Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ tích. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cổ tích. Hiển thị tất cả bài đăng

01 tháng 6 2019

Từ Trang An Biên đến Kẻ Chợ: Con số chín và tộc Hoa Hạ

Nói tiếp chuyện con số chín và Ngũ Đế.

Trong dân gian, con số chín được gắn vào chữ chín, tượng trưng cho sự hoàn thiện đến mức dường như khó đạt với phần sính lễ:
... voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao
mà Vua Hùng thứ XVIII đã ra yêu cầu đối với Sơn Tinh và Thủy Tinh. Phần sính lễ này hầu như ai cũng cho rằng đó là những những sinh vật kỳ bí chỉ có trong truyền thuyết thần thoại, nhưng thực tế không phải vậy. Trong quan niệm của người Việt mùa xuân là mùa cưới với hình ảnh những đoàn người nô nức nối đuôi nhau trong không khí ấm áp còn vương chút hơi lạnh của tháng Giêng cùng sính lễ nào là mâm quả trầu cau, bánh chưng bánh dày, cơm nếp … và của hồi môn, những vật phẩm tươi tốt và quý giá nhất của gia đình nhà trai mang đến gia đình nhà gái sau một năm chắt chiu, làm lụng vất vả. Đó là văn hóa cưới hỏi của dân tộc từ ngàn xưa cũng là điều thể hiện sự tôn trọng và thành ý trong hôn nhân của nhà trai đối với nhà gái. Vế đầu yêu cầu của Vua Hùng:
một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng ..
Là những thực phẩm đã trở thành truyền thống từ thời Lang Liêu chắc chắn phải được tuyển chọn từ những hạt gạo có phẩm chất cao nhất và trở nên ngon miệng sau khi được người đầu bếp tài nghệ chế biến. Tương tự đối với vế sau là voi, gà và ngựa, mọi người thường sẽ nghĩ ngay là ba giống loài với những đột biến khác thường, nhưng, như đã nói ở trên, thực sự không có điều huyền bí. Chữ “chín” trong phần sính lễ phải được hiểu là “chín” trong “chín chắn” hoặc “chín mọng”, hay rõ hơn, những con vật đó phải trong độ tuổi trưởng thành, độ tuổi sung mãn nhất. Voi con thì chưa có ngà, gà tơ thì chưa có cựa, ngựa non thì chưa đủ bờm để ra oai, ngà voi, cựa gà, bờm ngựa chính là dấu hiệu xác định mức độ “chín” hay độ trưởng thành, ngoài ra nó còn thể hiện sự mạnh mẽ, uy nghi, trang trọng của các loài đó và cũng là sự tôn trọng của nhà trai đối với nhà gái, cũng phải được tuyển chọn một cách kỹ càng. Do đi cùng với “một trăm" mà chữ "chín" bị hiểu thành con số chín gây ngộ nhận trong ngữ nghĩa, làm cho truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh trở nên huyền bí từ hàng trăm năm nay, gây ra sự lầm tưởng và sai lệch trong nhận thức của nhiều thế hệ. Liên tưởng đến hiện tại, người Việt đã mượn rất nhiều từ ngữ của các dân tộc khác, chính sự vô tâm trong cách tiếp nhận và sử dụng làm Tiếng Việt ngày càng mờ ám. Điều này cần phải được nhận thức tức thời nếu không muốn Tiếng Việt đánh mất đi hoàn toàn giá trị và sự trong sáng của nó - mà ngìn đời tổ tiên gìn giữ - ở những thế hệ tiếp theo.

Khi học về “sự tích bánh chưng, bánh giầy” (蒸餅傳, "Chưng bính truyện", chép trong sách "Lĩnh Nam" có lẽ là đầu tiên) hẳn đa phần chúng ta được dạy rằng Hoàng tử Lang Liêu 郎僚 làm nên hai loại bánh này dựa trên ý tưởng mang đầy tính triết lý “Giời tròn, Đất vuông” đậm chất văn hóa lúa nước. Theo truyền thuyết, sau khi đánh tan giặc Ân 殷代, với công lao của Thánh Gióng 聖𢶢 cùng ngựa sắt roi sắt, Vua Hùng thứ VI, Hùng Huy (雄暉王, 1712 - 1632 TTL) có ý định nhường ngôi, mở cuộc thi. Nhờ ý nghĩa từ hai chiếc bánh đặc sản này mà Hoàng tử Lang Liêu đã được chọn, tức Vua Hùng Chiêu (雄昭王). Tuy nhiên theo nghiên cứu của cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, ban đầu bánh chưng vốn không có hình vuông như bây giờ mà mang hình tròn dài giống như các loại tét ở miền nam, bánh nếp của người Tày. Ngày nay vùng trung du đất Tổ của các Vua Hùng, Phú Thọ, vẫn không thịnh hành gói bánh chưng hình vuông mà gói dạng tròn dài, gọi là "bánh chưng dài", một số vùng Bắc Bộ như Kinh Bắc ngày Tết cũng gói bánh chưng tròn dài. Lễ tế Vua An Dương hàng năm và cả trong cúng Tết của người dân Cổ Loa không thể thiếu món bánh chưng tròn dài, gọi là "Bánh chưng Tày".

Sở dĩ có chuyện này là bởi từ trước Thời đại Hồng Bàng dân tộc ta đã tôn tín ngưỡng "Phồn thực" (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở), thờ "Sinh thực khí" (sinh nghĩa là đẻ, thực nghĩa là nảy nở, khí nghĩa là công cụ) như nhiều bộ tộc khác ở phương Nam như Ấn Độ hay người Nhật. Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều dễ hiểu. Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, người xưa xây dựng tín ngưỡng phồn thực. Thờ sinh thực khí là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực, phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Tây lịch. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thờ sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Ngày nay lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) vẫn còn có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào ngày Sáu tháng Giêng, sau đó chúng được đốt đi, lấy tro than chia cho mọi người để lấy may. Người Nhật, Ấn Độ và nhiều dân tộc khác cũng có lễ hội tương tự nhưng chỉ thờ sinh thực khí nam.

Bánh chưng tròn dài biểu hiện vật dương - nõ, đại diện cha - Giời, cho tất cả những gì tích cực, chủ động, như: nhật, ban ngày, cương, nam, quân, chủ, chồng, phu, thượng, tiến, động, chính… ; bánh giầy hình tròn biểu hiện vật âm - nường, đại diện Mẹ - Đất, cho những gì không tích cực, bị động, như: nguyệt, ban đêm, nhu, thuận, nữ, triều thần, vợ, nhỏ, hạ, thoái, tịnh, phụ… Cũng theo cố Giáo sư Vượng, bánh chưng hình vuông chỉ được đưa ra từ thời nhà Hậu Lê, khi Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc hơn tại Đại Việt. Thật ra đó là khi người Việt học lại kiến thức “Giời tròn, Đất vuông” của tổ tiên đã bị Nho giáo nhào nặn.

Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt còn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Một số vùng quê đồng bằng Bắc Bộ vẫn còn giữ lễ hội như "linh tinh tinh phộc". Vào dịp hội Đền Hùng, vùng đất Tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí", thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống "tùng" thì họ lại "dí" hai vật đó lại với nhau. Phong tục "giã cối đón dâu" cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ, một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên. Điều đặc biệt của tín ngưỡng Việt là tín ngưỡng đa thần và trọng tình cảm, trọng nữ giới, các vị thần Việt chủ yếu là nữ thần, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực nên các vị thần không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là các bà Mẹ, các Mẫu. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp.

Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực. Thần Mặt Gìời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Hình dáng của trống đồng được phát triển từ cối giã gạo. Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo. Tâm mặt trống là hình Mặt Giời biểu trưng cho sinh thực khí nam, xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ. Xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực, con cóc là cậu ông trời, cóc nghiến răng gọi trời mưa, mưa xuống cây cối nảy chồi đâm lộc. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 TTL. Ngoài hình tượng người, cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc,... cũng được khắc trên mặt trống đồng Hoàng Hạ (Hòa Bình).

Những trí tuệ sắc sảo của người xưa từ tín ngưỡng phồn thực mà phát triển, tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và xây dựng được triết lý "âm dương". Người xưa gọi trạng thái đất chưa hình thành, còn trong hỗn độn là thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi là phân chia âm dương, hình thành giời đất. Nơi đặt chân để canh tác và sinh sống là Đất, Mẹ Đất tức là Mẹ Trứng, vòm giời đầy sao trên đầu là Giời, cha Giời. Cha Giời Mẹ Đất giao hoan tức là âm dương giao hòa thì vạn vật sinh sôi nảy nở, là thuyết "âm dương". Khi con người đi trên mặt đất, nhìn lên cảm thấy giời tròn như cái bát úp xuống, Mặt Giăng, Mặt Giời và những vì sao là chuyển động không ngừng theo vòng tròn trên bầu giời, vô cùng vô tận và dưới đất là cũng tròn, nhưng nhìn xung quanh thì mặt đất là bằng phẳng do vậy có quan niệm Trái Đất như một vật thể hình vuông không di động, chuyên chở con người nên khái niệm “Giời tròn, Đất vuông” nẩy sinh cùng với "giời ba đất hai" là năm hiện tượng, "giờ ba" là Mặt Giăng, Mặt Giời và những vì sao, "đất hai" là Đông - Tây hai nơi vốn là nơi Mặt Giăng, Mặt Giời, những vì sao mọc và lặn. Mưa từ vòm giời rơi xuống khắp bốn góc Trái Đất tạo thành khái niệm "bốn phương" cộng với nơi ta đứng là năm vị trí, gốc của "ngũ hành", "bốn phương" lại chia ra "tám hướng" là tám quẻ. Mà “Giời tròn, Đất vuông” cũng là một thể hiện của thuyết "âm dương", nhìn vào thế giới tự nhiên, những gì thuộc dạng tròn thì hiếu động, không ổn định, những gì thuộc hình vuông đều có đặc tính tĩnh tịch, giống như Trái Đất. Động là dương, tĩnh là âm, nên giời tròn tượng trưng dương, đất vuông tượng trưng cho âm. “Giời tròn, Đất vuông” là một chú giải cho chủ trương “Giời người là một”, chú trọng sống theo tự nhiên. Tất cả hợp thành gốc Kinh Dịch.

Khi truyền lên phương Bắc, tộc Hoa Hạ tuy áp dụng “Giời tròn, Đất vuông” nhưng chưa hình thành triết lý. Soi chiếu vào thực tế lịch sử, thì nhà Ân chính là giai đoạn sau của nhà Thương. Nhà Thương trị vì TQ trước nhà Chu, nhưng phải đến thời Đông Chu tộc Hoa Hạ mới có khái niệm "Thiên viên 天圓, Địa phương 地方", chữ "phương" trong "thiên viên địa phương" còn mang theo nghĩa "phương hướng" của người Việt cổ nên, nên "giời ba đất hai" thành “tam thiên lưỡng địa”, Mặt Giăng, Mặt Giời và những vì sao thành nhật, nguyệt, tinh tú là "tam thiên", Đông - Tây là "lưỡng địa". Chữ "phương" cũng mang theo nghĩa là "bằng phẳng" của người Việt cổ, nên không phải chỉ là “Giời tròn, Đất vuông” không. Sang đến tận thời Chiến Quốc (戰國, 476 TTL –221 TTL) thuyết "Thiên viên Địa phương" mới có các khái niệm về vòm trời hình bán cầu, Trái Đất như một cái bát úp và các cung trên Trái Đất. Quan niệm “Giời tròn, Đất vuông” có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống người Đông Á, chẳng hạn thấy mẫu đồng xu tròn bằng đồng, giữa có lỗ vuông là người ta nhận ra đó là tiền của các xứ Viễn Đông ngày xưa. Gần đây nhất, hai kiến trúc điểu sào (tổ chim) và thủy lập phương (khối vuông nước) mang tính biểu tượng tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 cũng thể hiện quan niệm “Giời tròn, Đất vuông”. Điểu sào thể hiện dương cương và thủy lập phương thì rõ ràng là âm và mềm dẻo. Hai kiến trúc này biểu tượng cho âm dương hài hòa, TQ hồi đó muốn dựa vào đó để có thể thắng lớn.

Quay lên Hoàng Hà, cùng vào trước Thời đại Hồng Bàng, khi các thị tộc phát triển thành bộ tộc, khu vực từ Cao nguyên Hoàng Thổ đến Hành lang Cam Túc (河西走廊) là địa bàn cư trú của các bộ tộc Hạ 夏; khu vực thung lũng hạ du Vị Hà (Bình nguyên  Vị Hà, Bình nguyên Quan Trung) là nơi cư trú của các bộ tộc Hoa 華; còn các bộ tộc Cửu Di 九夷 cư trú từ lưu vực Hán Thủy đến nam Hoài Hà. Hành lang Cam Túc (hay Hành lang Hà Tây của Con đường tơ lụa) là một lối đi dài và hẹp, cơ bản là một chuỗi các ốc đảo nằm dọc theo rìa phía bắc của cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng, kéo dài ~1.000 ki-lô-mét từ sườn Ô Sao Lĩnh gần Lan Châu (蘭州, tỉnh lỵ nằm ở đông nam tỉnh Cam Túc [甘肅, tên gọi tắt là Cam 甘 hay Lũng 陇 / 隴, cũng còn gọi theo tên cũ là Lũng Tây hay Lũng Hữu vì có núi Lũng ở phía đông], Cam Túc hợp thành bởi hai châu 州 Cam [甘, khu vực xung quanh Trương Dịch 張掖] và Túc [肅, khu vực xung quanh thành phố Tửu Tuyền 酒泉市] phía tây tỉnh Cam Túc) tới Ngọc Môn quan (玉門關 hay đèo Ngọc Môn ở phía tây thị xã Đôn Hoàng 敦煌市, thành phố Tửu Tuyền, "quan" 關 thường được dịch đơn giản là "cổng" hay "ải", nhưng ý nghĩa cụ thể hơn của nó là một "cổng biên giới" để phân biệt với một con đèo thông thường chạy qua các ngọn núi) tại ranh giới giữa Cam Túc và Khu tự trị Uy-gơ-rư Tân Cương (Uy-gơ-rư: شىنجاڭ ئۇيغۇر ئاپتونوم رايونى, Shinjang Uyghur Aptonom Rayoni; 新疆维吾尔自治区; Uy-gơ-rư: ئۇيغۇر,  Uy-gơ-rư; Hán: 維吾爾; Hán - Việt: Duy Ngô Nhĩ, tên gọi cổ hơn là Hồi Ngột, Hồi Hột 回紇, Hồi Cốt 回鶻, một dân tộc trong hệ dân tộc Turk mang dòng máu pha trộn giữa Đại chủng Á Mongoloid và Đại chủng Cáp-cát Caucasoid [hoặc Đại chủng Âu Europid], tài liệu Hán văn cổ gọi chung là Đột Quyết 突厥, xuất xứ Trung Á, định cư ở miền Bắc, Trung và Tây lục địa Á - Âu). Từ thời nhà Chu, khu vực Quan Trung, chia tách với Quan Đông bởi Hoàng Hà, là nơi định đô của 12 triều đại TQ cho đến nhà Hán, nhà Tùy, và nhà Đường.

Cùng với thời kỳ Nhà nước Văn Lang ra đời, như đã nói trong bài trước, hai tộc Hoa, Hạ liên minh đánh bại tộc Cửu Di, sau đó tộc Hạ đông tiến đánh nhau tranh giành ngôi vị thống lĩnh với tộc Hoa, cuối cùng Hạ thắng, nắm quyền thống lĩnh liên mình bộ lạc. Khi đó văn minh chưa có hay mới bắt đầu có nhưng rất thô sơ, dân chúng còn rất thưa thớt, sống từng nhóm nhỏ theo lối du mục, không có dấu tích gì còn sót lại khiến việc nghiên cứu để biết rõ các liên mình bộ lạc tối cổ này rất khó khăn, do vậy mới nảy sinh các truyền thuyết về Ngũ Đế. Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn Tam Hoàng, theo truyền thuyết Hoa Hạ, là năm vị quân chủ liên minh các bộ lạc có công khai hóa, đưa các thị tộc du mục Hoa Hạ săn bắn hái lượm ven Hoàng Hà thoát khỏi thời kỳ sơ khai tối cổ. Có 6 thuyết khác nhau liệt kê 5 vị khác nhau, nhưng năm vị trong "Sử ký" thiên "Ngũ Đế bản kỷ" được biết đến nhiều hơn cả:
Đế Hoàng, tức là Công Tôn Hiên Viên trị vì 2698 - 2599 TTL;
Đế Huyền 帝玄, tức Chuyên Húc 顓頊, thị tộc Cao Dương 高陽氏, cháu nội Đế Hoàng, trị vì 78 năm, thọ 98 tuổi, không liên quan đến Huyền Thiên Trấn Vũ đế trấn ở phương Bắc;
Đế Cốc (帝嚳, 2453 TTL - ?) hay Khốc, thị tộc Cao Tân 高辛氏, tên Cơ Tuấn 姬夋, gọi Đế Huyền là chú, trị vì khoảng 76 năm;
Đế Nghiêu (帝堯, 2378 - 2258 TTL) hay Đường Nghiêu 唐堯, thị tộc Đào Đường 陶唐氏, tên Kỳ Phóng Huân 祁放勳, con bà Khánh Đô 慶都 vợ út Đế Cốc, trị vì khoảng 99 năm;
Đế Thuấn (帝舜, 2294 - 2184 TTL), hậu duệ Đế Huyền, thị tộc Hữu Ngu 有虞氏 nên cũng gọi Ngu Thuấn 虞舜, tên Trọng Hoa 重華, do sinh ra ở Diêu Khư 姚墟 nên lấy Diêu 姚 làm họ, trị vì khoảng 50 năm.
Xen kẽ còn các đế khác cũng hậu duệ Hiên Viên nhưng không tiếng tăm gì. Vị đế đầu tiên trong Ngũ Đế, Hiên Viên Đế Hoàng, được Tư Mã Thiên tổng hợp những thông tin rải rác khi ấy, tạo nên một nhân vật thần thoại và có các thành tựu như ta biết ngày nay. Theo "Sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê (1912 - 84, nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa), các vị quân chủ trên đều do người Hoa Hạ tưởng tượng ra, chỉ có Nghiêu, Thuấn có thể coi là bán thực bán huyền. Nghiêu, Thuấn còn được gọi là Nhị Đế 二帝, cùng với Tam Vương (三王, những người đã tạo ra 3 triều đại Hạ, Thương và Chu) được Nho giáo coi là các vị vua kiểu mẫu và là các tấm gương đạo đức, gọi chung là Nhị đế Tam vương.

Từ đó các tộc Hoa, Hạ dần dần hợp nhất thành tộc Hoa Hạ. Cũng có thuyết nói Hạ chỉ Hạ Thủy (tên khác của Hán Thủy) còn Hoa chỉ Hoa Sơn (華山; "Ngọn núi lộng lẫy", thuộc tỉnh Thiểm Tây, Tây Nhạc trong Ngũ Nhạc 五嶽, năm núi linh thiêng của Hoa Hạ, được sắp xếp theo bốn hướng chính và trung tâm của vùng đất Hoa Hạ cổ đại theo thuyết Ngũ hành của người Việt). Con sông và ngọn núi này có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng với tộc Hoa Hạ thời cổ. Trong quá trình bành trướng lãnh thổ, tộc Hoa Hạ dung hợp tiếp các dân tộc: Việt, Khương / Tạng Miến, Tochari (Τοχάριοι, Thổ Hỏa La),  Nguyệt Chi (月氏 / 月支), Đột Quyết / Uy-gơ-rư, Hung Nô, Đông Di, Thông Cổ Tư, Tây Giới, Chúc Dung, Tiên Bi,... do vậy TQ có câu "cẩu tạp chủng".

Người Tochari là dân tộc Ấn - Âu cổ từng cư ngụ trong những ốc đảo cạnh rìa bắc lòng chảo Tarim (塔里木盆地, Tháp Lý Mộc bồn địa, nằm giữa vài dãy núi trong Khu tự trị Uy-gơ-rư Tân Cương), về sau dần hòa trộn vào người Uy-gơ-rư từ Kara - Khoja (Uy-gơ-rư: قاراھوجا; Cáp Lạp Hòa Trác 哈拉和卓 nay là huyện Cao Xương 高昌区) đến định cư trong vùng. Người Nguyệt Chi là dân tộc Trung Á cổ, người ta cho rằng chữ "nguyệt" 月: "Mặt Trăng", có nguồn gốc từ "nhục" 肉: "thịt", thực tế chữ "nguyệt" là tương tự như bề ngoài của dạng cơ bản của chữ "nhục" do đó "Nhục Chi" 肉[⺼]氏 có lẽ có nghĩa văn chương là "bộ lạc ăn thịt", nghĩa là những người ăn thịt. Đến thời Xuân Thu vẫn còn nước Ngưu Chi (牛氏 hoặc Ngu Chi 禺氏) của người Nguyệt Chi tại Cam Túc. "Sơn Hải kinh" có mô tả về sự tồn tại của "người da trắng với tóc dài". Theo "Sử ký" thì người Nguyệt Chi ban đầu sống trong khu vực giữa Kỳ Liên Sơn (祁连山, còn gọi là Nam Sơn 南山: "dãy núi phía nam" khi nhìn từ Hành lang Hà Tây) hoặc Thiên Sơn (天山; Uy-gơ-rư: تەڭرىتاغ‎, "dãy núi trời / thiên đường" hay "dãy núi thần thánh / thần linh") và Đôn Hoàng, tương ứng với các vùng đồng cỏ khô cằn thuộc nửa phía đông của lòng chảo Tarim và phần phía bắc của Cam Túc. Tộc Hạ thì đục khoét vào lớp đất hoàng thổ thành diêu động mà ở, tộc Hoa đào xuống đất hoàng thổ lợp mái mà ở, như đã nói và ban đầu Hoa - Hạ cũng là các tộc du mục săn bắn ăn thịt nên câu "ăn lông ở lỗ" chắc có nguồn gốc từ đó.

Cùng với lãnh thổ, cư dân là các nền văn minh của các dân tộc đó được Hoa Hạ cướp giật, tích hợp vào, tạo thành văn minh mà tộc Hoa Hạ tự mãn và nhận tất là văn minh của mình. Điển hình là văn minh Việt và cả Ba - Thục, điều này sẽ trình bày tiếp tục bên dưới. Trải từ Ngũ Đế đến Tam đại (ba triều đại Hạ - Thương - Chu) thì nhà Hạ có địa vị lịch sử khá cao, sách "Tả thị Xuân Thu" (左氏春秋, còn gọi là "Tả truyện" 左傳, sách lịch sử sớm nhất viết về giai đoạn từ 722 - 468 TTL) chép nhà Hạ là một nước công bằng và chuẩn mực, do đó nhà Hạ cũng là thành phần cấu tạo nên danh xưng Hoa Hạ. Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách "Xuân Thu tả truyện chính nghĩa" (春秋左傳正義) có giải thích:
中國有禮儀之大,故稱夏;有服章之美,謂之華
Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa
Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa
Lý thuyết Địa lý TQ coi trung tâm phát tích của tộc Hoa Hạ là vùng đất mà Hiên Viên cai trị, tức là khu vực tập trung các bộ lạc tiền Hoa Hạ, nằm về phía nam Bình nguyên Hoàng Thổ, giữa Hoàng Hà và Hoài Hà. Vào khai thủy của nền văn minh Hoa Hạ, "Thiên hạ chi trung" và "Hòa Lạc" là các thuật ngữ địa lý đề cập cụ thể đến khu vực Lạc Ấp, nơi Đế Du Võng bị giáng phong, cũng là nơi đặt nền móng của Tam đại, nơi tộc Hoa Hạ áp dụng triết lý "bốn phương tám hướng", "ngũ hành" xem như là trung tâm của "thiên hạ". Đến trước thời Tam đại, các tộc tiền Hoa Hạ phía Đông Nam đã bành trướng đến bờ Nam Hoài Hà, bắt đầu tiếp xúc với văn mình Việt, Tây Nam tiếp xúc với các văn mình Ba - Thục. Từ thời Chu, các tộc tiền Hoa Hạ hợp nhất bành trướng về phía Đông và Nam đã đến Tứ Thủy, Hán Thủy và sông Dài, nơi giao với Đồng bằng sông Dương Tử (揚子江 三角洲: "Dương Tử giang Tam giác châu", tức khu vực ở trung hạ du Đồng bằng sông Dài, tức Giang Nam), bắt đầu tự xưng là "Hoa Hạ", trở thành danh từ đại diện cho TQ. Đây cũng là lúc hình thành mô hình "Hoa Di ngũ phương", tộc Hoa Hạ tự gọi là người Hoa ở trung tâm = Trung Hoa, Bình nguyên Hoa Bắc gọi là Trung Nguyên (中原 với trung tâm là Trung Châu 中州 tức là châu Dự thời Hán, nay là thành phố Trịnh Châu 郑州市, tỉnh lỵ Hà Nam), đất nước của tộc Hoa Hạ là Trung Quốc 中国, "Chiến Quốc thư" (cuốn sử viết về lịch sử thời Chiến Quốc, từ năm 490 - 221 TTL) giải thích khái niệm Trung Quốc:
Trung Quốc, nơi bậc trí tuệ thông minh cư trú, nơi vạn vật tài nguyên hội tụ...
Quân chủ Hoa Hạ nhận mình là "Thiên tử" 天子 trông coi "thiên hạ" là bao trùm mọi nơi với tộc Hoa Hạ ở trung tâm là người đã được "giáo" hóa văn minh. Bao quanh Hoa Hạ, ở ngoài Trung Châu là Tứ Di (四夷, "bốn giống man di mọi rợ"), phía đông gọi là Đông Di, tây là Tây Nhung 西戎, nam là Nam Man 南蠻, bắc gọi Bắc Địch 北狄. Chữ tượng hình Hán cổ thường kết hợp một phần chỉ ý nghĩa (nghĩa phù) và một phần chỉ âm (âm phù), căn cứ theo chữ giáp cốt và kế thừa là chữ được khắc hoặc đúc trên đồ đồng thì các chữ tượng hình chỉ Tứ Di đều có phần nghĩa phù biểu thị "sâu bọ thú vật", thuộc bộ thủ "khuyển" 犭: "chó", nay đã lược bỏ chỉ còn có ở chữ Địch 狄. "Đại Đái lễ ký" thiên "Vương chế" chép:
中國戎夷,五方之民,皆有其性也,不可推移。東方曰夷,被髮文身,有不火食者矣。南方曰蠻,雕題交趾,有不火食者矣。西方曰戎,被髮衣皮,有不粒食者矣。北方曰狄,衣羽毛穴居,有不粒食者矣。
Trung Quốc Nhung Di, ngũ phương chi dân, giai hữu kì tính dã, bất khả suy di. Đông phương viết Di, bị phát văn thân, hữu bất hoả thực giả hĩ. Nam phương viết Man, điêu đề giao chỉ, hữu bất hoả thực giả hĩ. Tây phương viết Nhung, bị phát y bì, hữu bất lạp thực giả hĩ. Bắc phương hữu Địch, y vũ mao huyệt cư, hữu bất lạp thực giả hĩ.
Người ở phương Đông gọi là Di, cắt tóc xăm mình, trong đó có người không ăn thức ăn nấu chín. Người ở phương Nam gọi là Man, họ khắc hoa văn trên trán, cẳng chân bắt chéo vào nhau, trong đó cũng có người không ăn thức ăn nấu chín. Người ở phương Tây gọi là Nhung, họ cắt tóc mặc áo làm bằng da thú, trong đó có người không ăn ngũ cốc. Người ở phương Bắc gọi là Địch, họ mặc áo làm bằng lông chim lông cừu, đào hố để ở, trong đó cũng có người không ăn ngũ cốc.
Ở trên có nói Nam Man "cẳng chân bắt chép vào nhau", nhiều người cho rằng đây là xuất xứ của tên gọi Giao Chỉ, điều này cũng là dựa vào giải thích của Hoa Nho. Do sự bành trướng xuống phía Nam mà sách TQ chép tộc Hoa Hạ thời kỳ này đã biết đến tên gọi Việt cũng như Giao Chỉ (交趾 / 交阯) chứ không phải đến thời Hán mới đặt ra Giao Chỉ bộ (交趾部) ở miền Lĩnh Nam, sách "Hoài Nam tử" - "Chủ thuật huấn" (主術訓) chép:
Đất của họ Thần Nông, phía nam đến Giao Chỉ, phía bắc đến U Đô, phía đông đến Dương Cốc, phía tây đến Tam Nguy, chẳng ai không nghe theo
Học giả Trịnh Huyền (鄭玄) thời Đông Hán là người đầu tiên chú giải tên gọi Giao Chỉ rằng:
交趾,足相向然。
Giao Chỉ, túc tương hướng nhiên.
Giao Chỉ là chân hướng vào nhau.
Chân hướng vào nhau tức là bắt chéo vào nhau, tức là Giao Hĩnh (交脛), cẳng chân bắt chéo vào nhau. "Sơn Hải kinh" thiên "Hải nội nam kinh" (海外南經) chép:
交脛國在其東,其為人交脛。
Giao Hĩnh quốc tại kì đông, kì vi nhân giao hĩnh.
Nước Giao Hĩnh ở phía đông (nước Xuyên Hung), người nước này cẳng chân bắt chéo vào nhau.
Hình vẽ người Giao Hĩnh trong "Sơn Hải kinh"

"Thuyết văn giải tự" (說文解字) của Hứa Thận thời Đông Hán cũng chép:
交,交脛也。
Giao, giao hĩnh dã.
Giao là cẳng chân bắt chéo vào nhau vậy.
Đến thời Đường có một giải thích khác, nhưng đây chỉ là một dị biệt nhân dạng hiếm có, "Thông điển" (通典) của Đỗ Hữu thời Đường:
交趾,謂足大趾開闊,並立相交。
Giao Chỉ, vị túc đại chỉ khai khoát, tịnh lập tương giao.
Giao Chỉ, là nói ngón chân cái mở rộng, cùng đứng chéo vào nhau,.
Dị biệt nhân dạng này đến gần đây vẫn còn, thấy chiếu trên tivi dạo trước. Tuy nhiên, như đã nói, tên gọi Việt và Giao Chỉ sẽ nói trong bài khác sau. Đông Di và Nam Man là cách phân biệt của tộc Hoa Hạ, một phần tập đoàn Đông Di ở phía Đông qua Đông Nam đến Nam, ra đến ven bờ Đông Hải có thể là cư dân Xích Quỷ, họ cũng xăm mình như cư dân Xích Quỷ.

Quay lại Ngũ Đế, như đã nói, không có cơ sở để biết cụ thể ra sao, sách sử TQ cũng chỉ cóp nhặt từ truyền thuyết, Hiên Viên khi làm thủ lĩnh liên minh các bộ lạc lại lấy thêm nhiều vợ nữa, thảy mười mấy vợ, sinh tổng cộng 25 con, được phân ra 12 "tính": Cơ, Dậu 酉, Kỳ 祁, Kỷ 己, Đằng 滕, Dự 葴, Nhậm 任, Tuân 荀, Hy 僖, Cật 姞, Huyên 儇 và Hi 衣. Các bộ lạc chư hầu dưới quyền Hiên Viên liên tục xâm lược xung quanh, Đông lấn dần tới vịnh Bột Hải (渤海灣), Nam qua Hoài Hà tới gần sông Dài. Chư hầu lúc này thực chất là các thị tộc mà thủ lĩnh nắm giữ hết quyền lực, trở thành lãnh chúa cát cứ trong lãnh thổ thị tộ. Các lãnh chúa thì chia phái hoặc liên minh hoặc đánh chiếm lẫn nhau dạng cá lớn nuốt cá bé, nên mới có chuyện Hạ Vũ tập họp 10.000 chư hầu. Cũng nổi lên dạng lãnh chúa mạnh và khôn ngoan, thiết lập quyền kiểm soát các lãnh thổ khác ở mức xác định mà Hiên Viên được xây dựng thành hình mẫu, dẫn đến mô hình "đại quốc", "đại ấp" - "tiểu quốc", "tiểu ấp" thời Hạ, Thương. Mối quan hệ này còn ở dạng sơ khai, chưa có một lý thuyết nền tảng về xã hội, biến động theo khả năng duy trì thực lực của các thành phần đó, nói chung là còn lỏng lẻo. Các di chỉ khảo cổ thời nhà Thương cho thấy các thuộc quốc của triều đại này gọi là "phương quốc", giữa quân chủ nhà Thương với các thủ lĩnh thị tộc không có quan hệ vua tôi mà chỉ là liên minh quân sự. Quân chủ nhà Hạ, nhà Thương chỉ đóng vai trò đứng đầu liên hợp các phương quốc. Sang thời nhà Chu mới hình thành quan hệ thiên tử - chư hầu. Đại đa số các chư hầu đều là người thân thích hoặc công thần nhà Chu, chịu sự ràng buộc khá chặt chẽ, có quan hệ vua tôi với thiên tử nhà Chu. Chư hầu có nghĩa vụ với thiên tử nhà Chu như: triều kiến định kỳ, cống nạp, điều quân theo sự huy động của thiên tử Chu khi có chiến tranh hoặc làm lễ lớn để trợ tế.

Trên bờ Nam Hoài Hà, một bộ phận người Việt cổ phải sống trong lãnh thổ bị các thị tộc chư hầu dưới quyền Hiên Viên chiếm, ở vùng đất giáp ranh, người Việt cổ kiên cường kháng chiến chống lại xâm lược của Hoa Hạ. Trong phần đất bị chiếm, nhiều bộ phận người Việt cổ bị Hoa Hạ hóa nhưng không ít nhóm Việt không chịu đồng hóa, đã lui sâu vào trong vùng rừng núi hoặc vượt qua sông Dài về bờ Nam, nơi chưa bị tộc Hoa Hạ chiếm. Tiếp thu triết lý “Giời tròn, Đất vuông”, "bốn phương tám hướng", "ngũ hành" Việt, Hiên Viên chia lãnh thổ làm năm phần, bản thân ở trung tâm, cho các con cai trị, chinh phạt các vùng xung quanh Đông, Nam, Bắc, Tây. Sử TQ chép các con Hiên Viên, cũng là chư hầu từ phương: Huyền Hiêu được phong đất nơi huyện Hào Ấp tỉnh Hà Nam lập ấp, cai quản thị tộc Cao Tân, để chinh phạt phía Tây. Huyền Hiêu chết truyền ngôi cho Đới Cực (蟜極), Đới Cực chết thì chuyển đến con là Cơ Tuấn. Cơ Tuấn lấy con gái thị tộc Hữu Thai (有邰) tên là Khương Nguyên (姜嫄, sinh ra Cơ Khí 后稷, tức Hậu Tắc 姬弃, thủy tổ nhà Chu), lại lấy con gái thị tộc Hữu Nhung (有戎) là Giản Địch (簡狄, sinh ra Tử Tiết 子契, thủy tổ nhà Thương), vợ ba Cơ Tuấn là Thường Nghi (常儀, thuộc thị tộc Tu Ty, sinh ra người con khác là thị tộc Thanh Dương), vợ cuối là Khánh Đô (thị tộc Trần Phong sinh ra Kỳ Phòng Huân).

Xương Ý được phong đất ở khu vực Nhược Thủy (huyện Kỷ 杞县 thành phố Khai Phong 開封市 tỉnh Hà Nam) lập ấp, cai quản thị tộc Cao Dương, để chinh phạt phía Bắc. Con Xương Ý và Xương Phó là Chuyên Húc. Chuyên Húc có mấy người con trai, trong đó Xứng (稱, thủy tổ một loạt quân chủ chư hầu từ nhà Hạ đến Xuân Thu - Chiến Quốc), Cùng Thiền (窮蟬, tổ tiên trực hệ 5 đời của Đế Thuấn Diêu Trọng Hoa) và Cổn (鯀, theo "Sử ký" - "Hạ bản kỷ" là cha của người đặt nền móng cho nhà Hạ là Tự Văn Mệnh (姒文命, 2298 - 2198 TTL hoặc 2200 - 2100 TTL), thế thì vô lý, vì Cổn sống cùng thời với Đế Nghiêu Kỳ Phóng Huân, Cơ Khí, Tử Tiết, so sánh tuổi tác giữa các hậu duệ của Chuyên Húc thì Kỳ Phóng Huân, Cơ Khí, Tử Tiết là cháu 3 đời Cùng Thiền mà Cổn lại là em của Cùng Thiền, nghĩa là Kỳ Phóng Huân, Cơ Khí, Tử Tiết phải gọi Cổn bằng "Tổ Thúc" nghĩa là "Cụ" trong tiếng Việt, thuyết khác nói rằng Cổn là hậu duệ 4 đời của Chuyên Húc, thuyết này hợp lý hơn)

Thiếu Hạo ("tính" Kỷ 己, tên Nghiệt 摰, hay Chất 質 hoặc Chí 鸷, sinh ra ở Sơn Đông) được cho chinh phạt phía Đông. Truyền thuyết nói Thiếu Hạo có thời gian  cai quản thị tộc Kim Thiên (金天氏, thị xã Khúc Phụ thành phố Tể Ninh tỉnh Sơn Đông), thị tộc này thờ thần chim, các quan chức của thị tộc đều lấy tên các loài chim,  cao nhất là Phượng Hoàng, quản lý binh quyền gọi là Cưu, quản lý hình pháp gọi là Ưng, cho nên có lễ cũng như nhiều thị tộc Đông Di, có khả năng Kim Thiên liên quan tới Việt cổ. Sau Thiếu Hạo chuyển đến Thanh Dương (huyện Thanh Dương 青阳县 tỉnh An Huy), chinh phục hoặc cai trị các thị tộc Thanh Dương 青陽氏, Cùng Tang 窮桑氏, Vân Dương 雲陽氏 hoặc Chu Tuyên 朱宣. Sau khi Thiếu Hạo đi khỏi Kim Thiên có ai thay thế ngôi vị hay không thì không thấy sách nào nhắc đến nữa, chỉ biết rằng trong lịch sử tỉnh Sơn Đông từng có quốc gia bộ lạc này. Như vậy, từ đời Huyền Hiêu, Xương Ý, Thiếu Hạo đến về sau nữa là nhà Chu đều có chung dòng dõi tổ tiên là Hiên Viên. Do vậy nên "Sơn Hải kinh" chép các tộc Bắc Địch, Khuyển Nhung và Đông Di đều là con cháu Hiên Viên, nhận nhằng không biết ngượng. Và với quan niệm mình là Trung tâm, xung quanh là Tứ Di nên mỗi khi chếm được một vùng đất, cho dù người bản địa có trình độ cao hơn, sách TQ đều chép một câu:
Trước lúc XXX đến đây dân chúng xứ này còn man rợ chưa có lễ giáo gì cả, tới khi XXX làm quân chủ nước ZZZ mới đưa nền văn hóa Trung Nguyên du nhập khiến cho nước ZZZ phát triển cường thịnh một thời.
Hết đời Hiên Viên thì Thiếu Hạo nối ngôi, đời sau truy phong Thụy hiệu cho Hiên Viên là Đế Hoàng. Như đã nói trong bài trước, danh từ "Đế" cho đến thời nhà Thương được dùng để chỉ "Thượng đế" trong tín ngưỡng thờ Trời. Đến thời Chiến Quốc, từ "Đế" dùng để chỉ các vị thần của những ngọn núi thiêng, Đế Hoàng là một trong số đó. Sách "Lã thị Xuân Thu" chép rằng cuối thời Chiến Quốc, "Đế Hoàng" dần mang tính vũ trụ học của học thuyết ngũ hành Việt, màu vàng tượng trưng cho thuộc tính Thổ, cũng mang ý nghĩa trung tâm. Căn cứ vào khảo cổ học, ghi chép sớm nhất về Đế Hoàng là chữ khắc trên đồ đồng nước Tề thời Chiến Quốc. Do Đế Hoàng được cho là hậu duệ Đế Viêm, Viêm - Hoàng là hai người lừng danh nhất nên tộc Hoa Hạ coi là thủy tổ, xưng là con cháu Viêm - Hoàng. Trong "Sử ký", Tư Mã Thiên cũng đề cập đến việc nước Tần có tín ngưỡng tôn thờ Đế Hoàng cùng với Đế Viêm. Bàn thờ cúng được tìm thấy tại vùng ngày nay là huyện Phượng Tường (鳳翔縣, thành phố 寶雞市 Bảo Kê tỉnh Thiểm Tây) nơi mà xa xưa từng là kinh đô của nước Tần.

Sử TQ chép thời này Lẫm Quân thụ phong nước Ba trở thành chư hầu Ngũ Đế, bên nước Cổ Thục thị tộc Tàm Tùng (蠶叢氏, hậu duệ thị tộc Thục Sơn, bộ lạc Khương) kế thừa ngôi quân chủ, theo truyền thuyết, Tàm Tùng có công dạy dân trồng lúa. Cũng theo sách TQ thì Tàm Tùng cũng con cháu Đế Hoàng. Nhưng như đã nói, tộc Hoa Hạ chuyên nhận nhằng của người ta làm của mình nên có lẽ là chép bậy, bởi văn hóa Ba, cũng như Thục khác và ngoài tầm ảnh hưởng của Hoa Hạ, thậm chí còn ở trình độ cao hơn, điều này các nhà khoa học TQ gần đây đã công nhận. Tộc Hoa Hạ rất tự cao tự đại, "Dạ Lang tự đại" (夜郎自大) là thành ngữ TQ dùng để ví tính tự cao tự đại. Dạ Lang 夜郎 là nước cổ của người Dạ Lang, một nhánh Bách Việt, tồn tại từ ~ 200 - 27 TTL trong địa giới nước Việt cổ Tang Kha 牂柯 đã từng hiện diện cho đến khoảng thế kỷ VII TTL trên cao nguyên Vân - Quý, phần lớn cương vực của nước Dạ Lang ngày nay nằm trong địa phận tỉnh Quý Châu 貴州, sau đó Dạ Lang mất tích như vì sao sa. Nhà sử học Tây Hán Tư Mã Thiên đi theo sứ giả nhà Hán ngoại giao với các chính quyền ở miền Tây Nam TQ, ghi lại trong "Sử ký" - "Tây Nam Di chí":
滇王与汉使言汉孰与我大及夜郎侯亦然各自以一州王不知汉广大
Điền Vương hỏi sứ giả triều Hán rằng: ‘Hán và ta, nước nào lớn?’ Sau sứ giả triều Hán đến nước Dạ Lang, Dạ Lang Hầu cũng hỏi như thế. Mỗi người làm vương một châu, không biết rằng nước Hán lớn
Tính tự cao tự đại của tộc Hoa Hạ cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học hiện đại. Các nhà khoa học TQ muốn chứng minh đất TH là nơi phát sinh ra giống dân châu Á, và văn minh Hoa Hạ là văn minh trung tâm thế giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh Hoa Hạ những nền văn minh rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất TQ nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng tộc Hoa Hạ. Điển hình là trường hợp di chỉ đồ đồng của nước Cổ Thục ở Gò Ba Sao (三星堆: Tam Tinh đôi, địa phận thị xã Quảng Hán 广汉市 thành phố Đức Dương 德阳市 tỉnh Tứ Xuyên). Năm 1929 một người nông dân khi làm ruộng đã phát hiện một đống đồ ngọc tinh xảo đẹp mắt. Năm 1986, một nhóm thợ lò gạch tình cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đoàn khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật trên 1.000 món, với nhiều thứ tuyệt xảo bằng đồng, nhiều đầu người và mặt nạ bằng đồng, kích thước to, trong đó có tượng người cao bằng người thật (1m72). Tượng và mặt nạ có mắt to, mũi lớn, lông mày rậm dày, miệng thật rộng và bẹp, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu của tộc Hoa Hạ. Trong khi đó, nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của tộc Hoa Hạ đã được công nhận, không hề có đồ đồng mang dạng người hay mặt nạ, tại khu vực Hà Nam, trung tâm văn minh Hoa Hạ, chỉ khai quật được đỉnh, chậu. Mặt nạ và tượng đồng là một trong những cổ vật quý hiếm và kỳ lạ nhất trong bộ sưu tập, cho đến nay các khoa học gia TQ vẫn không hiểu khuôn mặt nửa cười, nửa giận của tượng mặt nạ biểu thị cho cái gì, miêu tả ai và dùng để làm gì, họ chỉ cho biết niên đại các-bon phóng xạ của chúng là khoảng 1200 - 1100 TTL.

Một nhóm khảo cổ Hoa - Nhật khám phá ra thêm một thứ đền "kim tự tháp" ở phía tây nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa với Gò Ba Sao. Đền nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Hoa Hạ đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn minh này là 4,7 - 3 NN. Khám phá này được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và sau đó trong những sách, báo quốc tế, trong khi báo TQ lúc đó không hề đăng, rất ít thường dân TQ biết đến tin này. TQ không muốn chấp nhận sự hiện diện một nền văn minh khác, rực rỡ và cổ xưa hơn văn minh Hoa Hạ vốn dĩ được xem là văn minh gốc của cả nước TQ. Phát hiện tại Gò Ba Sao cũng như các phát hiện khác, chẳng hạn các ngôi mộ tại Tân Can ở Giang Tây, đã thách thức diễn giải truyền thống TQ cho rằng nền văn minh Hoa Hạ đã lan tỏa từ vùng bình nguyên trung tâm Hoàng Hà ra khắp TQ. Các khảo cổ gia TQ gần đây đã bắt đầu bớt tự cao tự đại khi rón rén đề cập tới khái niệm "nhiều trung tâm cải tiến hợp cùng nhau đã diễn ra trước văn minh Trung Hoa". Di vật Gò Ba Sao cuối cùng cũng được TQ công nhận là cổ vật thuộc Văn hoá  Ba - Thục, có niên đại ~5 - 3 NN.

Quay lại thời Ngũ Đế, bên Hoàng Hà, Thiếu Hạo truyền ngôi cho cháu là Chuyên Húc, Xứng thay cha tiếp tục lãnh đạo bộ lạc Cao Dương với thân phận chư hầu. Thụy hiệu của Thiếu Hạo là Đế Bạch. Không biết con cái Thiếu Hạo thế nào, tương truyền là hậu duệ của Thiếu Hạo thời cai trị Kim Thiên (do mang "tính" Kỷ) về sau được nhà Chu phong tước Tử, phân đất ở phía bắc thủ phủ huyện Đàm Thành (郯城县 thành phố Lâm Nghi 臨沂市, phía nam tỉnh Sơn Đông) lập nước Đàm 郯國. Như cái nói, sách TQ chép tộc Hoa Hạ thời kỳ này đã biết đến tên gọi Giao Chỉ, "Sử ký" thiên "Ngũ Đế bản kỷ" chép rằng:
Vua Chuyên Húc hiệu là Cao Dương, phía bắc đến ở U Lăng, phía nam đến ở Giao Chỉ. (Chính nghĩa: Chỉ, đọc là ‘chỉ’. Là đất Giao châu vậy)
Xét trong "Sử ký", Tư Mã Thiên vốn không chép bừa, mà phải có chỗ dựa, sớm hơn Tư Mã Thiên đã có các sách vở chép Chuyên Húc đã “phía nam đến ở Giao Chỉ", như "Hoài Nam tử" đã dẫn trên hay "Đại đái lễ ký" (大戴禮記) thiên "Ngũ Đế đức" (五帝德) chép:
Khổng Tử nói: ‘Vua Chuyên Húc phía bắc đến ở U Lăng, phía nam đến ở Giao Chỉ.
Như vậy có thể thấy trong sách vở TQ chép từ thời Thần Nông đến Chuyên Húc tộc Hoa Hạ ngoài biết người Việt ở phía Nam cũng đã biết có tên gọi Giao Chỉ, chính là Xích Quỷ. Tuy chưa thể xem đây là tín sử nhưng đều đại khái nói là thời Ngũ Đế thì đã có sự giao lưu qua lại giữa hai miền Nam - Bắc Hoài Hà - Tần Lĩnh, tức là ranh giới tự nhiên giữa Hoa - Việt như bài trước đã nói. Tên gọi Giao Chỉ cùng tên gọi U Lăng, Lưu Sa, Bàn Mộc là đối xứng nhau, tuy là khái niệm vùng đất nhưng lại bao chứa khái niệm phương hướng, tức là bốn phía chính Đông, chính Tây, chính Nam, chính Bắc, bốn phía hợp lại thành tên gọi “ở trong bốn cõi”. Điều này càng chứng tỏ lãnh thổ Xích Quỷ thời đó Bắc qua sông Dài đến giáp Hoài Hà, bởi vì thật khó tưởng tượng ra nổi là theo truyền thuyết vào khoảng 4 - 5 nghìn năm trước mà Ngũ Đế đã từng vượt hàng nghìn cây số để đến được đất Giao Chỉ ở miền Lĩnh Nam. Các bộ lạc tiền Hoa Hạ đã vừa chiếm đất vừa ăn cướp văn minh phương Nam về làm của mình, để hình thành tộc Hoa Hạ, văn mình Hoa Hạ và nhà Nho Việt sau này, cả đến nay vẫn có học giả do ảnh hưởng Hoa Nho, đều giải thích rằng tên gọi Việt và Giao Chỉ là do Hoa Hạ đặt ra, về điều này sẽ có bài nói riêng.

Chuyên Húc truyền ngôi cho cháu là Cơ Tuấn, Thụy hiệu của Chuyên Húc là Đế Huyền. Cơ Tuấn qua đời, Thụy hiệu là Đế Cốc. Con Đế Cốc và vợ ba Thường Nghi nối ngôi, nhưng không có tài cai trị nên được vài năm em khác mẹ là Kỳ Phóng Huân thay ngôi, Thụy hiệu là Đế Chí, sử ký không chép rõ về kết cục của Đế Chí. Phóng Huân thời cha còn tại vị lập công to nên được phong cai quản thị tộc Đào 陶. Thời Đế Chí cải phong sang cai quản thị tộc Đường 唐 nên gọi Đường Nghiêu hoặc Đào Đường. Phóng Huân truyền chức cai quản thị tộc Đường cho con là Đan Chu (丹朱). Cho đến thời Đường Nghiêu mọi cố gắng chống chọi với lũ lụt ở lưu vực Hoàng Hà đều chưa thành công, lũ lụt triền miên, lê dân chỉ biết chạy trốn mỗi khi nước dâng cao nên mức sản xuất thấp, đời sống khó khăn nay đây mai đó không ổn định. Không ít liên minh thị tộc hình thành nhằm chống lại nước lụt, Có người tiến cử Tự Cổn (姒鯀, người thị tộc Hạ 夏氏, một trong 12 thị tộc tổ thành bộ tộc Hạ 夏). Cổn mang "tính" Tự, vốn hậu duệ Đế Huyền, nhưng chắc là con vợ thứ hiếm muộn hoặc con rơi vãi ngoài nhân gian nên chỉ là dân thường. Tứ Nhạc (四岳, 4 vị đại thần thông tuệ trong triều) cử Cổn làm lãnh đạo việc trị thủy. Cổn cùng với các trợ thủ, trong đó có Tử Tiết, nghiên cứu ra cách "nút chai", dùng đất, gỗ, đá để vây nước lại, xây dựng một loạt các tuyến đê và đập nước dọc theo bờ sông. Trị thủy bước đầu khả quan, Đường Nghiêu phong cho Cổn đứng đầu thị tộc Hạ, ban đất ở gần Tung Sơn (嵩山: "Ngọn núi cao ngất", Trung Nhạc trong Ngũ Nhạc, tại huyện Đăng Phong 登封市, Trịnh Châu, Hà Nam, bên bờ nam Hoàng Hà) lập ấp, cho nên đời sau gọi là Tung bá Cổn. Tử Tiết được ban cho đất Thương (商, khu vực phía nam thành phố Thương Khâu tỉnh Hà Nam) làm thực ấp, khởi đầu thị tộc Thương.

Về quan hệ với nước Xích Quỷ phương Nam, sách "Thượng thư" (尚書, cuốn thứ 2 trong "Ngũ kinh" 五經, năm cuốn kinh điển văn học TH, nằm trong "Thập tam kinh" 五經, bộ mười ba tác phẩm kinh điển được dùng làm nền tảng của Nho giáo, theo truyền thuyết, được Khổng Khâu soạn thảo hay hiệu đính từ các truyền thuyết, biến cố về các đời quân chủ cổ có trước ông để các quân chủ đời sau theo gương) thiên "Nghiêu điển" (堯典) chép Đường Nghiêu:
Ra lệnh cho Hy Thúc đến Nam Giao, xem Mặt Trời di chuyển về phía nam, xác định ngày hạ chí
Đây là ghi chép sách vở sớm nhất ("Thượng thư" ra đời trước "Sử ký") về chuyện "phía nam", "Giao Chỉ”, ghi chép này gây ra sự tranh cai giữa các học giả Hoa Nho suốt hàng ngìn năm, nhờ đó làm sáng tỏ nền văn minh thời kỳ đầu của miền Lĩnh Nam nước Xích Quỷ. Từ thời nhà Tống các học giả Hoa Nho bắt đầu thừa nhận rằng không phải các Đế từ Huyền đến Nghiêu sai người đi đến đất Giao Chỉ cư trú, mà chỉ là sai đi đến để xác định phương hướng, "đến Nam Giao" là xác định đất Giao Chỉ ở miền nam là phía chính nam, để mà biết ngày hạ chí đặng làm lịch. Chuyện làm lịch thì chính sách TQ cũng chép là do người phương Nam tặng cho. Nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền trong một lần trên đường đi tìm kiếm chữ Việt cổ, đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc phả thời Trần Thái Tông:
Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần quy, bối hữu khoa dấu
Về việc "rùa thần ngìn tuổi" Tiến sĩ Vũ Quỳnh trong sách "Lĩnh Nam" do ông nhuận đính có viết đại ý:
Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu
Sách TQ "Thông giám cương mục" do Chu Hy đời Tống viết:
Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 TTL) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn
Sách "Thông chí" (通志, của Trịnh Tiểu cũng đời Tống) nói rõ hơn:
Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngìn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch
Những ghi chép này cho thấy “phía nam vỗ về Giao Chỉ” là chép bậy chép bạ, như sách "Mặc tử" (墨子) thiên "Tiết dụng" (節用) chép:
Thời xưa vua Nghiêu trị thiên hạ, phía nam vỗ về Giao Chỉ
Sách "Thủy kinh chú" dẫn "Thượng thư đại truyện" (尚書大傳) chép:
Vua Nghiêu phía nam vỗ về Giao Chỉ
Các sách khác chép có đúng đắn hơn, rằng phía Nam (Hoa Hạ) là giáp giới với Giao Chỉ, như "Hoài Nam tử" thiên "Tu vụ huấn" (脩務訓):
Vua Nghiêu lên ngôi, phía tây dạy bảo Ốc Dân, phía đông đến Hắc Xỉ, phía bắc vỗ về U Đô, phía nam dẫn đến Giao Chỉ
Sách "Sở từ" 楚辭 thiên "Đại chiêu" (大招) chép:
Đức lành hợp trời, muôn dân noi theo, bắc đến U Lăng, nam cùng Giao Chỉ, tây đến Dương Tràng, đông cùng bờ biển
Sách "Hàn Phi tử" (韓非子) thiên "Thập quá" (·十過) chép:
Ngày xưa vua Nghiêu có được thiên hạ, ăn cơm bằng niêu đất, uống nước bằng chén đất, đất của vua phía nam đến Giao Chỉ, phía bắc đến đất U Đô, phía đông - tây đến chỗ mà Mặt Trời - Mặt Trăng mọc - lặn, chẳng ai không thần phục. Kịp lúc vua Nghiêu truyền ngôi thì người nhà Ngu là Thuấn nhận lấy
Đường Nghiêu về già, thấy các con của mình mải mê tửu sắc nên có ý chọn người khác kế thừa ngôi vị, bèn hỏi Tứ Nhạc, 4 người họ nói rằng thiên hạ bàn tán ca tụng công đức của Diêu Trọng Hoa. Tương truyền, Trọng Hoa người thị tộc Hữu Ngu (有虞, ở lưu vực Phần Thủy cổ tại tây bắc Hà Nam và nam Sơn Tây), con Ốc Đăng (握登) và Cổ Tẩu (瞽叟, nghĩa đen: "lão già mù"). Cổ Tẩu là hậu duệ Đế Huyền, không rõ tên thật là gì, chỉ biết rằng Cổ Tẩu là người đàn ông nhu nhược, nghe lời phỉnh nịnh của vợ lẽ và con thứ để hại con trưởng là Trọng Hoa nên dân gian gọi là lão già mù. Trọng Hoa khi sinh ra được mẹ đặt tên là Đô Quân. Ốc Đăng làm lụng tất bật vất vả nuôi con thơ nên mắc bạo bệnh rồi qua đời sớm. Chưa mãn tang Cổ Tẩu đã vội đi lấy vợ lẽ và "mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng" được người đời chiêm nghiệm thực tế, nhưng mọi thủ đoạn mánh khóe của cha đẻ và mẹ kế cùng em khác mẹ đều được Trọng Hoa vượt qua một cách khéo léo tài tình. Danh tiếng Trọng Hoa được người trong thị tộc nể phục, lan truyền đi xa. Đường Nghiêu khi nghe Tứ Nhạc nói vậy thì biết vậy, chưa vội tin, quyết định thử thách người này. Trước tiên, Đường Nghiêu cấp cho Trọng Hoa kho lương thực rồi gả một lúc 2 cô con gái là Nga Hoàng (娥皇) và Nữ Anh (女英) cho Trọng Hoa, đồng thời tặng cho lương thực và rất nhiều bò dê gia súc (cha Hoa này vớ bở). Kết quả, với sự khéo léo tài tình được rèn luyện từ thơ dại, Trọng Hoa đã khiến Đường Nghiêu tin là không nhìn lầm người nên rất phấn khởi lập tức phong Trọng Hoa làm thủ lĩnh thị tộc Hữu Ngu.

Trọng Hoa cũng có tài nên thị tộc Hữu Ngu ngày càng hùng mạnh, trở thành một trong những trụ cột chính trong liên minh các bộ lạc dưới quyền Đường Nghiêu. Sử chép Trọng Hoa được Đường Nghiêu già yếu truyền ngôi gọi là Ngu Thuấn, vì công tích to lớn nên được gọi là Đại Thuấn (大舜). Đường Nghiêu Thụy hiệu là Đế Nghiêu. Việc Đường Nghiêu truyền ngôi cho Trọng Hoa chứ không truyền ngôi Đan Chu con mình thường được sử sách đời sau xem là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Nhưng theo ghi chép của một cuốn sách quan trọng tên là "Trúc thư kỷ niên" (竹書紀年, "Biên niên sử viết trên thẻ tre") thì Trọng Hoa lợi dụng Đường Nghiêu già yếu lừa bắt rồi giam vào trong ngục, cướp ngôi:
Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua. Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha.
Đan Chu không gặp được cha bất bình khởi binh bị Ngu Thuấn đánh bại, giết chết. Sách "Trúc thư kỷ niên" được phát hiện năm 281 thời Vũ đế (武帝, 236 - 290) nhà Tấn (晉朝, 266 - 420) Tư Mã Viêm (司馬炎, 236 - 290), trong mộ Tương vương (襄王, 318 - 296 TTL) nước Ngụy (魏國, 403 - 225 TTL) Ngụy Tự (魏嗣, ? - 296 TTL) ở huyện Cấp (nay là thị xã Vệ Huy 卫辉, thành phố Tân Hương 新鄉, tỉnh Hà Nam), nhờ vậy thoát được vụ đốt sách chôn nho của Thủy Hoàng đế (始皇帝, 221 - 210 TTL) nhà Tần, Doanh Chính. Cuốn sách này là biên niên sử nước Ngụy thời Chiến Quốc chép từ thời huyền thoại Công Tôn Hiên Viên tới năm 299 TTL, cho thấy một số sự kiện lịch sử khác với những gì chính sử TQ từ sau Tần Thủy Hoàng biên chép. Tiếp nối truyền thống đốt sách chôn nho này, mỗi lần có dịp xân lược nước ta, từ Mã Viện nhà Hán cho tới Trương Phụ nhà Minh, luôn cướp sách vở, phá hủy phương tiện lưu giữ văn hiến, tàn sát hoặc bắt đem trí thức của ta về phương bắc. "Trúc thư kỷ niên" cũng cho thấy hậu quả vụ đốt sách chôn nho như thế nào khi mà chính lịch sử TQ còn bị bóp méo thì lịch sử nước ta qua sách TQ sao mà đúng được!

Sách TQ cũng chép rằng khoảng thời gian đó có thị tộc Đan Chu ở Hoài Hà đã từng liên hợp với một chi của bộ tộc Miêu Man (苗蠻) phía Nam là thị tộc Hoan Đâu (驩兜) chống lại sự xâm lược từ thị tộc Hữu Ngu của Trọng Hoa. Trong Hán ngữ thời thượng cổ, "Miêu" và "Man" đồng âm đồng ý, cho nên "Miêu Man" có thể là "Tam Miêu" hoặc "Nam Man", do vậy tên gọi "Tam Miêu" và "Nam Man" của hậu thế có thể có cùng nguồn gốc. "Chiến Quốc thư" - "Ngụy thư" chép rằng:
khi xưa Tam Miêu sống ở phía trái sóng nước Bành Lễ, phía phải làn nước Động Đình, phía nam của Văn Sơn, phía bắc của Hành Sơn
“Làn nước Động Đình” có khả năng là hồ Động Đình, “sóng nước Bành Lễ” có lẽ là đầm cổ Bành Lễ (彭蠡澤, hay đầm Bành hoặc hồ Quan Đình) ở phía bắc sông Dài, vì theo thiên "Vũ cống" trong Thượng thư" ghi rằng Bành Lễ nằm ở phía bắc sông Dài. Trước thời kỳ nhà Hán, sông Dài chảy lệch nhiều hơn về phía bắc tạo ra đầm cổ Bành Lễ. Cuối thời kỳ Tây Hán, sông Dài đổi dòng chảy về phía nam nhiều hơn làm cho thủy vực của đầm cổ Bành Lễ đại bị phân ly khỏi sông Dài, khô dần đi, biến thành khu vực bao quanh bởi các hồ Long Cảm (龍感湖), hồ Đại Quan (大官湖), hồ Bạc (泊湖) và các hồ xung quanh trong tỉnh An Huy ở phía tây, hồ Nguyên (源湖) trong tỉnh Hồ Bắc ở phía đông, đều ở phía bắc sông Dài ngày nay. “Hành Sơn” có lẽ là Hành Sơn (衡山: "Ngọn núi cân bằng"), Nam Nhạc trong Ngũ Nhạc ở tỉnh Hồ Nam, còn “Văn Sơn” chưa xác định, tuy nhiên dựa vào “Động Đình”, “Bành Lệ”, “Hành Sơn” đủ thấy địa bàn Tam Miêu nằm trong phạm vi các tỉnh An Huy, Giang Tô, miền Bắc tỉnh Hồ Nam tới Hồ Bắc, là trong địa giới Xích Quỷ, càng khẳng định Tam Miêu là một trong Bách Việt.

Vẫn "Chiến Quốc thư" - "Ngụy thư" chép rằng thời kỳ Nghiêu - Thuấn nước lụt tràn ngập, Tam Miêu thừa cơ "nổi loạn" tại Đông Nam, cùng với Hoan Đâu, Cộng Công  (共公) và Cổn gọi chung là "Thiên hạ tứ tội". Đan Chu và Hoan Đâu sau khi thua trận ở Đan Thủy (丹水, chi lưu bên hữu ngạn Hán Thủy) thì bị Ngu Thuấn đày đến bên suối Đan (丹淵) và Sùng Sơn (崇山) rồi di dời về phía nam, cuối cùng đến miền Lĩnh Nam của Xích Quỷ, tại phía đông Uất Thủy (鬱水) - sông Tả (左江) trên địa bàn Quảng Tây, con cháu của họ định cư ở đây mà cúng tế tổ tiên, trở thành bộ phận cổ nhất của Bách Việt từ bờ bắc sông Dài rút về phương Nam. Như vậy càng chứng tỏ sách sử TQ ca tụng về tích Đường Nghiêu truyền ngôi cho Trọng Hoa là ca tụng bậy.

Trọng Hoa lấy được ngôi vị quân chủ liên minh các bộ lạc từ Đường Nghiêu vào khoảng 2258 TTL, được tôn gọi "Thiên tử bộ lạc lãnh tụ" (天子部落领袖, gốc gác của danh xưng "Thiên tử" đời nhà Chu) đặt thủ đô của liên minh tại Bồ Phản (蒲阪, Sơn Tây). Đến lúc ấy Cổn đã đắp đê ròng rã suốt 9 năm, hao tổn hao nhiều sức người và của cải nhưng không chặn nổi dòng nước, đã vậy khi nước vỡ bờ lại tràn ra ngày một to hơn lúc trước. Ngu Thuấn liền hạch tội Cổn trị thủy bất thành, xử tử trên Vũ Sơn để làm gương cho thiên hạ. Cùng thời, Cơ Khí sống ở ven Vị Hà, tương truyền giỏi trồng cây vừng, các loại đậu và đay nên được Ngu Thuấn đặt hiệu Hậu Tắc, phong cho đất Thai (邰, miền tây huyện Vũ Công 武功, thành phố Hàm Dương 咸阳, tỉnh Thiểm Tây), thị tộc Chu khởi nghiệp từ đấy.

Ngu Thuấn chia lãnh thổ ra làm 12 vùng (十二州, thập nhị châu hay thần châu xích huyện 赤縣神州), dựa theo 12 ngọn đồi và lưu vực sông để xây dựng đền thờ một cách quy mô. Phạm vi 12 vùng bao gồm "Ngũ nhạc, Ngũ trấn, Tứ độc" (năm núi cao, năm thành và bốn sông), hướng Đông về phía Đông Hải, tới Liêu Đông (遼東; khu vực ở phía đông Liêu Hà [遼河, sông lớn ở miền nam Mãn Châu {滿洲; Mông Cổ: Манж}, địa danh ở Đông Bắc Á bao gồm vùng Đông Bắc Trung Quốc và một phần ở Viễn Đông của Nga, địa bàn của các vương quốc cổ như Cổ Triều Tiên {고조선: Gojoseon; 古朝鮮, 2333 - 108 TTL}, Phù Dư, Cao Câu Ly, Bách Tế (백제: Baekje / Paekche; 百濟, 698 - 926), Liêu, Kim, và nơi xuất thân của nhà Thanh nay thuộc vùng phía đông và phía nam tỉnh Liêu Ninh [遼寧, tên gọi tắt là Liêu 辽, theo tên dòng Liêu Hà chảy qua tỉnh, Liêu Ninh có nghĩa là "Liêu Hà vĩnh viễn an ninh" {mãi yên bình}] cùng khu vực phía đông nam của tỉnh Cát Lâm [吉林, bắt nguồn từ cụm từ "Girin ula", tiếng Mãn có nghĩa là "ven sông", chuyển âm thành Cát Lâm Ô Lạp {吉林乌拉 / 吉林烏拉, Jílín Wūlā}, rồi rút ngắn thành Cát Lâm, nghĩa đen là "rừng tốt lành"). Ở phía Bắc, sa mạc Gobi và dãy Yên Sơn (燕山, dãy núi ở phía bắc tỉnh Hà Bắc chạy theo hướng đông - tây) được coi là biên giới giữa tộc Hoa Hạ và vùng du mục vùng thảo nguyên. Phía Tây giáp Ngọc Môn quan và Hoàng Thủy (黃水, chi lưu của Hoàng Hà) về phía đông của hồ Thanh Hải (青海湖; Mãn: Huhu Noor, "hồ xanh", hồ nước mặn không có hệ thống thoát nước ra ngoài lớn thứ hai thế giới, lớn nhất TQ). Tộc Hoa Hạ xếp hồ Thanh Hải là Tây Hải trong Tứ Hải 四海, bốn vùng nước phản ánh khao khát mở rộng lãnh thổ của tộc Hoa Hạ vì các vùng đất xung quanh hồ Thanh Hải cho đến gần đây vẫn do các bộ tộc du mục (như người Hung Nô) kiểm soát, nằm ngoài sự cai trị của các triều đình phong kiến TQ. Văn thơ TQ xưa vẫn hay dùng cụm từ "giữa bốn biển (四海之內, tứ hải chi nội) để chỉ TQ, hay "tứ hải giai huynh đệ". Ba vùng nước còn lại là Bắc Hải tức hồ Bai-can (Mông Cổ: Байгал нуур, Baygal nuur: "hồ tự nhiên"; Nga: о́зеро Байка́л; Buryat: Байгал нуур; Kyrgyz: Байкол; ở phía nam Siberi, giữa tỉnh Irkutsk ở phía tây bắc và Cộng hòa Buryatia ở phía đông nam, trong lãnh thổ Liên bang Nga), Đông Hải (của Xích Quỷ) tức biển Hoa Đông và Nam Hải tức Biển Đông của VN. Tại phía Tây Nam 12 vùng vẫn giáp Ba - Thục. Ở phía Nam, Đông Nam 12 vùng lấn chiếm xuống đến bờ sông Dài của Xích Quỷ. Tên gọi "Nam Hạ", "Tây Hạ" chỉ các vùng đất phía Nam và Tây của 12 vùng. Như vậy từ thời Đế Hoàng đến Ngu Thuấn lãnh thổ Hoa Hạ đã mở rộng đáng kể.

Việc chuyển tiếp quyền lực từ Ngũ Đế sang Tam Đại ra sao? Con số chín được Hoa Hạ tiếp nhận thế nào là nội dung bài tiếp theo.

¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong các bài trước và:
¤ Viện Bảo tàng Lịch sử:
- Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, Viện Bảo tàng Lịch sử, 1975

¤ Khảo cổ:
- Văn hoá đồ đồng và trống đồng Lạc Việt, Đào Duy Anh, Hà Nội, 1957

¤ Lịch sử:
- Về chủ nghĩa bành trướng Đại Hán trong lịch sử, Nguyễn Anh Dũng, Nxb. Thông tin Lý luận, 1982
- Sử ký Tư Mã Thiên những điều chưa biết - Hạ bản kỷ, Bùi Hạnh Cẩn - Việt Anh dịch, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005

 ¤ Văn hóa: - Văn hóa Trung Hoa, Sử Trọng Văn - Trần Kiều Sinh , Nxb. Truyền bá Ngũ Châu và Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2011

¤ Tạp chí:
+ Tạp chí Khảo cổ học, Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Khảo cổ họcxuất bản:
• Số 1 & 2, 1992:
- Những hiện vật đồng đỏ trong văn hóa Đông Sơn, Trịnh Sinh
• Số 4, 1997:
- Nhận dạng trống giả cổ, Trịnh Sinh
• Số 3, 2010:
- Di tích văn hoá Đông Sơn và quá trình chinh phục vùng đồng bằng trũng ở Hà Nội, Lê Kim Tước - Trịnh Sinh
- Vài nhận xét về những chiếc trống đồng Đông Sơn ở Hà Nội, Trịnh Sinh - Vũ Thuý Hạnh

+ Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội:
• Số 141, 1971
- Tìm hiểu một số hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ, Nguyễn Ngọc Chương

¤ Khảo cổ học Việt Nam (3 tập):
• Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại Đá Việt Nam, 1998
• Trống đồng Đông Sơn, Văn hóa Đông Sơn


25 tháng 5 2019

Từ Trang An Biên đến Kẻ Chợ: Nước Xích Quỷ và con số chín

Tiếp tục về địa giới nước Xích Quỷ và nói chuyện con số chín trong văn hiến Việt.

Về sông Dài, như đã nói trong "Ngày xửa ngày xưa", là con sông Cái, sông Mẹ của người Việt cổ, đoạn hạ lưu có một hồ lớn, nông kích thước thay đổi theo mùa đóng vai trò là hồ điều hòa của sông Dài, gọi là hồ Động Đình, nằm giữa hai tỉnh được đặt tên căn cứ theo vị trí hồ: Hồ Nam và Hồ Bắc (湖北, "phía bắc hồ", tên gọi tắt chính thức là Ngạc [鄂, lấy theo tên nước Ngạc {鄂國, ~1200 - 863 TTL} chư hầu của nhà Thương, nay là thành phố Ngạc Châu 鄂州市 ở phía đông của tỉnh], tên gọi tắt không chính thức là Sở [楚 theo tên nước Sở {楚國, còn gọi là nước Kinh 荆國 hay Kinh Sở 荆楚; Phạn: श्रीक्रुंग / Srikrung, 1030 - 223 TTL}]). Chính xác thì hồ Động Đình nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam. Cư dân ban đầu ở khu vực Ngạc Châu vốn là người Việt cổ, đã canh tác lúa nước trên quy mô rộng tạo nên nền Văn hóa Đại Khê (大溪文化, 4500 - 3000 TTL) trải dài từ miền tây Hồ Bắc đến miền đông Tứ Xuyên và đồng bằng sông Châu (珠江, con sông dài thứ ba TQ, chảy qua Lưỡng Quảng, Vân Nam 雲南, Quý Châu 貴州, một phần các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây [江西, "phía tây Giang Nam"]), di chỉ Văn hóa Đại Khê có dấu tích về hào và tường thành quanh khu định cư, niên đại sớm nhất Viễn Đông.

Về Ba Thục, như đã nói trong "Ngày xửa ngày xưa", là hai nước Ba và Thục (hay Cổ Thục 古蜀國, Thục Sơn 蜀山國). Nước Ba khởi thủy là một liên minh lỏng lẻo hoặc là một tập hợp các tù trưởng, bao gồm một số thị tộc của người Ba độc lập cùng công nhận một vị quân chủ, theo huyền sử TQ, là Hàm Điểu con thứ Bào Hy, hình thành quốc gia liên minh bộ lạc cùng thời với Xích Quỷ và Cổ Thục. Trong “Sơn Hải kinh” có ghi:
Tây Nam có Ba quốc, Thái Hạo sinh Hàm Điểu, Hàm Điểu sinh Thừa Ly, Thừa Ly sinh Hậu Chiếu, Hậu Chiếu thị thủy vi Ba nhân (Hậu Chiếu được xem là thủy tổ của người Ba)
cho rằng Bào Hy là tổ tiên xa xôi của người Ba và nguồn gốc nước Ba là từ phía tây Hồ Bắc ở các khu vực tại vùng trung lưu lưu vực sông Hán (漢江, còn gọi là Hán Thủy 漢水, sông nhánh dài nhất của sông Dài, bên tả ngạn), đến đời Hậu Chiếu mới di cư đến khu vực miền Đông Tứ Xuyên, sau này là Ba quận. Các thị tộc người Ba rất đa dạng, bao gồm nhiều sắc tộc. Nước Thục cũng khai quốc từ thời kỳ Tam Hoàng tại đồng bằng Thành Đô (成都), do thị tộc Thục Sơn (蜀山氏, bộ lạc Nhiễm) làm quân chủ. Dân cư chủ yếu ở Thục là người Khương (羌族, sách cổ TQ gọi là Tây Khương 西羌, Tây Nhung [西戎, "giống man di mọi rợ phía Tây", thuật ngữ miệt thị của tộc Hoa Hạ, chữ "Nhung" 戎 trong chữ Hán cổ vốn có bộ thủ "khuyển" 犭nay đã lược bỏ], Khương Nhung 羌戎 - rợ Khương), số ít Việt cổ, và tiền thân Hoa Hạ.

Như vậy, lãnh thổ Xích Quỷ trải từ Đồng bằng sông Dài (長江三角洲: "Trường giang Tam giác châu", tạo thành từ trầm tích của sông Dài) qua Cao nguyên Vân - Quý (雲貴高原: Vân Quý cao nguyên) Đồng bằng sông Châu (珠江流域, "Châu giang Tam giác châu" hay Đồng bằng sông Việt [tức "sông Quảng Đông"], 粵江三角洲: "Việt giang Tam giác châu", tạo thành từ trầm tích của sông Châu) đến Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Mã với địa hình đồi núi sông ngòi đầm lầy xem kẽ. Thời bấy giờ khí hậu Hoa Nam vẫn còn là khí hậu nhiệt đới gió mùa, cư dân Xích Quỷ là hậu duệ những người Hòa Bình (Hoabinhiens, 17 - 7 NN) ăn ốc sò điệp, đánh bắt cá, săn thú nhỏ, hái lượm củ quả đã thuần hóa lúa nước, các loại khoai, thuần hóa trâu, chó, lợn, gà, gác tre gỗ làm nhà sàn để ở, điều kiện thiên nhiên thuận lợi tạo cho cư dân bản tính thuần hậu, chất phác.

Trong đó Đồng bằng sông Dài, Cao nguyên Vân - Quý, Đồng bằng sông Châu quen gọi là Hoa Nam (華南: miền Nam 南 Trung Hoa). Đường đẳng nhiệt 0 độ trong tháng 1 và đường đẳng giáng thủy 800 mm tại TQ tạo thành một đường gần trùng với Hoài Hà - rặng Tần Lĩnh được coi như là đường phân chia tự nhiên giữa Hoa Nam và Hoa Bắc (華北: miền Bắc 北 Trung Hoa, địa bàn phát tích của tộc Hoa Hạ, ven Hoàng Hà. Hoài Hà (淮河, hay Hoài Thủy 淮水) là con sông lớn thứ ba ở TQ, bắt nguồn từ Đồng Bách Sơn tỉnh Hà Nam, chảy qua miền nam tỉnh Hà Nam, miền bắc các tỉnh An Huy (安徽, tên gọi tắt là Hoàn 皖) và Giang Tô (江蘇, tên gọi tắt là Tô 苏, theo tên Cô Tô 姑苏, nay là Tô Châu 蘇州, cái nôi của văn hóa Ngô [吴, Câu Ngô 句吴, hay Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴, 攻吾…]) đổ vào sông Dài tại khu vực Tam Giang Doanh (thuộc thị xã Giang Đô 江都 thành phố Dương Châu tỉnh Giang Tô). Rặng Tần Lĩnh (秦嶺) là dãy núi chính chạy theo hướng đông - tây ở phía nam tỉnh Thiểm Tây (陝西, tên gọi tắt là Thiểm 陝 hoặc Tần 晋, theo tên nước Tần [晉國, 900 - 221 TTL]). Thiểm Tây cũng được gọi là Tam Tần (三秦, ba trong số 18 nước 十八国 hình thành từ các bộ phận của đế quốc Tần sau sự sụp đổ của nhà Tần), gồm Ung (雍, trung tâm Thiểm Tây và phía đông Cam Túc [甘肅, ghép tên hai châu 州 Cam, Túc thời Hán, tên gọi tắt là Cam hay Lũng 陇 / 隴, cũng còn gọi theo tên cũ là Lũng Tây hay Lũng Hữu vì có núi Lũng ở phía đông Cam Túc]; Tắc [塞, phía đông bắc Cam Túc] và Địch [翟, phía bắc Cam Túc].

Khu vực Tam Tần nằm ở khu vực trung tâm của đế chế Tần, còn gọi là Quan Trung (關中, tức Bình nguyên Quan Trung 關中平原 hay Bình nguyên Vị Hà 渭河平原, tương ứng với thung lũng hạ du Vị Hà 渭河, chi lưu lớn nhất của Hoàng Hà), gọi là "Quan Trung" để phân biệt với "Quan Đông", tức Bình nguyên Hoàng thổ (華北平原, tức Bình nguyên Hoa Bắc 華北平原, đồng bằng phù sa lớn nhất Đông Á tạo thành từ trầm tích của đất vàng Hoàng Hà). Trầm tích đất vàng của Hoàng Hà tạo thành Cao nguyên Hoàng Thổ (黃土高原, tại thượng và trung lưu Hoàng Hà), đất tơi xốp như bụi bay, nổi tiếng là trồng cao lương và Bình nguyên Hoàng Thổ tại trung và hạ lưu Hoàng Hà, một trong các vùng nông nghiệp quan trọng nhất của TQ với các loại cây trồng như ngô, lúa miến, lúa mì vụ đông, rau, và bông.

Cao nguyên Hoàng Thổ chiếm phần lớn các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây cũng như nhiều phần của Cam Túc, Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ (寧夏回族自治區) và Khu tự trị Nội Mông Cổ (Övör Mongolyn Öörtöö Zasakh Oron / 内蒙古自治区). Cư dân ở đây sống trong các diêu động (窰洞, tạo nên bằng cách đục khoét vào lớp đất hoàng thổ, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè). Bình nguyên Hoàng Thổ trải rộng trên phần lớn các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Đông, cư dân sống trong căn lều tạo nên bằng cách đào xuống đất hoàng thổ đầm kỹ, bên trên gác cây que lợp da thú tạo thành mái. Sau này khi đã có rơm rạ từ lúa kê, lúa miến thì trộn bùn rơm mà đắp mái. Thủ đô Bắc Kinh (北京, "Kinh đô phía Bắc", tên gọi tắt Kinh 京) nằm ở rìa đông bắc của bình nguyên, Thiên Tân (天津, thành phố công nghiệp và cảng biển quan trọng) nằm ở bờ biển phía đông bắc bình nguyên.

Địa lý của vùng Bình nguyên Hoàng Thổ có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và chính trị TQ. Không giống như các khu vực ở Hoa Nam, Bình nguyên Hoàng Thổ không bị chia cắt nhiều bởi các dãy núi, lại có khá ít sông, do vậy việc thông tin liên lạc khá nhanh chóng dẫn đến, ngôn ngữ tương đối đồng nhất, tương phản với tình trạng có nhiều ngôn ngữ hay phương ngữ ở Hoa Nam nên trung tâm chính trị của TQ thường được đặt ở đây. Do đất đai màu mỡ của vùng Bình nguyên Hoàng Thổ tiếp đến Cao nguyên Hoàng Thổ dần dần chuyển sang vùng thảo nguyên và sa mạc ở Trung Á mà không có ranh giới tự nhiên giữa các vùng, nên Bình nguyên Hoàng Thổ dễ dàng bị xâm nhập từ Trung Á, Bắc Á và Mãn Châu, điều này đã thúc đẩy việc xây dựng thành quách để chống xâm nhập mà Vạn Lý Trường Thành (萬里長城: "Thành dài vạn lý", gọi tắt là Trường Thành) là tiêu biểu.

Mặc dù đất đai của Bình nguyên Hoàng Thổ màu mỡ song là nơi giao nhau của luồng khí ẩm từ Thái Bình Dương và luồng khí khô từ vùng nội địa châu Á khiến dễ bị lũ lụt cũng như hạn hán, lại khó tiên định khí hậu. Hơn nữa, sự bằng phẳng khiến nó phải hứng chịu các trận lụt lớn khi các công trình thủy lợi bị hư hỏng cũng như dễ dàng triển khai nhiều quân lính để xâm lược hoặc chống xâm lược. Tình trạng lụt lội của Hoàng Hà tồi tệ hơn rất nhiều so với khu vực dọc sông Dài về hướng nam. Cư dân sống gần Hoàng Hà phải chống chịu với thiên nhiên khắc nghiệt hơn để chế ngự lũ lụt và tưới tắm mùa màng.

Ở bất kỳ mức độ nào, Bình nguyên Hoàng Thổ là vùng lớn nhất với số dân cư tập trung đông đảo nhất. Ở những nơi con người sản xuất ra được nhiều lương thực hơn nhu cầu của họ, các chiến binh đã được thúc đẩy phát triển, không chỉ chống lại các bộ lạc du mục từ thảo nguyên mà còn để đi cướp đoạt tài sản, chinh phục đất đai các bộ lạc xung quanh. Do đó các vị thủ lĩnh chinh phục bắt đầu nổi lên ở Bình nguyên Hoàng Thổ cũng như tình trạng ở phía tây châu Á. Những điều này đã kích thích một nỗ lực tổ chức tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển của một nhà nước tập trung hóa nhằm quản lý các kho lương thảo, bảo trì các công trình thủy lợi và chống lại cũng như tiến hành các cuộc chinh phạt.

Trở lại với Vua Kinh Dương, Mẫu (Mẹ) Thoải (母水, chữ "thoải" là đọc chệch từ chữ "thủy", vị nữ thần dân gian chịu trách nhiệm quản lý các miền sông nước, tức Thủy cung Thánh Mẫu 水宮聖母 còn gọi là Mẫu Đệ Tam) trong một lần du ngoạn biển Đông đã bắt gặp một con rắn có bốn chân và một cặp sừng trên đầu. Thích thú trước hình dạng lạ kì của nó, bà liền thu phục và biến nó thành thú cưỡi của mình, đặt tên là Thần Long. Sau này Thần Long lập được nhiều công lớn, được đích thân Ông Giời cho hóa thành hình người, phong làm Động Đình Quân, cho ở hồ Động Đình phụ giúp Mẫu Thoải cai quản sông hồ đầm phá. Người Việt cổ đã sử dụng thần thoại Thần Trụ Giời để giải thích về nguồn gốc  thế giới cũng như khái niệm Ông Giời:
Thuở ấy, chưa có thế gian, chưa có muôn vật. Giời đất chỉ là một vùng hỗn độn, tối tăm. Bỗng một vị thần khổng lồ xuất hiện. Thần dùng đầu đội giời lên cao. Rồi thần đắp đất đá thành một cái cột để chống giời. Cột càng được đắp lên cao bao nhiêu thì bầu giời càng cao rộng ra bấy nhiêu. Thần hì hục đào đắp để nâng vòm giời lên mãi lên mãi...
Từ đó, giời đất mới phân đôi. Đất phẳng như cái mâm vuông, giời tròn như chiếc bát úp (gốc của thuyết "Thiên viên địa phương" 天圜墬方: "trời tròn đất vuông", nói sau). Nơi giời đất giáp nhau gọi là chân giời. Khi giời đất đã ổn định, rạch ròi, thần phá đi cái cột, hất tung đất đá khắp nơi. Vì thế, cột trụ giời bây giờ không còn nữa, nhưng vết tích của cột vẫn còn ở núi Yên Phụ (Kim Môn, Hải Dương, Yên Phụ là núi cha, Yên Tử là núi con).
Còn những nơi đất đá văng đến, thì thành núi đồi, gò đống; những chỗ bị đào thì thành biển sâu hồ rộng. Rồi những thần khác xuất hiện nối tiếp công việc xây dựng nên cõi thế gian này. Các vị thần đó rất nhiều, như thần Sao, thần Sông, thần Núi, thần Biển... Dân gian đã ghi công của các vị thần này trong câu hát được lưu truyền từ đời này sang đời khác: 
Ông đếm cát, Ông tát bể, Ông kể sao, Ông đào sông, Ông trồng cây, Ông xây ru (núi rừng), Ông trụ giời, Ông cời cua, Ông lùa chim, Ông tìm sâu, Ông xâu cá ... Ông ... Ông (nhiều lắm)
Ông Giời là vị Vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu giời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ, đứng đầu tất cả các Thần, Tiên, Thánh, Nhân, có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ông Giời có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ông Giời cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên và thánh nhân. Dân gian Việt Nam có rất nhiều bài thơ có chữ giời. Thường nhất là những câu mà giời dùng để chỉ toàn bộ cảnh vật thiên nhiên tồn tại quanh con người, trước hết là không gian và cảnh vật trên không. Bên cạnh đó giời như một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng quyền uy quyết định tất cả. Giời còn làm ra vạn vật, thậm chí cả cái sướng khổ của con người. Trong ca dao Việt có nhiều câu nhắc đến đạo giời, vì là đạo nên đạo giời cũng có vị trí, giá trị trong tâm linh người Việt như những đạo khác nên Giời và Bụt (Phật) thường được đặt gần nhau, được xem như những đấng thiêng liêng như nhau, những đạo giống nhau.

Trong đạo Mẫu, Ông Giời được gọi là Vua cha, là cha của Lâm Cung Thánh Mẫu  (林宮聖母, Công chúa Thượng Ngàn, Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Thượng Ngàn, hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Liễu Hạnh Công chúa 柳杏公主, một trong bốn vị Thánh quan trọng nhất [tứ bất tử] của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt, Bà được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn Gia Long cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", dân gian gọi là Bà Chúa Liễu), là đấng thần chủ tối cao, ở và làm việc tại một cung điện trên giời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác. Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ông Giời thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ.

Truyện dân gian kể con cóc lên cầu Ông Giời làm mưa. Ông Giời nhận lời rằng mỗi khi cóc gọi làm mưa xuống trần gian, giải thích một hiện tượng thiên nhiên là sau khi cóc nghiến răng thì trời mưa, cao sự đoàn kết, chính nghĩa và cũng khuyên người ta nên bảo vệ cóc là loài động vật tuy xấu xí nhưng có ích:
Con cóc là cậu ông trời,
Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho
Câu chuyện nổi tiếng khác là "Ông Giời và người học trò nghèo" ca ngợi quyền năng và sự công bằng của Ông Giời. Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên nhận xét:
Ông Giời đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng. Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người, vua của các vua. Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất. Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt
Khi Ông Giời đi sang Hoa Kỳ, (á lộn, bàn phím BlackBerry nó cứ thấy "Hoa" thì móc thêm "Kỳ"), Hoa Hạ, được vẽ vời muôn hình vạn trạng, lại vốn người trần, tên Trương Hữu Nhân, trang chủ Trương Gia Loan, quận Thông Châu, Thủ đô Bắc Kinh. Vì có tính khiêm nhường và kiên nhẫn, được gọi là Trương Bách Nhẫn, do hay giúp đỡ người khác, tu luyện thành tiên nên được gọi là Đại Quý Nhân, còn có những danh xưng Đế Tể, Thượng Đế, Thiên Đế, hoàn toàn chỉ là một vị quân chủ cai quản cõi tiên giới, không có quyền năng sáng thế, sống trong cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc. Đế Tể có một vợ họ Vương, tức Tây Vương Mẫu (西王母) và bảy cô con gái (七女 / Tua Rua / Pleiades, nói sau). Thuyết khác, nói vợ của Trương Hữu Nhân có hiệu là Thiên Hậu, có chín (lại chín) con trai. Ban đầu, theo bản chất tộc du mục, Tây Vương Mẫu có diện mạo là một vị nữ thần già hung dữ ngự trị ở phía Tây, chuyên gây tai vạ không khác gì một quái vật, được đề cập lần đầu tiên trong chữ giáp cốt thời nhà Thương, gọi là Tây mẫu (西母). Sách "Sơn hải kinh" (山海经, thời nhà Chu [周朝, 1046 - 249 TTL]), mô tả Tây mẫu là một nữ thần nửa người nửa thú, hình thù kỳ quái đuôi báo, răng hổ, tính khí dữ tợn, thường gây bệnh dịch, gọi là Yêu mẫu (妖母):
《山海经·大漠西经》:“西海之南,流沙之滨,赤水之后,黑水之前,有大山,名曰昆仑之丘。有神人面虎身,有文有尾,皆白,处之。其下有弱水之渊环之,其外有炎火之山,投物辄燃。有人戴胜,虎齿,有豹尾,穴处,名曰西王母。《Sơn Hải kinh - Đại Mạc Tây kinh》: "Phía nam Tây hải, bên cạnh bãi lưu sa, đằng sau xích thủy, phía trước hắc thủy, có một ngọn núi lớn. Có thần nhân mình hổ, có vằn và đuôi, tất cả đều trắng, ngự tại núi ấy. Bên dưới có một vực xoáy sâu, bên ngoài lại có một ngọn núi rực lửa, có một người đeo đầu chim đái thắng, răng hổ, đuôi báo, ở trong hang, gọi là Tây Vương Mẫu."
《山海经·西山经》:“赢母之山又西三百五十里,曰玉山,是西王母所居也。西王母其状如人,豹尾虎齿而善啸,蓬发戴胜,是司天之厉及五残。《Sơn Hải kinh - Tây Sơn kinh》: "Doanh mẫu chi sơn cách phía tây 350 dặm, gọi là Ngọc Sơn, tương truyền là nơi ở của Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu kì trạng như người, nhưng có đuôi báo, răng hổ, có đeo trăng sức trên bồng tóc. Bà có tính nghiêm khắc và tàn ác."
璞注:主知灾厉五刑残杀之气也。Quách Phác chú: "Chủ quản nghiêm trang trên trời và năm hình phạt tàn hại"
《山海经·海内北经》:“西王母梯几而戴胜。有三青鸟为取食。《Sơn Hải kinh - Hải Nội Bắc kinh》: "Tây Vương Mẫu lấy đầu chim đái thắng cài lên tóc, ăn Tam Thanh điểu để sống"
Khi Tên đạo ra đời Đế Tể mới có những tước vị tôn xưng cho vị quân chủ tối cao của bầu trời, là chủ của vạn vật trong quan niệm tín ngưỡng Tiên giáo, tức là Ngọc Hoàng Thượng đế (玉皇上帝 hay Ngọc Hoàng Đại đế 玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇 hay Ngọc Đế 玉帝). Trong Tiên giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh (三清), do Nguyên Thuỷ Thiên tôn (元始天尊, "Thiên tôn" được hiểu như là cách cung chúc đối với vị tối cao, tương tự tung xưng "vạn tuế" trong "Hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế") chỉ định làm quân chủ thiên đình, ngự trên tòa điện ở trên mây mà cai quản chúng thần thánh của Tam giới. Đến thời nhà Tống, tôn hiệu đầy đủ của Ngọc Hoàng là Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng đế (昊天玉皇上帝). Trong tiểu thuyết "Tây du ký" (西遊記) Ngọc Hoàng được mô tả như một vị quân chủ nhân từ nhưng không có tài năng, không có chính kiến, chỉ biết trông chờ sự giúp đỡ của các thần tiên khác. Chính vì vậy mà Tôn Ngộ Không (孫悟空) đòi phế bỏ Ngọc Hoàng để mình lên thay. Tiên đạo cũng dần biến Tây Vương Mẫu thành một nữ thần hiền từ, trở thành một trong những nữ thần tối cao và tiêu biểu, thông thường được hình dung là một bà già hiền lành, sống ở tại núi Côn Lôn thuộc phía Tây, trong vườn trồng bàn đào là giống đào tiên, ăn vào trẻ mãi không già. Hình tượng về Tây Vương Mẫu nổi lên trong thế kỉ II khi hình thành "Con đường tơ lụa" (絲綢之路, hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu). Rồi Ông Giời quay về Việt với những danh xưng Hoa Hạ đó và tín ngưỡng tín ngưỡng bản địa thờ Mẫu cũng chịu những ảnh hưởng ngoại lai từ Tiên giáo.

Trong truyền thuyết hiếm của người Choang (hậu duệ Âu Việt, một trong hai chủng Việt cổ lớn trong Bách Việt, tạo thành Âu Lạc) có một vị thần cai quản bầu trời tên là bố Lạc Đà (駱駝: LuoTuo, đọc giống như Lộc Tục) vốn là chim thần sống trên trời. Sải cánh của bố Lạc Đà đủ che lấp toàn bộ mặt đất, mỗi lần bố Lạc Đà đập cánh là giông bão lại nổi lên. Bằng đôi cánh của mình, bố Lạc Đà đã kéo bầu trời bay lên cao tách khỏi mặt đất, nhờ thế vạn vật mới có thể sinh trưởng được. Vì lẽ đó ngày tận thế chính là ngày mà "Trời Sập". Hình con chim Lạc trên Trống Đồng của người Việt chính là biểu tượng của bố Lạc Đà, có lẽ những hậu duệ Bách Việt từ Giang Nam không chịu bị Hoa Hạ đồng hóa lùi dần về Lĩnh Nam rồi Văn Lang - Đại Việt, sau này trở thành các quý tộc trong thời đại Lý - Trần đã mang theo và dùng hình ảnh của bố Lạc Đà để đặt tên cho giai đoạn huyền sử của mình là Hồng Bàng (Hồng chỉ loài chim trong bộ Hạc [Ciconiiformes, gồm những loài chim lội nước lớn có cổ cao, chân dài], còn lại trong câu nói truyền đến ngày nay: "chim Hồng chim Hộc"), Bàng cũng mang nghĩa là chim) cũng như tên gọi "Lạc" trong Lạc Việt, Lạc Long Quân.

Bố Lạc Đà có vợ là mẹ Hoa, sinh tám người con trai và một người con gái (lại chín), đều là thần Mặt Trời. Nhưng bảy người con trai đã bị nữ thần Đà Giang dùng cung tên bắn chết, người con trai cuối cùng nhờ bôi tro lên mặt trở thành Mặt Trăng nên mới được tha chết, để rồi chỉ còn lại một nữ thần Mặt Trời của thế gian. Bố Lạc Đà cũng có quan hệ với Vua Kinh Dương. Nguyên Thần Long Động Đình Quân có một người con gái xinh đẹp tên là Long Nữ. Vua Kinh Dương có tài đi dưới Thủy phủ, gặp được Long Nữ, được Động Đình Quân gả con gái cho làm vợ, hai người đã sinh ra tám người con. Một lần bố Lạc Đà đến thăm Vua Kinh Dương và tặng quà cho những đứa con trai của Vua Kinh Dương. Con trai cả nhận được quả trứng tiên, ở bên trong chính là con gái của bố Lạc Đà. Chim thần không quên dặn rằng khi quả trứng nở ra thì người đầu tiên mà con gái ông nhìn thấy sẽ chính là chồng của cô. Sau đó bố Lạc Đà chia tay mọi người ra về, nào ngờ đúng lúc đó đứa con trai út Sùng Lãm (崇纜) của Vua Kinh Dương ra đời (năm 2825 TTL, cả thảy chín người con, lại chín), vì chỉ chuẩn bị tám món quà nên bố Lạc Đà không còn cách nào khác bèn lấy tên của mình đặt cho Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân.

Khi Lạc Long Quân trưởng thành, Vua Kinh Dương chia nước Xích Quỷ thành chín (cũng chín) phần đem giao cho chín người con cai quản, dự định chọn ra người giỏi nhất làm Vua đời tiếp theo, người con cả cai quản một phần, lấy hiệu Âu Long Quân. Lạc Long Quân được giao cai quản vùng phía Nam. Theo sách ta cũng như sách TQ mà ta chép, Lạc Long Quân lên ngôi năm 2792 TTL, mốc thời gian này như đã nói trong "Thời đại Hồng Bàng", được “Sử lược” xác định là thời điểm các Vua Hùng lập nước Văn Lang, trong những bài sau sẽ đề cập việc khoa học xác minh thế nào về mốc thời gian này.

Tong một lần đi săn Vua Kinh Dương bị hổ cắn chết, các con không ai nhường ai đều xưng là Vua Kinh Dương, cho mình là người xứng đáng thừa kế ngôi báu của cha. Nước Xích Quỷ từ đó bị chia thành chín nước nhỏ không bao giờ hợp nhất lại được nữa. Từ chín nước nhỏ lại tiếp tục bị chia cắt nhiều hơn tạo thành các nước nhỏ hơn nữa tạo thành Bách Việt. Chỉ có Lạc Long Quân không tham gia tranh giành, lặng lẽ lui về sống ở vùng đất được cha giao cai quản, diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh, dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Về phần Âu Long Quân, dù chiến tranh loạn lạc liên miên nhưng vẫn không quên lời dặn của bố Lạc Đà, luôn mang theo quả trứng bên mình mọi lúc mọi nơi không bao giờ rời xa dù chỉ nửa bước và đặt tên nó là Âu Cơ. Âu Long Quân một lần kéo quân đến quấy nhiễu  vùng đất của Lạc Long Quân bị đánh bại, trên đường tháo chạy thì quả trứng rơi xuống đất vỡ nát, để lộ bên trong là một người con gái tí hon. Và rồi người đầu tiên cô gái thấy chính là Lạc Long Quân. Âu Long Quân đau lòng vì bại trận và mất đi người mình yêu quý nên mất sớm, vùng đất Âu Long Quân cai quản cũng rơi vào hỗn loạn. Âu Cơ quả nhiên càng lớn càng xinh đẹp, nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật thường xuyên theo Lạc Long Quân đi tứ phương chữa bệnh giúp người. Về sau Lạc Long Quân và Âu Cơ trở thành vợ chồng.

Theo sách ta và TQ thì là Âu Cơ khác. Trên Hoàng Hà khi đó là thời kỳ cai trị của Đế Lai (帝哀, hoặc Đế Ai, con Đế Nghi tức là anh em con chú con bác với Lạc Long Quân), Âu Cơ là con (có thuyết chép là thiếp) Đế Lai. Lúc bấy giờ Đế Lai có quần thần là Chiyou ("Trí Zờ" có nghĩa là "ông - cha", tước hiệu tương đương và quyền lực không ít hơn hoàng đế, trong tiếng Hán là Xi Vưu hay Xuy Vưu, 蚩尤: "chiến tranh") thủ lĩnh bộ lạc Cửu Di (九夷, lại chín, tượng hình hiện đại của chữ "Di" 夷 là chữ "đại" 大 "lớn" và bộ "cung" 弓 hợp lại, ý chỉ cung tên do người Cửu Di phát minh sớm nhất, có tài bắn tên cho nên mới nói Đông Di [東夷, "giống man di mọi rợ phía Đông", thuật ngữ miệt thị của tộc Hoa Hạ chỉ các bộ lạc ở phía Đông Bắc Trung Nguyên cổ đại, Đông Di là hậu duệ Cửu Di sau này phiêu tán ra phía Đông] là những người bắn tên ở miền Đông. Nhưng nguyên thủy "Di" trong chữ giáp cốt và kế thừa là chữ được khắc hoặc đúc trên đồ đồng thực tế gồm bộ "thi" 尸 hoặc bộ "nhân" 人, không có bộ "cung", thể hiện một người cong lưng đứng trên hai chân. Chữ "Di" bộ "cung" có thể là từ thời Hán thêm bớt mà thành, do người Cửu Di còn ở lục địa đã dung hợp với người Hoa Hạ từ thời Tần - Hán).

Cửu Di có nguồn gốc từ đâu không rõ, có khả năng từng thần thuộc Đế Xích hoặc từng gia nhập vào liên minh bộ lạc mà Đế Xích làm thủ lĩnh, nhưng có thể biết chắc rằng khi đó đã hùng mạnh dưới sự thống lĩnh của thủ lĩnh cuối cùng, Chiyou, người đã đổi tên bộ lạc thành Cửu Lê (九黎, vẫn chín). Cửu Lê được cho là có quyền lực đối với chín (lại chín) bộ tộc và (chín lần chín) 81 thị tộc, địa bàn cư trú ở đâu đó tại trung lưu Hoàng Hà, một trong các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc; Hồ Nam và Giang Tô. Người Cửu Lê chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ và Chiyou thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác. Ngày nọ Đế Lai sai Chiyou thay mình trông coi quốc sự rồi mang quân đánh xuống phía Nam. Sách "Toàn thư" phần "Ngoại kỷ" dẫn nguồn từ "Tư trị thông giám", đoạn chép về Hồng Bàng còn ghi lại chi tiết, đại khái:
... thuở ấy phương bắc có đế Lai là người hiếu chiến chuyên xua quân xâm lấn các bộ lạc láng giềng, tuy nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân là em con chú ruột nhưng ông ta vẫn cất binh tiến đánh. Hai bên gặp nhau ngoài mặt trận coi như chẳng còn bà con thân thích gì lập tức cho quân đánh giáp lá cà ngay tức khắc, quân của đế Lai không hợp với thủy thổ phía nam nên chỉ chiến đấu vài trận đã bị ngã nước đau ốm la liệt không có sức tiếp tục nữa. Lạc Long Quân thấy vậy thúc quân đánh thật mạnh khiến đế lai thua to phải rút chạy về phương bắc, không rõ nguyên nhân gì mà khi đi đánh trận đế Lai lại mang cả con gái là nàng Âu Cơ đi theo. Lạc Long Quân thấy nàng xinh đẹp nết na hiền thục khác hẳn tính cách của cha liền lấy nàng làm vợ. Nếu phân tích dòng máu thì Âu Cơ phải gọi Lạc Long Quân bằng chú xưng cháu. Tuy nhiên hồi đó xã hội còn hoang sơ chưa có lễ giáo gì nên việc lấy nhau như vậy cũng đâu có phải chuyện lạ, Còn về phần đế Lai sau khi chạy lên phương bắc vẫn tiếp tục cai trị ở xứ ấy nhưng bớt hiếu chiến hơn trước...
Đến đây thì "bọc trăm trứng" trở lại trong sách "Lĩnh Nam", Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con, là gốc Bách Việt, còn "Toàn thư" ăn bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, chỉ nói Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra trăm người con. Tuy nhiên ngay từ Ngô Sĩ Liên trong "Toàn thư" đã nêu nghi vấn về Động Đình Quân và con gái:
Xét 'Đường kỷ' chép: Thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi
Ngô Thì Sĩ trong "Tiền biên" viết Vua Kinh Dương, Động Đình Quân và Long Nữ có nguồn gốc từ "Liễu Nghị truyền thư" (柳毅傳書):
Nay xét phần Ngoại kỷ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy lại tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua, nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy.
"Liễu Nghị truyền thư" hay "Liễu Nghị truyện" (柳毅傳, hoặc "Động Đình linh nhân truyện" 洞庭靈姻傳, "Động Đình tình ký" 洞庭情記) là tiểu thuyết truyền kỳ của tác giả Lý Triều Uy, sáng tác khoảng triều Đường Cao Tông (唐高宗, 628 - 683), tóm tắt như sau:
Liễu Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường về gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về, được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ, lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên.
Đến đời Nguyễn Gia Long, sách "Khâm định" viết:
Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong ‘Kỷ họ Hồng Bàng, vốn từ thời Thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với Liễu Nghị truyện của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứ
Chuẩn tâu những lời của sử quan, Tự Đức đã nhận định đây là những
câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc
và cho loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Vua Hùng, để
cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi
Như đã nói từ trước, sách của ta kể cả chính sử ra đời muộn hơn nhiều so với các sách của TQ cho nên có sự chép lại từ sách TQ cũng không phải lạ gì. Vua Kinh Dương  là thủy tổ, được dân ta thờ cúng, tuy không phổ biến bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Vua Hùng đồng thời là vị thần rất được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam, được các triều đại phong kiến lập Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm. Di tích đình Thượng Lãng ở xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là di tích cổ nhất thờ Vua Kinh Dương, tương truyền có từ thời nhà Đinh. Lăng và Đền thờ Vua Kinh Dương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại phong kiến Việt xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, mỗi lần Quốc lễ đều cho quan quân đến tế lễ, dân thờ phụng trang trọng.

Bây giờ nói về con số chín, con số của sự viên mãn, tròn đầy, đồng nghĩa với việc sẽ tiếp tục sinh sôi, phát triển. Trong số học, đây là số có một chữ số lớn nhất, và khi nhân số chín với bất kì số nào cho ra kết quả là một con số có hai chữ số trở lên thì những chữ số đó cộng lại với nhau đều cho ra kết quả là chín, ví dụ: 9 x 3 = 27 (2+7 = 9); 9 x 4 = 36 (3+6 = 9). Với tính chất đặc biệt đó, số chín mặc nhiên là đại diện cho sự trường tồn, vững chắc, lâu bền, vĩnh cửu, vì thế trong tiếng Hán, số chín đọc là cửu (九) đồng âm với chữ cửu (久: "vĩnh cửu", "trường cửu") tượng trưng cho đỉnh cao ở mọi phương diện. Theo quan niệm xưa, số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm, số chín là con số lớn nhất trong dãy số dương, nên được gọi là số cực dương, chứa đựng ý nghĩa tốt lành. Trong hệ Thái Dương chúng ta đang sống, trừ Mặt Trời thì có chín hành tinh bao gồm Trái Đất. Số chín tượng trưng cho Ông Giời, ngày vía Ông Giời là ngày Chín tháng Giêng.

Số chín do đó được lấy làm tượng trưng cho quyền lực chí cao vô thượng của bậc đế vương trong xã hội quân chủ phong kiến xưa. Quan lại toàn bộ triều đình chia làm chín phẩm, tức Cửu Phẩm Quan Giai. Hoàng cung nơi Thiên tử ở có chín cửa (cửu môn, 九門) ngăn cách với ngoại giới, trong sân rồng bày chín cái đỉnh (cửu đỉnh, 九鼎), ngai vàng của bậc Thiên tử đặt trên chín bậc (cửu trùng 九重), và luôn được đặt làm sao cho khi Thiên tử ngồi thì mặt lúc nào cũng nhìn về hướng Ngọ Môn, tức hướng chính Nam, ứng với con số chín. Mà tại sao lại nhìn về hướng chính Nam? Hướng chính Nam lại ứng với con số chín? Đó lại bắt nguồn từ phương Nam, các cụ ta xưa có câu:
Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam
vợ hiền hòa nghĩa là vợ hiền lành và hòa thuận, sẽ giúp gia đình được êm ấm, hạnh phúc. Có một dị bản là:
Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam
đã làm nhà thì phải là nhà hướng Nam, điều đó cũng hiển nhiên như việc lấy vợ phải là đàn bà. Có người vặn hỏi, "lấy vợ chẳng lấy đàn bà thì lấy đàn ông à!" Mặt khác, lấy vợ là phải lấy con gái, chứ lấy “đàn bà” thì... nhiều anh không thích! Lúc này, câu chuyện có thể xôm ra trò nếu bàn về vấn đề giới tính, đàn bà ở đây là phụ nữ, nhưng ngày nay không ít người đồng tính, không hiếm chị em trông xinh như hoa hồng mà nụ có nguồn gốc từ “cây chuối”. Nói vui vậy thôi, chứ ai cũng hiểu ý người xưa muốn nói, dù “vợ đàn bà” hay “vợ hiền hòa” thì bản chất vẫn là “nữ tính”, có ngoại hình và những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ như dịu dàng, duyên dáng, khéo léo, xinh đẹp, tình cảm, vị tha, tế nhị, kín đáo, tề gia nội trợ…

“Lấy vợ hiền hòa” ai cũng mong muốn, vậy còn “làm nhà hướng Nam” là vì sao? Trước hết, do vị trí địa lý và đặc thù khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa của phương Nam nên đối với hầu hết vùng, miền, hướng Nam là hướng thuận lợi nhất để xây dựng nhà cửa, đón được đầy đủ ánh sáng và gió mát hơn hẳn các hướng khác. Đặc biệt, nhà xây hướng Nam sẽ tránh được ánh nắng chói phía Đông vào buổi sáng, buổi chiều không bị nắng chiếu gay gắt từ phía Tây, đồng thời tránh được gió nóng (gió Lào) từ phía Tây thổi tới và không bị ảnh hưởng bởi gió lạnh từ phương Bắc tràn về. Mùa Hè đón được những ngọn gió mát từ hướng Đông Nam và hướng Nam. Dân gian có câu:
Trăm người hầu không bằng đầu ngọn gió
Gió Nam chưa nằm đã ngáy
Nhà hướng Nam, không làm cũng có ăn… 
nói lên lợi điểm của nhà hướng Nam. Từ thời nguyên thủy, con người đã biết tận dụng hướng Nam để được mát về mùa Hè, ấm về mùa Đông, tăng sức đề kháng của cơ thể, tránh sự xâm hại của tự nhiên đối với sức khỏe. Phần lớn hang động có người ở từ thời Văn hóa Hòa Bình trên khắp vùng Bắc Đông Nam Á và Hoa Nam, tức là bao gồm lãnh thổ Xích Quỷ, ngày nay phát hiện được đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Không một hang có người ở nào lại có cửa quay về hướng Bắc, bởi lẽ, gió mùa kèm theo giá rét từ phương Bắc có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người. Mặt khác, hướng Nam là hướng mặt trời lên cao, tượng trưng cho lửa, dương lực, mùa hạ, sự ấm áp…, cũng chính là hướng tượng trưng cho thời kỳ mạnh mẽ nhất của cuộc đời con người, phát huy khả năng, sức mạnh của bản thân mỗi người. Địa vị xã hội, tiền tài, năng lực lãnh đạo, trí tuệ, tài năng đều có liên quan đến hướng Nam. Những kinh nghiệm này của người Việt cổ được đúc kết lại thành thứ mà ngày nay ta biết dưới tên Kinh Dịch.

Trong Kinh Dịch, số chín thuộc quẻ thứ 30 là quẻ Ly 離, đồ hình |:||:|, Nội quái Ngoại quái đều là ☲, hành Hỏa 火, hướng chính Nam, biểu tượng của lửa, ánh sáng, như mặt trời trên cao, sáng láng, rực rỡ. Trong "Tiên thiên Bát quái" (先天八卦, còn gọi là Phục Hy bát quái 伏羲八卦, tộc Hoa Hạ nói là do Bào Hy vẽ ra, vận động về mặt hình học là ngược chiều kim đồng hồ), phía Nam có tượng là quẻ Càn (乾: Trời [天], quẻ số một trong Kinh Dịch,, đồ hình |||  Nội quái Ngoại quái đều là ☰), nên được coi là hướng của bậc Thiên tử. Trung thiên Bát quái 中天八卦 thất truyền nên không biết ra sao, một số nhà nghiên cứu đang cố tạo dựng lại lý thuyết, còn trong "Hậu thiên Bát quái" (后天八卦, còn gọi là Văn vương Bát quái 文王八卦, tộc Hoa Hạ nói là do Văn vương [文王, Cơ Xương 姬昌, 1152 - 1046 TTL] nhà Chu vẽ ra, vận động thuận chiều kim đồng hồ, Trên - Nam, Dưới - Bắc, Phải - Tây, Trái - Đông), hướng Nam có tượng là quẻ Ly, đã nói trên. Trong bộ môn Tử vi lý số, tốt nhất với cách "Tử vi cư Ngọ", là ngôi Thiên tử (sao Tử vi) đóng ở cung Ngọ (tức Thiên tử thiết triều luôn ngồi mặt nhìn về hướng chính Nam) cùng các ngôi sao tốt đẹp, sáng sủa khác cùng nhau chiếu về, tượng trưng cho quần thần, quan lại; tạo thành "Quân Thần Khánh Hội", làm nên lá số tử vi được xem là hoàn hảo, tuyệt vời nhất.

Do vậy, khi cướp văn hiến của người Việt cổ về, tộc Hoa Hạ ứng dụng ngay vào điều kiện Hoa Bắc dù không được chính xác cho lắm, tuy nhiên ít nhất thì các bậc Thiên tử Hoa Hạ cũng còn biết tọa Bắc hướng Nam, hướng về cái gốc của triết lý Việt cổ, hướng về lẽ sáng mà xử lý công việc, cai trị thiên hạ; cung điện, thành quách được xây theo hướng này nhằm bảo vệ vị trí chí cao vô thượng. Khi tế lễ các bậc Thiên tử Hoa Hạ cũng ở đàn Nam Giao hướng về phương Nam mà hành lễ, trong khi đó tại phương Nam người Việt chổng phao câu vào mặt Thiên tử Hoa Hạ mà hành lễ. Và như đã nói trong "Thời đại Hồng Bàng", Tư Mã Thiên cố gắng "thoát Việt" bằng cách chép về Tam Hoàng khác trong "Sử ký" - "Tam Hoàng bản kỷ" với đờ Hoàng thứ Tam là
... thị tộc Nhân Hoàng có chín anh em, chia nhau trị vì cửu (九, chín) châu (州 hoặc tỉnh), mỗi người đều có đất riêng
nhưng lại lòi ra chín châu là cướp từ chín phần của nước Xích Quỷ. Truyền thuyết kể rằng Đế Lai sau khi thua trận về Bắc thì thị tộc Thần Nông từ đó suy yếu, truyền ngôi đến đời Đế Du Võng (帝榆罔, cháu ba đời của Đế Nghi, như vậy Đế Du Võng là cháu gọi Lạc Long Quân bằng chú do Đế Nghi là anh Vua Kinh Dương và Vua Kinh Dương sinh ra Lạc Long Quân), cư trú tại vùng Khương Thủy ở tây bắc TQ, thì bạc nhược lắm rồi. Lúc ấy đang vào giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy, của cải tích lũy được của dân chúng giao cho tù trưởng hay thủ lĩnh của bộ lạc cai quản. Dần dần những tài sản thặng dư đó để lâu thành của riêng gia đình thủ lĩnh đó, dân chúng nhiều người bất bình đòi hỏi trả lại hoặc chia đều cho mọi người thì họ không được đáp ứng, thế lâu ngày sinh biến và "con giun xéo lắm cũng quằn" người ta nổi dậy đấu tranh. Bộ lạc Du Võng đang trên đà xuống dốc không thể cản nổi những cuộc biểu tình của dân thường khiến nó trở thành đấu tranh vũ lực.

Nhân tình hình rối ren lúc đó Chiyou đem quân đến đánh, yêu cầu Du Võng phải thoái vị nhường ngôi thủ lĩnh liên minh bộ lạc cho mình. Du Võng không có cách gì chống lại nổi Chiyou, bèn ra lời kêu gọi các bộ lạc chư hầu giúp dẹp Chiyou. Các chư hầu không ai dám đương đầu với quân Cửu Lê vì họ rất thiện chiến, vả lại họ còn chế tạo ra nhiều loại vũ khí đặc biệt sát thương hàng loạt. Du Võng đành chạy đến Trác Lộc (涿鹿县, nay là huyện thuộc thành phố Trương Gia Khẩu 張家口, tỉnh Hà Bắc) xin thủ lĩnh bộ lạc Thiểu Điển (tức là con cháu Đế Xích, theo sự bổ sung của Tư Mã Trinh vào "Sử ký"), một trong những chư hầu có kinh tế phồn thịnh nhất của triều đại Thần Nông, giúp đỡ.

Lúc đó thủ lĩnh Thiểu Điển là người thị tộc Công Tôn 公孙氏, do sống ở gò nên gọi Hiên Viên 轩辕, tức Công Tôn Hiên Viên (公孙轩辕, 2719 - 2599 TTL), về sau được biết tới là Đế Hoàng. Hiên Viên là con Thiếu Điển, cũng là thủ lĩnh bộ tộc Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiệu là Phù Bửu 附宝, sinh ra ở đất Thọ Khâu (寿丘, tỉnh Sơn Đông). "Sử ký" chép:
Hoàng Đế giả, Thiếu Điển chi tử
Giữa Đế Viêm, vị Thần Nông đầu tiên đến   Hiên Viên Đế Hoàng là khoảng thời gian trên 500 năm mà "Quốc ngữ" - "Tấn ngữ tứ" chép:
... xưa Thiếu Điển cưới Hữu Kiểu thị, sinh Đế Hoàng, Đế Viêm
nói Hiên Viên là anh em với Đế Du Võng, vị quân chủ cuối cùng của thị tộc Thần Nông thì hợp lý hơn. Hiên Viên lúc trẻ làm thủ lĩnh bộ lạc Hữu Hùng (有熊氏 nay thuộc khu vực thị xã Tân Trịnh 新郑 thành phố Trịnh Châu tỉnh lỵ Hà Nam, cũng là tên thị tộc hợp thành), và lãnh đạo bộ lạc này một thời gian dài, "Sử ký tập giải" chép:
Hữu Hùng quốc quân, Thiếu Điển chi tử dã
Theo "Sơn Hải kinh", Hiên Viên có người vợ đầu tại đây, người thị tộc Tây Lăng 西陵氏 tên là Luy Tổ (hay Loa Tổ 嫘祖, tương truyền là người đầu tiên chế ra việc nuôi tằm dệt vải, nên gọi là Tiên Tằm 先蚕, 累 hay 螺 đều có chữ 糸 mịch tức sợi tơ nhỏ, nhưng một số người cho rằng các tên trên có thể phiên sai từ Lôi Tổ 雷祖, nghĩa là bà Tổ Sấm, sinh ra mấy người con trong đó có Huyền Hiêu 玄囂 là con trưởng và Xương Ý 昌意), lại có các vợ bé Mô Mẫu (嫫母, cũng người thị tộc Tây Lăng), Nữ Tiết (sinh ra Thiếu Hạo 少昊). Hiên Viên sau đó kế nghiệp cha làm thủ lĩnh bộ lạc Thiếu Điển, ban đầu sống ở ven Cơ Thủy (濟水), nhân đó lấy tên sông, "Cơ" 姬, làm "tính" (姓, "tánh").

Khi con người bắt đầu đặt ra họ tên thì có hai dạng họ, "tính" 姓 và "thị" 氏, dù cùng nghĩa là "họ" nhưng theo truyền thống lịch sử TQ, "tính" và "thị" (thị tộc) có nhiều khác biệt. Các "tính" có bộ thủ "nữ" (女: "con gái", tượng hình giống cô gái đang quỳ xuống, hai tay khoanh trước ngực để chờ nghe theo mệnh lệnh sai khiến), là chứng tích của xã hội mẫu hệ, khi ấy đứa con sinh ra chỉ biết mặt người mẹ nhưng không chắc chắn về nhân thân người cha, nên "tính" biểu đạt ý nghĩa "được mẹ sinh ra", truyền theo dòng mẹ. Cơ "tính" về sau trở thành họ của các vương tử nhà Chu, tuy chỉ xếp thứ 213 trong danh sách "Bách gia tính" (百家姓, ghi lại các họ phổ biến của TQ, soạn vào đầu thời Bắc Tống [北宋, 960 - 1127]) nhưng "Cơ" là một trong các "tính" có nguồn gốc cổ nhất, theo truyền thống thì chỉ có Chu vương mới được mang Cơ "tính" vì vậy có rất ít người mang họ Cơ, cho đến nay "Cơ" là một họ hiếm ở TQ.

Theo nghiên cứu sự thay đổi tự dạng trong chữ giáp cốt từ thời nhà Thương tới thời nhà Chu của nhà Hán học người Pháp, Léon Vandermeersch, có vẻ như bộ thủ nữ xuất hiện trong các chữ Hán tạo thành trong giai đoạn nhà Thương sang nhà Chu, ít nhất là ở thời kỳ đầu nhà Tây Chu 西周 (1046 - 771 TTL), để chỉ tới các nhóm sắc dân hoặc bộ lạc, và chỉ có ở nữ giới, tức là những người phụ nữ từ các bộ lạc khác nhau được gả vào họ nhà Chu, được gọi bằng tên bộ lạc mà họ sinh ra, tức là "tính". Trong khi nam giới được gọi bằng danh xưng hoặc thái ấp của họ, tức là "thị". Nhà Chu sau khi thành lập đề ra chế độ phong kiến (封建: phong tước, kiến địa), "phong tước" là hình thức ban tặng danh hiệu cho hoàng thân quốc thích hoặc công thần các tước vị: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男 (hoặc Khanh 卿), thường được "cha truyền con nối". Đi kèm với phong tước là việc ban tặng đất đai làm thực ấp tức là "kiến địa", để kiến lập các nước chư hầu, gọi là "phong kiến thân thích", tạo nên các giai cấp địa chủ và nông dân.

Cho đến giữa thời Đông Chu (東周 770 - 249 TTL), "tính" chỉ có các bộ lạc quyền quý được sở hữu. Khi cấu trúc xã hội trở nên phức tạp hơn, với sự hình thành xã hội phụ hệ thì "thị" được dùng để đáp ứng nhu cầu phân biệt giữa những người chung một "tính". Cùng một "tính" sẽ có nhiều "thị" khác nhau, khi này một người xuất thân quyền quý sẽ vừa mang "thị" vừa mang "tính". Các vương tử một số nước chư hầu nhà Chu, vốn là hoàng thân quốc thích nhà Chu nên đều mang "tính" "Cơ", lấy tên đất được phong làm tên nước và "thị" của mình để phân biệt với những người cũng có "tính" là "Cơ" khác, ví dụ: nước Trịnh (鄭國, 806 - 375 TTL) một chi của vương tộc nhà Chu, ban đầu được phong tước Bá ở đất Trịnh Yển làm phụ dung nên gọi là Trịnh bá (鄭伯, đóng đô tại Hoa huyện 华县, tỉnh Sơn Tây), sau hậu duệ Trịnh bá được thăng lên tước Công thì thiên đô sang đất Tân Trịnh, lấy Trịnh 鄭 làm "thị" của mình. Cuối thời Chu, các tầng lớp thấp hơn trong xã hội cũng từ từ được mang họ, do đó sự khác biệt giữa "tính" và "thị" dần mờ nhạt đi, dẫn đến thuật ngữ bá tính (百姓, nghĩa đen "trăm họ"), "lão bá tính" (老百姓, nghĩa đen "người trăm họ") được dùng để chỉ "thường dân", "nhân dân", hoặc "bình dân", đến ngày nay ở TQ vẫn còn nhiều họ dạng "thị", trong đó có "Cơ".

Tại Thiểu Điển, Hiên Viên lại có thêm các vợ bé Phong Luy (封嫘), Đồng Ngư (彤魚), sau Hiên Viên dời bộ lạc Thiểu Điển tới vùng Trác Lộc, bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi, trồng trọt, lấy thêm vợ bé. Truyền thuyết kể rằng Rồng xuất hiện từ thời này, ngày đó mỗi bộ lạc đều lấy hình một con vật là Tộc huy cho bộ lạc của mình, bộ lạc của Hiên Viên chọn con rắn. Sau mỗi lần thu phục 1 bộ lạc, Hiên Viên sẽ trích 1 phần Tộc huy của bộ lạc đó để thêm vào Tộc huy của bộ lạc mình như một cách tượng trưng cho chiến thắng và uy danh. Vì vậy nên Tộc huy của Hiên Viên có thêm Sừng Nai, Mặt Ngựa, Vẩy Cá, Móng Chim Ưng... Lâu dần biến đổi thành Rồng.

Đáp ứng yêu cầu của Du Võng, Hiên Viên liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Chiyou trên cánh đồng Trác Lộc. Liên quân đánh với quân Cửu Lê nhiều trận kịch liệt bất phân thắng bại. Nước Thục cũng tham gia trong nhiều trận đánh kịch liệt, Xương Ý mấy lần được cử sang sứ nước Thục đã gặp người con gái của thủ lĩnh thị tộc Thục Sơn nước Thục là Xương Phó (hay Cảnh Bộc), đem lòng yêu mến, thủ lĩnh Thục Sơn thấy thế gả Xương Phó cho Xương Ý để thắt chặt tình hữu nghị đồng minh. Cuộc chiến kéo dài ròng rã nhiều năm trời khiến quân sĩ 2 bên đều thương vong vô số, sau cùng Liên quân Hiên Viên với nhiều cơ mưu túc trí đã đánh bại được Chiyou.

Trong trận chiến Trác Lộc, Chiyou đã thể hiện được uy lực trong chiến tranh, khiến cái tên Chiyou trở nên đồng nghĩa với từ "chiến tranh" trong tiếng Hán, những người tôn trọng thì xem Chiyou như là "chiến thần", còn những người bài xích thì xem như là "họa thủ". Chiyou sau này bị Nho gia Hoa Hạ xem là xấu xa, thần hóa thành nhân vật có hình tượng "đầu đồng trán sắt", "tám tay tám chân", "thân người móng trâu", "bốn mắt sáu đầu", "ăn cát sỏi", và thiện chiến, "chế tạo năm loại binh khí", "biến đổi mây mù", "làm ra sương mù dày đặc, trọn ba ngày", khiến cho Hiên Viên "chín lần chiến thì chín lần không thắng", "ba năm không hạ được thành". Sau khi Chiyou bại trận, người trong bộ tộc Cửu Lê lưu tán, một bộ phận quy phục Hiên Viên, dung hợp vào tập đoàn Viêm Hoàng, trở thành đồng tổ tiên tộc Hoa Hạ, còn lại di cư đến nơi khác.

Đến nay nguồn gốc Chiyou cũng như Cửu Lê vẫn rất phức tạp và gây tranh luận, có thể là tổ tiên tập đoàn Đông Di hoặc Tam Miêu (三苗, một nhóm dân tộc thuộc Bách Việt, theo các nhà dân tộc học, họ có thể là tổ tiên của các dân tộc H'Mông: TQ: Miêu / 苗; Lào: Lào Sủng / ລາວສູງ / Mèo; Thái Lan: แม้ว / Maew hay ม้ง / H'Mông ở VN, TQ, Lào, Miến, Thái… ngày nay) hay thậm chí là Nam Man (南蠻, "giống man di mọi rợ phía Nam"). Đông Di bao gồm cả Triều Tiên, Nhật Bản, người Nhật ngày xưa thường lùn nên còn gọi là Oa Di (夷倭, hay Uy Di, "oa" 倭 hay "nụy" là "lùn"). Cửu Di có thể là tổ tiên phân chi Đông Bắc Di của tập đoàn Đông Di, quan hệ tới Phù Dư (부여: Buyeo / Puyŏ; 夫餘, 238 TTL - 494), có thể cả Cao Câu Ly (고구려: Goguryeo / Koguryŏ; 高句麗, 37 TTL - 668), các quốc gia cổ trên bán đảo Triều Tiên. Năm 1979, tại Nam Triều Tiên xuất hiện cuốn sách lịch sử "Hoàn Đàn cổ ký" (환단고기, 桓檀古記), trong sách Chiyou được xem là Từ Ô Chi Hoàn Hùng (자오지 환웅, 慈烏支桓雄), đại quân chủ thứ 14 của Bột Đạt Quốc (배달국, 倍達國) trên bán đảo Triều Tiên. Cũng tại Nam Triều Tiên, năm 2007 xuất bản tiểu thuyết "Chiyou Thiên hoàng" (치우천왕기, 蚩尤天皇) viết rằng Chiyou là tổ tiên của dân tộc Triều Tiên và đã đánh thắng Hiên Viên, người TQ đương nhiên cho rằng đó là bóp méo lịch sử.

Căn cứ theo "Thượng thư" và "Quốc ngữ" cùng nhiều loại thư tịch cổ, Cửu Di chiến bại, tộc nhân lưu tán, phát triển thành Tam Miêu. Sách "Hậu Hán thư" - "Tây Khương truyện" cho biết một bộ phận Tam Miêu đã di chuyển về hướng tây, do vậy nếu Chiyou và Tam Miêu có quan hệ thì Chiyou có khả năng là tổ tiên của người Khương nước Cổ Thục. Căn cứ theo một số sử thi, ca dao, truyền thuyết của người H'Mông thi Chiyou là đại tổ thần của họ, có địa vị hết sức cao quý, Chiyou trong tiếng H'Mông là "Txiv Yawg", vị vua thần thoại có tính khôn ngoan của người H'Mông. Một số học giả, đặc biệt là học giả người H'Mông đề xuất rằng, tổ tiên của người H'Mông vào thời thượng cổ ban đầu cư trú tại lưu vực Hoàng Hà, do bị tộc Hoa Hạ đánh bại, buộc phải thiên di đến khu vực Quý Châu, phía tây tỉnh Hồ Nam và tây nam tỉnh Hồ Bắc.

Sau trận Trác Lộc, sự hiện diện của tộc Cửu Lê trên vũ đài lịch sử coi như kết liễu. Hiên Viên được nhiều bộ lạc ủng hộ, di bộ lạc Thiểu Điển về phía tây, được xem là mở đầu sự hình thành tộc Hoa Hạ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hiên Viên và Du Võng lại nảy ra xung đột, hai bên giao binh ở Phản Tuyền, đánh ba trận Du Võng đều bại, kéo theo sự cáo chung của triều đại Thần Nông. Đế Du Võng bị giáng phong ở một ấp bên bờ Lạc Hà (洛河, chi lưu Hoàng Hà), gọi là Lạc Ấp (洛邑, nay thuộc quận Tây Công 西工区, thành phố Lạc Dương 洛陽市 phía tây tỉnh Hà Nam) rồi chết ở đó. Hiên Viên thay thế Du Võng trở thành thủ lĩnh liên minh các bộ lạc vùng Hoàng Hà, mở đầu thời Ngũ Đế, chấm dứt thời Tam Hoàng và cũng tạm ngắt con số chín.

Ngũ Đế và con số chín là nội dung bài tiếp theo.

¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong các bài trước và:
¤ Viện Khảo cổ học:
• Văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, Hoàng Xuân Chinh (chủ biên),Viện Khảo cổ học, Hà Nội, 1989
¤ Khảo cổ:
- Khảo cổ học Tiền sử và Sơ sử Việt Nam, Phạm Huy Thông
- Theo dấu các văn hóa cổ, Hà Văn Tấn, Nxb. Xã hội, 1998
- Thời đại nguyên thủy trên đất nước Việt Nam, Nguyễn Cảnh Minh, 2007
¤ Văn hóa:
- Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt - Mường, Phan Ngọc - Phan Đăng Nhật, Tạp chí Văn hóa dân gian,số 33 - 34, 1991
- Chu Dịch với Dự Đoán học, Thiệu Vĩ Hoa, Mạnh Hà dịch, Nxb. Văn hóa. Hà Nội, 1995
- Bí ẩn của Bát Quái, Vương Ngọc Đức, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội,1996
- Văn hóa học đại cương và cơ sở VHVN, Phạm Đức Dương, Nxb. Khoa học Xã hội, 1996
- Mai Hoa Dịch tân biên, Vưu Sùng Hoa, Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1997
- Chu Dịch tường giải, Nguyễn Quốc Đoan, Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1998
- Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc, Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,1999
- Tìm về bản sắc VHVN, Trần Ngọc Thêm, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
- Dịch học toàn tập, Chu Bá Côn, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội,2003
- Hán Việt từ điển giảng yếu, Đào Duy Anh, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005
- Người cổ Đông Nam Á. Nguyễn Đức Hiệp, Khoa Văn hóa học, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2012
¤ Tạp chí:
+ Tạp chí Khảo cổ học, Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Khảo cổ họcxuất bản:
• Số 1 & 2, 1984:
- Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình, Phạm Huy Thông
- Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á, Ngô Thế Phong