30 tháng 9 2011

Cướp máy bay quân sự ở Việt Nam

Vụ Đinh Công Giểng

Vụ cướp máy bay quân sự đầu tiên gây chấn động lúc bấy giờ là việc cướp chiếc máy bay C-47 ở trung đoàn 918 ngày 22/3/1978. Tác giả của vụ cướp này là Thượng úy Đinh Công Giểng, phi công của Trung đoàn 918, người Quảng Ninh, và Lại Đắc Ngọc, là Trung tá phi công ngụy, trưởng phòng huấn luyện của không lực ngụy, sau giải phóng, được trưng dụng ảnh làm giáo viên huấn luyện lái C-47.  Số nhân viên trưng dụng từ chế độ cũ ở Trung đoàn 918 chỉ có 10 người, là phi công và cơ giới.

Thượng tá Nguyễn Chí Cự, nguyên Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 918 (bây giờ là Lữ đoàn 918), cho biết ở phi đội C-47 chỉ có một mình phi công Ngọc. Còn phi công Giểng trước khi bay C47 là phi công bay An-2. Giểng cùng lập kế hoạch với Ngọc cướp máy bay đi nước ngoài. Sáng 22/3/1978, chiếc máy bay C-47 cất cánh từ căn cứ Tân Sơn Nhất đi sân bay Quản Long (Cà Mau) để bay huấn luyện theo kế hoạch. Máy bay đã được nạp đầy xăng vì chuyến bay đó sẽ huấn luyện bay vòng kín. Khi đến sân bay Quản Long, nhân lúc cơ giới chính tên Mận và cơ giới phụ tên Nghị đang đi chợ thì Giểng, phi công lái phụ của Ngọc, thông báo động cơ máy bay bị trục trặc, đề nghị giám đốc sân bay Cà Mau cho bay thử lại.

Theo nguyên tắc, phải có cơ giới trên không đi cùng thì mới được phép bay. Nhưng lúc đó cả hai cơ giới đều đang đi chợ. Chắc cũng không ngờ đến chuyện cướp máy bay nên giám đốc sân bay Cà Mau đồng ý, nhưng rồi họ bay mất luôn. Thượng tá Nguyễn Chí Cự đang trực chỉ huy bay ở căn cứ Tân Sơn Nhất, nghe Cà Mau báo về là C-47 bị mất tích: "tôi bàng hoàng, nghĩ ngay đến chuyện hai người ấy cướp máy bay ra nước ngoài vì từ Cà Mau bay ra biển, chỉ cần 3 phút là tách khỏi đất liền" - Thượng tá Nguyễn Chí Cự nói. Chiếc C-47 đã bay qua Thái Lan rồi sau đó sang Singapore. Vụ này đã gây tác hại trực tiếp tới sức chiến đấu và tâm lý của đội ngũ phi công, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình Trung đoàn 918 lúc đó.


Vụ Tiêu Khánh Nha


Gần cuối năm 1979 ở VN có 1 phi công gốc Hoa đã cướp 1 chiếc C-130 từ sân bay Tân Sơn Nhất bay sang Singgapore.



NGUYỄN THÀNH TRUNG - PHÍA SAU ÁNH HÀO QUANG


Thứ Sáu, 10:24  27/04/2007

Vì không được tin tưởng, Nguyễn Thành Trung phải nuốt vào lòng bao cay đắng khi phải ở lại hậu phương. Ông ao ước đến cháy bỏng là được đi chiến đấu, được đối xử công bằng, được tôn trọng

Năm 1980, Nguyễn Thành Trung rất phấn khởi vì được trở về với bầu trời. Ông được chuyển đến Trung đoàn Vận tải không quân, học bay loại máy bay AN-6 của Liên Xô mới trang bị. Nguyễn Thành Trung học rất giỏi, chỉ bay 5 vòng xung quanh sân bay, ông đã được một chuyên gia nước bạn khen ngợi, thán phục và phê chuẩn làm giáo viên bay. Dù vậy, thời gian này liên tiếp xảy ra hai vụ phi công cướp máy bay trốn ra nước ngoài, khiến ông bị vạ lây.
Hai cuộc đào thoát
Lúc ấy, bộ đội Trường Sa cần có lực lượng không quân yểm trợ. Không quân ta bấy giờ có rất nhiều trực thăng UH-1 có thể đáp ứng yêu cầu chi viện trực tiếp của hải quân. Các kỹ sư đã chế tạo thành công, lắp thêm thùng dầu để có thể đủ nhiên liệu bay ra đảo. Một phi công chế độ cũ tên Nguyễn Văn Hai được giữ lại làm giáo viên UH-1 cho các chiến sĩ lái mới. Hai cố tỏ ra trung thành... Song mặt khác, ông ta bố trí vợ con bí mật đến một địa điểm trên đường từ phi trường Trà Nóc đến Rạch Giá, chờ đợi.
Khi thời cơ tới, trên chiếc trực thăng nạp đầy dầu có thêm thùng dầu phụ, tổ lái 3 người, gồm phi công Nguyễn Văn Hai và 2 chiến sĩ học viên, ông ta nổ máy. Chiếc máy bay vừa nhấc lên khỏi mặt đất, Hai nói to vào micro: “Máy bay có tiếng kêu”. Lập tức chiếc UH-1 được hạ cánh và hai học viên xuống kiểm tra phía sau đuôi máy bay theo chỉ dẫn của ông ta. Chỉ chờ có vậy, Hai tăng tốc độ, máy bay bốc lên nhanh chóng, rời phi trường giữa sự bàng hoàng của hai học viên và đài chỉ huy. Ông ta bay đến địa điểm đã hẹn với vợ con, chở họ thẳng sang Thái Lan, sau đó qua Mỹ.
Sau đó một năm lại xảy ra vụ đào thoát của thiếu tá phi công Tiêu Khánh Nha. Hôm đó, theo kế hoạch, Tiêu Khánh Nha sẽ bay thử chiếc C130 đang sửa chữa tại nhà sửa chữa (hangar). Mọi việc đã chuẩn bị xong, lượng dầu đã nạp đầy đủ cho một chuyến bay đường dài, có cả dự trữ dùng để xử lý những trường hợp bất trắc ở trên không.
Đêm trước ngày bay thử, Tiêu Khánh Nha đã bí mật cắt hàng rào bảo vệ tiếp giáp khu dân cư với hangar. Mờ sáng hôm đó, ông ta bí mật dắt vợ con, dỡ hàng rào vào hangar và ngồi chờ ở một gian nhà bỏ hoang gần nơi chiếc C130 đậu. 7 giờ 30, như thường lệ, một sĩ quan cơ giới trực ban cùng một chiến sĩ lái xe điện vào nạp điện, nổ máy. Khi tiếng động cơ nổ, Tiêu Khánh Nha liền dắt vợ con lên máy bay. Người sĩ quan cơ giới không trông thấy, bởi ông ngồi trên ghế lái chính. Lúc này, một thiếu úy cơ giới chế độ cũ được giữ lại làm việc cho hangar (chồng một nghệ sĩ cải lương nổi tiếng miền Nam) bước lên máy bay, tiến đến khống chế người sĩ quan cơ giới. Tiêu Khánh Nha cũng rút súng ngắn, dùng vũ lực buộc viên sĩ quan cơ giới rời ghế rồi nhanh chóng tăng tốc độ vòng quay và ra lệnh cho xe điện tháo dây. Mọi việc diễn ra rất nhanh, chiếc C130 rời mặt đất bay sang Singapore.
Nuốt vào lòng bao cay đắng
Sau hai vụ này, Nguyễn Thành Trung càng hết sức khó khăn khi vừa được trở về với công việc quen thuộc. Người ta thêm nghi ngờ và cảnh giác ông. Trong huấn luyện, dù là giáo viên, ông chỉ được phép bay vòng kín xung quanh sân bay. Vốn là một phi công bẩm sinh, loại máy bay nào Nguyễn Thành Trung cũng bay rất giỏi. Loại AN-26 của Liên Xô có hệ thống đồng hồ, cách tính thông số bay... hoàn toàn khác với các loại máy bay Mỹ, vậy mà chỉ hai ngày bay- vừa đủ năm vòng kín với thời gian trên không chưa đến 40 phút, ông đã hoàn thành toàn bộ chương trình, đủ điều kiện để đi đường dài làm nhiệm vụ vận tải hàng không.
Lúc này, quân tình nguyện VN còn đang chiến đấu rất ác liệt ở Campuchia. Lẽ ra, Nguyễn Thành Trung phải được đi chiến đấu, nhưng vì không được tin tưởng, ngày ngày ông phải nuốt vào lòng bao cay đắng để ở lại hậu phương. Chuyện một người lính đủ sức đương đầu với mọi thử thách như Nguyễn Thành Trung nhưng buộc phải ở lại tuyến sau, khiến ông đêm ngày bị giày vò. Nỗi khổ tâm càng tăng gấp nhiều lần bởi những lời nói, những ánh mắt, thái độ nghi kỵ của đồng đội, của những người chỉ huy đơn vị. Ngày ngày, dù đã được bay, được ngồi ở ghế giáo viên..., song ông cũng chỉ được vòng quanh bốn lần sân bay rồi hạ cánh xuống phi đạo. Nguyễn Thành Trung ao ước đến cháy bỏng là được đi chiến đấu, được đối xử công bằng, được tôn trọng.
Song Nguyễn Thành Trung biết, ông phải tự chứng minh mình, phải chịu đựng, phải vượt qua thử thách. Ông tập trung cho công việc giáo viên. Quá trình vượt qua thử thách nghiệt ngã của người đảng viên, người sĩ quan tình báo chân chính Nguyễn Thành Trung đã giúp hàng chục phi công được đào tạo bài bản, làm được nhiệm vụ vững vàng, phục vụ cho vận chuyển chiến trường Campuchia...
Một lần, trong khi bay kèm học viên, do ở mặt đất có trở ngại không hạ cánh được, thời tiết xấu rất nhanh, Nguyễn Thành Trung xin phép đài chỉ huy cho hạ cánh ở phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Lập tức đài chỉ huy báo động, báo cáo về sở chỉ huy. Mạng lưới ra đa của không quân được lệnh mở máy theo dõi và một biên đội tiêm kích được lệnh vào cấp 1 (phi công ngồi trong buồng lái). Tác giả bài viết này đang trực ở sở chỉ huy được lệnh dẫn trực tiếp Nguyễn Thành Trung bay ngược ra phía Bắc, đến Phan Thiết rồi bay trở lại hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, sau khi đã giải quyết xong trở ngại trên đường băng...
Lê Thành Chơn

Người phi công này (thực ra ông còn có tên là Tiêu Thanh Nha) là thiếu sinh quân miền Nam tập kết ra Bắc, sau đó bay Li-2, đóng ở đâu đó bên Gia Lâm, đến năm 1975 trở đi thì vào miền Nam chuyển loại sang C-130. 

Trong chiến tranh biên giới Tây Nam ông đạt nhiều thành tích nên được đề nghị phong anh hùng, trong quá trình thẩm tra lý lịch người ta phát hiện ông là người gốc Hoa, chuyện bắt đầu từ đó.

Lịch sử Dẫn đường Không quân

Số hóa Triumf@Quansuvn.net

3. Công tác dẫn đường trong thực hiện nhiệm vụ giúp nhân dân Cam-pu-ohia bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang (tháng 1 năm 1979-tháng 9 năm 1989).

Mặc dù bị đánh bại trên toàn lãnh thổ Cam-pu-chia, nhưng tàn quân Khơ-me đỏ không cam chịu thất bại, chúng ngoan cố chống lại chính quyền mới. Trong lúc đó, sau khi thoát khỏi thảm họa diệt chủng, nhân dân Cam-pu-chia bắt tay ngay vào công cuộc tái thiết đất nước. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ thành quả cách mạng được đặt lên vai Quân đội cách mạng Cam-pu-chia. Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục sát cánh cùng với các đơn vị vũ trang của nước bạn tham gia thực hiện nhiệm vụ trọng đại này.

Từ ngày 18 tháng 1 năm 1979, tại sân bay Pô Chen Tông, sở chỉ huy (F1) của Sư đoàn 372 liên tục điều hành các hoạt động của không quân ta và tổ chức trực chiến cho 3 UH-1 và 2 U-17. Trong 5 ngày cuối tháng 1 năm 1979, không quân ta được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch theo các nguồn tin tình báo từ các Quân khu 7, Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4 tại các khu vực phía bắc Phnôm Pênh. Các kíp trực ban dẫn đường ở Pô Chen Tông và Biên Hòa đã thực hiện dẫn 4 lần/chiếc U-17 lên chỉ thị mục tiêu chính xác và 3 lần/chiếc F-5 bay chuyển tiếp chỉ huy kịp thời cho 30 lần/chiếc F-5 đánh vào các vị trí của tàn quân Khơ-me đỏ đang tiến hành tụ tập lực lượng, phá rối chính quyền địa phương tại các khu vực ở bắc-tây bắc Phnôm Pênh 40km, ở Kông Pông Chàm, Kông Pông Chnăng...

Ngày 31 tháng 1 năm 1979, không quân ta tập trung chi viện hỏa lực cho các đơn vị bộ binh và hải quân đánh tàu và khu tập trung quân ở hai cửa sông chảy xuống phía bắc vịnh Kông Pông Xom. Các kíp trực ban dẫn đường và dẫn đường trên không đã phối hợp chặt chẽ với nhau, dẫn bay chính xác cho F-5, A-37, C-119K và C-130 đánh đúng mục tiêu trong cả 2 đợt hoạt động: Buổi sáng dẫn 4 đôi F-5, 1 biên đội A-37 và 1 C-119K; buổi chiều dẫn 3 đôi F-5, 4 đội A-37 và 1 C-130. Riêng máy bay C-119K, do hệ thống thả cối bị kẹt nhiều lần, nên không thả hết được số lượng đạn mang theo.

Từ giữa tháng 1 năm 1979, tàn quân Khơ-me đỏ đã tiến hành co cụm, tập hợp lực lượng tại các khu vực giữa đường 3 và đường 4 thuộc địa bàn vùng tây nam Cam-pu- chia. Chúng dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở để giấu quân, thường xuyên tổ chức phục kích các đoàn xe của ta trên hai trục đường chính nối cảng Kông Pông Xom với thủ đô Phnôm Pênh, tập kích vào các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và đánh phá chính quyền địa phương của bạn ở nhiều nơi trong vùng.

Đầu tháng 1/1979, trên hướng chính của Quân đoàn 4 tiến vào Phnom Penh, sau mấy ngày phản công quân ta đã đẩy lùi các Sư đoàn 340, 703, 805 địch vào nội địa. Địch (quân Khơ Me đỏ) có biểu hiện bỏ chạy về sau để lập tuyến phòng ngự cố thủ.

Trên đường vào Phnom Penh phải vượt qua sông Mekong ở phà Neak Luong. Đây là một yếu địa, nếu để cho địch tập trung được về đây lập tuyến phòng thủ vững chắc thì quân ta rất khó vượt qua để sang giải phóng Phnom Penh. Vì thế Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định cho Không quân Nhân dân Việt Nam tập kích để ngăn chặn địch.

Hiện vật tiêm kích F-5 từng tham gia chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam 1979.
Nhận lệnh, Bộ Tư lệnh Không quân nhận định: địch nhất thiết sẽ bám theo đường bộ, sau đó qua phà Neak Luong sang bờ tây sông Mekong củng cố lực lượng và xây dựng tuyến phòng thủ mới. Đây là điểm nút giao thông cực kỳ quan trọng với địch nhưng lại là mục tiêu đánh rất thuận lợi với không quân ta.

Các Trung đoàn 935, 937, 918 được giao nhiệm vụ chuẩn bị lực lượng công kích Neak Luong. Riêng Trung đoàn 917 tập trung làm phương án bay trinh sát, cấp cứu và vận chuyển súng đạn thuốc men cùng cán bộ và thương binh theo yêu cầu của Quân đoàn 4.

Sáng sớm ngày 3/1/1979, Trung đoàn 935 bắt đầu cho F-5 xuất kích từ sân bay Biên Hòa lên đánh bến Neak Luong. 6h35, cặp F-5 thứ nhất cất cánh bay qua Gò Dầu Hạ vào đánh các mục tiêu cố định ở hai bên đường số 1 phía tây bắc Svay Rieng. Sau cặp này liên tiếp 5 cặp F-5 nữa lần lượt cất cánh lên đánh các đoàn xe, pháo của địch đang rút chạy trên đường 1 từ Svay Chrum (tây bắc Svay Riêng 5 km) đến Ampil (tây bắc Svay Riêng 25 km). 9h30, cặp F-5 cuối cùng đi công kích đã trở về hạ cánh an toàn.

Trực thăng CH-47 (do Mỹ sản xuất, thu giữ năm 1975) đang đổ quân trong chiến dịch phản công trên biên giới Tây Nam 1979.
Sau F-5, lực lượng máy bay A-37 của Tung đoàn 937 cũng xuất kích đánh vào mục tiêu núi Xôm. Ba biên đội gồm 12 chiếc A-37 nối nhau rời đường bay Biên Hòa. Đội hình bay thấp ở độ cao 450m, hạn chế liên lạc đối không. Khi còn cách mục tiêu 3 phút 30 giây, các máy bay đồng loạt kéo cao lên 3.000m vào ném bom với góc bổ nhào 35 độ, ném bom ở độ cao 2.100m rồi thoát ly khỏi mục tiêu. Đợt ném bom của các máy bay A-37 đã tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn 210 và sư đoàn 250 cùng một trận địa pháo 105mm của Khơ Me đỏ tại đây buộc chúng phải rút về Ta Keo.

Những đòn đánh bồi

Tình hình tiếp tục diễn biến thuận lợi. Địch bị đánh tơi tả khắp nơi đang ùn ùn rút chạy về hướng Neak Luong để sang bờ tây sông Mekong. Trung đoàn 935 tiếp tục nhận lệnh khẩn trương tổ chức lực lượng đánh vào các đoàn xe pháo đang rút chạy của địch.

11h43, Trung đoàn 935 bắt đầu tập kích đợt 2. Đợt này trung đoàn sử dụng 4 cặp F-5 đánh địch dọc theo đường 1 từ Pray Nhây (tây-tây bắc Svay Riêng 20 km) đến Lovia (đông nam Neak Luong 14 km) tiêu diệt nhiều xe pháo của địch.

Trên đường rút chạy, những toán quân Khơ Me đỏ đã bị thiệt hại nặng nề vì bom của các máy bay F-5 của ta. Về đến Neak Luong, tưởng đã an toàn thì chúng lại bị các biên đội ném bom A-37 tiếp tục công kích.

F-5 ném bom.
Lúc 14h55 phút, từ Biên Hòa, 3 biên đội A-37 của trung đoàn 937 với 12 chiếc cất cánh bay về hướng Neak Luong. Ngay từ loạt bom đầu, nhiều trận địa pháo phòng không của địch bảo vệ phà Neak Luong đã bị chế áp trong đó có 1 trận địa pháo cao xạ 37 mm bị tiêu diệt. Những loạt bom tiếp theo rơi trúng hai đầu bến làm một phà lớn bị cháy và 2 tàu chở quân bị chìm. Trận không kích kết thúc lúc 15h54, toàn bộ đội bay trở về an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tuy ban ngày, quân địch bị F-5 và A-37 đánh cả trên Đường 1 và tại bến phà Niếc Lương, nhưng lực lượng của chúng vẫn phải tiếp tục dồn về đây. Tối 3/1/1979, Bộ chỉ huy chiến dịch yêu cầu không quân giáng một đòn nữa vào bến phà Niếc Lương. Nhiệm vụ này được giao cho Trung đoàn 918.

Vào lúc 22h, Trung đoàn 918 cho 1 chiếc C-130 xuất kích từ Biên Hòa. Mặc dù thời tiết xấu nhiều mây nhưng kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372 đã kịp thời phối hợp cùng với dẫn đường trên không đưa máy bay ta vào đúng đường bay dự tính.

Phi công Không quân Nhân dân Việt Nam trên A-37.
Khi tới gần mục tiêu, lái chính Tiêu Khánh Nha giữ máy bay bay bằng ổn định đúng độ cao, tốc độ và hướng bay chiến đấu; dẫn đường trên không Đặng Văn Lự tập trung quan sát lấy phần tử ngắm. Chiếc C-130 ném luôn một loạt hết 40 quả bom MK-81-250 xuống bến phà. Sau khi bay qua mục tiêu, lái chính cho máy bay vòng lại, nhìn xuống dưới thấy nhiều đám cháy bùng lên dữ dội.

Chỉ tính riêng ngày 3/1/1979, từ Svay Riêng đến Nek Luong và tại núi Xôm, Không quân ta đã xuất kích với tần suất rất cao tích cực đánh địch. F-5 xuất kích 29 lần/ chiếc, A-37 24 lần/chiếc và 1 lần/chiếc C-130. Tất cả các chuyến bay đều đánh trúng mục tiêu được giao, vào đúng thời gian quy định, gây thiệt hại nặng nề cho quân Khơ Me đỏ.

Những đòn chủ động, đón trước của không quân ta đánh vào các lực lượng rút lui của địch đã góp phần quan trọng làm mất đi khả năng dồn quân về phòng thủ cho Phnôm Pênh. Nhờ đó Quân đoàn 4 có điều kiện thuận lợi để vào giải phóng Phnom Penh ngày 7/1/1979.

Đầu tháng 2 năm 1979, địch âm mưu tập trung các đơn vị bộ binh, có xe tăng yểm hộ, tổ chức đánh lại ta, hòng chiếm thị xã Ta Keo và Cam Pốt. Lực lượng A-37 ở Cần Thơ được giao nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị Quân đoàn 4 và Quân khu 9, tổ chức các đòn đánh vừa và nhỏ, nhưng liên tục vào các mục tiêu trọng yếu của địch. Trong suốt thời gian từ ngày 1 đến 16 tháng 2 năm 1979, hầu như ngày nào A-37 cũng xuất kích.

Ngày 1 tháng 2, 4 lần/chiếc A-37 đánh ở bắc Cam Pốt 15km, có 2 lần/chiếc A-37 bay chuyển tiếp chỉ huy. Ngày 3 tháng 2, 1 A-37 trinh sát thời tiết, 1 A-37 chuyển tiếp chỉ huy và 8 lần/chiếc A-37 đánh tại bắc Cam Pốt 25km. Ngày 4 tháng 2 năm 1979, ta chuyển sang đánh 2 đợt liên tiếp vào trung đoàn 11 của địch đang tập trung ở đông Ta Keo 35km. Phi công U-17 Mai Chí Lưu bay chỉ thị mục tiêu. Các đôi bay A-37: Vũ Khởi Nghĩa-Nguyễn Năng Nghĩa, Âu Văn Hùng-Huỳnh Hiền, Nguyễn Văn Ngợi-Thái Quang Hợi, Nguyễn Hùng Vân-Phùng Công Định phối hợp chặt chẽ cùng với 2 đôi UH-1 vũ trang đánh địch đạt hiệu quả cao. Để bảo đảm cho A-37 đánh còn có 3 UH-1 bay sẵn sàng cấp cứu và 2 đôi F-5 bay chuyển tiếp chỉ huy.

Ngày 5 tháng 2, 2 đôi A-37 đánh hai đợt ở nam Ta Keo 5km đều có U-17 chỉ thị mục tiêu. Ngày 6 tháng 2, 2 biên đội A-37 đánh hai đợt ở tây bắc Ta Keo 31km. Ngày 7 tháng 2, 2 đôi A-37 chi viện hỏa lực cho các đơn vị Quân khu 9 đánh địch tại Ang Ta Som (tây-tây bắc Ta Keo 13km). Ngày 8 tháng 2, 1 U-17 từ Pô Chen Tông xuống chỉ thị mục tiêu cho 2 đôi A-37 đánh tại tây bắc Ta Keo 33km. Ngày 9 tháng 2, 1 U-17 từ Cần Thơ lên chỉ thị mục tiêu cho 2 đôi bay A-37 từ Cần Thơ cùng với 2 đôi F-5 từ Biên Hòa vào đánh lại các mục tiêu ở tây bắc Ta Keo 33km. Ngày 10 tháng 2, sau khi nhận được thông báo của quân ta phát hiện địch đang đóng một số chốt bộ binh và tập trung xe tăng, xe tải trong một khu vực hẹp ở bắc-tây bắc Ta Keo 35km, 2 đôi bay A-37 và 2 đôi bay F-5 kịp thời cất cánh từ Cần Thơ và Biên Hòa. Bom rơi trúng đích. Quân địch bị tiêu diệt gọn.

Trong 3 ngày 14, 15 và 16 tháng 2 năm 1979, A-37 cùng với F-5 tập trung đánh các mục tiêu ở khu vực Chhuk (đông bắc Cam Pốt 38km). Tại đây, địch lợi dụng địa hình rừng núi sát đường 3, đường 34 và 35, đã thu gom được khá nhiều lực lượng, chuẩn bị chuyển quân để đánh xuống Cam Pốt và đánh lên Ta Keo. Ta sử dụng 2 lần/chiếc A-37 chuyển tiếp chỉ huy, 10 lần/chiếc A-37 và 4 lần/chiếc F-5 đánh trúng các điểm đóng quân quan trọng của địch. Kíp trực ban dẫn đường ở Cần Thơ đã xử lý hiệu quả 2 tình huống: dẫn 1 biên đội A-37 vào ném bom bay bằng khi phi công báo cáo trên mục tiêu mây 10 phần và dẫn 1 đôi F-5 không phát hiện mục tiêu, làm vòng chờ ở phía trên để quan sát điểm nổ của đôi F-5 bay sau, rồi mới cho vào công kích.

Cũng trong thời gian trên, ngày 11 tháng 2 năm 1979, 3 đôi bay F-5: Dương Bá Kháng-Nguyễn Văn Trọng, Phạm Hy-Mai Văn Sách và Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng đánh trúng 3 mục tiêu được giao ở Pva Sát (Pô Xát) tây bắc Kông Pông Chnăng 85km và ngày 14 tháng 2 năm 1979, tổ bay C-130 do tái chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Vũ Mạnh cất cánh từ Biên Hòa đánh địch tập trung ở ngã ba sông Cô Công. Tại khu vực mục tiêu thời tiết xấu, trong lần tính toán ném bom thứ nhất, dẫn đường trên không Vũ Mạnh cảm thấy chưa đạt yêu cầu đã chủ động đề nghị xin vòng lại và quyết tâm tính toán bảo đảm thật chính xác mới thực hiện ném bom.

Trong đợt hoạt động dài ngày nói trên, các kíp trực ban dẫn đường tại Cần Thơ thường xuyên chuẩn bị tốt các phương án dẫn bay và liên tục thực hiện dẫn máy bay của đơn vị mình và đơn vị bạn đánh địch đúng ý định của người chỉ huy.

Ngay sau khi đất nước Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, Sư đoàn 370 đã được Tư lệnh Quân chủng không quân giao nhiệm vụ đưa một phần lực lượng của Trung đoàn 925 sang giúp bạn. Đây là một trong những đơn vị quân tình nguyện đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam chịu trách nhiệm giúp bạn khai thác số máy bay MIG-19 thu được từ quân Khơ-me đỏ và khôi phục lại hệ thống bảo đảm trên các sân bay thuộc 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc của bạn, đồng thời sẵn sàng đánh địch cả trên không và mặt đất.

Tháng 2 năm 1979, 8 chiếc MiG-19 của Trung đoàn 925 được dẫn bay chuyến sân từ Biên Hòa sang Pô Chen Tông tham gia trực chiến. Trong năm 1979, MiG-19 tham gia xuất kích 94 lần/chiếc với 71 giờ bay, trong đó có 4 trận chi viện hỏa lực cho các đơn vị của Quân đoàn 3 truy quét tàn quân Khơ-me đỏ tại Pai Lin (cách biên giới Thái Lan 9km), Lếch (tây nam Bát Tam Băng 35km). Được các đồng chí Phạm Ngọc Lan và Lưu Huy Chao trực tiếp chỉ huy và kíp trực ban dẫn đường ở Pô Chen Tông dẫn, các phi công Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Vũ Hiệu, Nguyễn Thế Ngữ, Vũ Công Thuyết... đều đánh trúng các mục tiêu được giao. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy trước đây đã dẫn MiG-19 bắn rơi máy bay Mỹ trên chiến trường miền Bắc, nay lại dẫn thành công máy bay tiêm kích MIG-19 mang bom chi viện hỏa lực cho bộ đội tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Cam-pu-chia. MiG-19 đã nối tiếp được các chiến công do máy bay tiêm kích MIG-17 mang bom đã lập nên vào ngày 19 tháng 4 năm 1972 và do máy bay tiêm kích F-5 cũng mang bom đã lập nên vào ngày 6 tháng 5 năm 1978.

Cơn bão bài Hoa ngày ấy  càn quét xác xơ các china town Hải Phòng và Hà Nội, tp. HCM, không phải tâm bão nhưng dư chấn không hề nhẹ nhõm hơn.

Ông Tiêu Khánh Nha nằm trong lứa những phi công đầu tiên của Hàng không Việt, và không thuộc trường hợp ngoại lệ, nên được như anh Nguyễn Thành Trung cũng thật sự là may mắn.


Sau đó ông liền bị cắt bay, cho xuống mặt đất, loại ngũ..... Nếu ai đã từng gắn bó với bầu trời thì việc bị cắt bay là một việc kinh khủng. Cho nên đây thực sự là một cú sốc đối với một phi công yêu nghề. 

Hãy hình dung, đang thét ra lửa, sáng sáng đến cơ quan lính gác đứng nghiêm bồng súng rốp rốp chào thì một sáng, vẫn những thằng lính gác ấy cấm cửa ông với một lời khẩn khoản, lệnh cấp trên, chú thương chúng cháu thì dừng ngoài cổng này.

Bị cho nghỉ ngang, đơn vị lại dứt khoát không cấp bất cứ thứ giấy tờ gì để ông ra ngoài kiếm sống. Phải đặt trong bối cảnh 30 năm trước mới thấy, đấy là những cách dồn ông và gia đình vào cửa tử.

Vượt biên bằng cách ăn cắp máy bay là kế do chính những đồng nghiệp Việt bày ra và thực hiện gần hết các công đoạn ăn cắp phi thường - đến giờ vẫn là phi thường - cho ông.

Nguyên tắc, khi máy bay đưa vào hanga phải rút toàn bộ xăng, chiếc máy bay ấy được phép rời hanga với đầy đủ thủ tục nhiêu khê ai cũng biết trừ lãnh đạo không biết, sẽ bay với mục đích thật là gì.

Tiêu Khánh Nha cùng vợ và hai con được các chị cantin xưởng máy bay giấu trong bếp, tới gần giờ phi thường trốn tiếp bên bờ rào gần hanga, mé mạn Gò vấp bây giờ.

Tiêu Khánh Nha đã cất cánh ngay tại sân đỗ của sân bay Tân Sơn Nhất, không chạy ra đường băng, náo loạn, ra tận Hà Nội.

Lệnh máy bay quân sự đuổi theo bắn hạ được thực thi. Thế nhưng, bình thường, một phi công quân sự từ trên giường nhảy xuống, đóng đầy đủ lệ bộ  bùng nhùng áo quần mũ mãng và sẵn sàng trong buồng lái, chỉ mất 9 phút. Lần ấy, chuông báo động hỏng ... cầu chì  gần 20 phút.

Tiêu Khánh Nha hạ cánh an toàn xuống một sân bay Thái Singgapore và ngay lập tức được Hàn quốc chào đón.

Toàn bộ kíp trực Việt hôm ấy lên bờ xuống ruộng và toàn bộ tổ bay cùng Tiêu Khánh Nha, phải về nhà nuôi lợn theo đúng nghĩa đen, không một ai, nửa lời than vãn hay hối hận về việc đã làm, cho Tiêu Khánh Nha.

Liệu có ai biết ông bây giờ làm gì ở đâu không? Có làm gì liên quan đến nghề bay không?


Vụ cướp máy bay trực thăng UH-1H của Việt Nam từ sân bay Bạch Mai đào thoát thành công sang Trung Quốc ngày 30/9/1981

Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam


Nhà xuất bản QĐND

Năm xuất bản: 2003
Số hóa: ptlinh@Quansuvn.net, maibennhau@Quansuvn.net


GIAI ĐOẠN BA (từ 3-1979 đến 1989)

Trong 5 năm (1981-1985), chống chiến tranh phá hoại về kinh tế của các thế lực thù địch, ta đã bắt giữ 5.278 vụ buôn lậu, 7.916 vụ buôn bán trái phép, lấy cắp tài sản của nước nhà, quét 209 băng cướp vũ trang; sử dụng 2.700 lần tàu tuần tiễu, 100 lần chiếc máy bay tuần sục trên mặt biển, đã bắn chìm và ngăn chặn những tàu lạ xâm nhập trái phép vùng biển của ta (có 21 tàu của họ bị bắt giữ), giữ lại 70% số vụ người chạy trốn ra nước ngoài, thu 546 súng.

Trong quá trình chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, đã để xảy ra một vụ việc đáng tiếc: hồi 5 giờ 7 phút ngày 30-9-1981 vụ cướp máy bay UH1 số 576 từ sân bay Bạch Mai ra nước ngoài, mà các lực lượng Phòng không và Không quân của ta đã để chạy thoát. Sự việc này đã có ảnh hướng chính trị không tốt. Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình hệ thống phòng không và thông tin còn sơ hở, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu chưa thật cao. Tuy Cục Tác chiến đã ngay lập tức điện đến tất cả các lực lượng phía Bắc, nhưng hướng Quân đoàn 3 muộn hơn, nên có liên quan một phần về trách nhiệm.

Chiếc máy bay UH-1H 576 và phi hành đoàn tại Đại Tân, TQ sáng sớm 30/9/1981.

Đám "không chích" được đi tham quan di tích lịch sử sau khi đổ bộ xuống TQ, theo nguồn tin TTVNOL hồi xưa thì mấy tay "không chích" này còn đậu xuống SVĐ Long Biên để đón người nhà, sau đó bay thấp theo sát mặt nước sông Hồng mà sang TQ, do đó ta không phát hiện được.

"Phi công đội bay Việt Nam bỏ trốn sang Trung Quốc vì bất mãn với LD/1981年越南飞行员驾机投奔中国:我对黎笋不满/1981 niên Việt Nam phi hành viên giá cơ đầu bôn Trung Quốc: Ngã đối Lê Duẩn bất mãn" dịch: OldBuff@Quansuvn.net


Sự kiện chiếc máy bay trực thăng UH-1H của Việt Nam đào thoát thành công sang Trung Quốc vào ngày 30/9/1981 được đưa trên trang ảnh mạng "Đồ Khố" dưới tiêu đề tuyên truyền "Phi công đội bay Việt Nam bỏ trốn sang Trung Quốc vì bất mãn với LD/1981年越南飞行员驾机投奔中国:我对黎笋不满/1981 niên Việt Nam phi hành viên giá cơ đầu bôn Trung Quốc: Ngã đối Lê Duẩn bất mãn".

1981年9月30日上午8时51分 (河内时间7时51分),一架越南军用UH-1H直升机降落在我国广西壮族自治区大新县一块农田里,机上走下来越南空军少尉飞行员乔清陆、越南空军准尉、空中机械师黄春团、退役准尉空中机械师黎玉山和建筑工程师杨文利等10人。他们向闻讯赶来的中国人民解放军边防部队和民兵主动交出了武器,并说明自己是因为不满黎笋集团的统治,才驾机投奔中国而来的,希望能够在中国政治避难。很快他们一行10人被送到北京。10月8日,人民日报头版发表简讯 "反对黎笋反动集团的黑暗统治 乔清陆等十人驾机逃离越南到我国 表明追求自由和幸福的来意后受到我有关方面的接待",向全世界公开了此一事件。
Ảnh 1: Hồi 8 giờ 51 phút (7 giờ 51 phút giờ Hà Nội) ngày 30/9/1981, một chiếc trực thăng quân sự UH-1H của Việt Nam đã đáp xuống một khoảnh ruộng tại huyện Đại Tân thuộc Khu tự trị Tráng tộc Quảng Tây, mang theo cơ trưởng là thiếu úy không quân Việt Nam Kiều Thanh Lục, chuẩn úy cơ giới hàng không Hoàng Xuân Đoàn, chuẩn úy cơ giới hàng không đã phục viên Lê Ngọc Sơn, kỹ sư hàng không Dương Văn Lợi cùng 10 người khác. Nhóm người này đã tự nguyện giao nộp vũ khí theo hướng dẫn của bộ đội biên phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và lực lượng dân quân, giải thích rằng do bất mãn với sự thống trị của tập đoàn LD mà phải bỏ trốn sang Trung Quốc để xin tị nạn chính trị. Nhóm 10 người này đã được chuyển tới Bắc Kinh ngay sau đó. Ngày 8/10, trang nhất Nhân dân nhật báo đã chạy tin vắn công khai sự kiện này ra khắp thế giới: "Phản đối sự thống trị đen tối của tập đoàn phản động LD, Kiều Thanh Lục cùng 10 người khác đã lên máy bay rời khỏi Việt Nam trốn sang Trung Quốc mưu cầu tự do, hạnh phúc và đã được giới chức hữu quan nước ta tiếp nhận".
越南国内迅速作出反映,指责上述人员在越南犯了杀人罪,为了逃避法律的制裁所以逃亡中国。10月16日人民日报刊发消息 "我有关部门根据中国法律规定 允许乔清陆等十人在我国居留"。10月16日下午,乔清陆、黄春团、黎玉山、杨文利4人在北京举行中外记者招待会,说明逃离越南的原因,并介绍了越南国内的形势,越南侵略柬埔寨等情况。10月20日下午,越南共产党元老黄文欢会见了乔清陆一行。图为三位越南飞行员在飞机前合影。

Ảnh 2: Theo nguồn tin nhanh khai thác từ Việt Nam, nhóm người trên bị cáo buộc phạm tội giết người ở Việt Nam nên tìm cách trốn qua Trung Quốc để tránh tội. Nhân dân nhật báo số ra ngày 16/10 đăng tin "Cơ quan hữu quan nước ta đã căn cứ vào pháp luật Trung Quốc hiện hành để cho Kiều Thanh Lục cùng 10 người đi kèm được phép cư trú trong nước". Chiều ngày 16/10, cả bốn người Kiều Thanh Lục, Hoàng Xuân Đoàn, Lê Ngọc Sơn và Dương Văn Lợi đã dự buổi chiêu đãi với các phóng viên nước ngoài để giải thích lý do bỏ trốn và nội tình trong nước tại Việt Nam, cũng như tình huống Việt Nam xâm chiếm CPC. Chiều ngày 20/10, lão thành ĐCSVN Hoàng Văn Hoan đã hội kiến với nhóm của Kiều Thanh Lục. Trong hình là ba phi hành viên Việt Nam đứng chụp hình trước máy bay.
河内是越南防空体系最为完善的地区,拥有全国最先进、最完备的防空探测系统,构成了全方位、全高度的立体探测网。越东北也是越南空军-防空军部署最严密的地区。但乔清陆等人驾驶直升机从河内的白梅机场起飞,在越南境内飞行了130公里,却未被越军击落,最后在中国境内成功着陆,堪称世界飞行史上的一个奇迹。

Ảnh 3: Hà Nội là khu vực có hệ thống phòng không hoàn thiện nhất Việt Nam, với hệ thống trinh sát phòng không hoàn bị và tiên tiến nhất cả nước cấu thành từ thế trận trinh sát nhiều chiều toàn phương vị và mọi độ cao. Khu vực Đông Bắc Việt Nam được bố trí một hệ thống phòng không không quân rất nghiêm mật. Thế mà Kiều Thanh Lục xuất phát từ sân bay trực thăng Bạch Mai tại Hà Nội, rồi bay hơn 130 km trên không phận Việt Nam mà vẫn không bị bắn rơi, cuối cùng cũng tới được đất Trung Quốc. Phải nói đây là kỳ tích hàng đầu trong lịch sử các chuyến bay của thế giới.
30年过去了,博物馆(北京的中国航空博物馆)内停放着的1981年越南飞行员起义投奔中国时驾驶的UH-1直升飞机。
Ảnh 4: Ba mươi năm đã qua, chiếc máy bay trực thăng UH-1 từng được viên phi công Việt Nam khởi nghĩa dùng để trốn chạy sang Trung Quốc vào năm 1981 hiện đang nằm trong bảo tàng (Bảng tàng hàng không Trung Quốc tại Bắc Kinh).
Liệu có ai biết các thành viên phi đội bay này bây giờ làm gì ở đâu không? Có làm gì liên quan đến nghề bay không?




23 tháng 9 2011

Chính sách đối với ngụy quân ngụy quyền sau giải phóng

Bạn taynguyen2004 có mail hỏi về vấn đề này, xét thấy dề tài rộng nên mở note này để thu thập tài liệu nhằm chia xẻ với các bạn. ...

Gắng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Vũ Khúc)


 

Tôi được giao nhiệm vụ biên tập các bản thảo gửi đến Tạp chí Địa chất đã được 20 năm nay (từ 1986, Phó Tổng biên tập). Ngay từ những tháng ngày đầu làm công việc này, trong tôi luôn vang lên câu nói mang tính kêu gọi của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: "Hãy gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt!". Trong hai mươi năm qua, tôi luôn cảm thấy tính thời sự, cũng như tính cấp thiết của lời kêu gọi này, ngay cả đến ngày nay, khi đã hình thành một thế hệ chuyên gia địa chất trẻ được đào tạo cẩn thận, đã trưởng thành và dần nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy nghiên cứu địa chất và điều tra khoáng sản ở nước ta. Nhưng các bản thảo gửi đến Tạp chí vẫn có nhiều điều phải nói đến, để sao cho Tạp chí ta luôn đi theo lời kêu gọi của Cố Thủ tướng.

I. Hãy tránh viết giọng văn dịch

Có lẽ do được đào tạo ở nước ngoài, hoặc đọc sách báo ngoại ngữ nhiều, lời văn ở bản thảo của một số tác giả do chính tác giả viết ra, diễn đạt một ý của chính mình, mà cứ như là dịch từ lời văn của người nước ngoài. Có thể lấy ví dụ: "Các phần của đứt gãy mà nó được phát triển trong pha thứ nhất…"; có lẽ tôi phải lấy danh dự ra mà đảm bảo là tôi đã trích dẫn nguyên si, thì các bạn mới tin là có tác giả đã viết như vậy. Cái đoạn "mà nó được phát triển" sao mà nặng nề và "tây" đến thế? Nó làm ta liên tưởng ngay đến cách viết: "that was developed…". Phổ biến hơn, các tác giả thường viết tính động từ đi kèm với từ "được" làm cho câu văn rất nặng, ví dụ như: "các mặt cắt lấy mẫu được phân bố dọc theo quốc lộ 6…", "sự nâng lên của khối này được xảy ra…", "đá bazan được lộ ra…", "bản đồ được thành lập bởi…", v.v. Dân ta vẫn thường nói: "Thịt bò ăn ngon quá!". Tất nhiên, ai cũng hiểu là chúng ta ăn thịt bò, và thịt bò được chúng ta ăn, nhưng các bạn xem, chẳng có ai nói là: "Thịt bò được ăn ngon quá!", càng không có ai nói: "Thịt bò được ăn bởi vợ tôi!". Có lẽ phải sang hay mới được nghe cách nói như vậy. Nếu chúng ta viết: "các mặt cắt lấy mẫu phân bố dọc theo quốc lộ 6…" hay "đá bazan lộ ra…", v.v. thì có đưa đến hiểu lầm gì đâu nhỉ? Mà câu văn rất thoát. Thêm nữa, ta nên quen với cách viết: "bản đồ do X và nnk. thành lập…", "phương pháp do Nagibian đưa ra…", chứ không nên viết: "bản đồ được thành lập bởi X và nnk.…", hay "phương pháp được đưa ra bởi Nagibian…". Về nghĩa không có gì khác nhau, nhưng câu văn kiểu thứ hai rất "tây" và nặng nề lắm. Đấy là giọng văn dịch, và là dịch vụng.
Ngoài ra, một vài thuật ngữ nước ngoài có nhiều nghĩa quốc ngữ, nhưng người viết chỉ dùng có một nghĩa, nên đưa đến các trường hợp rất sái. Ví dụ như một số tác giả rất hay dùng từ "lãnh thổ" không đúng chỗ, như "lãnh thổ Nam Trung Bộ", thậm chí " trong lãnh thổ tỉnh Điện Biên". Về trường hợp này, có lẽ các tác giả đó đã hiểu "territory" chỉ có một nghĩa là "lãnh thổ"; nhưng theo Từ điển Anh-Việt [5], "territory" có 2 nhóm nghĩa: 1) đất đai, địa hạt, lãnh thổ; 2) khu vực, vùng, miền. Như vậy, phải viết là: "miền " và "trong địa phận tỉnh Điện Biên" thì mới thích hợp. Vì theo Từ điển tiếng Việt [2], "lãnh thổ" là "đất đai thuộc chủ quyền của một nước". Việc hiểu theo một nghĩa làm ta lại nhớ đến một thời, có một số người ở nước ta hiểu (hay cố tình hiểu) "academy" chỉ có một nghĩa là "viện hàn lâm", mà báo chí đã từng nói đến nhiều. Nếu bạn đến số 7, Lý Thường Kiệt, Hà Nội sẽ thấy Học viện Tài chính có tên tiếng Anh là "Academy of Finance", mà ở đó chắc là chẳng có "Viện sĩ" nào. Khi ta dùng từ gì, nếu có chút ngờ ngợ, nên tìm hiểu kỹ nghĩa của từ đó trong các từ điển.

II. Hãy quan tâm tới văn phạm

Không hiểu sao, trong khoảng vài năm gần đây, một vài tác giả hay dùng một cách viết rất sai văn phạm, kể cả trong các nhật báo phổ thông. Đó là cách viết "Dựa vào các kết quả phân tích cho thấy…"! Hoặc là "Qua quan hệ địa tầng vừa trình bày cho thấy…"! Cái gì cho thấy? Rõ ràng là "các kết quả phân tích" hay "quan hệ địa tầng" không thể đóng vai trò chủ ngữ của "cho thấy", vì nó đã đứng sau và phụ thuộc "dựa vào" và "qua" để tạo nên một mệnh đề phụ cho câu. Tại sao lại không viết một cách đơn giản: "Các kết quả phân tích cho thấy…" và "Quan hệ địa tầng vừa trình bày cho thấy…"; hay là "Dựa vào các kết quả phân tích, ta thấy…" và "Qua quan hệ địa tầng vừa trình bày, ta thấy…", thì câu văn sẽ không có gì sai phạm. Tôi cho là trong trường hợp này, người viết đã không quan tâm tới vấn đề văn phạm của câu mình viết ra.
Cũng gần đây, thường xuất hiện cách viết kiểu này: "Trong vùng X lộ ra hai khối magma. Trong đó, khối nằm ở phía nam có thành phần axit". Cái dấu chấm đứng trước "Trong đó" sao mà vô duyên thế! Các bạn cứ thử đọc lại riêng một câu thứ hai, thì thấy nó rất cụt. Thực ra, đó chỉ là một câu "Trong vùng X lộ ra hai khối magma, trong đó khối nằm ở phía nam có thành phần axit", và "trong đó" là một liên từ thường không được dùng để mở đầu một câu, khác với "tuy nhiên", "tuy vậy", "nhưng"… Việc thay đổi một dấu ngắt trong câu cũng có ý nghĩa quan trọng, không nên xem thường.
Một số tác giả viết hoa một số từ chưa được đúng luật của quốc ngữ. Từ khi còn ngồi ghế nhà trường, chúng ta đã được dạy là chỉ có tên người và địa danh phải viết hoa toàn bộ, còn các loại tên khác chỉ viết hoa từ thứ nhất; ví dụ tên các cấp phân loại động vật: Tay cuộn, Bọ ba thuỳ,…; tên các cấp phân loại địa tầng: Cổ sinh, Trung sinh,…; tên các thiên thể: Thiên vương tinh, Mộc tinh, Trái đất,…; tên các tổ chức: (Bộ) Tài chính, (Tổng cục) Thống kê,… Tuy nhiên, vẫn có tác giả viết: "Đệ TamĐệ Tứ, Trái Đất",… Một số tác giả còn viết hoa cả các phương, như: "phía Đông sông Hồng, nằm ở Đông Bắc núi Ông,…". Rõ ràng các phương là danh từ chung, có phải là danh từ riêng đâu mà viết hoa? Chẳng có nước phương tây nào viết hoa các phương cả. Chỉ khi nào chúng trở thành địa danh mới viết hoa chúng, như: "miền Bắc, miền Tây Bắc Bộ, trũng Đông Phú Khánh, bể Côn Sơn…". Cả những danh từ chung khác, khi đã trở thành tên riêng cũng phải viết hoa, như: "đứt gãy Sông Hồng, khối granit Núi Pháo, khối nâng Núi Con Voi…". Đôi khi, có tác giả còn viết hoa cả các ký hiệu đã được quy định rõ ràng và dạy từ cấp tiểu học, như kilomet (km) cứ viết tắt là "Km".
Vất vả nhất đối với việc sửa bản thảo là việc sửa cách viết số lẻ, nhất là khi bài báo đưa ra các bảng thống kê dài dằng dặc. Theo kiến thức phổ thông thì dấu chấm dùng để biểu thị hàng nghìn và dấu phẩy để thể hiện số lẻ, ví dụ: bản đồ tỷ lệ 1:50.000, hay bán kính Trái đất ở xích đạo là 6.378,25 km. Đây là cách viết của các nước thuộc hệ ngôn ngữ Rôman. Nhưng ở các nước Anh, Mỹ thì ngược lại: dấu phẩy biểu thị hàng nghìn, còn dấu chấm để thể hiện số lẻ. Cho đến nay, theo truyền thống, nước ta vẫn dùng cách thứ nhất, thì các cá nhân đừng tự tiện thay đổi nề nếp chung, có thể dẫn đến hiểu lầm, mất chính xác không đáng có. Và chúng tôi phải sửa từng con số, vất vả lắm.
Về việc dùng i và y, gần đây có từ điển chủ trương dùng thống nhất i, trừ trường hợp đứng trong các vần -yên, -yết, -yêu (ví dụ, Từ điển Việt-Pháp của Lê Khả Kế và Nguyễn Lân [3]). Tất nhiên, khi đã viết "mì sợi, mí mắt" mà lại viết "mỹ nhân, mỹ thuật", hay viết "ti hí, tí ti" mà lại viết "tỷ lệ, tỷ trọng" thì thiếu tính thống nhất quá. Tuy nhiên, cuốn từ điển nói trên vẫn giữ cách viết "y nguyên, ý nghĩa", có lẽ do nếu viết là "i nguyên, í nghĩa" trông cộc quá. Như vậy, cách làm này vẫn chỉ là quy ước. Trong hoàn cảnh hiện nay, Nhà nước chưa đưa ra quy định gì về vấn đề này, nên chúng tôi vẫn giữ cách viết cũ, nghĩa là vẫn để "tỷ lệ bản đồ,  thuyết kiến tạo,…". Đáng chú ý là các từ vần -uy không có gì thay đổi, kể cả trong từ điển kể trên. Cách viết "qui hoạch, đá quí,…" chúng tôi coi là không thuận và phải sửa là "quy hoạch, đá quý".
Về địa danh, có thể nói là hiện nay trên các báo và cả trên mặt tivi còn viết rất lung tung, và Tạp chí Địa chính đang mở cuộc thảo luận nhằm đi đến một phương án viết thống nhất để đề nghị lên các cơ quan có thẩm quyền. Quan điểm của cá nhân tôi là các địa danh trên lãnh thổ Việt phải viết theo luật của chữ quốc ngữ; điều đó thể hiện chủ quyền của nước ta đối với vùng đất đó [7]. Không nên để một cái xã mà người dân gọi là Ya Mơ lại viết là "Ya Meur", viết như thế này đọc theo quốc ngữ không phải là Ya Mơ. Cũng như không nên lo tài nguyên của một tỉnh bị "cạn kiệt" mà viết tên tỉnh đó là "Bắc Kạn".
Trong tóm tắt tiếng Anh của bài báo, không hiểu sao khi viết tên riêng của mình và địa danh, các tác giả cứ bỏ hết cả dấu thanh. Trong quốc ngữ, dấu là một hợp phần không thể thiếu của một từ, vì nếu thay dấu thì từ đó thay đổi nghĩa hoàn toàn. "Ngô" đang là thứ ăn được mà thêm dấu sắc vào thì thành "ngố" ngay. Báo Việt Nam News, cơ quan chính thức của Nhà nước ta, luôn viết tên người và địa danh Việt đủ dấu. Tên của anh em trẻ chưa quen biết lắm trên mặt báo, hay địa danh các vùng sâu, vùng xa mà bỏ dấu đi thì rất khó nhận biết được tên thực, ví dụ: cô Uông Thị Đại, hay đảo Hòn Trứng Lớn mà viết bỏ dấu đi thì có Trời mà đoán được tên thật là gì!

III. Hãy cố gắng dùng tiếng Việt trong những trường hợp có thể

Việc mượn các thuật ngữ nước ngoài trong khoa học là chuyện khó tránh, nếu không muốn nói là "bất khả". Ngay các nước thuộc khối Anh ngữ cũng mượn "melange" (thể xáo trộn), "en echelon" (dạng bậc thang) của tiếng Pháp, và các nước thuộc khối Pháp ngữ cũng mượn "dyke" (thể tường) của tiếng Anh. Thế nhưng, đối với chúng ta là dân một nước phương đông, rất nên hạn chế việc này, và nếu bất đắc dĩ phải dùng cũng cần phải chuyển sang dạng viết của quốc ngữ theo nguyên tắc viết thế nào, đọc thế nấy, nghĩa là bỏ các nguyên âm và phụ âm câm (không đọc đến), ví dụ: granit, anđesit. Không nên bê nguyên si cách viết của nước ngoài (granite, andesite) vào (theo quy định của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trong các Quy chế đo vẽ bản đồ địa chất [1]). Vả lại, các thuật ngữ phải vay mượn nên hạn chế ở phạm vi khoáng vật, thạch học, vì chúng thường có gốc từ những từ ngữ, như La Mã, Hy Lạp, là ngôn ngữ gốc của quốc ngữ một số nước thuộc nhóm ngôn ngữ Rôman khá phổ biến ở Tây Âu.
Gần đây, tác giả các bài viết về động đất thường hay sử dụng nguyên si thuật ngữ "magnitude", mà thay vào đó, có tác giả dùng thuật ngữ quốc ngữ là "chấn cấp", "cấp độ" hay "cấp độ mạnh". Thuật ngữ này, theo từ điển Larousse, bắt nguồn từ tiếng Latinh "magnitudo" là "độ lớn". Theo chúng tôi, hoàn toàn có thể thay nó bằng một thuật ngữ quốc ngữ tương đương, và trong 3 phương án quốc ngữ kể trên nên dùng "chấn cấp", tức là "cấp độ chấn động", vì nếu dùng "cấp độ" thì chung chung quá, và "cấp độ mạnh" thì trùng nghĩa với "cường độ" (intensity), không phải là "magnitude" nữa.
Các tác giả viết về khoáng sản lại hay dùng cụm từ "các đai mạch". Từ "đai" ở đây là để phiên thuật ngữ "dyke", nhưng từ này ở Từ điển Anh–Việt Các khoa học Trái đất [4] cho 2 thuật ngữ tương đương là "thể tường, đaikơ". Tất nhiên, phiên là "đaikơ" không hợp lý, vì chữ -e cuối cùng là nguyên âm câm, ở các từ khác đã bị bỏ (như granit, ryolit [6]). Vậy thì chỉ còn cách dùng "thể tường, đaik", chứ nếu viết là "đai" thì trùng với một khái niệm khác, tương đương với "belt" (cấu trúc dạng dải kéo dài), như "đai Thái Bình Dương". Theo chúng tôi, nên dùng "thể tường".

IV. Đôi điều cần chú ý trong bản thảo

Như các bạn đã biết, bài báo gửi Tạp chí Địa chất bao giờ cũng phải có một tóm tắt nội dung bài báo. Tóm tắt này phải trình bày ngắn gọn những nội dung chính của bài báo, nhưng một số tác giả lại chỉ viết dưới dạng giới thiệu sơ lược, như: "Bài báo mô tả những tai biến địa chất xảy ra dọc sông Hồng ở đoạn phía nam Việt Trì và đề ra những biện pháp phòng tránh." Các tai biến đó gồm có những loại gì, các biện pháp phòng tránh như thế nào, nhất thiết phải trình bày ngắn gọn trong Tóm tắt. Tóm tắt bằng ngoại ngữ để ở cuối bài chính là bản dịch của Tóm tắt tiếng Việt ở đầu bài. Vậy, muốn cho đồng nghiệp nước ngoài biết nội dung công trình của mình, hãy viết tóm tắt đầy đủ như đề nghị bên trên.
Cuối bài báo, Tạp chí yêu cầu các tác giả lập danh sách Văn liệu tham khảo. Thời gian qua, chúng tôi khá vất vả trong việc hiệu đính mục này, do các tác giả không chú ý cách lập Văn liệu của Tạp chí Địa chất. Rất mong các tác giả chú ý các điều sau: 1) Chỉ đưa các văn liệu đã tham khảo và trích dẫn trong bài báo; 2) Xếp các văn liệu theo thứ tự chữ cái của họtác giả, hay họ tác giả đầu tiên trong tập thể tác giả (đừng xếp theo thứ tự của tên tác giả). Còn nội dung và cách diễn đạt từng văn liệu, xin tham khảo mục Văn liệu của bài báo này.
Chúng tôi cũng muốn lưu ý các tác giả là, khi các bạn đã gửi bản thảo của mình cho một xuất bản phẩm khác, xin đừng gửi tiếp cho chúng tôi. Đôi khi vì sơ xuất, không biết bài đó đã được đăng ở chỗ khác rồi, Uỷ viên biên tập của chúng tôi duyệt cho đăng bài đó và chúng tôi đăng, vô tình phạm lỗi. Xin tránh cho chúng tôi điều này.

Lời kết

Nhìn chung, trong thời gian qua, Tạp chí Địa chất đã ra mắt độc giả được đều đặn, với nội dung có chất lượng cao và hình thức đứng đắn của một tạp chí khoa học, được Cục Báo chí thuộc Bộ Văn hoá - Thông tin đánh giá cao. Có được điều đó, nhất định phải có sự cộng tác nhiệt tình và tín nhiệm của các nhà địa chất nước ta, gửi bài đều đặn cho Tạp chí, và mạng lưới Biên tập viên có trình độ chuyên môn sâu hoạt động trong Ban biên tập của Tạp chí. Bài báo của tôi cũng chỉ là một sự rút kinh nghiệm nội bộ giữa người làm báo và người viết, với lòng mong muốn chung là ngày càng nâng cao chất lượng và uy tín của Tạp chí. Rất mong được sự quan tâm của các bạn có bài gửi đến Tạp chí.

VĂN LIỆU

  1. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2001). Quy chế tạm thời về lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000. Bộ Công nghiệp, Hà Nội, 184 trang.
  2. Hoàng Phê (chủ biên, 1998). Từ điển tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 1130 trang.
  3. Lê Khả Kế, Nguyễn Lân (2001). Từ điển Việt–Pháp. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1280 trang.
  4. Nhà xuất bản Khoa học & Kĩ thuật (1978). Từ điển Anh–Việt Các khoa học Trái đất. 678 trangg.
  5. Viện Ngôn ngữ học (1975). Từ điển Anh–Việt. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1960 trg.
  6. Vũ Khúc, Trần Văn Trị, Đào Đình Thục (1993). Tiến tới ổn định cách phiên thuật ngữ nước ngoài trong địa chất học. Tạp chí Địa chất, A/214-215, trang 51–58.
  7. Vũ Khúc (2005). Viết địa danh ở nước ta vẫn còn nhiều lộn xộn. Tạp chí Địa chính, 3/2005, trang 45–51.
 
 
Vũ Khúc

Nguồn: http://ngonngu.net/index.php?p=333 

[Youtube] - Kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển

Bạo loạn Quỳnh Lưu - Nghệ An 1956

Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất.
Ngay từ những ngày đầu được giải phóng, cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng địch tạm chiếm theo quy định của Hiệp định Giơnevơ.
Việc tiếp quản diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân. ở nhiều địa phương, Pháp và tay sai đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích động dân chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di cư vào Nam.
Có nơi chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây rối trật tự trị an như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). 

DẸP BẠO LOẠN Ở QUỲNH LƯU

LÊ VĂN HỐI

          Cùng với việc mở chiến dịch “tố cộng” ở miền Nam, Mỹ-Diệm chỉ huy bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng tự do tín ngưỡng xuyên tạc chủ trương sửa sai cải cách ruộng đất của ta, kích động giáo dân gây bạo loạn ở Quỳnh Lưu. Chúng lừa bịp cưỡng bức giáo dân từ Quảng Bình, Hà Tĩnh ra, từ Thanh Hóa vào, tụ tập ở nhà thờ Quỳnh Yên mấy chục nghìn người ăn uống bừa bãi hết đợt này đến đợt khác hàng mấy tháng trời, ảnh hưởng đến trật tự trị an và sản xuất.

          Nghiêm trọng hơn là chúng vu khống, khiêu khích, bắt giữ tổ công tác sửa sai của trung đoàn 269 Quân khu 4, giam họ trong nhà thờ Quỳnh Yên. Chính quyền ta đã nhiều lần giải thích, thuyết phục, nhưng chúng vẫn ngoan cố, không chịu trả tự do cho tổ công tác. Trước tình hình nghiêm trọng đó, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho sư đoàn 324 đang ở Thanh Hóa, cử ngay lực lượng hành quân cấp tốc vào Quỳnh Lưu cùng với lực lượng địa phương của Quân khu 4 giải quyết vụ Quỳnh Yên.

          Trung đoàn 93 đang tiến hành huấn luyện ở khu vực tây cầu Hang thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa được giao nhiệm vụ này. Phương châm chỉ đạo hành động là lấy tuyên truyền vận động quần chúng lao động, làm cho họ hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phân rõ đúng sai, phân rõ ranh giới giữa việc đạo và việc đời, phân hóa cô lập bọn đầu sỏ phản động. Không được nổ súng khi làm nhiệm vụ chống biểu tình. Vì vậy, chỉ cán bộ tiểu đoàn trở lên mới được mang súng ngắn tự vệ, còn cán bộ từ đại đội đến chiến sĩ chỉ được mang gậy và dây thừng, lương thực, thực phẩm và trang bị cá nhân. Toàn bộ súng đạn và trang bị khác để lại nơi đóng quân có người trông coi.

          Đoàn ô tô của Bộ chở trung đoàn 93 từ Tĩnh Gia vào Quỳnh Lưu. Ban đầu anh em không thông suốt lệnh không được nổ súng với lý lẽ “kẻ nào nói xấu Đảng, chống lại chính quyền là phải bị trừng trị”. Phải giải thích nhiều lần, anh em mới tạm thông.

          Hàng ngày, chính quyền ta dùng loa truyền thanh giải thích chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhưng chúng không những không trả tự do cho đội công tác mà còn huy động hàng nghìn giáo dân từ các hướng: Quỳnh Thanh, Quỳnh Yên lên, Nghi Lộc, Diễn Châu ra tập trung ở thị trấn Cầu Giát với ý đồ gây bạo loạn đập phá các cơ quan, cửa hàng và kho thóc của huyện Quỳnh Lưu. Mưu đồ của Diệm là lấy Quỳnh Yên, Quỳnh Lưu làm thí điểm. Nếu thành công sẽ gây ra nhiều nơi khác trên toàn miền Bắc.

          Trung đoàn 93 được giao nhiệm vụ giải tán các cánh quân biểu tình, không cho chúng hợp điểm tại Cầu Giát. Tiểu đoàn 5 chốt giữ ở bắc cầu thị trấn Cầu Giát, tiểu đoàn 6 chốt ở ngã ba xã Quỳnh Bá, cách nhà thờ Quỳnh Yên khoảng 1000m, tiểu đoàn 7 chốt giữ đường ở xã Quỳnh Đôi, giáp với xã Quỳnh Thanh là xã công giáo toàn tòng.

          Đồng bào bị chúng cưỡng ép từ Quỳnh Yên lên đông hơn nghìn người, đến cổng chắn đường (ba-ri-e) ở ngã ba Quỳnh Bá bị đại đội 6 chặn lại. Những tên phản động trà trộn trong đó, ngoan cố tràn qua cổng chắn, dùng gạch đá ném vào bộ đội ta. Chính trị viên Quang bị trúng vào đầu chảy máu. Tiểu đoàn 6 tăng cường thêm lực lượng đang ở trong các nhà dân quanh đó, dùng kèn xung phong uy hiếp chúng. Vừa nghe tiếng kèn xung phong, bọn phản động đã hoảng sợ, chạy tán loạn về lại Quỳnh Yên. Ta bắt hơn 10 tên đầu sỏ hung hăng nhất giao cho chính quyền địa phương xử lý.

          Ở hướng Quỳnh Thanh, khi cánh quân của chúng đến Quỳnh Đôi, những tên chống đối vẫn ngoan cố tràn qua cổng chắn do tiểu đoàn 7 chốt giữ. Tổ súng máy bố trí trên gò bắn chỉ thiên uy hiếp. Bọn chúng đánh trả, một trung đội trưởng và một  chiến sĩ ta hy sinh. Ta bắn uy hiếp dữ dội, chúng hoảng sợ chạy trở lại Quỳnh Thanh.

          Thế là hai cánh đi biểu tình từ Quỳnh Yên và Quỳnh Thanh lên đều bị giải tán. Còn cánh từ Diễn Châu ra đến nam cầu Giát bị lực lượng tiểu đoàn 5 dùng vòi rồng nước chặn lại. Nhưng những tên chống đối vẫn tràn qua cầu, vừa đi vừa hô khẩu hiệu phản động. Đến thị trấn Quỳnh Lưu, được tin hai cánh kia bị giải tán, không hợp điểm được, chúng kéo những người nhẹ dạ, cả tin đi một vòng trong thị trấn rồi tự động giải tán.

          Sau một tuần, được tin của cơ sở ta trong nhà thờ cho biết là chúng dự định thủ tiêu đội công tác, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh phải giải thoát tổ công tác, không cho chúng ám hại. Ngay trong đêm đó, trung đoàn 93 tổ chức tập kích, bố trí 3 tiểu đoàn thành 3 mũi tấn công. 3 giờ sáng, pháo hiệu tấn công phát lên, các tổ súng máy cả 3 hướng quanh nhà thờ đồng loạt bắn chỉ thiên uy hiếp, đồng thời lực lượng xung kích của ta nhanh chóng đột nhập thẳng vào nơi giam giữ, giải thoát được tổ công tác của ta an toàn. Trung đoàn 93 bắt giữ một số tên phản động cầm đầu giao cho chính quyền khu 4 xử lý. Số giáo dân các nơi bị lừa gạt, o ép được ta giải thích quay trở về quê.

          Do bị xuyên tạc, giáo dân khu vực quanh nhà thờ vẫn e ngại tiếp xúc với bộ đội ta nên các đơn vị vẫn phải căng lều bạt màn chiếu ăn ở ngoài trời, vừa làm công tác tuyên truyền giáo dục, vừa vận động nhân dân cùng làm sạch môi trường khu vực quanh nhà thờ Quỳnh Yên mà mấy tháng trước đó bọn chúng ăn uống phóng uế bừa bãi.

          Hai tuần sau, trung đoàn 93 được lệnh hành quân từ Quỳnh Lưu về Yên Thành. Trung đoàn 269 (Quân khu 4) tiếp tục làm công tác dân vận ở Quỳnh Lưu. Sau vụ Quỳnh Yên, sư đoàn bộ 324 và các đơn vị trực thuộc lần lượt di chuyển từ Thanh Hóa vào Nghệ An làm nhiệm vụ phòng thủ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch chiến lược của Bộ

Trích QĐND, ngày 25/10/04

 Giáo dân Quỳnh lưu nổi loạn, năm 1956, do Phan Quang Đông đao diễn

...Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với ngôi trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự trang nhã,....chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội....

....Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ?Nhỏ người dáng dấp thư sinh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh.....chính là ông Phan Quan Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những Điệp Vụ phía Bắc vĩ tuyến 17....một bông Hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam...

....Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này:
Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người nầy thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm thì cũng nghỉ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia với những Điệp Vụ phía bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một Bông Hồng hiếm quí của Tình Báo miền Nam.
(Biến Động Miền Trung - trang 6 – 7 - Liên Thành)

Đây là thông tin từ nhà văng Phạm Viết Đào MỘT VÀI THÔNG TIN VỀ CUỘC NỔI DẬY NĂM 1956 TẠI QUỲNH LƯU NGHỆ AN
Trích:
Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đa?ng CSVN về những đợt cải cách ruộng đất, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đa?ng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đa?ng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đa?ng viên cũ và đa?ng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị suy sụp, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.

Ở nông thôn, các đa?ng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đa?ng tố điêu nay bị sợ rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuệ. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách sai lầm của chính quyền. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân.

Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau :
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêụ
- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công.
- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.

Cán bộ chính quyền rất căm tức những lời kết án của dân chúng, lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi: Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, HồChíMinh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.

Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của Chính phủ để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Genevơ.

Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9/11/1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợị. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chặn xe lạị. 6 thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần. 

Sau đó, ngày 10/11/1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Nhưng ngay lúc đó, Chính quyền đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy rạ. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.

Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa đêm hôm dó. Chính quyền đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11/11/56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy…Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Chính quyền đã tỏ ra rất lo lắng biến cố này vì Nghệ An là quê quán của ông HồChíMinh; chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và Đa?ng. Chính quyền cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời:Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là 1 nhà tu hành. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đa?ng viên CS.

Ðêm 11 rạng ngay 12/11/1956, 1 số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3.000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, 1 Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.

Rạng ngày 13/11/1956, 1 cuộc biểutình lớn với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu đứng dậy đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :

Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta

Cuộc biểutình đã tuần hành tiến về Ty công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân… Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế…

Trước tình hình này, Chính phủ ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn sử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có gì thì đổ cho binh lính miền Nam nóng tính này.Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và quân chính phủ. Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp ứng cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13/11/1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực tính kế trường kỳ đấu tranh.

Ngày 14/11/1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quan được truyền đi:Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng... Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc nổi dậy này. Không bắt được ai, chính quyền đành thả bà con ra về, nhưng chính quyền tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói, Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.

Chính quyền bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không bằng lòng. Chính quyền đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phảnđộng này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

Dù nhà cầm quyền, vẫn cố tình che dấu, xuyên tạc…cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay; dù họ đã dùng bạo lực đàn áp trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.



Được đăng bởi Nhà văn Phạm Viết Đào vào lúc Thứ tư, tháng chín 21, 2011 
Mình đã lần ra cái nguồn của "MỘT VÀI THÔNG TIN VỀ CUỘC NỔI DẬY NĂM 1956 TẠI QUỲNH LƯU NGHỆ AN " mà nhà văng Phạm Viết Đào đăng gọn lỏn trên bờ nhốc của ông ta, nhà văng Phạm Viết Đào đã thuổng 1 đoạn trong bài viết tựa đề "Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu Nghệ An 1956" của tác giả nào đó có tên Cẩm Ninh, 1 tay chóng cọng chết bỏ.

Tóm Lược
Lịch Sử Giáo Phận Vinh

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

1. Giai đoạn phôi thai: 1533-1651
Ngày Lễ Thánh Giuse, 19.03.1627, khi Giáo sĩ Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đặt chân lên Cửa Bạng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngài đã cho dựng một tượng Thánh Giá vĩ đại tại cửa biển và bắt đầu công cuộc truyền giáo. Trong vòng 8 tháng trời giảng đạo, thuyền của cha Ðắc Lộ đã ghé vào những cửa biển ở Xứ Nghệ: Cửa Lò, Cửa Sót và Cửa Rùm. Ở Cửa Rùm ngài đã thành lập được một trung tâm Công Giáo rất sầm uất.
Hơn một năm sau, khi cha Ðắc Lộ phải rời Việt Nam để trở lại Âu Châu trong sự luyến tiếc của toàn thể giáo dân, con số giáo dân đã lên tới 30,000 người. Ngoài ra, cái công lớn nhất của cha Ðắc Lộ là ngài đã khám phá ra chữ Quốc Ngữ, và đã đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam quyển "Phép Giảng Tám Ngày", ấn hành năm 1651 bằng chữ quốc ngữ nguyên sơ, để dạy giáo lý cho tân tòng. Quyển sách này được coi là một bảo vật văn hóa quí giá, một di sản ngôn ngữ của người Việt Nam. Ngoài ra cha còn viết hai tác phẩm khác bằng tiếng Pháp, có liên quan đến lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Ðó là quyển: "Divers voyages et Missions" (Các Cuộc Hành Trình Truyền Giáo), xuất bản tại Paris năm 1653 và quyển "Histoire du Royaume de Tonkin" (Lịch Sử Nước Bắc Việt), xuất bản bằng tiếng Ý năm 1650, bằng tiếng Pháp năm 1651 và bằng tiếng La-tinh năm 1652.

2. Giai đoạn ổn định: 1659-1792
Nhận thấy công cuộc truyền giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, năm 1659 Tòa Thánh chính thức ban sắc lệnh thành lập 2 Giáo Phận mới: Giáo Phận Ðàng Ngoài, từ tỉnh Quảng Bình trở ra, được giao cho Ðức Cha Francois Fallu coi sóc, và Giáo Phận Ðàng Trong, từ Huế trở vào trong Nam, được giao cho Ðức Cha Lambert de la Motte coi sóc.
Sau đó, khi số giáo dân tăng rất nhanh, Giáo Phận Ðàng Ngoài lại chia ra thành 2 Giáo Phận mới nữa: Giáo Phận Ðông Ðàng Ngoài, gồm Hải Phòng và các tỉnh phía bắc, và Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài, từ Hà Nội cho tới Quảng Bình. Phần cực nam từ Thanh Hóa cho đến Sông Gianh được gọi chung là "Xứ Nghệ". Vì Xứ Nghệ cách Hà Nội quá xa, khoảng 500km, mà đường sá lưu thông lại khó khăn, nhất là đại đa số dân chúng còn quá nghèo nàn chất phác và có một giọng nói hoàn toàn khác hẳn ở phía Bắc, nên các vị thừa sai đã dành cho Xứ Nghệ một cơ chế hầu như độc lập. Vì thế, nếu ngoài phía cực bắc có Ðức Giám Mục, thì trong phía cực nam có Ðức Giám Mục phó. Và nếu "ở phía ngoài" có Chủng viện Vĩnh Trị, chung cho cả Ðông và Tây, thì "trong này" lại có Chủng viện Trang Nứa (sau được dời vào Hướng Phương). Còn Tòa Giám Mục được đặt tại Trang Ðen (Nam Ðàn), sau dời vào Thọ Kỳ (Thọ Ninh) vào thời Ðức Cha Hậu I, tức Ðức Cha De La Motte. Trên thực tế hầu như hai Giáo Phận độc lập vậy.

3. Giai đoạn phân chia Giáo Phận: 1792-1846
Khi Ðức Cha Hậu II, tức Ðức Cha Gauthier, dời Tòa Giám Mục từ Thọ Ninh ra đặt ở Xã Ðoài vào năm 1842, thì cũng vào thời gian đó Tòa Thánh quyết định tách Xứ Nghệ ra khỏi Hà Nội (Tây Ðàng Ngoài). Ngày 27.03.1846, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức Cha Hậu II, Phó Giám Mục của Ðức Cha Liêu Retord ở Hà Nội, vào làm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận mới Vinh.
Trong một bản tường trình gửi về Tòa Thánh, Ðức Cha Liêu Retord, Giám Mục Chính của Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài, ca tụng tinh thần giáo dân Xứ Nghệ như sau: "Ở tại Hà Tĩnh và Nghệ An có tới 45,364 bổn đạo. Trong hai tỉnh này, họ là những bổn đạo sốt sắng nhất trong Giáo Phận". Ðó chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy Ðức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô ra Sắc Chỉ "Ex debitu pastoralis", ngày 27.03.1846, thành lập Giáo Phận Vinh. Theo Sắc Chỉ trên, biên giới của Tân Giáo Phận Vinh được thiết lập như sau: Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam kéo dài đến tả ngạn sông Gianh, giáp huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình, phía đông là biển Nam Hải và phía tây là nước Ai Lao. Toàn thể Giáo Phận Vinh bao gồm 3 tỉnh Nghệ An + Hà Tĩnh (22,380 km vuông) và một phần tỉnh Quảng Bình (2,300 km vuông). Tổng cộng diện tích khá rộng lớn là 24,480 km vuông. Vì ở thị xã Vinh, tuy tiện trục giao thông, nhưng lại quá ồn ào náo động và nhất là đa số dân cư vào lúc bấy giờ ở thị xã Vinh còn là lương dân, thành thử Toà Giám Mục được dời về Xã Ðoài, cách thị xã Vinh khoảng 13 km. Bởi vậy, mới có trường hợp duy nhất ở Việt Nam là Tòa Giám Mục và Giáo Phận mang hai tên khác nhau: Giáo Phận Vinh, nhưng Tòa Giám Mục Xã Ðoài.
Ở Xã Ðoài tuy được ưu điểm là một miền quê yên tĩnh, nhưng lại thuộc miền đất phèn, không thích hợp cho việc trồng trọt hoa màu, nên rất nghèo nàn và không ai muốn đến lập nghiệp ở đó cả. Vì thế các cô thôn nữ đã thường ca thán với nhau:
"Cậu ra ba bữa cậu về,
"Ðồng chua nước mặn chớ hề ở lâu!"
Hiện nay, giáo xứ địa đầu phía bắc là Giáo xứ Hoàng Mai, trong một vùng lam sơn chướng khí. Còn phía cực nam kề biển là Giáo xứ Tân Thành; mé quốc lộ số 1 là Giáo xứ Mỹ Hòa, và mặt núi rừng là Giáo xứ Chày. Giáo xứ này nằm đối diện chênh vênh với Chùa Hang, tức Ðộng Phong Nha, một thắng cảnh danh tiếng thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

4. Giai đoạn thử thách: vào các năm trước và sau 1846
Theo lịch sử Giáo Hội, vào năm 1655, ở Miền Bắc (Giáo Phận Ðàng Ngoài) đã có 414 thánh đường, trong số đó nguyên ở các tỉnh Nghệ-Tĩnh-Bình đã chiếm 160 ngôi rồi. Lúc chia Giáo Phận (1846) từ Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài (Hà Nội), phần đất dành cho Giáo Phận Vinh gồm có 3 vị thừa sai, 35 Linh mục bản quốc, 75 thầy giảng, 69 đại chủng sinh, 290 tiểu chủng sinh, 270 nữ tu, 19 Giáo xứ với 345 Họ lẽ, và số giáo dân là 66,350 người. Giáo Phận có được một số vốn liếng dồi dào như vậy là nhờ được xây dựng trên máu của các tiền nhân tử đạo anh dũng của hai thế kỷ về trước.
Thật vậy, sau khi Ðức Cha Hậu nhận chức được 6 tháng thì vua Thiệu Trị mất và vua Tự Ðức lên kế vị. Thời cuộc chính trị trở nên rối ren, khiến triều đình Huế ra chính sách bách hại tàn bạo Ðạo Công Giáo suốt 36 năm trời, với 13 sắc chỉ cấm đạo, coi Ðạo Công Giáo là "Tả Ðạo", là dịch tệ, là lừa dối dân đen, v.v... Ðúng hai năm sau khi thiết lập, chủ chăn và đoàn chiên Giáo Phận Vinh phải sống lén lút và tản mát khắp nơi. Người ta có thể nói được rằng trong thời kỳ bắt đạo suốt mấy thế kỷ trước ở Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh là bị bắt bớ và chịu gian khổ nhiều nhất. Giáo Phận có khoảng 20 vị Linh Mục tử đạo trong thời cấm cách này, chưa được phong thánh. Năm 1868, Giáo Phận đã lập hồ sơ phong thánh cho các vị Tử Ðạo Vinh. Trong số 117 vị Tử Ðạo được Giáo Hội hoàn vũ tôn lên bậc Hiển Thánh vào ngày 19.06.1988, đã có 6 Thánh Tử Ðạo thuộc Giáo Phận Vinh, bị giết dưới thời Minh Mạng (5 vị) và thời Thiệu Trị (1). Danh sách các ngài như sau:
1. Thánh Phêrô Lê Tùy, Linh mục, tử đạo ngày 11.10.1833
2. Thánh Phêrô Borie Cao, Giám mục, 24.11.1838
3. Thánh Phêrô Vũ Ðăng Khoa, Linh mục, 24.11.1838
4. Thánh Vincente Nguyễn Thời Ðiểm, Linh mục, 24.11.1838
5. Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Thầy giảng, 10.07.1840
6. Thánh Phêrô Hoàng Khanh, Linh mục, 12.07.1842
Trong thời gian bắt đạo quá tàn khốc như thế, Ðức Cha Hậu và các cha thừa sai đành phải sang lánh nạn ở Hồng Kông một thời gian (1859-1862). Vào năm 1861 (Tự Ðức năm thứ 14) có cha Phêrô Nguyễn Bá Triêm được phúc tử đạo tại Quán Thầu Ðầu và hài cốt ngài hiện an nghĩ trong nhà thờ xứ Thanh Dạ. Trong nhà thờ Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu còn có hài cốt cha Phêrô Nguyễn Trúc, tử đạo. Cha Giacôbê Nguyễn Danh Thông cũng được phúc tử đạo, nhưng không biết hài cốt ngài hiện ở đâu.
Ngoài các vị tử đạo đã được ghi tên tuổi trong sổ vàng của Giáo Hội hoàn vũ và của Giáo phận như trên, còn có những vị tử đạo anh hùng trong thời hiện đại. Ở đây, người ta phải kể đến các vị tử đạo anh hùng của Liên Ðoàn Thanh Niên Công Giáo Việt Nam do Ðức Cha Lê Hữu Từ (Gp. Phát Diệm) thành lập vào năm 1946. Tuy phong trào chủ trương hoàn toàn đứng ngoài mọi hoạt động về chính trị và đảng phái, vì mục đích và tôn chỉ của Liên Ðoàn là phụng sự Thiên Chúa và tổ quốc trong tinh thần ôn hòa, nhưng sau khi hoạt động được hai năm thì Liên Ðoàn đã bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ đàn áp một cách dã man. Toàn ban chấp hành của Liên Ðoàn bị bắt và bị giết: Ông Phạm Tuyên, chủ tịch Liên Ðoàn, bị tử hình; ông Mạnh Trọng Niệm và em là Mạnh Trọng Tuệ bị tử hình; Ông Trương Văn Hứa bị tử hình; Còn các ông Bùi Quỳnh, Phạm Huy Châu, Lm Tuyên úy Trương Văn Liệu, Khánh Sơn, Trần Văn Trị, Sáu Tuyên và một số thành viên khác bị khổ sai chung thân; Lm Võ Viết Hiền bị chết rũ tù. Riêng cô Liên Phương chịu trách nhiệm về Nữ Giới, bị tra tấn tàn bạo đến chết. Ðặc biệt nhất là trong ngày xử tử anh hùng Phạm Tuyên, bà vợ của ông thay vì than khóc buồn sầu và đau khổ, bà đã đi mua sẵn mấy chục thước vải trắng tinh đưa về cắt ra làm mấy chục tấm theo số tuổi của chồng, và trong ngày xử, sau khi linh hồn ông bay về Thiên đàng hưởng mặt Chúa, thì bà đã dùng những tấm khăn trắng đó thấm từng giọt máu tử đạo của chồng đổ ra trên mặt đất và vui mừng đưa về nhà thờ kính.

5. Danh sách các Ðức Giám Mục cai quản Giáo Phận Vinh
a) Các Giám Mục thừa sai:
1. Ðức Cha Hậu (Gauthier), cai quản từ 1842-1877
2. Ðức Cha Phó Nghiêm (Masson), 1848-1853
3. Ðức Cha Hòa (Croc), 1868-1885
4. Ðức Cha Trị (Pineau), 1886-1910
5. Ðức Cha Thọ (Belleville), 1911-1912
6. Ðức Cha Bắc (Eloy), 1912-1947
Từ ngày 14.06.1951 Giáo phận Vinh được giao lại cho các Ðức Giám Mục bản quốc gốc Vinh coi sóc.
b) Các Giám Mục Việt Nam gốc Vinh:
1. Ðức Cha GB. Trần Hữu Ðức, cai quản từ 1951-1971
2. Ðức Cha Phó Phaolô Nguyễn Ðình Nhiên, 1963-1969
3. Ðức Cha Phêrô Nguyễn Năng, 1971-1978
4. Ðức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp, 1979- 2000
5. Ðức Cha Phaolô Cao Ðình Thuyên, 2000-

6. Nghệ-Tĩnh-Bình: Vùng đất anh hùng hào kiệt
Hễ nói đến vùng đất Nghệ-Tĩnh-Bình là không thể không nhắc đến tên tuổi của những người con ưu tú của dãy đất Miền Trung này, không thể không nhắc đến tên tuổi của những vị anh hùng dân tộc mang trong mình dòng máu Nghệ-Tĩnh-Bình được.
Nếu chúng ta đứng từ Bến Thủy thuộc Nghệ An nhìn sang đất Hà Tĩnh ở phía nam, chúng ta sẽ thấy một cảnh non nước tuyệt đẹp: Cảnh "Sông Lam, Núi Hồng", trải rộng mênh mông và xanh biếc một màu. Bên kia, vượt hàng cây xanh là quả núi Hồng Lĩnh bao phủ kín chân trời. Nhìn toàn cảnh mà du khách cứ muốn tìm đâu là Tiên Ðiền, đâu là Uy Viễn?
a) Các liệt sĩ và các nhà cách mạng
Vâng, bên trái Cửa Hội, cách khoảng 5km, là làng Uy Viễn, quê của vị quan nổi danh Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Doanh Ðiền Sứ của Triều Ðình, đã có công khai phá miền Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Phát Diệm) thành một miền đất trù phú như chúng ta thấy ngày nay. Còn bên trái, cách 6km, là làng Tiên Ðiền, quê của nhà văn hào dân tộc Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ "Ðoạn Trường Tân Thanh" mà dân gian thường gọi là Chuyện Kiều. Một nhà thi sĩ nổi tiếng khác là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, quê bà ở Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà là tác giả của những cuốn "Xuân Hương Thi Tập" và "Ðồ Sơn Bạt Vịnh", v.v... Cách thị xã Vinh 13km là đất Làng Sen, thuộc huyện Nam Ðàn. Qua một đầm sen, du khách theo một lối ngõ hoa dâm bụt, sẽ đến một căn nhà lá bạc màu. Trong nhà, một chiếc võng vắt ngay gian giữa, còn chiếc phản gỗ được kê ở gian bên, chiếc rương gỗ, giá sách tre, v.v... đó là tất cả gia sản của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Sinh Cung. Cậu bé chào đời năm 1890 và lớn lên thành nhà giáo Nguyễn Tất Thành. Vốn thông minh khác thường, giàu tinh thần cách mạng, mang nặng dòng máu Nghệ-Tĩnh yêu nước, nhà giáo Nguyễn Tất Thành đã bỏ nghề dạy học, xuất dương tìm đường cứu nước. Năm 1930, ông thành lập "Việt Nam Thanh Niên Ðồng Minh Hội" hay gọi tắt là "Việt Minh", sau đổi thành Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, dưới bí danh là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh... Nhưng nhắc đến tên Nam Ðàn người ta không thể quên được tên một vĩ nhân khác, đó là chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Cùng với Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp, Tăng Bạt Hổ, v.v... ông đã cho phổ biến "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" và đã làm chấn động cả nước. Ông cổ võ "Duy Tân Tự Cường" và phát động "Phong Trào Ðông Du". Nhưng trước khi bỏ đất Nghệ An, chúng ta không quên tên tuổi của một nữ tướng thời danh Bùi Thị Xuân (?-1802). Tuy được sinh ra tại Bình Ðịnh, nhưng gốc ở Triệu Phong (Nghệ An). Là một người phụ nữ có sức mạnh và lòng can đảm phi thường. Bà đã từng huấn luyện voi và điều khiển đội chiến tượng gồm 100 thớt voi ra Bắc Hà đánh bại quân Thanh. Bà là nữ tướng có công đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị và giải phóng được thành Thăng Long.
Tiếp đến, khi rời Nghệ An du khách sẽ đặt chân đến làng Ðông Thái, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ðó chính là quê hương của nhà đại cách mạng Phan Ðình Phùng (1847-1895). Ông nổi danh với cuộc nổi dậy chống Pháp ở Hương Khê thuộc tỉnh Hà Tĩnh, và kéo dài 11 năm. Ðịa bàn hoạt động của quân kháng chiến do ông lãnh đạo bao trùm các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong các tướng giỏi của ông có anh hùng Cao Thắng. Một danh sĩ khác, sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, cũng chứa chan một bầu nhiệt huyết yêu nước thương nòi, đó là Nguyễn Trường Tộ (1827-1871). Ông đã muốn dùng sự hiểu biết và du học của mình để dâng lên vua Tự Ðức mấy chục bản điều trần canh tân đất nước trong các lãnh vực: Chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, giáo dục, giao thông, vận tải, khai mỏ, khẩn hoang, v.v... Nhưng tiếc thay, các bản điều trần khẩn cấp của ông đã bị bọn nịnh thần xé bỏ, khiến cho những kiến nghị của ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc vô vọng. Nguyễn Trường Tộ vốn thuộc một gia đình theo đạo Công Giáo từ nhiều đời và là học trò của Ðức Giám Mục Gauthier. Nhưng ngoài Nguyễn Trường Tộ, là một giáo dân đã hết lòng vì đất nước, lịch sử Giáo Phận Vinh còn ghi nhớ một vị Linh mục Công Giáo, một người con của Giáo Phận, đã làm quan lớn dưới triều vua Tự Ðức. Ðó là cha Phaolô Nguyễn Hoằng (1839-1909). Cha Hoằng sinh tại xứ Phương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cùng với ông Petrus Ký, cha được tham gia phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp để điều đình vào các năm 1863-64. Ông Nguyễn Trường Tô, sống cùng thời, đến thăm và khen Linh mục Hoằng: "Người giỏi tiếng Tây, ngay từ khi ngài còn là giáo sĩ phó tế".
Rời đất Nghệ An đi qua Hà Tĩnh và du khách sẽ đặt chân lên đất tỉnh Quảng Bình, vùng đất của các bậc vĩ nhân. Trước hết, về phương diện văn thơ: Một trong những thi sĩ công giáo nỗi danh nhất là nhà thơ Hàn Mặc Tử, tên thật là Phan-xi-cô Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại Ðồng Hới. Ông là tác giả của những tập thơ nỗi danh và rất được giới yêu thơ quí chuộng như "Ðau Thương", "Xuân Như Ý", "Duyên Gấm Ngọc Trai", v.v... và là thần tượng một thời của giới sinh viên, học sinh trong cả nước. Năm 1940, một cơn bạo bệnh đã cướp đi người con tài hoa của vùng đất xứ Quảng. Tiếp đến, về phương diện xã hội chính trị: chí sĩ Ngô Ðình Diệm, Tổng Thống tiên khởi của Miền Nam Việt Nam, là người phải được xưng danh đầu tiên. Sau khi đã trục xuất tên thực dân Pháp cuối cùng ra khỏi lãnh thổ đất nước bằng con đường ngoại giao khéo léo, ổn định cuộc sống cho hơn một triệu người di cư từ Miền Bắc vào trong một hoàn cảnh cực kỳ phức tạp và khó khăn lúc bấy giờ, v.v... ông đã được đồng bào nhất mực tín nhiệm bầu vào chức vụ Tổng Thống. Tuy ông lớn lên ở Huế, nhưng quê gốc và dòng máu yêu nước hào hùng của ông là của người Quảng Bình. Năm 1963, trong một cuộc đảo chánh do một số tướng lãnh phản bội âm mưu, dưới sự lèo lái của người Mỹ, ông và hai người em trai ruột bị sát hại. Còn những nhà cách mạng khác trong lịch sử của một nước Việt Nam, là đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh hùng Ðiện Biên Phủ, v.v... Tất cả đều là những người con ưu tú của vùng đất Quảng Bình.
b) Các vị Linh Mục Công Giáo ái quốc
Tuy là Linh mục của Giáo Hội, nhưng các ngài cũng là những con dân Nghệ-Tĩnh-Bình, luôn sôi sục trong mình dòng máu cách mạng bất khuất. Trước hết phải kể đến Linh mục Mai Lão Bạng, trong Giáo Phận Vinh gọi ngài là "Ông Già Châu". Sinh ra và lớn lên ở Vinh. Ông rất căm phẩn trước cảnh thực dân Pháp dày xéo quê hương, nên rất tích cực hoạt động cho "Phong Trào Ðông Du" của Phan Bội Châu. Chí sĩ Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể rất mến phục ông. Cụ Phan Sào Nam cũng rất quí mến ông và đã tặng ông mấy chữ "Lão Bạng Minh Châu" Vào năm 1918 Linh mục Mai Lão Bạng bị sa lưới mật thám của Pháp ở Thái Lan. Ông để lại tập thơ cách mạng bất hủ: "Lão Bạng Phổ Khuyến Thơ". Nội dung là những lời kêu gọi đồng bào cả nước lương hay giáo hãy đoàn kết cứu nước và đừng để thực dân Pháp lợi dụng gây chia rẽ. Tiếp đến, đặc biệt nhất là ba Linh mục khác nắm giữ các địa vị then chốt trong Giáo Phận Vinh: Lm Nguyễn Văn Tường (Quản lý của Giáo Phận), Lm Nguyễn Thần Ðồng (cha sở Nhà Thờ Chính Tòa), và Lm Ðậu Quang Lĩnh (bí thư Tòa Giám Mục). Cả ba vị đều bị thực dân Pháp kết án 9 năm tù khổ sai biệt xứ và bị đày ra Côn Ðảo ngày 21.10.1909, vì văn hóa Ðông Du. Và cũng vì thái độ "bao che" cho ba vị Linh mục ưu tú trên mà Ðức Giám Mục Pineau Trị bị triệu hồi về Pháp và bị ép buộc phải ký tên vào đơn xin từ chức.
- Linh mục Nguyễn Văn Tường (1853-1915), sinh năm 1853 tại Văn Tường, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha Delignon, Tổng Ðại Diện Giáo Phận Saigon, năm 1909 được Ðức Cha Mossard, Giám mục Saigon, cử ra thăm ba vị ở Côn Ðảo và khi trở về đã báo cáo về cha Tường: "Người già nhất là cụ Tường, 56 tuổi, hơi hói đầu, đeo kiếng và mang một chòm râu hoa râm dưới cằm, trông giống như một ông quan, nhưng khuôn mặt trông rất hiền hậu". Nhờ tài khéo quản lý trong xứ và là người đáng tin cậy, nên Ðức Cha Pineau Trị gọi về Xã Ðoài và giao cho trọng trách quản lý toàn bộ tài chánh của Nhà Chung mà từ trước tới nay vẫn nằm trong tay các thừa sai người Pháp. Sự bổ nhiệm đã gây nên sự bất bình giữa các Linh mục thừa sai, nhất là nơi cha Tổng Ðại Diện Giáo Phận là Linh mục người Pháp tên Abgrall Ðoài. Chính cha Ðoài đã viết thư về Pháp cho Ðức Hồng Y Gotti và Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris để tố cáo Ðức Cha Pineau là kém khả năng quản trị Giáo Phận, về cả mặt tài chánh lẫn nhân sự. Trong một thư khác, cha Ðoài lại gọi các Linh mục Việt Nam là "bọn người đốn mạt". Khi biết được chuyện đó, Ðức Cha Pineau liền cách chức cha Abgrall Ðoài. Còn cha Tường từ trần tại Côn Ðảo vào năm 1915, trước khi mãn hạn tù khổ sai.
- Linh mục Nguyễn Thần Ðồng (1867-1944), sinh tại xứ Nhân Hòa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chịu chức năm 1902 và được bổ nhiệm làm Cha sở Nhà Thờ Chính Tòa Xã Ðoài. Ngài rất có lòng bác ái, thương người và tinh thần xã hội. Về cha Ðồng, cha Delignon đã mô tả: "người thứ hai là linh mục Ðồng, 43 tuổi, người bé nhỏ và mặc dầu ít cởi mở, nhưng vẫn sẵn sàng trò chuyện và tỏ ra là người có óc phán đoán tốt". Từ nhà tù Côn Ðảo cha Ðồng đã làm một bài thơ gửi cho một người bạn tri kỷ:
Cái buồn ai biết cái làm sao?
Vướng vít lòng ta đến nỗi nào!
Ðứng lững, ngồi lơ, nằm dở giấc
Sớm trông, chiều nhớ, tối chiêm bao!
Xa xa trên núi chòm vân phủ
Lộng lộng trước khơi ngọn thủy trào.
Mấy kẻ tri ân ai biết chăng?
Một mình càng nghĩ, nghĩ càng đau!
Sau khi mãn tù ở Côn đảo (1918), cũng như cha Ðậu Quang Lĩnh, cha Ðồng được Ðức Cha Mossard nhận về làm việc trong Giáo phận Saigon, vì cả hai bị án biệt xứ, cấm không được cư trú tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Ngày 26.12.1944, cha Nguyễn Thần Ðồng từ trần tại quê nhà, sau 9 năm khổ sai và 32 năm biệt xứ chỉ vì lòng ái quốc và mối thịnh tình với Phong trào Văn hóa "Ðông Du".
- Linh mục Ðậu Quang Lĩnh (1968-1930). Cha là người trẻ nhất trong ba vị. Sinh năm 1868 tại Yên Phú, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Linh mục Delignon đã nhận định về cha Lĩnh: "Cụ là một người cao lớn, chững chạc và xem ra rất thông minh". Bởi vậy, tuy trẻ nhất, nhưng ngài là trưởng nhóm của ba vị Linh mục cách mạng. Từ khi còn là chủng sinh, cha Lĩnh đã nổi tiếng là thông minh, rất giỏi Pháp văn, La văn và Hán ngữ, lại có khiếu về âm nhạc. Năm 1908 chịu chức Linh mục. Ðức Cha Pineau Trị gọi về Nhà Chung cử làm Thư ký Tòa Giám mục. Vì thế ngài luôn tháp tùng Ðức Cha Trị trong tất cả các cuộc kinh lý của Ðức Cha và đã nhìn thấy được những cảnh các Linh mục thừa sai đối xử thiếu nhân bản với các Linh mục Việt Nam, trong đó có cả ngài nữa. Nếu các Linh mục Tây mà còn đối xử như vậy với các Linh mục Việt Nam như thế, huống hồ là bọn thực dân Pháp còn đối xử tàn tệ thế nào nữa với người dân thường. Ðó chính là những điều luôn làm cha Lĩnh bức xúc và hết sức ủng hộ phong trào văn hóa Ðông Du. Từ trong tù Côn Ðảo ngài vẫn tiếp tục "làm văn hóa", trong đó có bài thơ ngài đã gửi về cho một người bạn:
Ngồi tính lần lần đốt ngón tay
Cách nhau trót đã bảy năm chầy
Tóc râu nay đã lem nhem bạc
Hình vóc trông ra móm mém gầy
Ngồi nghĩ nhớ nhà, nằm nhớ nước
Sớm ra trông bể tối trông mây
Ðông qua xuân tới xây vần mãi
Hội ngộ nay mai sẽ có ngày.
Sau khi mãn tù, cha Lĩnh được Ðức Cha Mossard cử làm Phó xứ Cái Mơn, sau lên làm Chánh xứ. Nhờ có tài đức lỗi lạc, cha đã được chọn làm Quản hạt, đồng thời làm Bề trên một Tu viện trên 200 Nữ tu. Cha Lĩnh qua đời năm 1930. Mộ phần của ngài còn nằm trong nhà thờ Tu viện Mến Thánh Giá ở Cái Mơn, Vĩnh Long.
- Linh mục Lê Sương Huệ. Ngoài "Bộ Ba Linh Mục Côn Ðảo" như đã nói trên, người viết lịch sử Giáo Phận Vinh sau này sẽ không thể bỏ qua được vị Linh mục thứ bốn là Linh mục Lê Sương Huệ. Theo gương các vị tiền bối, từng xả thân cho đại cuộc, góp sức đẩy mạnh công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân phong kiến, chống một lượt vừa ngoại xâm Pháp vừa Nhật trong suốt vùng đất Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình. Cha Huệ sinh năm 1888, tại làng Cây Khế, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Con một gia đình trung nông, và được hấp thụ một nền giáo dục thuần túy Công Giáo. Trưởng thành trên giải đất Nghệ-Tĩnh-Bình, nơi đã thấm máu của bao vị anh hùng cứu nước. Ngài được nuôi dưỡng thêm truyền thống bất khuất, cương quyết của giống nòi. Hoạt động của ngài bắt đầu từ năm 1942, lúc Âu Châu đang bị khủng hoảng dữ dội, Pháp hầu như bị ép buộc lép vế ở Ðông Dương. Ngài bắt đầu liên lạc với các nhà Ái quốc như chí sĩ Ngô Ðình Khôi, nhà cách mạng Ngô Ðình Diệm, để thống nhất ý chí hành động. Ngài bị mật thám Pháp bắt năm 1944 tại nhà xứ của ngài ở Lập Thạch và bị đày vào Trà Khê (Phú Yên). Vào tháng 3.1945, nhân cuộc đảo chính Nhật, cha Huệ được tha. Năm 1948, trên đường đi từ Saigon đến Vĩnh Long, ngài bị phục kích và bị sát hại.
Cả bốn vị Linh mục cách mạng nổi danh của Giáo phận đã nằm xuống. Nhưng sự hy sinh to lớn của các ngài đã không vô ích. Tố quốc của các ngài đã hoàn toàn được giải phóng. Nước Việt Nam nay là của người Việt Nam. Ðồng thời những dòng máu tông đồ nhiệt thành của các ngài cũng đã tô điểm cho Giáo Hội quê nhà thêm đông kẻ thờ phượng Chúa. Ðàng khác, máu của các ngài cũng như của hàng ngàn Kitô hữu đã đổ ra, nhuộm đỏ quê hương hình chữ S, chỉ vì lòng yêu nước thương nòi, chỉ muốn tranh đấu dành độc lập cho tổ quốc thân yêu khỏi tay ngoại bang xâm lược, là cả những lời minh chứng hùng hồn cho những lời kết án hồ đồ, cho người Công Giáo là theo Tây, là nối giáo cho giặc, v.v... Tóm lại, tất cả những đứa con ưu tú của quê hương Nghệ-Tĩnh-Bình, đồng thời là những vị anh hùng của toàn thể dân tộc Việt Nam, xưa kia cũng như ngày, đã khẳng định rằng dải đất Miền Trung này không phải cằn cỗi nghèo nàn, nhưng là dải đất đầy mầu mỡ hùng cường, dải "đất lành chim đậu", dải đất của các anh hùng hào kiệt khét tiếng cả giang sơn Việt Nam.

7. Biến cố di cư năm 1954
Sau khi cuộc chiến Pháp-Việt kéo dài 8 năm trời đã được chấm dứt với Bản Hiệp Ðịnh giữa đôi bên được ký kết tại thành phố Genève của Thụy Sĩ vào ngày 20.07.1954, tạm lấy Vĩ Tuyến 17 trên sông Bến Hải (Thạch Hản) làm biên giới phân chia giữa Bắc và Nam Việt Nam, cho tới ngày tổng tuyển cử sẽ được tổ chức sau đó, mọi người dân ở cả hai Miền được tự do lựa chọn khu vực sinh sống của mình. Thêm vào đó, lúc bấy giờ một cơn đói đang hoành hành khắp Miền Bắc đã khiến cho khoảng 1,300,000 người dân Miền Bắc mà đa số là người Công Giáo đã di cư vào Miền Nam lập nghiệp. Trong số đó có 57,868 người Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh. Số giáo dân Nghệ-Tĩnh-Bình di cư vào Nam đã phân tán mỏng ra như sau: Giáo Phận Huế: 1,320 người; Giáo Phận Ðà Nẵng: 4,966 người; Giáo Phận Qui Nhơn: 1,032 ngưới; Giáo Phận Nha Trang (và Phan Thiết): 21,792 người; Giáo Phận Kontum: 7,023 người; Giáo Phận Ðà Lạt: 5,390 người; Giáo Phận Cần Thơ: 817 người; Giáo Phận Long Xuyên: 2,753 người; Giáo Phận Saigon: 11,868 người. Còn số giáo dân hiện nay của Giáo Phận Vinh ở Miền Bắc là 406,023 người rải rác trên hai tỉnh Nghệ An, Hà tĩnh và một phần tỉnh Quảng Bình. So với số giáo dân di cư của các Giáo Phận khác thì các giáo dân gốc Nghệ-Tĩnh-Bình có thể được coi là đông vào bậc nhất nhì, nhưng vì người Dân Vinh di cư vào Nam muộn hơn người Bắc và vì các Linh mục Vinh lúc bấy giờ không được tháo vát, nên Dân Vinh đã bị đưa đi định cư rải rác ở các tỉnh lẽ và trên các vùng Cao nguyên hẻo lánh, chứ không được định cư vùng ngoại ô kế cận Saigon, cả đến một căn nhà nho nhỏ ở Saigon để làm Trụ sở giao dịch cũng không có. Mãi về sau, nhờ sự lo lắng của các Linh mục Trương Cao Khẩn và Nguyễn Viết Khai, Dân Vinh mới có căn phố số 32 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nơi gặp gỡ nhau.
- Giáo xứ Tân Bình
Cùng theo dòng thác di cư đó, ngày 10.02.1955, cha Nguyễn Văn Dũng và cha Nguyễn Quang Dung (hiện mộ cha già Dung đang nằm trong khuôn viên nhà thờ Tân Bình) đem một số giáo dân thuộc các xứ Hướng Phương, Hòa Ninh, Gia Hưng, Minh Cầm đi vào miền Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa lập thành hai trại định cư Tân Bình và Bãi Giếng, nay là Bắc Vĩnh. Ngày nay cả hai Giáo xứ Tân Bình cũng như Bắc Vĩnh đã trở thành một trong những Giáo xứ sầm uất và sinh động nhất của Giáo Phận Nha Trang (xin xem tiếp bài "Tân Bình Quê Hương Tôi" trong cuôn Kỷ Yếu này).
- Tu Viện Mến Thanh Giá Tân Bình
Có thể nói được rằng trong các Giáo xứ di cư gốc Nghệ-Tĩnh-Bình ở Miền Nam, không có một Giáo xứ nào được hân hạnh như Giáo xứ Tân Bình, là có một Tu Viện các Sơ Mến Thánh Giá ngay giữa lòng Giáo xứ. Vì thế không thể nói đến Giáo xứ Tân Bình mà lại không nhắc đến Tu viện của các Sơ Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình.
Năm 1955, khi cha Nguyễn Văn Dũng và một số giáo dân của ngài từ Quảng Bình vào tới Ðà Nẵng, ngài đã đi vào Nha Trang trước để nhờ cha Lê Công Khương hướng dẫn tìm một nơi định cư thật thuận lợi cho giáo dân của ngài. Cha Khương đã giới thiệu vùng đất tại xã Suối Vĩnh, quận Suối Dầu, nằm bên Quốc lộ số 1, gần núi và biển. Thấy quang cảnh quá hữu tình, cha Dũng đã vui vẽ lên hứng nói một câu rất chí lý: "Nhất cận thủy, nhì cận sơn". Sau đó ngài trở lại đưa 2,000 giáo dân, trong đó có 33 chị em Dòng Mến Thánh Giá Hướng Phương, vào Nha Trang. Nhưng khi các Sơ Mến Thánh Giá vào tới Nha Trang thì được Ðức Cha Marcel Piquet, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang cho ở tạm trong nhà các Sơ Saint Paul tại khu nhà số 1-3, đường Lê Thánh Tôn. Sau đó bà Bề trên Maria Nguyễn Thị Lan xin cho chị em được dời đi nơi khác thì Ðức Cha Piquet cho chị em ở tạm tại nhà các Sơ Dòng Ðức Mẹ Khiết Tâm Bình Cang. Ở Bình Cang đưọc 7 tháng thì Mẹ Bề trên Lan lại xin Ðức Cha Piquet cho phép chị em về Tân Bình định cư và Ðức Cha đồng ý. Thế là từ ngày 20.12.1955 chị em Mến Thánh Giá Hướng Phương Giáo Phận Vinh định cư tại Tân Bình dưới sự dìu dắt của Ðức Cha Marcel Piquet và cha xứ Tân Bình Nguyễn Văn Dũng. Ngày nay Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình đổi tên thành Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang. Từ những thử thách khó khăn tưởng như không thể vượt qua được ở buổi đầu, Nhà Dòng đã phát triển một cách mạnh mẽ trong mọi lãnh vực. Về nhân sự: từ con số 33 chị em còn quá khiêm tốn lúc mới vào định cư, nay đã tăng lên vượt mực. Tính đến năm 2006, số nhân danh của Nhà Dòng gồm có: 181 Sơ khấn trọn, 103 Sơ khấn tạm, 50 Sơ tập sinh, 30 Sơ thỉnh sinh và 300 em đệ tử. Về cơ sở vật chất: Các chị em đã cùng nhau chắt chiu tần tảo xây dựng được một cơ ngơi thật nguy nga đồ sộ. Những căn nhà mái tranh vách đất xiêu vẹo hay được lợp tôn chật chội và nóng bức năm nào, nay đã được thay thế bằng những ngôi nhà lầu bê tông cốt sắt trông rất hoành tráng, hoàn toàn bảo đảm an ninh cho đời sống tu trì và kinh nguyện hằng ngày của chị em. Ngoài ra chị em Mến Thánh Giá Nha Trang còn xây dựng được khắp nơi những trung tâm vừa để huấn luyện chị em vừa để làm bàn đạp truyền giáo. Vâng, đặc biệt nhất là vấn đề huấn luyện và đào tạo chị em: Ðó là mối quan tâm và nỗi bức xúc vô cùng quan trọng của Nhà Dòng, cốt sao có thể thích ứng được với những tiến bộ và đổi mới của não trạng con người ngày nay. Vì thế, ngoài việc cho các chị em trẻ có khả năng không chỉ theo học đủ các ngành khoa học trong nước, mà Nhà Dòng còn gửi các chị em ưu tú đi du học ở ngoại quốc. Ðó là những canh tân rất hợp thời và rất đáng khích lệ của chị em Dòng Mến Thánh Giá Nha trang hiện nay. Và đó cũng là dấu chỉ tích cực cho tương lai của Nhà Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang Tân Bình. Nhà Dòng là niềm hãnh diện của cả Giáo xứ!

Kết luận
Qua những dòng tóm lược Lịch Sử Giáo Phận Vinh trên đây, người ta phải khách quan công nhận rằng tất cả những người giáo dân gốc Vinh, đều có chung một niềm tự hào về tinh thần quật cường bất khuất của dòng máu Nghệ-Tĩnh-Bình anh hùng, trong tất cả mọi lãnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, tôn giáo. Dù sống trên vùng đất quê mẹ Nghệ-Tĩnh-Bình hay sơ tán trên khắp đất nước Việt Nam hoặc ở một chân trời nào trên thế giới, người Công Giáo Vinh luôn luôn giữ được bản sắc và những phẩm tính cao quí của mình. Ðó là chân thành, trung kiên, chịu khó, cần mẫn, cương quyết và luôn lấy chữ tín làm đầu, chứ không bao giờ lật lọng hay dua nịnh. "Trung thần bất nhị quân" - một người tôi trung không bao giờ phục vụ một lần hai chủ, luôn luôn là khí phách của người dân Nghệ-Tĩnh-Bình. Kính thờ Thiên Chúa và phục vụ Tổ Quốc luôn được người Dân Vinh đặt lên trên hết. Bởi vậy, đồng bào cả nước - lương cũng như giáo - luôn hướng nhìn về vùng đất Miền Trung Nghệ-Tĩnh-Bình với tất cả sự kính phục và cảm mến. Nghệ-Tĩnh-Bình muôn năm!

Tài liệu tham khảo:
- "Giáo Phận Vinh, Nghệ Tĩnh Bình", Lm Cao Văn Luận, Khai nguồn lịch sử, Saigon 1975.
- "Lược sử Giáo Phận Vinh", Hồ Ðức Hân, do nhóm thân hữu Nghệ Tĩnh Bình phát hành, Hoa kỳ 1989.
- "Kỷ Yếu Năm Thánh GP Vinh", Tòa Giám Mục Xã Ðoài, 1992.
- "Lịch sử biên niên Việt Nam", Thư viện Học Viện Viễn Ðông Bác Cổ Pháp, EPEO, Paris.
- "Di sản Hán Nôm Việt Nam, thư mục đề yếu", NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, gồm 3 Tập.
- "Việt Nam Giáo Sử", Lm Phan Phát Nguồn, quyển I, trang 356.
- "Les Annales des MEP".
- "Thám hiểm Phong Nha", Báo Lao Ðộng, số ra ngày 16.08.1994.
- "Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ", Lm Vũ Ðình Trác, (Luận án tiến sĩ, xuất bản ở Orange, CA. 1988).
- "Nguyễn Trường Tộ, Con Người và Di Thảo", Lm Trương Bá Cần, Tp. Saigòn, 1988.
- "Lịch sử Giáo Phận Vinh", Lm Cao Vĩnh Phan, Hoa kỳ, 1996.
- "Những bí mật đàng sau các cuộc Thánh Chiến tại Việt nam", Lữ Giang, HK 1994, trang 197.
- Nội san "Luyện Thép" của giáo dân Vinh di cư, số 4, năm 1956.
- Bài nghiên cứu của N.L. Hénard trong Tạp chí BEFEO (Bulletin de l'École Francaise d'Extrême Orient, số 75.

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy
(CHLB Ðức 2006)