĩ riêng, vừa có ngòi bút viết sử sinh động, lôi cuốn người đọc. Ông đã tra cứu bổ sung được khá nhiều sự kiện, góp phần cải chính khá nhiều sai lầm trong "Toàn thư" và kể cả sử TQ như "Lương thư" (梁書, cuốn thứ 8 trong "Nhị thập tứ sử", nằm trong bộ "Đường sơ bát sử" [唐初八史, tám bộ sử biên soạn từ năm 636 đến 659, chép về thời trước nhà Đường 唐朝, 618 - 907], do Diêu Tư Liêm [姚思廉, 557 - 637)] sống ở đầu đời Đường kế thừa cha là Diêu Sát đời Nam Trần [南朝陳, 557 - 589] biên soạn, ghi chép lịch sử hưng thịnh, suy vong Tiêu Diễn [蕭衍, 464 - 549] năm 502 kiến quốc nhà Lương thời Nam - Bắc triều, trở thành Lương Vũ Đế [梁武帝, 502 - 549] cho đến khi Lương Kính Đế [梁敬帝, 555 - 557, Tiêu Phương Trí {蕭方智, 543 – 558}] bị Trần Bá Tiên phế truất năm 557) mà chính bộ "Khâm định" về sau đã công nhận và bổ biên sửa chữa.

Những sách vở của ta trong đó có các bộ sách "Đại Việt" và "Sử lược" bị nhà Minh cướp mang về TQ hoặc hủy bỏ, tuy nhiên nội dung của "Đại Việt" cùng các lời bình luận của Lê Văn Hưu về các sự kiện lịch sử đã được nhà sử học Phan Phu Tiên ghi lại và dùng làm tư liệu biên soạn bộ chính sử đầu tiên của nhà Hậu Lê, và tiếp tục truyền lại các bộ sử đời sau. Còn "Sử lược" thì sao? Đó là nội dung bài tiếp theo.

¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong "Ngày xửa ngày xưa"  và:
¤ Ủy ban Khoa học Xã hội:
- Lịch sử văn học Việt Nam, Ủy ban Khoa học Xã hội, Nxb. Khoa học Xã hộii, Hà Nội, 2000
¤ Viện nghiên cứu Hán - Nôm:
- Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Trần Văn Giáp, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003
• Mục "Ngô gia văn phái"
- Văn học thế kỷ X - XIV, Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004
- Văn học thế kỷ XVIII, Nguyễn Thạch Giang (chủ biên), Nbx. Khoa học Xã hội, 2004
- Cơ sở văn bản học Hán - Nôm, Ngô Đức Thọ - Trịnh Khắc Mạnh, Nxb. Khoa học Xã hội, 2007
¤ Lịch sử:
- Việt sử lược và Đại Việt sử ký, Yamamoto Tatsuro, Đông Dương học báo, tháng 4/1932
- Đại Việt sử ký chí soạn tu dữ truyền bản; Soạn niên, tài liệu và truyền bản của An Nam chí lược, Trần Kính Hòa; in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (Tập 1), Nxb. Thanh Niên, 2012
- Lược khảo về khoa cử Việt Nam, Trần Văn Giáp ,1941
- Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1990
- Từ điển chức quan Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, 2002
- Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Ban Liên lạc họ Ngô Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2003
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thát, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
- Mười cuộc cải cách, đổi mới trong lịch sử Việt Nam, Văn Tạo, Nxb. Đại học Sư phạm, 2006
- Đại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm, Phan Huy Lê, 2009
¤ Nhân vật:
- Lê Quý Đôn. Bùi Hạnh Cẩn, Nxb. Văn hóa, 1985
- Ngô Thì Sĩ, Trần Thị Băng Thanh, Nxb. Hà Nội, 1987
- Tiểu sử Lê Quý Đôn trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Tập 6), Nguyễn Đăng Thục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992
- Thư tịch Hán Nôm viết về Nguyễn Thị Ngọc Toàn, bà Tiến sĩ triều Mạc trong tập sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Nxb. Hà Nội, 1996
- Toàn tập Trần Thái Tông, Lê Mạnh Thát, Nxb. Thành phố Hồ Chí Mi nh, 2004
- Trí thức Việt Nam xưa và nay, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2006
- Hồ Tông Thốc, Nguyễn Trung Hiền (in trong Người xứ Nghệ Tập 2), Nxb Nghệ An, 2007
- Danh nhân trong lịch sử Việt Nam, Tạ Ngọc Liễn, Nxb. Thanh Niên, 2008
- Con người và sự nghiệp Lê Quý Đôn trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (Tập 3), Văn Tân, Nxb. Thanh Niên, 2012
¤ Văn học:
- Thơ văn Lý Trần, tập II - quyển thượng, Nguyễn Huệ Chi - Trần Thị Băng Thanh - Đỗ Văn Hỷ - Trần Tú Châu, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1988
- Thiền uyển tập anh (Anh tú Vườn Thiền), Ngô Đức Thọ đồng dịch, Nxb. Văn học, 1993
- Lĩnh Nam chích quái lục, trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại (Tập 1), Nguyễn Đăng Na, Nxb. Giáo dục, 1997
- Nghiên cứu về Thiền Uyển tập anh, Lê Mạnh Thát, Nxb.  Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
¤ Tạp chí:
+ Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội:
• Số 101, tháng 8/1967
- Về quê hương của Ngô Quyền, Trần Quốc Vượng
¤ Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, 2004:
• Nguyễn Huệ Chi:
- Mục từ "An Nam chí lược"
- Mục từ "Lĩnh Nam chích quái"
- Mục từ "Phan Phu Thiên"
- Mục từ "Trần Cảnh"
• Nguyễn Phương Chi:
- Mục từ "Việt điện U Linh tập"
• Phạm Ngọc Lan:
- Mục từ "Thiền Uyển tập anh"
• Nguyễn Lộc:
- Mục từ "Lê Quý Đôn"
• Bùi Duy Tân:
- Mục từ "Đặng Minh Khiêm
• Phạm Tú Châu:
- Mục từ "Phạm Thì Chí "
• Nguyễn Lộc:
- Mục từ "Ngô gia văn phái"



30 tháng 4 2019

Từ Trang An Biên đến Kẻ Chợ: Ngày xửa ngày xưa

Dẫn nhập:

Khi tìm hiểu về những mảnh đất, địa danh, con người ở một vài vùng tại Hải Phòng - Hà Nội, do bản tính tham lam mà vấn đề cứ mở rộng, khoét sâu thêm mãi, thôi thì cóp nhặt chôm chỉa xào nấu thành loạt bài về chủ đề này, cũng là để cho các con người xào nấu tham khảo. Đây là một món hầm bà lằng xắng cấu, hổ lốn lộn xà ngầu, rất dài và rất xa, hy vọng người đọc có đủ kiên nhẫn!

Vì tài liệu tham khảo quá nhiều nên không liệt kê hết ra đây, chủ yếu là tài liệu đã công bố của các đơn vị: Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ; Viện Khảo cổ học; Viện Sử học; Viện Nghiên cứu Hán - Nôm 院研究漢喃; Viện Thông tin Khoa học Xã hội; Viện Vật lý; Viện Việt học; Thư viện Khoa học Kĩ thuật Trung ương; Viện Bảo tàng Lịch sử; Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên; Bảo tàng Địa chất; các Bảo tàng Địa phương; Tạp chí Khảo cổ học; Tạp chí Khoa học Xã hội; Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội; Khoa Việt Nam học, ĐHSP Hà Nội; Viện Viễn đông Bác cổ (École française d'Extrême - Orient, EFEO); Bulletin de L'École française d'Extrême - Orient (BEFEO, Tập san của EFEO); và các ngành liên quan cũng như tài liệu nước ngoài, một số do người xào nấu chuyển ngữ... Thời gian trong bài, nếu theo lịch Tây thì viết bằng số (1/1/2019), nếu theo lịch ta thì viết bằng chữ (ngày Mùng một tháng Giêng năm Nhâm Thân).

Lịch sử:

Lịch sử, tiếng Hy Lạp: ἱστορία / historia, có nghĩa là "sự tìm hiểu kiến thức bằng cách điều tra" (Hy Lạp: Ελλάδα; La-tinh hóa: Ellada hay Ελλάς; La-tinh hóa: Hellas; La-tinh: Graecia, "Vùng đất của người Hellas"; Anh: Greece; "Hellas" phiên âm tiếng Hán: Xīlà 希臘, âm Hán - Việt: “Hy Lạp"; Phạm Phú Thứ (范富恕, 1821 - 82) trong sách "Tây hành nhật ký" / "Nhật ký đi sứ phương Tây", ghi lại khá tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe về kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán của người phương Tây, trong chuyến đi sứ dài ngày vào năm 1863 - 64, phiên âm "Graecia"/ "Greece" là "Cừ Sách", "Cừ Rách" hoặc "Ca Lê Cô"). Điều tra trước nhất là từ ghi chép lịch sử, thế nhưng nước ta trải qua những cuộc cướp đoạt, tiêu hủy của giặc ngoại xâm, cổ sử cũng như những tài liệu quý báu của tổ tiên chúng ta không còn gì thì lấy gì điều tra?

Suốt chiều dài lịch sử, giặc ngoại xâm luôn tìm mọi phương cách hủy hoại Văn hoá của ta, quyết không cho người Việt biết đến mặt chữ, đến sách vở của tổ tiên, mỗi lần tràn sang là mỗi lần hủy diệt tất cả những gì có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là phương tiện lưu giữ chữ viết, như bia đá, trống đồng, hay bất cứ đồ gì có khắc chữ viết chữ trên đó một cách có hệ thống sau khi thu gom hoặc tiêu hủy hết sách vở. Có người hỏi rằng: "Tại sao quân giặc sang nước ta cướp sử về?". Tất cả đều nhằm xóa bỏ văn hóa, đồng hóa cộng đồng Bách Việt (百戉 / 鉞 / 粵 / 越) ở Lĩnh Nam (嶺南, "lĩnh" 嶺 có nghĩa là "thổ nhân cát [cứ]", tức là "lĩnh thổ" / "lãnh thổ", "nam" 南 là phía Nam dãy núi Ngũ Lĩnh 五岭) như trước đó đã thành công ở miền Giang Nam (江南, "phía nam sông Dài" [長江, Trường Giang, con sông dài nhất châu Á tức là sông Cái, nghĩa chữ là "sông Mẹ", theo thói quen của cộng đồng Bách Việt gọi sông lớn nhất trong vùng] đoạn hạ lưu sông Dài chảy qua khu vực thành phố Dương Châu 揚州 tỉnh Giang Tô 江苏 nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa [中华人民共和国, Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc - Trung Quốc 中国, TQ] được gọi là sông Dương Tử [揚子江, Dương Tử giang] người phương Tây biết đến Dương Tử trước khi biết toàn bộ sông Dài nên dùng Dương Tử để chỉ cả con sông Dài, thành quen). Để dòng giống người nước Nam không biết sử! Để lịch sử sẽ do quân giặc viết ra, và rằng người nước Nam ta từ phương Bắc mà ra!

Lạc Việt (雒 / 駱 / 貉 越) chỉ là một bộ phận nhỏ của cộng đồng Bách Việt mà, như cố Giáo sư Trần Văn Giàu (1911 - 2010, nhà hoạt động cách mạng, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và nhà giáo) viết, rằng:
“Bị đô hộ hàng mười thế kỷ bởi một nước có văn hóa cao hơn, số dân đông hơn gấp bội mà sau mấy ngàn năm - Ta vẫn là Ta - hẳn không phải vì mũi tên nhọn hơn, bắp thịt cứng hơn mà chủ yếu là nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, chứ văn hóa lấy sức đọ sức, lấy số đọ số thì dân Việt Nam, nước Việt Nam chỉ còn là đối tượng khảo cổ học”
Công cuộc chống đồng hóa vô cùng bền bỉ, dai dẳng trong suốt quá trình vừa duy trì, gìn giữ, phát triển văn hóa bản địa, vừa tiếp thu có chọn lọc để làm phong phú văn hóa dân tộc. Chống đồng hóa trước hết là giữ gìn tiếng nói mẹ đẻ, suốt ngìn năm Bắc thuộc dài đằng đẵng với những cuộc di dân cả tự do lẫn có kế hoạch một cách ồ ạt từ tù nhân, tội dân, những người bị đi đày, cùng dân, dân thường đến quan lại, để người Hán (Hán tộc 漢族 hay Hán nhân 漢人, một trong các dân tộc bản địa TQ và là dân tộc đông dân nhất trên thế giới) sống quần cư quần canh, lẫn lộn với các dân tộc Việt nhằm phá vỡ cơ cấu dân cư truyền thống sản xuất lúa nước nhiệt đới gió mùa vẫn không thể biến dân tộc ta “ăn theo nói leo” thành tộc Hoa Hạ 華夏, nói tiếng Hán (hay tiếng Hoa 漢語 Hán ngữ / Hoa ngữ hay tiếng Trung). Chỉ có một bộ phận nhỏ trí thức, lại thuộc ở kinh kỳ, phố thị bị cưỡng bức tiếp nhận khuôn thước quy củ của giới đô hộ mới học nói tiếng Hán, viết chữ Hán (漢字 Hán tự hay 漢文 Hán văn hay 中文 Trung văn). Còn ở sau lũy tre làng, nơi cố thủ cuối cùng trước nạn đồng hóa, vẫn là tiếng mẹ đẻ. Các nhà ngôn ngữ học đã khẳng định rằng tiếng mẹ đẻ của người Việt hơn ngìn năm trước đây dù có biến đổi theo thời đại nhưng so với ngày nay cơ bản là không khác mấy. Nước ta hiểm trở, xa xôi, rừng rú hoang dã đầy lam sơn chướng khí, tộc Hoa Hạ xứ lạnh không chịu nổi khí hậu nhiệt đới ẩm ướt gió mùa. Quan lại người Hán có thể cắm đến châu, huyện, chứ chưa bao giờ với được xuống tận làng. Làng vẫn do người Việt điều hành và lũy tre làng cứ như một bức tường vô hình ngăn chặn thế giới văn hóa Hoa Hạ xâm nhập, nên dù đã nhiều phen mất nước nhưng chưa bao giờ ta mất làng.

Từ huyền sử:

Dù không còn chữ viết, sách vở nhưng nhờ giữ gìn tiếng nói mẹ đẻ mà tổ tiên truyền lại được cho chúng ta những truyền thuyết, dã sử, huyền sử. Nói về thể loại truyền thuyết có lẽ không một định nghĩa, ý kiến nào sâu sắc và xác đáng như ý kiến của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đăng trên báo Nhân Dân ngày 29/4/1969 nhân ngày giỗ Tổ Vua Hùng 雄王:
"Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó là tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người yêu thích".
Tài liệu truyền thuyết khá phong phú, kho tàng cổ tích, ca dao lịch sử truyền miệng lưu truyền trong dân gian, từ những truyện thần thoại gắn với nguồn gốc dân tộc, có liên quan với những di tích văn hóa cổ đại của dân tộc từ thời Vua Kinh Dương (涇陽王, 2879 - 2792 TTL, tên húy Lộc Tục [祿續 2919 - 2792 TTL]) quân chủ Vương quốc ([王國, nước có quân chủ là Vua - Quốc vương 國王) Xích Quỷ (赤鬼, 2879 - 2524 trước Tây lịch), bố Lạc Long Quân (貉龍君, 2825 TTL - ?) và mẹ Âu Cơ 嫗姬, nước Văn Lang (文郎, 2524 - 258 TTL) thời các Vua Hùng … đến các sự tích thời Bắc thuộc và những nhân vật lịch sử, thần tích thời Đế quốc (帝國, nước có quân chủ là Hoàng đế 皇帝) Đại Cồ Việt (大瞿越, 968 - 1054) - Đế quốc Đại Việt (大越. 1054 - 1400 , 1428 - 1804). "Đại" 大 là "lớn", "Cồ" 瞿 là âm Hán - Việt cổ của từ "Cự" 巨 hay "Cừ" cũng là "lớn". Hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên, nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, Đại Thắng Minh (大勝明皇帝, 968 - 79, Đinh Bộ Lĩnh [丁部領, 924 - 79], sử gọi Đinh Tiên Hoàng 丁先皇) lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một hoàng triều bề thế, nhà Đinh (丁朝, 968 - 80), muốn ghép hai chữ "lớn" để khẳng định nước Việt là nước lớn, về sau Cồ được viết theo chữ Nôm là "Đại ở trên và Cù 瞿 ở dưới.

Truyền thuyết có nhiều truyện rất hay, tiêu biểu cả về mặt tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân gian, thể hiện thái độ yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa, yêu điều thiện, ghét điều ác, đề cao những mối quan hệ tốt đẹp thủy chung giữa người và người của nhân dân. Lại có những truyện mang những tư tưởng, tình cảm rất phóng khoáng, là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần ở một thời kỳ mà mối quan hệ đạo lý giữa người với người còn cởi mở, chưa bị những khuôn sáo, tín điều Nho giáo gò bó quá chặt chẽ. Chỉ riêng miền đất Kẻ Chợ (chữ Nôm: "kẻ" viết bằng chữ "Kỷ" [, Hán - Việt], chữ "chợ" trên là chữ "trợ" [助, trợ giúp], dưới là chữ "thị" [市, chợ], thuộc cấu trúc biểu âm kiêm biểu ý) cổ tích là cả kho tàng ngồn ngộn. Với vị thế là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, miền đất Kẻ Chợ trong trường kỳ lịch sử phát triển, đặc biệt là từ thời Lý (家李 / 李朝, 1009 - 1225, còn gọi là nhà Hậu Lý [後李朝 / nước Đại Việt] để phân biệt với nhà Tiền Lý [前李朝 / nước Vạn Xuân 萬春, 544 - 602]), cùng với việc định đô là cuộc phục hưng văn hoá dân tộc, cùng với những chủ trương của các nhà nước phong kiến về việc thu hút nhân tài thì tự thân miền đất Kẻ Chợ cũng đã là “miền đất hứa” đối với nhân tài, kẻ sĩ và cư dân tứ chiếng, thực sự là “nơi hội tụ của bốn phương trời đất”, của không chỉ người Việt mà còn cả nhân thần và nhiên thần… Chính điều này đã tạo nên kho tàng các truyền thuyết dân gian vô cùng phong phú về miền đất này.

“Nùng sơn chính khí” là khí chất thiêng liêng của Kẻ Chợ. Quan niệm ấy vốn bắt nguồn từ một quá khứ xa xăm thời thần thoại. Trong kho tàng thần thoại của một cộng đồng người, có một thần thoại phủ lên một trái núi thiêng liêng, thiên tạo hoặc nhân tạo. Trái núi này mọc ở chính giữa lãnh thổ của cộng đồng và được coi như cái trục trung tâm của thế giới. Đấy là nơi giao tiếp giữa Trời và Đất. Trên núi có đền. Quan niệm về ngôi đền núi ấy có ở trong các nền văn hóa cổ xưa ở châu Á, từ Lưỡng Hà cho tới Ấn Độ, từ Đông Nam Á cho tới Trung Hoa 中華. Khi nước đã dựng, có quân chủ, thì trái núi ấy là nơi giao tiếp giữa Trời và nhà vua. Cùng một dòng tư duy thần thoại ấy, người Kẻ Chợ xưa quan niệm núi Nùng ở giữa đất trời, nghĩa là "rốn rồng" (Long Đỗ hay Long Độ, 龍肚), núi Rốn Rồng. Trên đỉnh có “lỗ thông hơi” của núi chằm. Trên núi cũng có một ngôi đền núi, hẳn là ngôi đền xưa nhất của Kẻ Chợ từ thuở đất này chưa mang tên ấy. Kẻ Chợ cổ có nhiều núi khác, phần nhiều là nhân tạo. Trong trại Hàng Hoa xưa (nay là vườn Bách Thảo) có núi Sưa (Sư Sơn); xế của Phủ Chủ tịch bây giờ, khi xưa có núi Khán. Và nào là núi Bò, núi Cung, núi ngũ Nhạc… nay đều còn dấu vết ở khu Ba Đình.

Có núi có sông, nhánh con của sông Cái (người Pháp phiên âm thành Song-Koï, sông Hồng [Hồng Hà 紅河 Honghe], đoạn từ chảy từ Lào Cai đến "ngã ba Hạc" ở Việt Trì gọi là sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là sông Nhị hay sông Nhĩ) là dòng sông quê hương của người Kẻ Chợ xưa, dòng Tô Lịch (蘇瀝江, Tô Lịch giang, tương truyền lấy từ tên một vị già làng của một thôn làng Kẻ Chợ mé ven sông Tô, họ Tô, húy là Lịch, đến thời thuộc nhà Đại Đường [大唐朝, 618 - 907, Đế quốc], một cái thành nhỏ, La Thành 羅城, được đắp tại làng, làm phát sinh nhiều thần thoại liên quan, vị già làng về sau được tôn làm thần), vốn là sông thiên nhiên qua bao nghìn năm đã đượm sắc hương huyền thoại, đượm chất thơ và đượm màu lịch sử:
“Sông Tô nước chảy quanh co
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya…”
Cũng như con người, con sông có một đời sống. Sông Cái xưa, khi chảy tới làng Yên Hà thì chỉ có một nhánh thôi. Nhánh ấy chảy qua Hải Bối, Chiêm Trạch, Lực Canh và Xuân Canh (nay thuộc Đông Anh). Nhưng tới Xuân Canh, nhánh ấy không chảy ngay vào sông Đuống mà cũng không chảy thẳng xuống phía Nam. Nó uốn vòng, chảy băng qua bãi Tầm Châu, mà dấu vết hiện còn là khoảng đất trũng hình lòng máng bắc ngang qua bãi gần xóm Cưu Quan. Trước thế kỷ X chưa có hồ Tây, hồ Tây bây giờ là đoạn sông Nhị chảy từ Nhật Tân xuống đến Hồ Khẩu (cửa hồ), thời có một nhánh sông con. Nhánh ấy là sông Tô Lịch, chia đôi ngả, một chảy xuống phía nam, một chảy lên bắc, qua Thụy Khuê, đường Phan Đình Phùng, cống chéo Hàng Lược (tên cũ là phố Sông Tô Lịch) băng qua Hàng Đường (tên cũ Cầu Đông) rẽ vào Ngõ Gạch và phố Nguyễn Văn Siêu, rồi lại nhập vào sông Nhị ở khoảng nhà tắm công cộng phố Chợ Gạo. Sông Tô ngày ấy là nhánh sông to, nhiều bến cảng. Sông bạc, sông vàng, sông buôn, sông bán, thuyền mành chen vai sát cánh. Sông Tô của chợ búa, mà nổi tiếng nhất là chợ Ngựa Trắng (白馬, Bạch Mã, tức chợ Đông, ở cửa sông Tô). Con sông kinh tế cũng là con sông văn hoá:
“Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu!”
Mấy câu ca dao trên và chứng cứ địa lý cũng rõ ràng sông Tô là nhánh sông to: đi dọc sông Tô, còn thấy những doi đất cao hơn 6m chạy dài một đoạn tới 2 -3 km sóng đôi nhau trên đôi bờ, chẳng hạn từ Láng đến Ngã tư Khổ, đó là những doi đất do phù sa sông Tô bồi cao qua lịch sử. Sông to mới có thể mang nặng phù sa để bồi những doi đất cao và dai như thế. Sông Tô xưa đầy ắp nước, chở nặng phù sa sông Nhị tưới nhuần đồng Thọ Xương, Vĩnh Thuận (nay là nội thành), Từ Liêm, Thanh Trì… đến thôn Hà Liễu (huyện Thanh Oai) thì dồn nước vào sông Nhuệ. Bình thường nước chạy xuôi dòng từ sông Nhị về sông Nhuệ. Mùa nước lũ, có khi nước đồng dồn xuống sông Tô, thế nước chênh cao hơn sông Cái, nước chảy ngược dòng từ phía sông Nhuệ ra sông Cái. Vì thế mà từ xưa sông Tô còn bị khoác thêm tên Nghịch Thuỷ (dòng sông chảy ngược, sử ghi từ thế kỷ VIII, khi La Thành được mở rộng). Cũng như mọi sông, qua thời gian và vượt không gian, sông mang nhiều tên: sông Tô Lịch, sông Lai Tô, sông Lương Bì, sông Địa Bảo, dòng chính của sông khi chảy qua các quận huyện: Thanh Xuân, Hoàng Mai và Thanh Trì còn được gọi là sông Kim… Có tên dân gian, có tên do phong kiến ghi từ năm 545 và sống mãi đến ngày nay.

Núi thiêng có đền núi. Sông thiêng có thần sông, được biểu tượng bằng rồng. Con vật thần thoại vốn gắn với nước này giữ bầu nước của trời, phun nước làm mưa khi “rồng mây gặp hội”. Cư dân làm ruộng lúa nước, ai chẳng mong mưa thuận gió hoà. Ngày trước, đất nước chưa được thuỷ lợi hóa, người dân quê chất phác hằng năm phải tổ chức những lễ cầu mưa và cầu tạnh. Thế là rồng nghiễm nhiên chiếm vị trí quan trọng trong vũ trụ tôn giáo thần thoại cổ. Những doi đất thiên tạo và cả nhân tạo được hình dung thành rồng uốn khúc cả. Kẻ Chợ xưa liền được xem như đất Chín Rồng. Vốn là mười nhưng có con ăn ở bất nhân quay đầu hướng khác nên bị bẻ què. Ca dao cổ vùng Kim Mã, Thủ Lệ có câu:
“Chín con một mẹ thong dong
Một con ăn ở ra lòng bất nhân”
Thế giới người trần tục làm sao thì thế giới thần thiêng làm vậy! Non sông xoắn xuýt tạo thành đất nước: thế là núi Nùng cũng được đồng nhất với rồng, thành ra Long Đỗ - Rốn Rồng. Đền núi Nùng trở thành đền thờ thần Long Đỗ, đôi khi mang cả dáng dấp thần núi lẫn thần sông. Đôi bờ sông Tô có làng, làng Kẻ Chợ gốc. Núi Nùng được xem như ở giữa làng. Làng có đình, thờ Thành hoàng 城隍, vị thần bảo vệ cho cả xóm làng. Thế là đền núi Nùng trở thành đình làng Kẻ Chợ, thần Long Đỗ trở thành Thành hoàng làng Kẻ Chợ. Thành hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng, dù có hay không có họ tên lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là "hộ quốc tỳ dân" [hộ nước giúp dân] ở địa phương. Xét mặt chữ, "Thành" 城 là cái thành, "hoàng" 隍 là cái hào bao quanh cái thành (sông Tô Lịch xưa là một cạnh của tứ giác nước Thăng Long, đường bao nước của Kinh thành Thăng Long), ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sơn Nam (bút danh của nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Minh Tày, 1926 - 2008) cho biết thêm:
"Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh..."
Sơn Nam viết rằng thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật, gọi ông "Thần hoàng" là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến. Học giả Đào Duy Anh (1904 - 88, nhà nghiên cứu lịch sử, địa lý, từ điển học, ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng, được xem là người mở đầu cho nhiều ngành khoa học xã hội VN) gọi tục này là "Phần hoàng". Nên khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính (潘繼炳, 1875 - 1921, nhà báo, nhà văn nổi tiếng đầu thế kỷ XX), Sơn Nam đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách "Việt Nam phong tục", lễ Thần hoàng được xếp vào mục "Phong tục trong gia tộc" còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục "Phong tục hương đảng", thì rõ là Phan Kế Bính đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Phan Kế Bính viết:
"Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (三國, 190 - 280) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ (李德裕, 787- 850) làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô (成都, nay là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên [四川, còn có biệt danh là Ba Thục 巴蜀, do thời Tiên Tần 先秦 - trước triều đại nhà Tần {秦朝, 221 - 207 TTL, Để quốc}, trên đất Tứ Xuyên có hai nước chư hầu, Tử quốc (子國, nước có quân chủ là Tử tước 子爵) của nhà Chu {周朝 ~1123 - 249 TTL, Vương quốc} là Thục {蜀國, ? - 316, ở đồng bằng Thành Đô, vùng Trung và Tây bồn địa Tứ Xuyên 四川盆地 và vùng thượng thung lũng sông Hán Thủy 漢水} và Ba {巴國, ? - 316, 巴 nghĩa đen là 'đại xà, rắn lớn', ở vùng nay là thành phố trực thuộc trung ương TQ Trùng Khánh 重庆 và vùng Đông Tứ Xuyên dọc theo sông Dài và một số chi lưu của nó}, tên gọi tắt là Thục 蜀]); kế đến nhà (Đại) Tống (大宋朝, 960 -1279), nhà (Đại) Minh (大明朝, 1368 - 1644), thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ.
...
Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn, thời cổ ghi sông [,江 giang] bằng chữ xuyên 川); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đâu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình... Dân ta tin rằng: 'Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân', vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh..."
Vẫn theo sách "Việt Nam phong tục" thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng; có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc thần, có ba hạng:
  • Thượng đẳng thần là những thần danh sơn đại xuyên, và các bậc thiên thần như Tản viên Sơn thánh, Cao sơn, Quý Minh Đổng thiên vương, Sóc thiên vương, Chử đồng tử, Liễu Hạnh công chúa... Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Triệu Quang Phục (趙光復 524 - 71, Hoàng đế thứ hai nước Vạn Xuân, Vua Triệu Việt [趙越王, 548 - 71), Tô Hiến Thành (蘇憲誠 1102 - 79, đại thần phụ chính, Nhập nội Kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự [Tể tướng 宰相], phụng sự hai triều nhà Lý, sự nghiệp võ công của ông buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt vào năm 1164), Trần Hưng Đạo (陳興道, 1232 - 1300, tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian đời sau gọi vắn tắt thay cho cách gọi tên Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân cả nước đầy đủ và trang trọng hơn là Vua lớn Hưng Đạo 興道大王 Trần Quốc Tuấn 陳國峻, hay Vua lớn Nhân Vũ Hưng Đạo 仁武興道大王 là tước phong chính thức cao nhất do Hoàng đế nhà Trần (陳家 / 陳朝, 1225 - 1400) ban tặng cho ông lúc sinh thời do công lao trận mạc của ông và tước 'Vua lớn Hưng Đạo' có cấp bậc cao hơn tước 'Vua Hưng Đạo' 興道王)... Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. Cũng có vị là nhân thần nhưng lại không được nhắc tới nhiều trong chính sử mà được nhắc tới nhiều trong dã sử và truyền thuyết như Đức thánh Tam Giang (danh xưng mà người dân tôn vinh chung hai vị tướng anh em 'sinh vi dũng tướng, tử vi minh thần' Trương Hống và Trương Hát thời Vua Triệu Việt, được nhắc tới nhiều nhất trong truyền thuyết gắn liền với huyền thoại ra đời tác phẩm 'Nam quốc sơn hà' [南國山河, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của người Việt, được văn bản hóa sớm nhất ở sách 'Việt điện U Linh tập' [粵甸幽靈集 / 越甸幽靈集, 'Việt điện': 'đất nước Việt', 'U Linh': 'thiêng liêng, 'Tập truyện về cõi thiêng liêng của nước Việt', viết tắt 'Việt điện'] bản nhuận chính năm 1329 của Lý Tế Xuyên 李濟川, không rõ tiểu sử, chỉ biết ông làm quan, trong đó có chức vụ trông coi việc tế tự dưới triều Trần], được thờ ở 372 làng thuộc lưu vực ba con sông: sông Cầu, sông Thương, sông Cà Lồ, danh xưng xuất phát từ cách gọi chung của ba con sông nói trên và từ tước 'Tam Giang thượng đẳng thần' mà các triều đại Việt phong cho hai ông).
  • Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. Có những trung đẳng thần được thờ rất phổ biến như anh em Cao Lịch, Cao Khiển là tướng nhà Đinh thuộc tướng của Đinh Điền (丁佃; 924 - 79, một trong số những công thần khai quốc Đại Cồ Việt, Ngoại giáp, Nhập nội kiểm giáo Đại Tư đồ, Bình chương trọng sự và là người tận trung với nhà Đinh, bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với Hoàng đế Đinh Tiên; được Hoàng đế đầu tiên nhà Tiền Lê Đại Hành [大行皇帝, 980 - 1005, Lê Hoàn {黎桓, 941 - 1005}] sắc phong ông là 'Tế thế Hộ quốc Hiển ứng Linh quang Đại vương', vợ ông là Phan Môi Nương cũng được sắc phong là 'Huệ Hoa Gia Tĩnh Trinh Thục phu nhân', Hoàng đế sáng lập nhà Lê [家黎 / 黎朝, 1427 - 1789], còn gọi là nhà Hậu Lê [家後黎 / 後黎朝], để phân biệt với nhà Tiền Lê [前黎朝 / 家前黎, 980 - 1009], Thái Tổ [太祖皇帝, 1428–33, Lê Lợi {黎利, 1383 - 1433}] sắc phong ông là 'Thượng đẳng Vạn cổ Phúc thần Trung thánh Đại tư đồ Bình chương sự Khai quốc Công đức Văn Đại vương'). Ở các đền thờ vùng Ninh Bình thì Cao Lịch được sắc phong 'Lịch Lộ Đại vương trung đẳng thần', Cao Khiển được phong 'Hành Khiển Đại vương trung đẳng thần'.
  • Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần.
"Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết... Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì..."
Theo học giả Nguyễn Văn Tố (1889 - 1947, từng làm việc tại BEFEO Hà Nội chuyên về văn học cổ Việt Nam, Hội trưởng hội Trí Tri, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ trước năm 1945, Bộ trưởng Cứu tế Xã hội trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Đại biểu quốc hội, Chủ tịch Quốc hội khóa I, Quốc vụ khanh trong Chính phủ Liên hiệp Việt Nam Lâm thời 1946, bị Pháp bắt, tra khảo và giết tại Bắc Kạn trong một cuộc tấn công chớp nhoáng của quân đội Pháp vào chiến khu trong chiến dịch Việt Bắc ngày 7/10/1947) thì:
"... khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lệnh và huấn dụ của nhà vua... Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là 'nghè', nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu..."
Làng lớn dần, thành huyện, thành phủ thì thần Long Đỗ trở thành “Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân” (thế kỷ VII - VIII). Đất Kẻ Chợ trở thành kinh đô cả nước (1010) thì thần Long Đỗ núi Nùng được phong là “Quốc Đô Định Bang Thành Hoàng Đại Vương”. Làng trở thành kinh thành, đó là phía trần tục. Thành hoàng làng trở thành thành hoàng kinh đô, đó là phía tôn giáo tín ngưỡng. Lại một lần nữa ta chiêm nghiệm một chân lý duy vật: “Thần thánh chẳng qua chỉ là sự thần thánh hóa sức mạnh trần gian” (theo Phơ - bách [Ludwig Andreas Feuerbach {1804 - 72}, nhà triết học lớn của triết học cổ điển Đức]). Đền thần Long Đỗ núi Nùng được dời ra ngoài Cửa Đông, thành đền Ngựa Trắng, một trong bốn ngôi đền thờ bốn vị thần để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn), đền Ngựa Trắng trấn giữ phía Đông kinh thành, nay ở số 78 phố Hàng Buồm. Còn núi Nùng nằm gọn trong hoàng thành nơi xưa là trục trung tâm giao tiếp giữa trời và nhà vua. Đền núi cổ xưa chuyển thành “điện Kính Thiên” phong kiến. Chính là nơi thiết triều của các thời Lý, Trần, Lê, tức là nơi trung tâm của Hoàng thành Thăng Long (昇龍皇城: Thăng Long hoàng thành, Long Thành 城龍).

Thăng Long 昇龍 là đất rồng bay lên, chữ "Thăng" 昇 có bộ "Nhật" 日 (ngày, tức là lúc có ánh Mặt trời) đặt lên trên chữ "Thăng" 升, bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên” và “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao", mang sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với “con Rồng cháu Tiên”. Rồng là một con vật truyền thuyết mà khi chọn con vật này để đặt tên cho kinh đô thì cũng đã thừa nhận đây là xứ sở của những truyền thuyết. Truyền thuyết xưa nhất mà lại còn cả dấu tích văn hoá vật thể trên đất Kẻ Chợ là “Bảy cây gạo”. Tương truyền, một người vợ của Lạc Long Quân, Lạc phi, đã sinh ra một bọc bảy trứng, bèn đem bỏ ra ngoài bờ sông Cái (ở phía tây bắc hồ Tây nay). “Trứng rồng lại nở ra rồng”, bảy trứng nở thành bảy rồng, bay khắp nước non. Chuyện đến tai Lạc phi, bà đã đến và trồng bảy cây gạo để ghi dấu các con. Nơi có dãy bảy cây gạo cổ thụ sau trở thành phường Nhật Chiêu rồi đổi là làng Nhật Tân, kề cận làng Quảng Bá, nay là phường Nhật Tân quận Tây Hồ.

Nhật Tân xưa có cả đồng và bãi, trong đó bãi là chủ yếu, ở thôn Bắc có miếu Cung, nằm dưới hai cây gạo cổ thụ trên khu đất cao ngoài bãi, tương truyền là nơi sinh của Uy Đô, con thứ bảy Hoàng đế thứ ba nhà Trần, Nhân Tông (陳仁皇宗, 1278 - 1293, Trần Khâm [陳昑, 1258 - 1308]), mẹ ông là con gái dân gian, được vua vời đến cợt ghẹo rồi có mang và sinh ra ông. Cũng vẫn mô típ “ông hoàng không may mắn” trong chuyện dân gian như ông hoàng Linh Lang thời Lý. Thuở nhỏ, hoàng tử Linh Lang sống với mẹ là Chiêu Minh phu nhân ở nơi sinh, nhiều lần hoàng tử xin xuất gia đầu Phật nhưng không được vua cha chấp thuận. Có tài nhưng không thích chen cạnh trong đám bụi quan trường. Ông Hoàng Bảy xin vua cha dựng riêng nhà ở phường Nhật Chiêu, đọc sách, ngâm thơ, xa lánh chính sự. Khi Chiêu Minh phu nhân mất, nhà vua cho lập đền thờ, gọi là “Chiêu thánh điện”. Giặc Nguyên - Mông sang xâm lăng nước Việt. Ông tạm gác cuộc cờ, giá sách, khảng khái xin ứng nghĩa, mộ được hơn 1.000 nghĩa sĩ, huấn luyện binh pháp, đặt tên là “Thiên tử quân”, xông pha giết giặc ở Mạn Trù, Đông Kết (Khoái Châu), lập được nhiều chiến công nên được phong là Vua Dâm Đàm (vương tử hồ Mù Sương). Ông không nhận tước lộc, hàng ngày chăm chỉ tu thiên, 36 tuổi ông mất. Vua Dâm Đàm cũng gọi là thánh Linh Lang, còn gọi là Uy Linh Lang để tiện phân biệt với ông thánh Linh Lang triều Lý được thờ ở đền Voi Phục Thủ Lệ. Uy Linh Lang được thờ ở Nhật Tân, Yên Phụ và đền Voi Phục Thụy Khuê, chạ em của Thủ Lệ, trông thẳng ra hồ Tây, tương truyền được lập trên nền cũ điện Thụy Chương đời Trần trong phường phố cùng tên, nay có bàn thờ ông trong chùa Trấn Quốc 鎭國寺.

Dấu tích bảy cây gạo ngày nay không còn nhưng vẫn để lại dấu ấn trong bài phú chữ Nôm "Tụng Tây Hồ phú" (Phú ca tụng hồ Tây, gồm 86 liên, dùng chỉ một vần "hồ") ca ngợi cảnh đẹp của hồ Tây được Nguyễn Huy Lượng (阮輝諒, ? - 1808) làm theo lệnh Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn Tây Sơn (阮家西山 / 阮西山朝, 1778 - 1802), Cảnh Thịnh (景盛皇帝, 1792 - 1802, Nguyễn Quang Toản [阮光纘, 1783 - 1802]) vào tháng 6 năm Tân Dậu 1801. Dân Kẻ Chợ hồi ấy gọi là "Phú ông Lựợng", đổ xô đi tìm mua bản chép tay bài phú này. Có thể coi truyền thuyết "Bảy cây gạo" như mảnh vỡ của hệ thần thoại Việt cổ Lạc Long Quân - Âu Cơ được các đời sau truyền thuyết hoá; đồng thời phần nào lý giải cho tên gọi Thăng Long.

Vì nơi đây là “đất thiêng ngàn năm văn vật” nên chúng ta còn gặp ở Kẻ Chợ ất nhiều con vật huyền thoại mà đi cùng với đó là những truyền thuyết về lịch sử, văn hoá của nơi đây. Có Rùa Vàng giúp Vua An Dương (安陽王, Thục Phán 蜀泮) quân chủ nước Âu Lạc (甌雒 / 甌駱, 218 - 179 TTL) xây thành Ốc Cổ Loa, có Rồng Vàng bay lên mở ra một kỷ nguyên độc lập và Lê Thái Tổ giả gươm Rùa Vàng để khẳng định đất nước có chủ quyền và đã hoàn toàn độc lập, hoà bình. Đó còn là thần Ngựa Trắng, với vai trò như là kiến trúc sư chỉ rõ con đường quy hoạch thành Thăng Long mà nay còn đền thờ thần Ngựa Trắng. Có Trâu Vàng (金牛, Kim Ngưu) tắm nước hồ Tây tạo cho Kẻ Chợ rất nhiều gương diễm lệ, có hồ và sông còn giữ được cái tên Trâu Vàng (hồ là hồn Tây, sông là một nhánh của sông Tô). Rồi lại có khá nhiều rắn, phải là rắn mới gợi ra những huyền tích xa xưa để ta nhớ đến Giao Long thần kỳ, được người Việt gọi tên bố về hỗ trợ cháu con gặp nạn. Dấu tích của rắn có ở khắp mọi nơi: ở Lệ Mật phía Đông, ở Dịch Vọng phía Bắc và ở Linh Lang ngay chính giữa Kinh đô. Có thể nói Kẻ Chợ là xứ sở của những câu chuyện huyền thoại, những con vật huyền thoại gắn liền với đời sống của nhân dân, những con vật linh thiêng phù trợ cho nhân dân. Điều đó lý giải vì sao Kẻ Chợ có nhiều đền thờ, nhiều địa danh gắn liền với những huyền thoại, những con vật huyền thoại đó: hồ Tây, hồ Giả Gươm (湖還劍 / Hoàn Kiếm 還劍湖, bản đồ Hà Nội năm 1886, ghi là Lac de Hoan Guom - Hồ Hoàn Gươm), sông Trâu Vàng, Lệ Mật, Linh Lang…

Khi Lê Thái Tổ giả gươm Rùa Vàng thì chưa có hồ Giả Gươm, dựa theo bản đồ Hồng Đức (洪德版圖冊, Hồng Đức bản đồ sách hay Hồng Đức địa dư, vào năm thứ 8 niên hiệu Quang Thuận [光順, 1460 - 1469] đời Hoàng đế thứ tư nhà Hậu Lê giai đoạn Lê sơ [家黎初 / 黎初朝, 1427 -1527], Thánh Tông [聖宗皇帝, 1460 - 17, Lê Tư Thành 黎思誠 / Lê Hạo 黎灝, 1442 - 97], Hoàng đế xuống chiếu sai các thừa tuyên vẽ bản đồ từng thừa tuyên gửi về Bộ Hộ [戸部, quản lý các công việc đất đai, hộ tịch, sưu thuế, bổng lộc, quân lương, đồ cống nạp cùng các công việc khác có liên quan tới tài chính], bản đồ được hoàn tất và ban hành vào năm thứ 21 niên hiệu Hồng Đức [洪德, 1470 - 97], 1490) thì phần lớn xung quanh kinh thành khi ấy là nước. Sông Cái có một nhánh chảy qua vị trí của các phố Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối rồi đổ ra nhánh chính của sông Cái. Cũng như lòng người có lúc đổi dạ, sông Cái một ngày không chảy theo dòng ngày xưa nữa mà chảy một cách khác. Sự thay đổi này không có gì là lạ, vì những con sông lớn thường đổi dòng luôn trên những đồng bằng bồi tích phù sa do chính những con sông ấy tạo lập. Sông Cái đổi dòng, từ Hải Bối chạy thẳng về phía đông nam, không đem nước qua nơi sẽ là hồ Tây nữa, lại cuốn đất đóng cửa sông vào là Quảng Bá, cửa sông ra là Nghi Tàm. Hồ Tây vì vậy mà thành lập, rộng dài từ tây qua bắc sang đông, nước sông Tô vì thế mà cạn dần đi, hồ Giả Gươm cũng hình thành từ nơi rộng nhất của nhánh sông đã mất nguồn nước sông Cái. Nhưng sông Tô có một cửa nữa thông với sông Cái: cửa Giang Khẩu, nên sông vẫn còn to. Danh sĩ Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768 - 1839) chép trong "Vũ trung tuỳ bút" (雨中隨筆, "Tùy bút trong mưa") rằng:
“Kinh thành khi xưa có phường Giang Khẩu ở tiếp giáp bờ sông Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hằng năm bờ sông bị nước xói vào, không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê Trung hưng (黎中興, 1533 - 1789, giai đoạn Trung hưng 中興 của nhà Hậu Lê sau 6 năm nhà Mạc [莫朝,1527 - 92] nắm giữ kinh thành) mới đạc suốt dọc bến phường Hà Khẩu để cho Hoa kiều trú ngụ (tức phố Hàng Buồm). Các hiệu khách liền làm đơn xin tải đá để hàn chắn trên thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói lở. Ven sông phía nam dần dần nổi bãi phù sa mãi ra người đến tụ họp đông đúc… Nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long (gần Nhà hát thành phố) và đều thành ra phố phường đô hội cả”
Hàng Buồm xưa là phường Giang Khẩu, vì kỵ húy Vua thứ 6 họ Trịnh (主鄭 / 鄭王, 1599 - 1787), thời Lê Trung hưng, Uy Nam (威南王, 1729 - 40, Trịnh Giang [鄭杠, 1711 - 62]) nên đổi tên là Hà Khẩu, cả hai tên đều có nghĩa là "cửa sông". Cửa sông Tô! Sông Tô của trai thanh gái lịch những đêm trăng trong gió mát:
“Biết nhà cô ở đâu đây,
Hỡi trăng Tô Lịch hỡi mây Tây Hồ?”
Hồ Tây, mặt gương của Thăng Long, lá phổi của Long Thành, nơi lắng đọng lại và xếp lớp biết bao huyền thoại, thơ ca xưa kia. Theo thần thoại và truyền thuyết, thần thoại suy nguyên dẫn ta trở về với một hồ Tây huyền thoại. Đầm Xác Cáo - hồ Trâu Vàng - hồ Mù Sương - hồ Tây … mỗi tên gắn với một câu chuyện truyền kỳ. Tư duy lưỡng hợp (chia hai - hoà một) thời thần thoại hình dung có nước thì phải có non, hồ đầm đương nhiên có nước, dưới nước có thuồng luồng, rùa, giải… sau hoá thân thành Long Vương, thành Lạc Long Quân. Giữa hồ đầm có núi, không phải núi đá, mà núi gỗ tầm, những cây gỗ tầm cổ, mọc thành rừng, cao to như núi cho nên thường gọi là núi, núi và rừng vẫn thường lẫn lộn. Trên bờ hồ đầm phía tây nam, nay là Yên Ninh, Yên Quang, tre ngà cũng mọc thành rừng. Núi rừng có hổ, voi, cầy, cáo, trâu rừng… Từng ở giữa và ven hồ đầm, nên đặc biệt có rái cá, con vật vừa ở nước vừa ở cạn. Non nước hoà làm một, lưỡng hợp, thì con vật biểu trưng là rái cá, thấy chạm khắc trên trống đồng Kẻ Chợ (trống đồng Ngọc Hà, Giao Tất, Trung Màu…). Non nước lưỡng phân thì thế lực dưới nước được biểu tượng bằng thuồng luồng, rùa, giải, rồng, Lạc Long Quân…; thế lực trên núi (cạn to như núi) được biểu tượng bằng ông Khổng Lồ (cao to như núi) hoặc bằng một con quái vật nào đó của núi rừng. Hai thế lực vừa đối lập vừa hoà đồng, vừa tương sinh vừa tương khắc, vì thế hồ Tây có huyền thoại “bến bắt thuồng luồng”, ở phía tây hồ, thuộc địa phận làng Xuân Tảo.

Sách "Tây Hồ chí" (chưa rõ tác giả, năm xuất bản) ghi rằng thời Vua Hùng nơi đây là một bến nằm giáp sông Cái, thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp, làng Long Đỗ. Tục truyền, trong bến có con thuồng luồng thành tinh ẩn nấp lâu ngày. Một bà mẹ xuống bến rửa chân, bị thuồng luồng nuốt. Nhưng con của mẹ lại là ông Khổng Lồ - thần núi (đền Quán La - Xuân Tảo, sau là đền Phù Đổng Thiên Vương) đã xuống giết thuồng luồng cứu mẹ. Quái vật dưới nước cũng có khi là con giải. Cho đến gần đây, người dân chài Kẻ Chợ vẫn tin rằng khúc sông Cái từ bến Chèm đến bến Phà Đen xưa nay không bao giờ có giải. Vì sao? Vì có ông Khổng Lồ dạng chân qua đôi bờ sông Hồng khua bắt giết giải báo thù cho mẹ, từ đó giải khiếp kinh, không dám bén mảng đến vùng sông nước kinh thành! Đó là hai trong nhiều huyền thoại về thế lực Non thắng Nước. Cũng có huyền thoại về Nước thắng Non: đó là chuyện Hồ tinh.

Tục truyền ở phía tây thành Long Biên (龍編, sau là kinh đô nhà Tiền Lý) có hòn núi đá nhỏ có con cáo trắng chín đuôi, sống hơn ngàn năm, thành yêu quái, có thể biến hóa vạn trạng, khi thành người khi thành quỷ ở khắp dân gian. Lạc Long Quân liền dẫn sáu đạo quân các loài thuỷ tộc, dâng nước lên cùng sấm gió phá hang cáo. Cáo trắng chín đuôi bỏ chạy, quân thuỷ tộc đuổi theo, bắt cáo nuốt ăn, hang con cáo chín đuôi phá hoại dân lành trở thành một cái vũng sâu, sau gọi là “đầm Xác Cáo”. Để giữ kỷ niệm xưa, người ta đã đặt tên cho cánh đồng ở phía Tây đầm là Hồ Đỗng (hang cáo) và thôn xóm cạnh cánh đồng đó là Làng Cáo (Xuân Tảo), sau dân làm nhà ở, làm ruộng vườn nơi cánh đồng Hồ Đỗng, gọi là Hồ Thôn (làng Hồ Khẩu nay). Huyền thoại đã được pha thêm cách giải thích tên đất theo từ nguyên học dân gian, từ “hồ” là đầm hồ đã chuyển thành “hồ” là con cáo. Và địa danh “Hồ Khẩu”, “Cáo Đỉnh”… nay được gắn cho một nghĩa lý hẳn hoi… Đối với nhân dân, ý nghĩa huyền thoại và đời sống hiận thực thật khó lòng tách bạch. Nguyễn Huy Lượng trong "Tụng Tây Hồ phú" có câu nói về sự tích này:
"Trước bạch hồ nào ở đó làm hang
Long vương hổ nên vùng đại trạch"
Ngày nay con đường bao quanh phía Tây hồ Tây mang tên Lạc Long Quân, còn đường bao quanh phía Đông chạy dọc đê sông Hồng từ Nghi Tàm đến Nhật Tân là Âu Cơ thể hiện lòng biết ơn đối với ân đức của Vua Bố.

Đến thời Vua Bà Trưng (徵女王, 40 - 43, Trưng Trắc [徵側, 14 - 43], Trưng Nhị [徵貳, ? - 43]) bến Lâm Ấp còn ăn thông với sông Cái, bao bọc quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm... Cùng một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Ngoài ra, xung quanh bờ hồ còn có sự xuất hiện của các hang động vừa và nhỏ, bờ phía Tây có Già La Động (nay là Quán La thuộc phường Xuân La), bờ phía Đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai), bờ phía Nam có Bình Sa Động (thời Lý đổi là Giáp Cơ Xá nay thuộc quận Hoàn Kiếm). Cư dân sinh sống còn thưa thớt, chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng tỉa cây cối. Theo "Tây Hồ chí", thì sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà Trưng, Tướng thứ ba của nhà Hán Mã Viện (馬援, 14 TTL - 49) đã gọi nơi đây là Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào những ngày giông bão, mặt hồ rộng, sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ hùng tráng và nên thơ. Một viên tướng là Bình Lạc hầu Hàn Vũ đã chết ở đây.

Với thời gian, cùng sự ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, người ta lại ghép thêm yếu tố mới vào câu chuyện cũ. Lạc Long Quân, vị anh hùng văn hoá có công diệt Ngư tinh, Hồ tinh và Mộc tinh trên ba miền đất nước (biển, đồng bằng, núi rừng), trở thành bộ hạ của Huyền Thiên Chân Vũ Đế (玄天真武帝, vốn là thần trấn phương Bắc của thần thoại TQ), Huyền Thiên giáng trần diệt Hồ tinh! Và quán Chân Vũ, trấn giữ phía Bắc kinh thành, ta gọi quen là quán Trấn Võ hay đền Quán Thánh, mọc lên bên bờ hồ Tây, đánh dấu sự hình thành của Đạo giáo Việt Nam. Thời Lý là quán Bắc Đế. Thời Lê, vào năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Trị (永治, 1676 - 1680) đời Hoàng đế thứ 21 nhà Hậu Lê và thứ 10 giai đoạn Trung hưng, Hy Tông (僖宗皇帝, 1675 – 1705, Lê Duy Cáp [黎維祫, 1663 -1716]), 1677 đúc “tượng đồng Trấn Võ”, bằng đồng đen, nặng 4 tấn, cao 3,76m. Huyền thoại càng ngày càng bị xuyên tạc để phục vụ "giáo hóa"! Ở Hàng Châu, TQ, có Tây Hồ (西湖, hồ Hàng Châu, cũng gọi là hồ Trâu Vàng, Kim Ngưu hồ). Bằng loại suy, hồ Tây Kẻ Chợ cũng có tên hồ Trâu Vàng. Và câu chuyện trâu vàng của phương Bắc được Việt Nam hoá: núi Tiên Du có trâu vàng. Nhà sư lấy tích trượng yểm trán trâu. Trâu bỏ chạy, húc đất thành thôn Húc, quần đất thành cũng Trâu Đằm (Văn Giang, Hưng Yên), chạy ngược lên, đường trâu chạy thành sông Kim Ngưu, trâu ẩn vào hồ thành hồ Trâu Vàng tức hồ Tây! Trong dân gian còn truyền tụng câu:
"Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ,
Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi"
Sông Trâu Vàng cổ, theo Giáo sư Trần Quốc Vượng (1934 - 2005), nhà sử học, nhà khảo cổ học), là một nhánh của sông Tô, lấy nước từ sông Tô ở ô Cầu Giấy, chảy theo hướng Tây - Đông tới Đội Cấn, lại lấy nước từ sông Tô khi tới ô Thụy Chương (Thụy Khê), chảy theo hướng Bắc - Nam (đoạn này còn gọi là sông Ngọc Hà), chảy qua Ngọc Khánh, Giảng Võ, Hào Nam, ô Chợ Dừa, Xã Đàn, Kim Liên, ô Cầu Dền, ô Đông Mác, Yên Sở, rồi lại đổ ra sông Tô ở Văn Điển. Sông Trâu Vàng lại có các nhánh là sông Trung Liệt tách ra tại Hào Nam, sông Sét và sông Lừ đều tách khỏi Trâu Vàng tại khu vực Kim Liên, Phương Liệt. Để chỉ Tô Lịch ở phía Tây kinh thành, còn Trâu Vàng ở phía Nam, dân gian có câu:
"Nhị Hà quanh Bắc sang Đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này"
Lại có chuyện Thiền sư Không Lộ (Nguyễn Minh Không [阮明空, 1065 - 1141], tên gọi theo quốc tính nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp lý cao nhất của vị thiền sư từng là dược sư, pháp sư, đại sư rồi quốc sư là Lý Quốc Sư 李國師) có tài thu hết đồng đen của phương Bắc, đúc thành quả chuông lớn. Chuông đánh lên, trâu vàng phương bắc nghe tiếng chuông ngỡ tiếng mẹ gọi, chạy sang ta, đường nó chạy lún xuống thành sông Trâu Vàng. Đến phía Tây thành Thăng Long thì tiếng chuông dứt, nó quần mãi đất sụp thành hồ rồi xuống đó ẩn, đó là hồ Trâu Vàng hay chính đó là hồ Tây! Sư Không Lộ, vì cái tên gần gũi, lại được đồng nhất với ông Khổng Lồ của huyền thoại, được thợ đúc đồng Kẻ Chợ - Huế và cả Tây Nam Bộ thờ làm tổ sư nghề đúc đồng. Kẻ Chợ có đền Lý Quốc Sư. Chùa Thần Quang bên bờ hồ Tây, trong vùng Ngũ Xã đúc đồng cũng thờ vị tổ sư đúc đồng Không Lộ - Khổng Lồ đó! Huyền thoại, tôn giáo và lịch sử xoắn chặt lấy nhau tưởng không gỡ ra được nữa!

Hồ mù sương nên, theo sách "Hồn sử Việt: Những giai thoại và truyền thuyết nổi tiếng” (do Minh Châu sưu tầm và tập hợp, nhà xuất bản Thanh Hóa phát hành năm 2016), thì khi Hoàng đế đầu tiên nhà Lý, Thái Tổ (李太祖, 1009 - 1028, Lý Công Uẩn [李公蘊, 974 - 1028]) dời đô từ Hoa Lư 華閭 về Thăng Long, hồ Trâu Vàng trở thành một địa điểm du ngoại được Hoàng đế và các quan ưa thích, nhiều lần trong các buổi du ngoại, Hoàng đế gặp sương mù bao phủ, cảnh tượng hồ trở nêm huyền ảo mộng mơ, vì vậy hồ được gọi là Dâm Đàm. Hoàng đế thứ tư nhà Lý, Nhân Tông (仁宗皇帝, 1072 - 1128, Lý Càn Đức ±李乾德, 1066 - 1128]) đi chơi thuyền xem bắt cá trên hồ mù sương, thấy hổ nhe răng múa vuốt chực vồ mình, sai người dân chài Mục Thận, người hồ Dâm Đàm, quăng lưới bắt hổ. Hổ lại hoá ra Thái sư đầu triều Lê Văn Thịnh (黎文盛, 1038 - 95)! Hoàng đế tin nhảm, quan học ma thuật cũng tin nhảm. Kết cục, Thái sư bị đày lên Thao Giang (Tam Nông, Vĩnh Phú) và người dân chài hồ Dâm Đàm được phong hàm Đô úy, được ban đất ở vùng Dâm Đàm làm thực ấp. Khi ông mất được dân chúng lập đền thờ, và còn được truy tặng là Thái úy, thụy Trung Duệ, tước Võ Lượng công!

Khi Hoàng đế thứ 15 nhà Hậu Lê và thứ tư giai đoạn Trung hưng, Thế Tông (世宗皇帝, 1573 - 99, Lê Duy Đàm [黎維潭, 1567 - 99) lên ngôi, kỵ húy Hoàng đế, hồ đổi tên là Tây Hồ, ngoài kỵ húy, có lẽ việc đổi tên còn nhằm sánh với Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu phương Bắc, việc đặt các địa danh, sông hồ theo TQ là điều thường gặp. Cũng do kỵ, tước không phải húy, Vua thứ ba họ Trịnh là Tây Định (西定王, 1657 - 82, Trịnh Tạc [鄭柞, 1606 - 82]) đời Hoàng đế thứ 19 nhà Hậu Lê và thứ tám giai đoạn Trung hưng, Huyền Tông (玄宗皇帝, 1662 - 71, Lê Duy Vũ 黎維禑 / Lê Duy Hi [黎維禧, 1654 - 71]), các địa danh nào có chữ Tây đều bị đổi thành Đoài (兌 hay Đầm 澤, quẻ Đoài ☱ thuộc phương Tây - ý nghĩa như nhau, âm và chữ khác nhau) như Sơn Tây gọi thành Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi là Đoài Hồ. Nhưng cái tên Đoài Hồ không được dùng lâu, sau đó còn đổi thành Diêm Hồ, Liêm Đàm. Nhưng người ta vẫn quen gọi là hồ Tây hơn.

Người Kẻ Chợ - Long Đỗ - Đại La 大羅 - La Thành - Thăng Long - Đông Đô 東都 - Đông Kinh 東京 qua thời gian ngăn đắp và lấp từng đoạn hồ Tây lớn, thành hồ Cổ Ngựa, hồ Trúc Bạch (hồ Giặt Lụa), hồ Tây ngày nay. Đê Cố Ngự, theo văn bia cổ chùa Trấn Quốc, vốn từ bờ đê dời vào bán đảo hồ Tây năm 1616 cho biết, được dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang (nay là phố Quán Thánh) đắp con đê ngăn góc đông nam hồ Tây để nuôi bắt cá vào khoảng 1620, con đê tên gọi Cố Ngự Yển, nghĩa đen là "đập ngăn nước", sau đọc chệch thành đường Cổ Ngư. Từ năm 1957 - 1958, theo ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường được thanh niên học sinh Hà Nội lao động trong những ngày thứ bảy cộng sản mở rộng thành đường Thanh Niên.

Thời Vua Uy Nam Trịnh Giang cũng cho ngăn hồ Giả Gươm lớn thành hồ Tả Vọng (hồ Giả Gươm nay) và Hữu Vọng để dùng làm nơi duyệt quân thủy của triều đình. Đến đời Hoàng đế thứ tư nhà Nguyễn Gia Long / thuộc Pháp (家阮 / 阮朝, 1802–58 / 1945), Đế quốc Việt Nam (越南帝國,1804 - 39), Tự Đức (嗣德皇帝, 1847 - 1883, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm [阮福洪任, 1829 - 1883, sau khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì 阮福時]), hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thủy Quân. Từ năm 1884, thực dân Pháp cho lấp hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang Hà Nội.

Trải qua hàng ngàn năm, vùng Kẻ Chợ đã được bồi đắp thêm nhiều nên độ cao của núi Nùng không còn như xưa, giờ chỉ còn lại dấu tích là nền điện Kính Thiên, trong khu thành cổ Hà Nội, nơi còn lưu giữ đôi rồng đá tuyệt tác. Sông Tô, sử chép nhiều được lần nạo vét các thời Lý - Trần - Lê, từ thời Pháp thuộc tới ngày nay sông Tô đã bị lấp nhiều đoạn, không còn thông với sông Cái nữa. Con sông quê hương một thời hai bên bờ sông buôn bán tấp nập của người Kẻ Chợ giờ chỉ là dòng thoát nước thải của thành phố, ô nhiễm nặng nề. Sông Trâu Vàng xưa là một tuyến giao thông đường thủy, cũng bị lấp hoặc bị lấn bờ nhiều đoạn, không còn thông với sông Sét và sông Lừ, giờ cũng chỉ là dòng thoát nước cho nội thành, đoạn cuối sông Trâu Vàng đổ vào sông Tô cũng đang mất dần.

Có vật linh thiêng, Kẻ Chợ lại có cả những vị thần linh thiêng, cả nhân thần và nhiên thần. Đó là những vị thần đã trợ giúp nhân dân, trợ giúp Kẻ Chợ trong quá trình hình thành ngoài vị Thành hoàng của thành Đại La (thành đắp trước La Thành, ở khoảng giữa Thành Hà Nội và sông Tô còn La Thành sát bên sông Tô) xưa, thần Tô Lịch / Long Đỗ, vốn được nhân dân vùng Kẻ Chợ cổ lập đền thờ từ lâu, đến đời Lý được tôn làm Quốc đô Thành hoàng, tức là vị thần bảo vệ thủ đô của cả nước, còn là những con người đã giúp nhân dân nơi đây an cư lạc nghiệp. Nhiều người trong số họ được tôn thờ thành thánh như: Thánh Gióng, người đã đánh tan giặc Ân (殷代, giai đoạn sau của nhà Thương [商朝, 1600 - 1046 TTL], khi vua thứ 18 [hoặc 19] nhà Thương, Bàn Canh [盘庚, 1401 ~ 1374 TTL, Tử Tuần {子旬, ? ~ 1374 TTL}] từ khoảng năm 1387 TTL đến 1384 TTL chuyển Kinh đô nhiều lần, lần cuối cùng về phía Đông đến đất Bắc Mông 北蒙, đổi tên thành Ân Khư [殷墟, "khư" 墟 nghĩa là "đồi", "Ân Khư" ngày nay mang nghĩa là "Tàn tích của nhà Ân"] gần An Dương huyện 安阳县 thuộc An Dương thị 安陽市, thành phố cực bắc của tỉnh Hà Nam [河南, "phía nam Hoàng Hà" 黃河, "sông màu vàng", chữ "Hoàng" ám chỉ nước màu vàng do dòng sông mang nhiều vật liệu có nguồn gốc từ đất vàng 黃土: hoàng thổ, con sông dài thứ hai châu Á sau sông Dài, các tài liệu Hoa Hạ cổ gọi Hoàng Hà đơn giản là "Hà" 河, tức "sông", Hoàng Hà được đề cập đầu tiên trong "Hán thư" 漢書, chép về thời kỳ đầu nhà Đại Hán {大漢朝, 206 TTL - 220} giai đoạn 206 TTL - 25, còn gọi là Tây Hán {西漢, 206 TTL - 9}, "Hán thư" cũng được gọi là "Tiền Hán thư" 前漢書 để phân biệt với "Hậu Hán thư" chép về thời kỳ cuối nhà Đại Hán giai đoạn 25 - 220, còn gọi là Đông Hán {東漢, 23 - 220}], do vậy còn gọi là nhà Ân 殷代 hoặc nhà Ân Thương 殷商朝, triều đại đầu tiên của TQ được xác nhận rõ ràng về mặt lịch sử từ các bằng chứng khảo cổ, chữ giáp cốt [chữ {文 văn} được khắc trên yếm rùa {甲 giáp}, xương {骨 cốt} thú, 甲骨文 giáp cốt văn}, di tích, lăng mộ... với những cây giáo mũi đồng và rìu đồng), rồi hóa về trời, hiện nay đền thờ Thánh Gióng có ở nhiều nơi, nhưng đền thờ chính và lễ hội Gióng chính thức là ở Sóc Sơn, Hà Nội. Đó còn là thánh Chèm, thánh Đồng Đen ở giữa lòng Hà Nội… Mỗi thánh đều có sự tích để đi vào văn học dân gian. Không những thế Kẻ Chợ còn có các thánh mẫu như bà Chúa Kho, Ỷ Lan, Liễu Hạnh, Quỳnh Hoa. Không những thế, các anh hùng chống giặc ngoại xâm cũng được nhân dân tôn xưng là thánh như thánh Phạm, thánh Trần…

Ở thể loại thần tích thì hầu như đình, chùa, đền, sông, hồ… nào cũng đều có truyền thuyết, thần tích, thần phả. Một số dòng họ còn giữ được gia phả, ngọc phả.

Đến sách sử:

Sau khi khôi phục Tự chủ hồi thế kỷ X, tổ tiên ta lại làm sách vở nhưng sách vở chữ viết đời trước không còn nên cơ sở để dựng lại lịch sử VN từ Thời đại Hồng Bàng (鴻龐, 2879 - 258 TTL) đến thời Vua An Dương rồi đến trước thời Tự chủ đều là chép lại từ dã sử, huyền sử, truyền thuyết, thần tích, hoặc sách vở, tài liệu lịch sử TQ. Các sách của ta kể cả chính sử ra đời muộn hơn nhiều so với các sách của TQ cho nên các sự tích và tên tuổi, địa danh... chắc là có sự chép lại từ sách TQ vì Việt đã không còn chữ viết hàng ngìn năm. Và đó là nội dung bài tiếp theo.

¤¤¤
Chôm chỉa từ:
¤ Ủy ban Khoa học Xã hội:
- Lịch sử Việt Nam, Hùng Vương dựng nước (4 tập), Ủy ban Khoa học Xã hội, 1971
¤Viện Lịch sử Quân sự:
- Anh hùng dân tộc thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn và quê hương Nam Định, Viện Lịch sử Quân sự, Nxb. Quân đội Nhân dân, 2000
- Lịch sử Quân sự Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003
¤ Viện nghiên cứu Hán - Nôm:
- Về vị thần thờ ở Đền Bạch Mã phố Hàng Buồm - Hà Nội, Mai Hồng, Viện Hán Nôm
- Nghiên cứu chữ Húy trên các văn bản Hán Nôm, Ngô Đức Thọ, 1995
¤ Viện Sử học:
- Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Viện Sử học, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987
- Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007
¤ Viện Triết học:
- Một số vấn đề lý luận về Lịch sử Tư tưởng Việt Nam, lưu hành nội bộ, Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Triết học xuất bản, Hà Nội, 1984
¤ Địa danh:
- Từ điển di tích văn hoá Việt Nam, Ngô Đức Thọ
- Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam, Nbx. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,1998
- Sổ tay địa danh Việt Nam, Nguyễn Dược - Trung Hải, Nxb. Giáo dục, 2001
- Từ điển địa danh lịch sử văn hóa du lịch Việt Nam, Nguyễn Văn Tân, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002
- Cố đô Hoa Lư, Nguyễn Văn Trò, Nxb. Văn hóa Dân tộc, 2008
- Thăng Long – Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm, Lê Đình Sỹ chủ biên, Nxb. Hà Nội, 2010
- Hà Nội thời tiền Thăng Long, Nguyễn Việt, Nxb. Hà Nội, 2010
- Sự tích đền Bạch Mã trong Việt sử giai thoại, Nguyễn Khắc Thuần, Nbx. Giáo dục
¤ Dư địa chí:
- Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, Trương Đình Tưởng, Nbx. Thế giới
- Từ Hoa Lư đến Thăng Long, in trong Văn hóa Thăng Long – Hà Nội – Hội tụ và tỏa sáng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
- Tổng tập dư địa chí Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, 2012
¤ Lịch sử:
- Trịnh giai chính phả, Trịnh Như Tấu, 1933
- Lịch sử Trung Quốc, Trần Văn Giáp, 1956
- Lịch sử cổ đại Việt Nam, Đào Duy Anh, 1957
- Lịch sử Việt Nam - Từ nguồn gốc đến thế kỷ X, Đào Duy Anh, 1958, Nxb. Văn hóa Thông tin (in lại), Hà Nội, 2007
- Trung Quốc sử lược, Phan Khoang, Văn sử học xuất bản, Sài Gòn, 1970
- Khởi nghĩa Lam Sơn, Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn, Nxb. Khoa học Xã hội, 1977
- Cố sự Quỳnh Lâm, Trình Doãn Thắng - Ngô Trâu Cương - Thái Thành, Nxb. Thanh Hoá, 1998
- Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội Nhân dân
- Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, 1972, Nxb. Quân đội Nhân dân (in lại), 2003
- Thế kỷ X - Những vấn đề lịch sử, Nhiều tác giả, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984
- Sự hình thành của làng xã Việt Nam, (a. Betonamu sonraku no keisei), Lịch sử khai phá đồng bằng sông Hồng, (b. Betonamu Koga deruta no kaitakushi), Sakurai Yumio, Tokyo: Sobunsha, 1987, trong cuốn Lịch sử châu Á lúa nước (Ine no Ajia-shi 2), Watabe Tadayo (chủ biên), Tập 2, Tokyo: Heibonsha
- Hai ngàn năm Việt Nam & Phật giáo, Lý Khôi Việt, Phật học Việt Quốc tế, 1988
- Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nguyễn Danh Phiệt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990
- Lịch sử Trung Quốc từ thượng cổ đến Năm đời mười nước, Học viện quân sự cấp cao, 1992
- Nguyễn Phước tộc thế phả, Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1995
- Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn hóa, 1997
- Kể chuyện chín Chúa mười ba Vua triều Nguyễn, Tôn Thất Bình, Nxb. Đà Nẵng, 1997
- Nhà Nguyễn chín Chúa mười ba Vua, Thi Long, Nxb. Đà Nẵng, 1998
- Việt Nam thế kỷ XIX: 1802-1884, Nguyễn Phan Quang, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
- Đối thoại sử học, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1999
- Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất,Trần Bá Chí, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003
- 20 trận đánh trong lịch sử dân tộc. Nxb. Quân đội Nhân dân. Hà Nội, 2003
- Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2003
- Nhìn lại lịch sử, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2003
- Việt Nam văn minh sử, Lê Văn Siêu, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2004
- Theo dòng lịch sử dân tộc, Nguyễn Phan Quang, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2004
- Việt sử kỷ yếu, Trần Xuân Sinh, Nxb. Hải Phòng, 2004
- Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004
 - Theo dòng Lịch sử Dân tộc, Nguyễn Phan Quang, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2005
- Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng, Nxb.Thanh niên, 2005
- Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2005
- Lê triều dã sử, Nguyễn Huy Thức - Lê Văn Bảy, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2006
- Thuyết Trần, Trần Xuân Sinh, Nbx. Hải Phòng, 2006
- Một số công trình sử học Việt Nam, Nguyễn Phan Quang, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
- Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, Lê Mạnh Thát, Nbx. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
- Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng, Nxb. Thanh niên, 2007
- Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Nhiều tác giả , Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007
- Sử ký Tư Mã Thiên - Những điều chưa biết - thiên Ân bản kỷ, Bùi Hạnh Cẩn - Việt Anh dịch, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2007
- Giở trang sử Việt, Lê Thái Dũng, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2008
- Giáo trình lịch sử Việt Nam, Đào Tố Uyên (chủ biên), Nxb. Đại học Sư phạm, 2008
- 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Đặng Việt Thủy - Đặng Thành Trung, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2008
- Lịch sử thế giới cận đại (chương viết về Trung Quốc), Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, Nxb. Giáo dục, 2008
- Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, Nguyễn Thế Anh, Nxb. Văn Học, 2008
- Lịch sử và văn hóa Trung Quốc, Scott Morton và CM. Lewis, biên dịch: Tri thức Việt, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008.
- Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử, Lê Nguyễn, Nxb. Công an Nhân dân, 2010
- Tầm nhìn đa tầng về lịch sử Đại Việt thời Lý - Trần, Momoki Shiro Momoki Shiro, 2011
- Sự thành lập và biến đổi của quốc gia Đại Việt trong giai đoạn Trung Đại (Chusei Daietsu kokka no seiritsu to henyo), Nxb. ĐH Osaka
- Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn, Lưỡng Kim Thành, Nxb. Thuận Hóa, 2012
- Biên niên sử thế giới – Từ tiền sử cho đến hiện đại, Nguyễn Văn Dâu biên soạn, Nxb. Tri thức, Hà Nội năm 2009- Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, (Bản dịch tiếng Pháp từ L’Histoire du Vietnam: Des origines à 1858, Nxb. Sud Est Asie, Paris, 1982 và mục V (chương VII), và chương IX cuốn Le Viet-Nam, histoire et civilisation, Minuit, Paris, 1955), Lê Thành Khôi, Nxb. Nhã Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, 2014
- Cách tiếp cận mới của phương pháp sử học toàn cầu và một số vấn đề lý luận sử học, Momoki Shiro, 2019
+ Đại cương lịch sử Việt Nam, Trương Hữu Quýnh - Đinh Xuân Lâm - Lê Mậu Hãn (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008:
- Chương V: Thế kỷ X: Bước đầu xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập, thống nhất thời Khúc - Ngô - Đinh - Tiền Lê, Trương Hữu Quýnh, 2007
¤ Nhân vật:
- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thế, Nxb. Khoa học Xã hội, 1992
- Trần Nhân Tông: Con người và tác phẩm, Lê Mạnh Thát, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
- Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
- Quan chức nhà Nguyễn, Trần Thanh Tâm, Nxb. Thuận Hóa, 2000
- Danh nhân Hà Nội, Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb. Hà Nội, 2004
- Danh tướng Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005
- Họ và tên người Việt Nam, Lê Trung Hoa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005
- Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 - 1919), Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nxb. Văn học (in lại), Hà Nội, 2006
- Danh nhân quân sự Việt Nam, Nhiều tác giả, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006
- Danh nhân văn hóa trong lịch sử Việt Nam, Tạ Ngọc Liễn, Nxb. Thanh Niên, 2008
- Người có vấn đề trong lịch sử nước ta, Vũ Ngọc Khánh, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2008
- Ngoại giáp Đinh Điền trong Những nhân vật lịch sử thời Đinh - Lê, Trương Đình Tưởng, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2009
- Những nhân vật lịch sử thời Đinh Lê, Trương Đình Tưởng, Nbx. Văn hóa Dân tộc
+ Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nxb. Hà Nội, 2005:
- Nam quốc sơn hà và Quốc tộ, hai kiệt tác mở đầu lịch sử văn học ngang qua triều đại Lê Hoàn, Bùi Duy Tân
- Lê Đại Hành và Sóc Thiên Vương
¤ Văn hóa:
- Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh, Quan Hải tùng thư, 1938
- Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Trần Quốc Vượng, Nbx. Văn học
- Lễ hội Việt Nam, Lê Hồng Lý, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội
- Đình miếu và lễ hội dân gian, Sơn Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992
- Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, Nbx.Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
- Hoàng đế triều Trần: cội nguồn, ấn tựơng dân gian, Phạm Đình Ba, Nbx. Văn hóa Dân tộc, 2003
- Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Nbx. Khoa học Xã hội, 2003
- Việt Nam - Văn hóa và Du lịch, Trần Mạnh Thường - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính, Nxb. Thông Tấn
- Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Sơn Nam, (sách in chung), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005
- Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nxb. Lao động Hà Nội, 2006
- Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần Nxb. Thời Đại, 2012
- Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt, Hà Văn Thùy, Nbx. Hội     Nhà văn, Hà Nội, 2016
¤ Văn học:
- Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu xuất bản (bản in lần thứ 10), Sài Gòn, 1968
- Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1968
- Tổng tập văn học Việt Nam, Đinh Gia Khánh, Nxb. Khoa học Xã hội, 2000
- Tổng tập văn học dân gian người Việt, Viện Khoa học Xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008
¤ Tạp chí:
+ Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội:
- Hà Nội thời Tiền - Sơ sử; Hoàng thành Thăng Long; Hoàng thành Thăng Long - Lịch sử nghìn năm từ lòng đất; Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, Trình Năng Chung, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
+ Tạp chí Kiến trúc, Hà Nội:
- Về ba kiến trúc liên quan đến thời định đô Thăng Long, Lê Văn Lan, Tạp chí Kiến trúc