19 tháng 5 2019

Từ Trang An Biên đến Kẻ Chợ: Thời đại Hồng Bàng

Ngày xửa ngày xưa tổ tiên ta bị giặc cướp phá sách vở, hủy hoại chữ viết nên văn hiến chỉ được truyền lại qua ngôn ngữ truyền khẩu. Sau khi khôi phục Tự chủ hồi thế kỷ X, tổ tiên ta lại làm sách vở nhưng sách, sử của tổ tiên làm ra từ sau Tự chủ đến thế kỷ XV lại bị nhà Minh cướp mang về TQ hoặc thiêu hủy nên sách sử nước ta phải chép lại sách TQ rất nhiều. Rồi đến cuối đời nhà Nguyễn Gia Long, cuộc đốt phá thư khố quốc gia và thư khố của các Bộ sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá của thực dân Pháp năm 1875 tiêu hủy vô số sách vở. Sau những sự kiện đó, liệu có còn sót lại bao nhiêu sách vở để điều tra?

Do đó, việc khôi phục buổi bình minh của lịch sử VN, làm sáng tỏ hơn cội nguồn dân tộc và văn hóa VN trông cậy vào những ngành khoa học hiện đại, để xác minh những truyền thuyết, thần tích, tộc phả hay những vấn đề chưa rõ ràng trong tài liệu lịch sử. 

Thời đại Hồng Bàng (鴻龐氏) là thời đại nào?

Trước khi nhờ đến khoa học, chúng ta cùng lần giở sách cổ và truyền thuyết về buổi đầu dựng nước, vẫn thường nghe về “lịch sử bốn ngìn năm dựng nước”! Vậy Thời đại Hồng Bàng có phải cũng nằm trong giai đoạn đầu tiên đó?

Con số bốn ngìn năm này là theo cách tính toán của các cụ đời xưa, và chúng ta tin theo, chứ tính toán của các cụ đời trước chỉ cho chúng ta một ý niệm về lịch sử dựng nước lâu đời của tổ tiên, không cho chúng ta một niên đại chính xác. Chọn bốn ngìn năm cũng là cách chọn đại khái theo truyền thuyết, sách "Lĩnh Nam chích quái" có lẽ là sách ta đầu tiên chép về việc này, trong "Truyện họ Hồng Bàng" (鴻龐氏傳), truyện đầu tiên trong sách, còn trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, tất nhiên cũng dựa theo truyền thuyết thì cho rằng thủy tổ dân tộc Việt Nam, Vua Kinh Dương, hiện còn lăng mộ Đức Thủy Tổ tại làng An Lữ, xã Đại Đồng Thành, Thuận Thành, Bắc Ninh, bắt đầu dựng nước. vào năm Nhâm Tuất 2879 TTL, tính đến 2019 thì đã có đến 4.898 năm. Còn Vua Hùng lập nước Văn Lang được “Sử lược” xác định là xấp xỉ 2,7 ngìn năm cách ngày 1/1/1950 (NN), tính đến 2019 thì cũng có đến xấp xỉ 4.719 năm.

Tuy nhiên, trong dân gian hay trong giới nghiên cứu đều có các quan niệm về thời điểm khởi đầu của lịch sử đất nước không thật giống nhau. Theo quan niệm thông thường là từ khi có con người xuất hiện trên phạm vi lãnh thổ đất nước hiện nay là đất nước có sử từ thời điểm đó. Còn quan niệm chính thức của giới nghiên cứu thì chỉ khi nhà nước sơ khai đầu tiên xuất hiện thì coi đó là thời điểm mở đầu của lịch sử đất nước với tư cách là lịch sử của quốc gia dân tộc, còn trước đó gọi là thời nguyên thủy, chưa có giai cấp, chưa có nhà nước thì chưa tính. Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thì nhà nước chỉ có thể ra đời khi phân hoá giai cấp đã phát triển đủ độ chín muồi. Mà phân hoá giai cấp chỉ phát triển cao trên nền tảng năng suất lao động và kinh tế phát triển. Năng suất lao động phát triển trên cơ sở sự thay đổi của công cụ sản xuất. Các nhà nước sơ khai trên thế giới thường ra đời ở giai đoạn thời đại đồ Sắt, đây là quy luật có tính phổ biến trên toàn thế giới.

Việc sử dụng sắt, để nấu chảy và rèn thành các công cụ, đã xuất hiện tại nền văn minh Nok ở Tây Phi vào khoảng năm 1200 TTL, được coi là khởi điểm của thời đại đồ Sắt. Thời đại đồ Sắt tại Trung Đông cổ đại, Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại cũng bắt đầu vào thế kỷ XII TTL. Vào thế kỷ VIII TTL tại Trung Âu và vào thế kỷ VI TTL tại Bắc Âu thì thời đại đồ sắt mới bắt đầu xuất hiện. Theo cổ sử TQ thì ở TQ có lẽ vào thế kỷ X TTL (đầu đời Chu) bắt đầu có nghề luyện sắt. Ngày nay nhiều người vẫn cho rằng tổ tiên ta không biết nghề luyện sắt và sản phẩm này là do văn minh TQ trong quá trình ngàn năm Bắc thuộc truyền sang.

Theo truyền thuyết Thánh Gióng thì tổ tiên ta đã biết dùng sắt rèn ngựa rèn roi rèn nón cho Thánh Gióng đánh giặc Ân. Truyền thuyết thì khó tin, lịch sử thành văn của nước ta thì giặc nước phá hủy, sách vở làm lại sau này bị ảnh hưởng quan điểm Nho giáo nên lấy TH là gốc, nhưng chớ vội không tin. Xét theo sách sử, lúc đó là đời Vua Hùng thứ VI, Vua Hùng Huy (雄暉王, 1712 - 1632 TTL, lăng mộ trên núi Nghĩa Lĩnh, nằm ở phía đông đền Thượng, tương truyền là mộ của Vua, vốn là một mộ đất, năm 1870, Tự Đức hạ lệnh cho xây mộ dựng lăng, mặt lăng quay theo hướng đông nam, năm 1922 lăng được trùng tu, ngày nay là một phần trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng), còn giặc Ân, như đã nói trong Ngày xửa ngày xưa là giai đoạn sau của nhà Thương, từ sau 1384 TTL, vẫn đang là đỉnh cao đồ đồng, còn nhà Chu đến 1123 TTL mới lập nước, khi đó vẫn đồ đồng. Người ta dựa vào "Sử ký", thiên "Nam Việt liệt truyện" 南越列傳:
… 與長沙接境, 高后時, 有司請禁南越關市鐵器 
(Nam Việt) giáp giới với quận Trường Sa, Thời Cao Hậu (高后, Lã hậu / Lữ hậu, 呂后, 241 - 180 TTL, vợ cả của người lập ra nhà Hán, Cao Tổ đế (高祖帝, 202 - 195 TTL, Lưu Bang [劉邦, 256 - 195 TTL], Hoàng hậu và Hoàng thái hậu nhà Hán), quan đương sự xin cấm không cho người Nam Việt vào mua đồ sắt
để nói rằng Việt không tự chế được sắt. Thời Cao Hậu, Triệu Đà mới chỉ chiếm được Phiên Ngung (蕃隅, nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh lỵ Quảng Đông). Sau khi Cao Hậu chết mới chiếm được Mân Việt (閩越 ở Phúc Kiến) và Tây Âu Lạc (vùng Quảng Tây) nên không có sắt là tất nhiên, điều đó không chứng minh là Âu Lạc không luyện được sắt. Có người lấy lý do không tìm thấy di tích khảo cổ về sắt trên đất nước ta để kết luận rằng cha ông ta không biết chế tạo sắt thép. Nên nhớ rằng, khác với đồ đá và đồ đồng, đồ sắt để lại rất ít trong các di tích khảo cổ trên thế giới. May chăng còn có cột sắt ngàn năm ở gần Dehli, Ấn Độ là còn tồn tại đến ngày nay, mà các nhà khoa học hiện đại cũng chưa giải mã được bí mật. Bởi chưng sắt là kim loại bị oxy hóa mạnh, dù có bị chôn vùi dưới bao lớp đất cũng bị hủy hoại. Ngay cả ở nước ta, "Toàn thư" chép Ngô Quyền (và Trần Hưng Đạo) đóng cọc gỗ nhọn bịt sắt cắm xuống sông Bạch Đằng thì các cọc đó ngày nay phát hiện được cũng không thấy có sắt nữa.

Nhưng nghề luyện sắt của ta có thể đã có từ trước thời Bắc thuộc, khi dân ta chưa biết dùng chữ Hán. Trong chữ Hán sắt viết là "thiết" 鐵, thép viết là "cương" 鋼, nếu sắt thép là do người Hoa Hạ truyền vào sau thời Bắc thuộc thì tất nhiên dân ta phải viết như là chữ Hán là "thiết", "cương", nhưng người Việt lại gọi là sắt thép. Chữ viết của tổ tiên bị mất nên không biết sắt thép được viết thế nào, chữ viết dù mất nhưng âm đọc vẫn còn, được truyền lại và ghi bằng chữ Nôm. Sắt là một chữ thuần Việt, 𨫊 đọc là sắt theo chữ Nôm, chữ này ngay từ điển "Khang Hy" cũng không có, mặc dù chữ Hán cũng có chữ đọc là "sắt" 瑟 nhưng để chỉ cây đàn sắt có 50 dây (sắt cầm 古瑟 hoặc cổ sắt 瑟琴, tiền thân của đàn tranh [彈箏 / 古箏: cổ tranh, còn được gọi là đàn thập lục, đàn tam thập lục):
Mang tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ - Truyện Kiều, Nguyễn Du
Thép cũng là một từ thuần Việt, chữ Nôm viết 𨨧 đọc là "thép", chữ này hoàn toàn không có âm và chữ tương tự trong Hán ngữ. Như vậy, người Việt phải biết đến kỹ thuật sắt thép hay các kỹ thuật luyện kim khác, như vàng, bạc, chì kẽm, trước biết dùng chữ Hán và vẫn tiếp nối phát triển qua thời Bắc thuộc, nên mới có tên gọi riêng của mình như vậy. Sử sách của nước ta bị quân Minh cướp và đốt hết từ năm 1407 nên không có cơ sở nào biết được trước đó có chép gì không. Nhưng sau khi quân Minh chiếm nước ta, lập thành quận huyện của TQ thì người Minh đã có ghi chép nhiều chi tiết về tổ chức kinh tế, xã hội, địa chí, sản vật của Giao Chỉ. Trong sách "Giao Chỉ tổng chí" (交阯縂志, sách tổng hợp về Giao Chỉ từ các sách trước đó, soạn vào đầu thế kỉ XV trong thời Minh thuộc, không rõ tên họ tác giả) đã ghi chép khá tỉ mỉ, như nhà Minh đã lập ra 6 Cục Kim Trường 金場局 để lo về việc luyện kim ở Giao chỉ. Về sắt sách này chép:
义安府 : 礦山在土黃縣‮٢#‬鐵… 鐵山在東城縣‮٢#‬鐵 
Phủ Nghệ An, tại huyện Thổ Hoàng (xưa là vùng đất rừng núi và thung lũng từ bến Tam Soa, tả ngạn Ngàn Phố trở về nam gồm toàn bộ lưu vực sông Ngàn Sâu, cuối đời Tự Đức mới đặt huyện Hương Khê năm 1868, nay là huyện Hương Khê, một phần Hương Sơn và miền thượng Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh) có núi Quặng (Khoáng Sơn) là nơi sản xuất sắt… tại huyện Đông Thành (có lẽ là vùng núi Thiên Nhận - Hồng Lĩnh ven sông Lam ngày nay) có núi Sắt (Thiết Sơn) cũng là nơi sản xuất sắt
Những ghi chép này cho ta thấy, ít nhất từ thời Trần nghề luyện sắt của người Việt đã khá phát triển. Sách "Giao Chỉ tổng chí" là cuốn sách không thể thiếu cho ai muốn nghiên cứu các phương diện: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, kiến trúc của đất Giao Chỉ thời Minh sơ. Tư liệu trong sách phong phú, như để đô hộ nước Việt, nhà Minh đã thiết lập 837 nha môn lớn nhỏ, 19 thành, 20 đồn. Phục vụ việc đồng hóa dân Việt lập 161 trường học, trong đó phủ 14 trường, châu 34 trường, huyện 113 trường, 861 chùa, quán, đền, miếu để truyền bá văn hóa Hán. Phục vụ việc chuyên chở những tài nguyên cướp đoạt được lập 374 “cấp đệ phô” (dịch trạm), 335 cầu, hai bên bờ Đông Tây của sông Lô ở Đông Quan, thuyền bè đầy bến, thường bị cản trở bởi sóng gió, Anh Quốc công Trương Phụ mới sáng kiến ra cầu nổi để tiện cho giao thông. Lại phụ thêm cách loại văn kiện đương thời như văn lộ bố, bảng văn, có mấy bài mà "Vĩnh Lạc thực lục" (永樂實錄, bộ biên niên sử ghi lại các sự kiện trong triều Vĩnh Lạc nhà Minh) không chép, đều là những tư liệu có giá trị. Quyển II mục "Cống phú" chép khá chi tiết về sản phẩm và tiền bạc phải nạp cho nhà Minh hàng năm, giúp cho người đọc thấy được cụ thể dã tâm bóc lột tại nước ta, quan lại thu thuế xuống tận các địa phương, dương cặp mắt cú vọ xăm xoi tước đoạt đủ mọi sản phẩm thuộc các ngành nghề.

Sách "Giao Chỉ tổng chí" có lẽ đã thất truyền, nhưng còn được chép lại trong "An Nam chí (nguyên)" (安南志[原], do Cao Hùng Trưng [高熊徵, Giáo thụ Nho học phủ Tư Minh, Quảng Tây thời Thanh sơ] tập hợp từ các sách "Quảng Tây thông chí", "Minh sử kỷ sự bản mạt" của Cốc Ứng Thái, "Sứ sự kỷ yếu" của Lí Tiên Căn và "Giao Chỉ tổng chí" mà soạn thành sách “An Nam chí" [安南志], sau đổi tên là "An Nam chí kỷ yếu" [安南志既要]). Năm 1932, EFEO xuất bản cuốn sách này tại Hà Nội, ghi nhầm tên sách là "An Nam chí nguyên", từ đó đến nay vẫn sai như vậy. Sách được Hoa Bằng dịch chú, in roneo năm 1961, lưu hành nội bộ, năm 2017 được Nxb. Đại học Sư phạm xuất bản. Chẳng những là luyện sắt, mà việc chế tác sắt (làm vũ khí) của ta thời bấy giờ đã đạt được trình độ cao, có thể vượt cả kỹ thuật của phương Bắc, "Minh sử" chép:
明史·兵志四:明成祖平交趾,得神机枪炮法. 特置神机营肄习。制用生熟赤铜相间。建铁柔为最, 西铁次之。大小不等。 大者发用车。 次及小者用架,用桩, 用托。 大利于守, 小利于战。 随宜而用为行军 要器  
quyển 92, Binh Chí Tứ chép: Minh Thành Tổ đánh Giao Chỉ, lấy được phép Thần Cơ Thương Pháo, đặt riêng Thần Cơ Doanh luyện tập. Chế tạo cần dùng đồng đỏ nguyên chất, cần nhất sắt dẻo, thứ cần nữa là sắt Tây Vực (西域, cách người Hoa Hạ gọi các nước nằm ở phía Tây TQ, nhà Thanh đã chinh phục hoàn toàn Tây Vực, đặt nó dưới sự quản lý hành chính của chính quyền trung ương, năm 1884, khu vực này được đặt thành một tỉnh của TQ, chính là Tân Cương [新疆: "biên cương mới"; Uyghur: شىنجاڭ Shinjang] nay là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương [新疆维吾尔自治区; Uyghur: شىنجاڭ ئۇيغۇر ئاپتونوم رايونى Shinjang Uyghur Aptonom Rayoni]). To nhỏ các loại, loại to dùng xe, nhỏ dùng giá, dùng cọc, tay nâng. Lợi lớn khi giữ, lợi nhỏ khi đánh, tùy mà dùng như vũ khí quan trọng khi cầm quân
Chuyện cướp công nghệ luyện và chế tác sắt thép làm vũ khí của nhà Minh còn được ghi chép trong "Minh thực lục" (明實錄, bộ biên niên sử ghi lại các sự kiện trong triều Minh từ khi thành lập đến tiêu vong), chuyện này xin kể sau, để quay lại với thời dựng nước. Vào trước Thời đại Hồng Bàng, con người đã biết chế ngự lửa để nấu chín thức ăn, biết xây cất nơi cư ngụ, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, thực hiện lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết. Do thực tế phát triển, loài người đã từ lối sống xã hội bầy đàn chuyển lên chế độ công xã nguyên thủy, tuy còn duy trì săn bắt và hái lượm truyền thống nhưng cũng đã có những cộng đồng nông nghiệp tự cung tự cấp dựa trên các mối quan hệ xã hội bình đẳng và quyền sở hữu chung. Khi đã biết tổ chức thành thị tộc, là những nhóm người gồm vài đến vài chục gia đình, có quan hệ họ hàng, gần gũi với nhau, thậm chí do cùng một bà mẹ đẻ ra, sống quây quần cùng làm chung ăn chung, chế độ công xã nguyên thủy tan rã, hình thành xã hội công xã thị tộc.

Trong nội bộ thị tộc, người ta không phân biệt đâu là của anh và đâu là của tôi, nhưng có sở hữu của thị tộc. Mỗi thị tộc chiếm cứ một khu vực xác định, tức lãnh thổ của thị tộc. Sự phát triển không đều của các thị tộc, gồm có hoặc phát triển lên và phân chia ra các thị tộc mới, hoặc tàn lụi do bệnh tật hay tai biến, dẫn đến lãnh thổ có thể thay đổi. Kể từ đó, những thị tộc du mục săn bắn ven Hoàng Hà mà về sau tự xưng là Hoa Hạ, luôn cố gắng chiếm đoạt đất đai của các thị tộc xung quanh và đồng hóa những thị tộc bị đoạt đất đó để tăng cường sức mạnh. Trong quá trình đó, các tộc đó đã tiếp thu (hay chiếm đoạt) nền văn minh nông nghiệp của cư dân bản địa.

Xuất phát bởi nhu cầu thực tế về khả năng có thể tập hợp nhân lực trong sản xuất cũng như chống lại các hiểm họa đến từ thiên nhiên, muông thú và thị tộc khác, nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, tạo thành bộ lạc, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Do đó bộ lạc thường có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ. Điều này dẫn đến sự giải thể của công xã thị tộc, ra đời công xã nông thôn. Mặc dù chưa thật sự ổn định nhưng việc xác lập chủ quyền về mặt lãnh thổ là đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc. Bộ lạc có hình thức sở hữu cao hơn thị tộc, ngoài sở hữu riêng của thị tộc, bộ lạc còn có những sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắt và chăn nuôi. Trong bộ lạc có một thủ lĩnh tối cao nhưng mọi quyền hành quản lý bộ lạc đều do hội nghị của hội đồng các tộc trưởng hay tù trưởng và thủ lĩnh quân sự quyết định.

Xuất phát bởi nhu cầu thực tế về điều hành bộ lạc, dần dần hình thành thể thức tuyển cử để lựa chọn một cá nhân có năng lực giữ vai trò thủ lĩnh với mục đích lãnh đạo các thành viên bộ lạc cùng chung sức sản xuất, tự vệ cũng như phân phối công sản theo bình quân sinh hoạt. Hình thức phát triển cao nhất của bộ lạc là liên minh bộ lạc được hình thành từ sự liên kết nhiều bộ lạc. Cũng bởi nhu cầu thực tế giống như việc thị tộc phát triền lên bộ lạc, từ liên minh bộ lạc, bắt đầu hình thành các quốc gia bộ lạc. Con người cũng sáng chế ra những công cụ lao động mới để có thể khai phá đất hoang tăng gia, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa. Một số người có khả năng lao động giỏi hơn, hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của mình để chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và trở nên giàu có, còn một số người khác lại khổ cực thiếu thốn khiến xã hội phân hóa thành người giàu - người nghèo, trở nên có giai cấp. Công xã nông thôn tan rã, loài người chuyển sang xã hội có giai cấp.

Vào Thời đại Hồng Bàng, mới bắt đầu có sự phân hoá giai cấp, phân hoá xã hội nhưng chưa đủ độ chín muồi cho sự ra đời của nhà nước. Tuy nhiên, lúc này còn có hai yếu tố thúc đẩy nhà nước ra đời sớm hơn là nhu cầu đoàn kết chống ngoại xâm và nhu cầu trị thủy, làm thuỷ lợi của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Dân tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đã là truyền thuyết thì ít nhiều đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc. Với người Việt đó là sự tự hào con Rồng cháu Tiên, là đồng bào sinh ra từ "bọc trăm trứng", và Thần Nông được xem là thủy tổ của người Việt, người đầu tiên làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng). Tuy nhiên từ truyền thuyết đến sách vở của ta sau thời Bắc thuộc đều bị nhà Nho lồng vào ảnh hưởng Nho học, lấy TH làm chuẩn mực nên đều có màu sắc Thần thoại Hoa Hạ. Mà tộc Hoa Hạ từ thần thoại, chữ viết, văn hiến đều là đi cướp của thiên hạ (天下, "tất cả những gì dưới Trời") về làm giàu cho mình. Người Việt bị cướp hết rồi học lại thần thoại, chữ viết, văn hiến, kinh nghiệm, ký ức của tổ tiên đã bị tộc Hoa Hạ nhào nặn thành "Nho giáo". Dưới đây là truyền thuyết xưa nhất của người Việt cổ về Thần Nông, sự tích "bọc trăm trứng" và con Rồng cháu Tiên chưa bị nhà Nho can thiệp:
Thần Đất và Thần Rừng sinh được một người con gái tên là Thần Nông. Thần Nông lớn lên lấy con trai của Thần Nước và Thần Bão là Thần Rồng. Do gia đình hai bên đều thù ghét nhau nên ra sức ngăn cản cuộc hôn nhân này. Thần Rừng bèn cử bọn ma cây đến quấy rối nhưng cây nào đến thì cây đó đều bị Thần Nông chặt hết cả. Thần Rồng dùng đống gỗ đó xây nên một ngôi nhà thật to cho hai vợ chồng. Thần Bão tức giận lắm, bèn thổi bay căn nhà của con trai mình. Dù thế Thần Rồng vẫn không bỏ cuộc, Thần Bão có thổi bay căn nhà bao nhiêu lần thì ngày hôm sau Thần Rồng lại tiếp tục dựng lên một căn nhà mới thậm chí còn to hơn trước. Sau một khoảng thời gian không đếm xuể, cuối cùng đã xây nên một căn nhà mà Thần Bão không cách nào có thể thổi bay nó được, biết không thể thay đổi được suy nghĩ của con mình nên Thần Bão quay về.Thần Rồng đặt tên ngôi nhà này là gió với ngụ ý rằng bão tố cũng chỉ là một cơn gió nhỏ nhoi không bao giờ làm suy suyển được căn nhà này. Không lâu sau đó, Thần Nông mang thai rồi sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Thần Rồng chăm sóc vợ và các con mình được một thời gian thì cảm thấy nhớ nhà bèn quay trở lại biển cả. Sau đó Thần Rồng không bao giờ trở lại nữa, Thần Nông đau buồn lên núi nhìn về biển chờ chồng mãi. Còn các con của hai người chia nhau ra sinh sống khắp nơi, họ gọi nơi mình sinh sống là đất nước để gợi nhớ về nguồn cội và luôn giữ liên lạc với nhau hy vọng một ngày cha trở về.
Mẹ Thần Nông sinh "bọc trăm trứng" nở trăm con nên từ đây gọi ngắn gọn Mẹ Trứng, Mẹ Trứng là Tiên và Bố Rồng. Đi vòng Hoa Hạ, qua nghiên bút Hoa Nho, Mẹ Trứng - Bố Rồng hóa thành Tam Vương (三王, hoặc Tam Hoàng 三皇) trong Tam Vương Ngũ Đế (五帝), các vị quân chủ (君主; Anh: Monarch, nguyên gốc từ tiếng Hy Lạp "μονάρχης", ý là "Người thống trị [ἄρχων] duy nhất [μόνος]", tương đương với tiếng La-tinh "monarcha" ["mona": "duy nhất", "arch": "người thống trị"], trong chế độ quân chủ, nguyên nghĩa tương đương chữ "Quân" 君 biểu thị người thống trị tối cao duy nhất) trong Thần thoại Hoa Hạ về giai đoạn 2852 - 2205 TTL Tộc Hoa Hạ ưa gọi Tam Hoàng còn ở ta con trẻ vẫn hát đồng dao:
Tam Vương Ngũ Đế 
Dắt dê đi tìm...
Tam Vương là ba vị thủ lĩnh thị tộc, lai lịch rất thần tiên, mơ hồ, là thần tiên hoặc bán thần, những người đã sử dụng các phép màu để giúp dân, do phẩm chất cao quý nên họ sống lâu và thời kỳ cai trị của họ hòa bình thịnh vượng. Các học giả TQ không nhất trí với nhau về Tam Vương cụ thể là ai, phần lớn chịu ảnh hưởng nhiều bởi các truyền thuyết dân gian. Tên của Mẹ Trứng, Thần Nông, theo ngữ pháp Trung văn thì phải là Nông Thần, vốn là tên anh thư văn hóa của người Việt trở thành tên một ông Nông thần "đầu bò, đầu bướu", chuyên về nông nghiệp và y học, còn bản thân Mẹ Trứng - Bố Rồng biến thành cặp vợ chồng thần với thân rồng thân rắn đầu người trong Tam Vương, theo "Vận đẩu xu" 運斗樞 và "Nguyên mệnh bao" 元命苞:
  1. Hy Vương (羲王, 4486 - 4365 TTL hay Hy Hoàng 羲皇 / Hoàng Hy 皇羲, thị tộc Phục Hy 伏羲氏 tức Phục Hy 伏羲, Bào Hy 庖羲 hoặc Thái Hạo 太昊) thủ lĩnh thị tộc cổ đại, theo truyền thuyết ở ngôi vị khoảng 115 năm, truyền được 15 - 16 đời tổng cộng 1.260 năm. Một số phân tích gần đây cho thấy có thể Bào Hy là tổ của một đại tộc trong Bách Việt, cũng dễ hiểu thôi, vì chôm Bố Rồng của Việt về vẽ vời thêm thành một vị thần với thân rồng đầu người, hoặc thân rắn đầu người, nhân thế được người Hoa Hạ tôn xưng là Long tổ 龍祖. Bào Hy được cho là người dạy dân cày bừa, nuôi gia súc, dùng lưới đánh cá, nấu ăn và săn bắn bằng vũ khí sắt (lại sắt), còn được cho là người đồng phát minh ra đàn sắt cùng với Thần Nông và Đế Hoàng. Bào Hy cũng phát minh ra chữ viết, do phát hiện cấu trúc Bát quái (八卦) từ các dấu trên lưng một con Long mã (có sách viết là một con rùa) nổi tên từ dưới Lạc Hà (洛河, một chi lưu của Hoàng Hà), cách sắp xếp Bát quái này đã sinh ra Kinh Dịch (易經, "Kinh" 經 nghĩa là một tác phẩm kinh điển, gốc gác từ "quy tắc" hay "bền vững", hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian, "Dịch" nghĩa là "thay đổi" của những thành phần bên trong một vật thể nào đó mà trở nên khác đi, căn cứ theo ngữ pháp Trung văn thì "Kinh Dịch" phải đọc / viết là "Dịch Kinh" 經易, lại một sáng chế của người Việt bị cướp đoạt) trong thời nhà Chu, phát kiến này còn được cho là nguồn gốc của thư pháp (書法, nghệ thuật viết chữ đẹp. Theo quan niệm cổ của người Hoa Hạ, Phục Hy là ca ca của Nữ Oa Thánh nhân;
  2. Oa Vương (媧王 hay Oa Hoàng 媧皇, thị tộc Nữ Oa 女媧氏 / Nữ Hy 女希氏 tức Nữ Oa 女媧, chữ Oa 媧 ý chỉ về một vị nữ thần), là em gái đồng thời cũng là vợ của Bào Hy, được coi là tổ tiên của loài người sau một trận đại hồng thủy. Mẹ Trứng - Bố Rồng của người Việt bị cướp mất "bọc trăm trứng", thay vào đó bà Nữ Oa dùng bùn của Hoàng Hà tạo ra con người. Tộc Hoa Hạ được sinh ra từ bùn đất vàng (黃土: hoàng thổ) của Hoàng Hà chứ không phải từ Mẹ Trứng - Bố Rồng như người Việt. Nữ Oa dần được tôn xưng là một vị nữ thần thủy tổ trong Thần thoại TQ, thường được mô tả là đầu người thân rắn. Truyền thuyết về Nữ Oa được truyền tụng nhiều nhất qua điển tích "Luyện thạch bổ thiên" (煉石补天: luyện đá vá trời), "Sát Hắc long tế Ký châu" (殺黑龍濟冀州: giết Hắc long giúp Ký châu);.... và quan trọng nhất là lập nên hôn nhân, là Nữ thần bảo trợ cho gia đình. Rồi bà quay lại trong Thần thoại VN, "Bà Nữ Oa vá trời" là chuyện cổ tích phổ biến;
  3. Vua Thần Nông (神農王, 3220 - 3080 TTL, thị tộc Thần Nông 神農氏 / Liên Sơn 連山氏, tức Đế Xích 帝赤, "thần xứ nóng", còn gọi là Đế Viêm 帝炎, "thần lửa", con của Thiếu Điển 少典 thủ lĩnh thị tộc cổ đại Thiếu Điển), người đầu tiên dùng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh, được tôn xưng là Dược vương (藥王). Trong "Kinh Dịch", Thần Nông được nói tới như là người trị vì sau khi kết thúc sự trị vì của thị tộc Bào Hy, là người phát minh ra cày bằng gỗ với lưỡi cong cũng bằng gỗ, truyền các kỹ năng canh tác cho dân chúng, lập chợ ban ngày, ông tổ nghề gốm sứ, được tôn xưng là Ngũ Cốc vương (五穀王), Ngũ Cốc Tiên đế (五穀先帝), Thần Nông Đại đế (神農大帝).
Trong cuốn sách cổ "Hoài Nam tử" (淮南子, bộ sách do Hoài Nam Vương [淮南王, 164 - 123 TTL, Lưu An {刘安, 179 - 122 TTL}], cháu nội Lưu Bang, Quốc vương 國王 thứ tư nước Hoài Nam chư hầu nhà Hán, tập hợp các học giả lại để biên soạn, có nhiều điểm tương đồng với các quan niệm về triết học tự nhiên của các triết gia Hy Lạp cùng thời, cùng với "Đạo Đức kinh" [道德經, được coi là do Lý Nhĩ {李耳, 571 - 471 TTL} Khai tổ 道祖 của Tiên giáo, được kính trọng gọi là Lão Tử 老子, "Lão" 老: "đáng tôn kính" / "già". "Tử" 子: "thầy"} viết ra] và "Nam Hoa kinh" [南華經, cuốn sách triết học nổi tiếng thường được cho là của Trang Chu {莊周, ~369 - 286 TTL} viết ra] tạo nên hệ thống quan điểm của của Tiên giáo TQ) viết rằng:
Trước khi có Thần Nông thì dân chúng mông muội, đói ăn và ốm đau bệnh tật; nhưng sau đó ông đã dạy dân chúng trồng ngũ cốc mà tự ông tìm ra, rồi việc nếm các loại cây cỏ, mà mỗi ngày có thể tới 70 loại khác nhau
Giống như bản thân Mẹ Trứng biến thành Nữ Oa, tên của Mẹ Trứng nữ thần người Việt biến thành tên của nam thần, Nho giáo, Tiên giáo còn thần thánh hóa thành vị thần huyền thoại, theo "Chinese Mythology" của Christie Anthony, Hamlyn Publishing, Feltham (1968):
神农也是头像牛头,尖角,铜额头,铁头,蝎尾,蜈蚣腿的人 
Thần Nông cũng là người có đầu giống đầu bò, sừng nhọn, trán đồng, đầu sắt, đuôi bọ cạp, chân rết
Từ thời Thần Nông, giai cấp trong xã hội đã phân biệt rõ hơn, có giai cấp thì có người cai trị, lúc đầu mới chỉ gọi người cai trị là "Quân" 君. Từ "Đế" 帝 dùng để gọi các nhân vật thần thánh, như "Thượng đế" (上帝, "Vị quân chủ ở trên cao", cũng gọi Thiên đế 天帝, "Vị quân chủ ở trên Trời") chúa tể cao nhất trong quan niệm tín ngưỡng Viễn Đông. Với con người, quân chủ gọi là "Hậu" 后, sau khi qua đời thì gọi là "Đế" 帝, Đế Viêm tức là "quân chủ tên Viêm đã chết". Ngũ Đế, năm vị quân chủ kế tiếp Tam Vương, tức là kế tiếp Đế Viêm đều tôn xưng là Đế cả. Chữ "Hoàng" 黃 trong "Tam Hoàng" 三皇, "Đế Hoàng" (帝黃, vị đầu tiên trong Ngũ Đế, anh hùng văn hóa sáng lập nền văn minh Hoa Hạ, được coi là tổ tiên của mọi người Hoa Hạ, Đế Viêm cũng được coi là ông tổ của tộc Hoa Hạ, họ coi cả hai đều là tổ tiên chung của mình với thành ngữ "Viêm Hoàng tử tôn" [con cháu Viêm Hoàng]) khác với "Hoàng" 皇 trong "Hoàng đế" 皇帝 do Tần Thủy Hoàng đặt ra sau này. Chữ "Hoàng" 黃 ở đây hàm nghĩa "sắc vàng", màu biểu trưng cho hành Thổ 土 trong Ngũ hành 五行, bởi vì đất phát tích của người Hoa Hạ là khu vực trầm tích đất vàng (黃土: hoàng thổ) của Hoàng Hà. "Đế Hoàng" tức là "Quân chủ tên Vàng đã chết". 

Theo Tư Mã Thiên trong "Sử ký" - "Tam Hoàng bản kỷ" thì các vị quân chủ ngay trước Đế Hoàng là từ một thị tộc (hay nhóm sắc tộc) Thần Nông. Sách "Sử lược" chép thị tộc Thần Nông truyền được 8 đời kéo dài 520 năm, cho đến khi Đế Hoàng nổi lên. Sách "Tư trị thông giám" phần "Ngoại kỷ" thậm chí còn ghi rõ từng đời hậu duệ của Đế Xích, nếu tính cả Đế Xích thì thị tộc Thần Nông truyền được cả thảy chín đời (lại là số chín). Nhưng tại sao lại là chín đời? Ðó là Tam Vương Ngũ Đế, ba đời Vương cộng với năm đời Đế tổng cộng tám đời, cộng cả Mẹ Trứng là chín. Sách "Lã thị Xuân Thu" (呂氏春秋, còn gọi là "Lã Lãm" 呂覽 do Lã Bất Vi [呂不韋, 292 - 235 TTL], Thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc [戰國時代, 476 - 221 TTL] chủ xướng biên soạn, sai các môn khách soạn ra những điều mình biết, hợp lại thành sách, hoàn thành vào năm thứ 8 đời Tần Vương [秦王, 247 - 221 TTL] Doanh Chính [嬴政, 259 - 210 TTL] tức 239 TTL) còn chép một số vụ bạo loạn khi Thần Nông nổi lên và quyền lực của thị tộc Thần Nông kéo dài tới 17 (tám cộng chín) thế hệ.

Tư Mã Trinh đời nhà Đường bổ sung vào "Sử ký" - "Tam Hoàng bản kỷ" rằng Đế Xích là người họ Khương (姜姓, chữ "Khương" trong chữ Hán cổ vốn gồm "khuyển" 犬: "chó" và "dương" 羊: "dê, cừu", tức là "bọn chó chăn cừu", nay đã thay "khuyển" bằng "nhân" 人: "người" thành 羌 gợi ý đó là "những người chăn cừu"), cai trị 140 năm, mất do nếm phải một loại độc thảo mà không kịp lấy thuốc chữa, sau một thời gian dài từng nếm rất nhiều các loại độc thảo khác nhau, táng tại thành phố Trường Sa (長沙, tọa lạc tại hạ lưu sông Tương [湘江, hoặc Tương Thủy 湘水, một trong bảy sông nhánh chính của sông Dài) thủ phủ tỉnh Hồ Nam (湖南, "phía nam hồ" Động Đình 洞庭湖 và phía Nam trung du sông Dài, tên gọi tắt là Tương 湘, theo tên sông Tương chảy trên địa bàn, có trên biển số xe của tỉnh). Kinh đô ban đầu đặt tại đất Trần (陳, sau là nước Trần [陳國, 1045 - 478 TTL] Công quốc [公國, nước có quân chủ mang tước Công 公爵] chư hầu [諸侯, nước nhỏ phụ thuộc lộ liễu vào nước lớn, Vương quốc 王國 / Đế quốc 帝國 nào đó] nhà Chu) ở khu vực miền đông tỉnh Hà Nam (河南, "phía nam" Hoàng Hà, tên gọi tắt là Dự 豫, đặt theo tên châu Dự có từ thời Hán, sau đổi là châu Trung 中朝 nay là thành phố tỉnh lỵ Trịnh Châu 鄭州), một phần tỉnh An Huy (安徽, tên gọi tắt là Hoản [Hoàn hay Hoán, 皖, theo tên nước Hoàn 皖國, đầu thời Tây Chu - giữa thời Xuân Thu], Bá quốc [伯國, nước có quân chủ mang tước Bá 伯爵] chư hầu nhà Chu) sau dời tới Khúc Phụ (曲阜市, thị xã thuộc thành phố Tế Ninh 濟寧市, tỉnh Sơn Đông ([山東, "phía đông Thái Hành Sơn" [太行山, dãy núi chạy ở cạnh phía Đông vùng thượng và trung du Hoàng Hà theo hướng đông bắc - tây nam qua các tỉnh Hà Nam; Sơn Tây [山西, "phía tây Thái Hành Sơn", tên gọi tắt là Tấn 晋, theo tên nước Tấn 晉國, 1042 - 678 TTL, Hầu quốc 侯國, nước có quân chủ mang tước Hầu 侯爵, chư hầu nhà Chu]; và Hà Bắc [河北, "phía bắc Hoàng Hà", tên gọi tắt là Ký 冀, theo tên nước Ký {冀國, giữa thời nhà Thương - giữa thời Xuân Thu} chư hầu nhà Thương sau là châu Ký thời nhà Hán]), Sơn Đông có tên gọi tắt là Lỗ 魯 theo tên nước Lỗ (魯国, ~1100 - 256 TTL, Bá quốc chư hầu nhà Chu).

Vẫn Tư Mã Trinh bổ sung, Đế Xích còn có người con gái tên là Tinh Vệ (精衛, một giống chim nhỏ mỏ đỏ chân trắng có hình dáng giống con quạ thường sinh sống ở các vùng duyên hải Viễn Đông, chuyên đi gắp những hạt cát rồi bay ra biển thả xuống). Theo "Sơn Hải kinh" thì một lần Tinh Vệ ra Đông Hải (東海) chơi chẳng may thuyền bị sóng đánh đắm mà chết đuối. Linh hồn nàng oán hận biển cả nên hóa thành một con chim xinh đẹp, ngày ngày nàng bay đến núi Tây ngậm đá mang thả xuống hòng lấp biển để trả thù. Từ đấy nhân gian gọi luôn giống chim này là Tinh Vệ, nghĩa bóng người ta dùng điển tích "Tinh Vệ điền hải" (精衛填海, nghĩa là chim Tinh Vệ ngậm đá để lấp biển, chỉ việc oán thù sâu xa). Trong văn học cổ điển Viễn Đông vẫn dùng tích "Bổ thiên điền hải" (補天填海, "Vá trời lấp biển" để ám chỉ những việc không thể làm được), vá trời là tích bà Nữ Oa còn lấp biển là chuyện chim Tinh Vệ này.

Dù làm biến dạng Mẹ Trứng - Thần Nông của người Việt nhưng tộc Hoa Hạ vẫn để sót dấu ấn của người Việt, "bọc trăm trứng" là gốc của từ "đồng bào" (同胞, "cùng một bọc", "cùng một bào thai") trong cái tên Bào Hy (庖羲) và tên Thần Nông cùng tên các Đế (Xích, Viêm, Hoàng, Nghiêu, Thuấn) theo ngữ pháp tiếng Việt. Họ cũng ghi nhận Thần Nông là ở phương Nam, thần của nông nghiệp lúa nước chứ không phải của săn bắn du mục, nông nghiệp khô (trồng cao lương, kê, các loại cây lương thực cần ít nước). Cái tên Đế Xích, Đế Viêm, là thần xứ nóng, thần lửa, chỉ đến tín ngưỡng thờ Trời, Ðất và Thần Lửa của người Việt, chứng tích còn thấy ở Ðền Hùng, theo "Trẩy Hội Ðền Hùng", Bảo Vân, YHTT, số 13, tháng 4, 1996:
Trên đền Trung là đền Thượng, tức Kính Thiên tĩnh điện (nơi các vua Hùng thờ Trời, Ðất và Thần Lửa) 
Những cái gì chép nhặt bao giờ cũng đầu Ngô mình Sở, đúng là lấy đầu của Ngô Việt ghép vào đuôi Sở Việt làm thành Hoa Hạ, chép nhặt bao giờ cũng dấu đầu lòi đuôi. Tác giả của "Sơn hải kinh" cố gắng "thoát Việt" bằng cách cho Bào Hy - Nữ Oa là người bình thường sống ở một ngọn núi hư cấu mang tên Côn Lôn. Một ngày, họ đốt lửa ở hai nhánh cây khác nhau và tự dưng hai ngọn lửa lại hòa làm một. Từ đó, họ quyết định trở thành vợ chồng, là vợ chồng nhưng lại nặn hình người bằng đất và ban sự sống cho. Còn Tư Mã Thiên thì cố gắng "thoát Việt" khi chép thêm về Tam Hoàng khác trong "Sử ký" - "Tam Hoàng bản kỷ":
Thị tộc Thiên Hoàng 天皇氏, có mười hai đầu, hóa phép cho nước bao phủ trái đất, trị vì 18.000 năm; 
Thị tộc Địa Hoàng 地皇氏 tức Hỏa Đức vương 火德王, có mười một đầu, tạo ra Hùng Nhĩ Sơn 熊耳山 và Long Môn Sơn 龍門山, trị vì 11.000 năm; 
Thị tộc Nhân Hoàng 人皇氏, có bảy đầu, cưỡi xe mây, miệng nhả ra thóc lúa, giòm chín (số chín là con số thiêng của người Việt, cũng được tộc Hoa Hạ cướp về, nói sau) anh em, chia nhau trị vì cửu (九, chín) châu (州 hoặc tỉnh), mỗi người đều có đất riêng, truyền qua 150 đời, 45.600 năm. 
Các sách Hoa Hạ đời sau cố gắng "thoát Việt" bằng cách thay thế Nữ Oa bằng nam thần, sách "Thượng thư đại truyện" (尚書大傳) và "Bạch hổ thông nghĩa" (白虎通義) thay thế Oa Vương bằng Toại Nhân (燧人, thị tộc Toại Nhân 燧人氏), người mà theo truyền thuyết đã phát minh ra lửa, theo "Cao Đài từ điển", "Toại" là khoan gỗ lấy lửa, "Nhân" là người. Sách "Đế vương thế kỷ" (帝王世紀) thay thế Oa Vương bằng Đế Hoàng. Sách "Thông giám ngoại kỷ" lại thay thế Oa Vương bằng Cộng Công (共公), tức là vị thần của nước. Sách "Bạch hổ thông nghĩa" còn có thuyết khác thay thế Oa Vương bằng Chúc Dung (祝融), tức là Hỏa thần. Việc thay thế Oa Vương, một nữ thần, bằng một vị nam thần có lẽ là kết quả của việc chuyển từ chế độ mẫu hệ thời cổ xưa sang chế độ phụ hệ, bởi vì sau khi chế độ phụ hệ thay cho chế độ mẫu hệ, vì mục đích tuyên dương sự vĩnh hằng của phụ hệ, chiều theo yêu cầu của xã hội đàn ông, các vị nữ thần bị bị Nho giáo, Tiên giáo đem cải tạo thành nam thần.

Cho dù bị biến dạng, Thần Nông trong văn hóa Việt vẫn mang đậm dấu ấn nông nghiệp lúa nước, lịch cổ thường vẽ một mục đồng (tức là Thần Nông) dắt một con trâu (tượng trưng cho nghề nông). Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Tư thiên giám (司天監, cơ quan quan sát và chiêm nghiệm các hiện tượng thiên văn, giữ sách thiên văn, tính nhật thực nguyệt thực, liệu đoán khí hậu, thời tiết, tính toán lịch pháp, coi ngày, báo giờ để định mùa vụ cho dân, giữ đồng hồ báo canh ở điện Cần Chánh, giữ trọng trách tư vấn triều đình về các vấn đề âm dương bói toán, địa lý và phong thủy, thời Gia Long đổi tên cơ quan Tư thiên giám thành Khâm thiên giám 欽天監, đặt các cơ quan Chiêm hậu ty 占候司 tại tỉnh) về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu. Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi một trong 5 màu vàng, trắng, đen, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ 土,Kim 金, Thủy 水, Mộc 木, Hỏa 火 tùy theo mỗi năm. Hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ở các địa phương cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt vào ngày Lập xuân (立春, nên gọi Tế xuân).

Theo chỉ dụ của Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông chí 冬至, tòa Khâm thiên giám, các Chiêm hậu ty phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn tượng Thần Nông và trâu. Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa thành Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo hầu. Tới Đài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công (Thổ Địa hay Thổ thần hoặc Xã thần) về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các quan Bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua Hoàng cung, một viên thái giám vào tâu để Hoàng đế biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua Bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc. Tới Đài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ. Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ sau ngày Đông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn. Người Dao Tuyển để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà hạnh phúc thì lễ hội ngày Sáu tháng Sáu là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm. Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần Nông vào các ngày Một tháng Giêng và Chín tháng Chín hàng năm.

Sau khi bị Hoa Nho nhào nặn, Mẹ Trứng - Bố Rồng trở lại Việt dưới ngòi bút nhà Nho, người Việt đang từ con Mẹ Trứng Thần Nông bỗng trở thành cháu năm đời Đế Xích Thần Nông. Ngô Sĩ Liên, như các bài trước đã nói, một điển hình Nho gia "Nam nhân Bắc hướng", dựa vào các sách có trước ông, như đã nói trong các bài trước, viết trong lời tựa của "Toàn thư":
Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam - Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương
Theo các sách ta thì Đế Thừa (帝承) là cháu hai đời của Đế Xích Thần Nông sinh ra Đế Minh (帝明). Đế Minh sinh ra Lộc Nghi (祿釐), Lộc Long (祿龍). Sau Đế Minh nhân ngao du về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh (五岭, còn gọi là Nam Lĩnh 南嶺, loạt dãy núi ngăn cách vùng Lưỡng Quảng 两廣 với phần lãnh thổ phía bắc của vùng Giang Nam, phía nam dãy núi Nam Lĩnh gọi là Lĩnh Nam) lấy được con gái bà Vụ Tiên (武仙, tức là Vụ tiên nữ 鶩僊女), rồi trở về, sinh ra Lộc Tục (祿續), dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu. Đế Minh rất lấy làm lạ trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục, muốn cho nối ngôi mình, thế nhưng Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh bèn chia ba lãnh thổ, cho Lộc Long cai quản biển cả ở phương Đông tức là Đế Long (帝龍), lập Lộc Nghi làm quân chủ phương Bắc tức là Đế Nghi (帝釐), phong Lộc Tục, cai quản vùng phương Nam, lấy sông Dài làm ranh giới, tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng:
Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương
Năm 2879 TTL, Lộc Tục lên ngôi vị quân chủ đầu tiên là của Thời đại Hồng Bàng, tức là trước khi Đế Hoàng nhận ngôi quân chủ Hoa Hạ từ vị Đế thứ chín và cuối cùng của thị tộc Thần Nông, Đế Du Võng (帝榆罔) năm 2697 TTL 92 năm và trước nhà Hạ (夏朝, 2070 - 1600 TTL) 719 năm. Nhà Hạ là vương triều phong kiến đầu tiên theo chế độ thị tộc thế tập được ghi chép trong sách sử truyền thống TQ, song đến nay vẫn chưa phát hiện được chứng cứ trực tiếp để có thể công nhận sự tồn tại của nhà Hạ như văn tự thời kỳ đó hoặc di tích lăng tẩm, do đó giới lịch sử học cận hiện đại TQ còn nghi ngờ tính chân thực về sự tồn tại của triều Hạ, và tất nhiên triều đại Lộc Tục cũng thế.

Lộc Tục lẽ ra cũng là Đế Tục (帝續), song Lộc Tục không dùng hiệu này mà lấy hiệu Vua Kinh Dương, Đế Long cũng lấy hiệu Vua Rồng Biển Đông (東海龍王, Đông Hải Long vương), duy Đế Nghi vì không được cả giang sơn, bỏ về Bắc không biết hiệu "Vua" nên không xưng Vua, đời sau chỉ biết có Vua Rồng Biển Đông và Vua Kinh Dương mà thôi. Vua (王: Vương, tương đương tiếng Anh là King / Queen, ngày nay được hiểu là một danh từ để gọi các nguyên thủ quốc gia trong chế độ quân chủ). Tộc Hoa Hạ cho đến trước nhà Chu chưa biết đến chữ Vua, thời nhà Hạ quân chủ xưng Hậu 后, nhà Thương quân chủ xưng Ất 乙, từ nhà Chu do tiếp thụ chữ Vua từ văn minh Việt, quân chủ mới bắt đầu xưng Vương, mới đem chữ Vương tôn xưng Thụy hiệu cho từ các quân chủ Tam Hoàng đến trước nhà Chu. Vài giai thoại dân gian về chữ Vua, Nguyễn Hiền (阮賢, 1234 - 1256) đỗ Trạng nguyên khi 13 tuổi, Hoàng đế sau khi hỏi chuyện Trạng phán rằng:
 - Vì còn nhỏ mà Trạng nguyên ăn nói chưa biết lễ, cần cho về nhà học lễ 3 năm mới bổ dụng
Vì thế Trạng Hiền chưa được ban áo mão vinh quy, trở về quê nuôi dưỡng mẹ, ngày ngày đọc sách. Trạng vẫn rất ham chơi, thường lúc rỗi rãi vẫn cùng trẻ làng chơi khăng, thả diều... Một lần, triều đình tiếp sứ TQ, sứ thần đem một bài thơ ngụ ngôn ra thử nhân tài nước Nam::
Lưỡng nhật bình đầu nhật 
Tứ sơn điên đảo sơn 
Lưỡng vương tranh nhất quốc 
Tứ khẩu tung hoành gian
Dịch là:
Hai mặt trời bằng đầu 
Bốn trái núi điên đảo 
Hai vua tranh nhau một nước 
Bốn miệng ở trong khoảng dọc ngang
Hoàng đế và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời Trạng nguyên Nguyễn Hiền, mà vua cho là bé đang ở nhà để rèn luyện thêm, đến để hỏi nghĩa. Các quan đến quê mời, gặp ngay đám trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng, thấy trong đó có một cậu bé mặt mũi khôi ngô đang bày cho chúng bạn đắp một con voi bằng đất mà bốn chân lẫn tai, vòi… có thể ngoe nguẩy được. Các quan đồ chừng đó là Trạng, một quan bèn buông một câu thăm dò:
Tự là chữ, cắt giằng đầu, chữ tử là con, con ai con ấy?
Chủ ý của viên quan xuất một vế đối theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ "tự" 字 có hai bộ phận, trên như cái giằng xay, dưới là chữ "tử" 子. Để nguyên "tự" có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ "tử" nghĩa là con, và gắn luôn với đoạn Nôm tiếp đó thành một câu hỏi nửa Hán nửa Nôm. Câu hỏi cũng có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới. Cậu bé nghe được, không ngước mặt lên, cũng thủng thẳng buông một câu:
Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này!
Trạng cũng đối lại bằng cách chiết tự chữ Hán kết hợp với một phần Nôm: chữ "vu" 于 là "chưng" có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang 一 ở giữa thành chữ "đinh" 丁, nghĩa là "đứa", "con ai con ấy?" đi với "đứa nào đứa này!" là một vế đối rất chỉnh và rất xược. Các quan biết đó chính là Trạng, bèn xuống ngựa, truyền lại ý Hoàng đế vời Trạng về kinh. Nhưng Trạng không chịu, viện lẽ rằng, trước Hoàng đế cho Trạng kém lễ buộc về, nhưng lần này Hoàng đế cho vời Trạng lên cũng không giữ đúng lễ:
- Trước đây Hoàng đế nói ta chưa biết lễ, thì nay chính Hoàng đế cũng không biết lễ. Không ai đi mời Trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa.
Quan về tâu lại với Hoàng đế, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, Trạng mới chịu về kinh. Về đến kinh đô, Hoàng đế đưa bài thơ của sứ TQ ra, Trạng liền giải thích:
Câu thứ nhất có ý nói là hai chữ "nhật" 日 xếp ngang hàng nhau. Câu thứ hai nghĩa là bốn chữ "sơn" 山 xoay ngược xuôi. Câu thứ ba nói về hai chữ "vương" 王 xếp chéo lên nhau. Câu thứ tư là bốn chữ "khẩu" 口 xếp ngang dọc cạnh nhau. Tóm lại, tất cả bài thơ chỉ nói đến chữ "điền" 田, có nghĩa là ruộng đất.
Giải xong, Trạng viết thư đưa cho sứ TQ, ông ta phải chịu là nước Nam có nhân tài. Lại vào cuối thời Nguyễn Gia Long, từng có một người Pháp đưa ra câu đối có liên quan đến chữ Vương:
Vương là vua, rút ruột vua phân chia ba đoạn
Chữ "Vua" 王 nếu bỏ gạch ở chính giữa sẽ thành chữ "Tam" 三, nghĩa là ba (3), ý chê vua không có tài, để cho đất nước bị chia cắt làm ba miền. Một nho sinh Việt đối lại khá chỉnh:
Tây là tây, chặt đầu tây phanh thây bốn mảnh
Chữ "Tây" 西 bỏ đầu thì thành chữ "Tứ" 四, tức là bốn (4). Trở lại với Vua Kinh Dương, tục truyền quốc hiệu đầu tiên của đất nước được đặt khi Vua Kinh Dương lên ngôi là Xích Quỷ. Theo "Hán Việt Từ điển" do Đào Duy Anh biên soạn, Hàn Man Tử hiệu đính, Trường Thi xuất bản năm 1932, trang 168:
Từ Hán - Việt: Xích 赤 nghĩa là màu đỏ; Quỷ 鬼 có nghĩa là ma quỷ; Xích Quỷ là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú (28 vì sao đẹp) trên bầu trời
“Ngọc Phả truyền thư” của từ đường họ Nguyễn giải thích rằng chữ “Xích” là màu đỏ ngụ ý phương Nam, chữ “Quỷ” là từ ba chữ "Vua" 王 của người Việt cổ ghép lại thành chữ “Quỷ” 鬼. Vua Kinh Dương vì thấy ba anh em đều là quân chủ ở ba nơi, nên ghép ba chữ “Vua” tạo thành chữ “Quỷ”. Tên “Xích Quỷ” nêu rõ Vua ở xứ nóng, phương Nam, ngụ ý phương Nam đã có chủ. Nước Xích Quỷ địa bàn rộng lớn, phía đông giáp Biển Đông, tây tới Ba Thục (巴蜀), bắc tới sông Dài (gồm cả vùng hồ Động Đình), nam tới nước Hồ Tôn (胡孫).

Tính diện tích, giáp Biển Đông là kinh tuyến 118 Đông, tây tới Ba Thục, kinh tuyến 105 Đông, bắc tới sông Dài, vĩ tuyến 29 Bắc, nam tới nước Hồ Tôn, vĩ tuyến 11 Na, tổng cộng khoảng 2.900.000 km2. Dù hậu nhân đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích VN bây giờ tính cả trên biển, chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia. Dẫu chỉ là huyền sử thì không phải ngẫu nhiên mà các địa danh lại xuất hiện trong huyền sử. Một số nhà nghiên cứu cho rằng huyền sử này đã diễn tả lại một cuộc di dân của người Việt cổ về phương Nam trước sự xâm phạm của tộc Hoa Hạ, cũng như sự kết hợp và chia tách của hai chủng Việt cổ lớn thời bấy giờ. Những bài tiếp theo sẽ bàn về việc này.

Về địa giới, đừng nhầm Biển Đông thời Vua Kinh Dương với Biển Đông từ thời Âu Lạc trở về sau tức là Nam Hải (南海 hay 南中國海: "biển ở phía Nam Trung Hoa") mà ta vẫn gọi Bể Đông hay Bể Nam nhưng bằng chữ Nôm, với nghĩa là "bể (biển) nước Nam", khác biệt với Nam Hải bằng chữ Hán, Biển Đông thời Vua Kinh Dương bao gồm cả biển Hoa Đông tức Đông Hải của TQ (中國東海: "biển ở phía Đông Trung Hoa") và Bể Nam. Trong cuốn "Đại Nam Quốc sử Diễn ca" (1870), viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát, đoạn Vua An Dương mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà viết (Bể Nam và Nam Hải tương đương về vần luật và dấu thanh, nhưng Bể Nam được dùng mà không phải là Nam Hải):
... Kim qui đâu lại hiện linh
Mới hay giặc ở bên mình không xa
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng
(𣷭南) Bể Nam đến bước cùng đàng
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi ...
Về nước Hồ Tôn (, ? - thế kỷ I TTL, hay Hồ Tôn Tinh 胡猻精, "Vương quốc của người khỉ") "Lĩnh Nam chích quái" chép trong "Vua Dạ Xoa truyện" (夜叉王傳):
Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm. Vị vua của vương quốc này là Tràng Minh, hiệu Vua Quỷ (Dasanana) có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư (Rama), người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh (Sita). Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm. Vua Quỷ, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh và cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xẻ núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết chết Vua Quỷ, đưa công chúa Bạch Tinh về.
Vương quốc Diệu Nghiêm có thể là một tiểu quốc sau này hợp thành Vương quốc Phù Nam (Phạn: नाम; Căm-pu-chia: ფუნანი; La-tinh hóa: Nokor Phnom, 68 - 550) do tăng lữ Bà-la-môn thành lập. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích giống nhau, tại Indonesia trong các đền thờ đạo Bà-la-môn lớn đều khắc truyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Vua Quỷ có mười đầu có lẽ chỉ là cách miêu tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn Độ và Phù Nam thường có hình rắn hổ mang (naja) mười đầu. Theo nhận xét của Huber trong "La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises" thì Hồ Tôn Tinh có thể là một trong các tên gọi của Vương quốc Chăm Pa (Phạn: चम्पा; Chăm: Campa; Hán: 占婆; Hán - Việt: Chiêm Bà) cổ, hoặc là một tiểu quốc sau này hợp thành Chăm Pa.

Trên là biên giới Đông và Nam, bài sau nói về biên giới Tây và Bắc.

¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong "Ngày xửa ngày xưa", "Sách - sử", "Sách - sử Ta và Trung Quốc" và:
¤Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
- Di sản Hán Nôm Việt Nam, Trần Nghĩa
- Khảo cứu từ điển song ngữ Hán Việt Đại Nam Quốc ngữ, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2013
¤ Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian:
- Thông báo văn hóa dân gian 2001, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002
¤ Lịch sử:
- Việt Nam - quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, Nguyễn Đình Đầu, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
- Chiến Quốc sách, Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001
- Niên biểu lịch sử Trung Quốc, Phương Thi Danh, Nxb. Thế giới, 2001
¤ Nhân vật:
- 100 người đàn ông có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, Tiêu Lê - Mã Ngọc Chu - Lã Diên Đào, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004
¤ Văn hóa:
- Kinh Dịch - đạo của người quân tử, Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn học 1994
- Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam, Đinh Gia Khánh, trong Các vùng văn hóa Việt Nam, Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận (chủ biên), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995 
- Vốn cổ Văn hóa Việt Nam, Trương Sỹ Hùng - Bùi Thiện, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1995
- Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
¤ Văn học:
- Điển tích chim Tinh Vệ trong Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh
- Bản lược đồ Văn học Việt Nam (Quyển Thượng), Thanh Lãng, Nxb. Trình bày
- Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển Hai), Phạm Thế Ngũ, Quốc học Tùng thư xuất bản
- Thành ngữ điển tích từ điển, Diên Hương, Nxb. Đồng Tháp, 1992.
- 365 truyện cổ sử chọn lọc Trung Quốc, Chu Mục - Trần Thâm (chủ biên), Nxb. Thanh niên, 2003
- Tứ thư, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003
¤ Văn tự:
- Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nguyễn Quang Hồng, Nxb. Giáo dục, 2008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét