25 tháng 8 2013

South Vietnam Air Force - One aircraft only, no longer in service. Named the Tien Phong "Pioneer"

Không lực VNCH từng ráp một chiếc máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công, dự trù sẽ trang bị cho Trường Phi Hành của Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện VNCH, do ngân sách quốc gia VNCH đài thọ, máy bay dựa theo Phi cơ huấn luyện Pazmany PL-2 “Blueprint” của hãng Pazmany ở California.
South Vietnam TP-1 (based on PL-2 design)

Phần thiết kế dự án do Bộ Tư Lệnh Không Lực/Văn Phòng Tham Mưu Phó Tiếp Vận phụ trách. Công tác thực hiện được phân phối cho Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận và các Sư Đoàn Không Quân.

Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú, loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.

Chiếc máy bay được ráp từng phần ở 3 căn cứ khác nhau trước khi được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.

Máy bay có tên là "Tiền Phong" có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, mã là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 ..v.v..

Buổi giới thiệu chiếc máy bay của Không lực VNCH

Cockpit

Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn. Không biết ai làngười đầu tiên bay chiếc máy bay này, nhưng biết rõ chỉ có ba người đã bay trên Tiền Phong 001: là các ôngVõ Xuân Lành, Lê Xuân Lan,và Nguyễn Tú.

Tiền Phong 001 trên bầu trời.

Nguồn: Wikipedia
 South Vietnam


Máy bay made in Việt Nam ra đời từ gần 30 năm trước

Sau thống nhất, trong hoàn cảnh bị cấm vận, VN đã chế tạo máy bay trinh sát và chỉ huy chiến đấu Tự lực TL-1 chở được 4 người. Nó đã cất cánh thành công tới 23 lần. Ai muốn tìm hiểu, ra bảo tàng PK-KQ sẽ thấy hiện vật gốc.
Ba chiếc máy bay HL-1, HL-2 và VNS-41 ở Bảo tàng Phòng không-Không quân. Phạm Thủy-Lê Nam.

TL-1 là máy bay trinh sát-liên lạc cánh quạt một động cơ loại nhỏ, được Viện Kỹ thuật không quân thuộc Bộ quốc phòng Việt Nam thiết kế, sản xuất. TL-1 là viết tắt của nhiệm vụ máy bay là trinh sát-liên lạc, số 1 biểu thị chiếc đầu tiên của loại này. Theo thiết kế, máy bay có 4 chỗ ngồi, hình dạng phỏng theo kiểu máy bay Raely 220 của Pháp.

Đầu năm 1978 Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã lập dự án "Xây dựng cơ sở thiết kế và chế thử máy bay cánh quạt loại nhỏ". Một trong những kỹ sư tham gia chế tạo máy bay TL-1 là Lê Kiên Thành, con trai của Tổng bí thư Lê Duẩn.
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 2
Ngày 4 tháng 3 năm 1978, Quân ủy Trung ương đã họp phê chuẩn dự án này và giao cho Quân chủng PK-KQ chủ trì thực hiện. Ông Nguyễn Văn Phúc, công trình sư thiết kế máy bay của Pháp nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ dự án với vai trò cố vấn thiết kế kỹ thuật. Ngày
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 3
15 tháng 5 năm 1978, Quân chủng thành lập Ban X chuyên trách thực hiện dự án này, gồm Thiếu tá-Phó tiến sĩ Trương Khánh Châu (sau này là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) làm chủ nhiệm dự án và 13 kỹ sư.

Here is the first airplan TL -1 made in Vietnam in 1978 by VPA. But the engine was imported from France.

Sau 3 năm kiên trì thiết kế, chế tạo theo tiêu chuẩn Luật Hàng không Liên bang Far-25 Mỹ, chiếc máy bay loại trinh sát liên lạc TL-1 đầu tiên ra đời.

Tháng 8/1980, chiếc máy bay được chế tạo xong và đưa bay thử nghiệm tại sân bay Hòa Lạc.
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 5
Ngày 25 tháng 9 năm 1980, máy bay TL-1 cất cánh lần đầu tiên tại sân bay Hoà Lạc.

Với 102 phút trên không, 13 lần hạ cất cánh, máy bay TL-1 đã hoàn thành chương trình bay thử hai giai đoạn: bay thử khả năng và bay thử tính năng bay.

Phi công thử nghiệm là Nguyễn Xuân Hiển (sau này là Tổng Giám đốc Tổng Công ty Hàng không VN).
Thành công của máy bay HL-1 do Việt Nam sản xuất có sự đóng góp của phi công bay thử nghiệm Nguyễn Duy Lê Thành công của máy bay HL-1 do Việt Nam sản xuất có sự đóng góp của phi công bay thử nghiệm Nguyễn Duy Lê
Bức
Sau đó, Bộ Quốc phòng còn giao cho Viện Kỹ thuật Không quân chế tạo thành công máy bay huấn luyện HL-1, bay thử 23 chuyến an toàn và triển khai chương trình chế tạo máy bay HL-2 có thể đỗ và cất cánh trên mặt nước.

Chủ tịch HĐBT Phạm Văn Đồng chụp ảnh kỷ niệm với các cán bộ Viện KTKQ và nhóm thiết kế (TS Nguyễn Văn Hải hàng đứng thứ tư từ trái sang) ngày 24/7/1984
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 6
Đến tháng 4 năm 1987, máy bay HL-1 đã bay thử thành công, nhưng do điều kiện tài chính nên đến cuối năm 1987, chương trình hoàn thiện máy bay HL-2 tạm ngừng, Bộ Quốc phòng quyết định dừng chương trình nghiên cứu chế tạo máy bay.
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 7
Năm 1996, Việt Nam đã chế tạo thành công mục tiêu bay M-96, đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngành kỹ thuật hàng không nước này. Mục tiêu bay không chỉ dùng cho nhiệm vụ huấn luyện đơn vị phòng không, mà còn là nền tảng để Việt Nam thiết kế UAV trinh sát.

Sau một thời gian nghiên cứu, chế tạo và thử nghiệm, năm 1996, những chiếc mục tiêu bay ra đời đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngành kỹ thuật hàng không Quân chủng Phòng không-Không quân.

Đến nay, không chỉ dừng lại ở các loại mục tiêu bay, máy bay không người lái (UAV) phục vụ huấn luyện, Quân chủng Phòng không - Không quân còn là nơi nghiên cứu, chế tạo ra các UAV tham gia mục đích quân sự. Thành công đó đã đưa Việt Nam trở thành 1 trong 5 nước Đông Nam Á thiết kế, chế tạo thành công UAV.

Trước đây, sau những mùa bắn đạn thật của các lực lượng phòng không, không quân, các đơn vị rất phấn khởi là hiệu suất tiêu diệt mục tiêu tương đối cao và ổn định. Tuy nhiên, những người đứng đầu Quân chủng Phòng không - Không quân lúc bấy giờ lại hết sức trăn trở. Khoa học kỹ thuật quân sự ngày càng phát triển, hoạt động tác chiến của đối phương ngày càng tinh vi, nhất là các phương tiện tiến công hoả lực đường không. Nếu không kịp thời đổi mới nâng cao huấn luyện thì rất khó đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
TL
Do đó, việc nghiên cứu, sản xuất mục tiêu bay là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ này, năm 1996, Quân chủng Phòng không - Không quân đã mua tổ hợp thiết bị bay DF-16 của Israel và giao cho Ban Giáo dục Quốc phòng (Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân) nghiên cứu, học tập. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh Quân chủng giao cho cơ quan này phối hợp với Nhà máy A40 nghiên cứu, chế tạo mục tiêu bay.
Các
Sau 3 năm nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và thử nghiệm, cuối năm 1999, hai chiếc mục tiêu bay ký hiệu M-96 (bay ngày) và M-96D (bay đêm) đã được Nhà máy A40 xuất xưởng và bay thử thành công trên bầu trời Miếu Môn (Hà Nội). Loại mục tiêu này có sự hỗ trợ của kính TZK, điều khiển bằng tay và thực hiện bay bằng trong tầm quan sát bằng mắt thường. Và kể từ đó, mục tiêu M-96 và M-96D được Quân chủng PK-KQ sản xuất hàng loạt phục vụ cho các lực lượng tên lửa, pháo cao xạ huấn luyện.

Tuy nhiên, so với các loại mục tiêu bay trên thế giới dùng cho lực lượng phòng không, không quân huấn luyện, M-96 có nhiều hạn chế như: tầm bay ngắn, trần bay thấp và tốc độ nhỏ. Do đó, M-96 tiếp tục được nghiên cứu cải tiến và nâng cấp với tầm hoạt động rộng, trần bay cao, tốc độ lớn hơn, đặc biệt là thiết bị này bay theo chương trình tự động định sẵn. Quân chủng tiếp tục giao cho các kỹ sư từng tham gia sản xuất M-96.

Sau khi Ban nghiên cứu Mục tiêu bay của Viện Kỹ thuật Phòng không-Không quân (VKTPK-KQ) được thành lập, Đại tá Trịnh Xuân Đạt được bổ nhiệm làm trưởng ban, Trung tá Nguyễn Thanh Tịnh làm phó ban, Ban được cấp kinh phí cùng với cơ sở hạ tầng, trang thiết bị vật chất phục vụ công tác nghiên cứu, sản xuất.
Đại tá Trịnh Xuân Đạt-Trưởng ban Nghiên cứu mục tiêu bay là một trong những người có công trong việc chế tạo máy bay không người lái Việt Nam

Sau gần nửa năm nghiên cứu Viện đã hoàn thành nhiệm vụ nâng M-96 thành M-100CT, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật. Trong chương trình bay báo cáo được tiến hành vào tháng 7 năm 2004, Viện đã biểu diễn thành công các chuyến bay của mục tiêu M-100CT. Chương trình cải tiến mục tiêu M-96 lên M-100CT thành công là cả một bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực chế tạo mục tiêu bay, đây là tiền đề vững chắc để các nhà khoa học Quân chủng tiến tới hiện thực hoá giấc mơ chế tạo thành công Máy bay Không người Lái.

Đầu năm 2001, VKTPK-KQ đã khởi động dự án "Nghiên cứu thiết kế, chế tạo MBKNL điều khiển chương trình", ký hiệu M-400CT. Thiết bị này có nhiều điểm tương đồng với Tổ hợp thiết bị bay DF-16 do Israel sản xuất. Cho đến khi thử nghiệm thành công M-100CT, Viện giao cho Ban nghiên cứu mục tiêu bay tiếp tục hoàn thiện sản phẩm.

Đại tá Trịnh Xuân Đạt cho biết, đây là một nhiệm vụ khó, đòi hỏi phải đầu tư công sức và trí tuệ nhiều, khó nhất là thiết kế, chế tạo chương trình điều khiển tự động. Trong khi đó, các linh kiện này không có ngoại nhập, trong nước thì càng khan hiếm, bởi vậy các kỹ sư đã nghiên cứu thử nghiệm trên nhiều linh kiện khác nhau. Còn phần chế tạo vỏ, thân máy bay, khác với mục tiêu bay, lần này Viện phối hợp với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội sử dụng chất liệu composit (thay cho chất liệu gỗ như trước), chất liệu này vừa rẻ vừa giảm được trọng lượng của máy bay xuống, nâng khả năng mang nhiên liệu của máy bay lên.

M-400 là một loại máy bay không người lái do Việt Nam tự nghiên cứu chế tạo. Được thiết kế bởi Viện công Nghệ Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội Nhân dân Việt Nam và sản xuất bởi Viện công Nghệ Quân chủng Phòng không-Không quân và Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng. Dự án bắt đầu năm 2001 và kết thúc năm 2005 khi 2 mẫu thử nghiệm chính thức được bay thử và đã thành công.

Dự án phát triển máy bay lưỡng dụng (thủy phi cơ, là một loại máy bay có thể hạ cánh trên mặt đất và mặt nước) nhẹ được nhà máy A41 thuộc cục Kỹ thuật Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu sản xuất dựa vào kiểu máy bay của Nga là Che-22 "Korvet" mà Việt Nam đã mua lại từ Philippines, bắt đầu vào tháng 6 năm 2003 và tháng 9 năm 2005 thì thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên.
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 8
Máy bay dài 6,970 mét, cao 2,535 mét, tầm bay tối đa 200–300 km, trần bay 3.000m và chở được 2 đến 3 người.

Máy bay được gắn hai động cơ Rotax-582 (64 sức ngựa) của Áo, bình trữ nhiên liệu có khả năng chứa 80 lít, cho phép nó bay trong 4 tiếng đồng hồ và có thể bay được với vận tốc từ 120 đến 135 km một giờ.
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 9
Máy bay cần lấy đà khoảng từ 50 đến 70 trên mặt đất để cất cánh và 200 đến 300 mét dưới mặt nước. Trọng lượng cất cánh tối đa là 780 kg.

Toàn bộ thân chính, thân đuôi, cánh giữa của máy bay được làm bằng vật liệu composite cao cấp với mức độ nội địa hóa là 70%. Máy bay được dùng cho tuần tra rừng và các mục đích nông nghiệp cũng như cho thể thao, du lịch và sử dụng thương mại,
Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 10
Sau 4 năm nghiên cứu, thử nghiệm, ngày 15/9/2005, 2 chiếc MBKNL M400-CT mang phiên hiệu 405, 406 đã bay báo cáo thành công các bài bay tại sân bay Kép (Bắc Giang), với độ cao 2.000m, bán kính hoạt động 15 km.

Máy bay M-400 UAV có hình dáng nhỏ thường được dùng trong mục đích do thám, trinh sát, theo dõi mục tiêu của đối phương hay do thám những vùng hiểm trở, nguy hiểm, những vùng mà máy bay do thám cỡ lớn hay trực thăng không thể vào được. Ngoài ra nó còn phục vụ dân sự như quay phim, chụp ảnh địa hình, quan trắc môi trường, tìm kiếm cứu nạn v.v...

Sau đó, VKTPK-KQ tiếp tục cải tiến và nâng cấp M-400CT lên độ cao 3.000m, tốc độ 250 – 280 km/h, bán kính hoạt động 30 km, có thể cất hạ cánh trên đường băng (đất hoặc bê tông). Cùng với việc chế tạo MBKNL, Viện cũng đã thiết kế và chế tạo thành công các hệ thống bệ phóng (dùng cho các trường hợp không có đường băng cất cánh) bằng những nguyên vật liệu có trong nước, nhẹ và dễ cơ động.
http://mw2.google.com/mw-panoramio/photos/medium/49686961.jpg
Với thành công này, ngày 15/9/2005 được lấy làm ngày khai sinh của MBKNL và những thành công này đã đưa Việt Nam trở thành 1 trong số ít nước Đông Nam Á chế tạo được MBKNL. Hiện nay, VKTPK-KQ là đơn vị sản xuất mục tiêu bay, MBKNL phục vụ cho công tác huấn luyện của các lực lượng phòng không, không quân và lực lượng phòng không lục quân.

So với thế hệ mục tiêu và MBKNL trước đây, hiện nay chúng đã được cải tiến và nâng cấp nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của các loại khí tài mới và hiện đại. Cùng với việc sản xuất mục tiêu bay, MBKNL phục vụ mục đích quân sự, VKTPK-KQ cũng đã thiết kế, chế tạo ra các loại MBKNL phục vụ các mục đích dân sự như: bay phun thuốc trừ sâu, bay quay phim, chụp ảnh địa hình...

Tính đến năm 2012 đã có 12 chiếc M-400 được chế tạo nhưng do thiếu thiết bị GPS và một số bộ phận quan trọng khác nên hiện nay nó đã tạm thời ngừng hoạt động và sản xuất, còn VNS-41 là loại máy bay được sản xuất thành công và được đưa vào sử dụng thương mại tại Việt Nam.

Hình ảnh Chiêm ngưỡng máy bay ‘Made in Vietnam’ số 1

Máy bay TL – 1

TL – 1 là máy bay cánh quạt trinh sát loại nhỏ, bắt đầu được quân chủng không quân (nay là quân chủng PK – KQ) triển khai thực hiện từ tháng 3/1978, chế tạo xong vào tháng 7/1980 và bay thử thành công tháng 9/1980.
TL
Các thông số cơ bản của máy bay TL-1: Trọng lượng rỗng 830kg. Trọng lượng cất cánh tối đa 1100kg. 4 chỗ ngồi. Tốc độ bay bằng tối đa 265km/h. Tốc độ hạ cánh 98km/h. Tốc độ lên thẳng 5m/s. Trần bay 4.500m.

Máy bay HL-1
Các
HL-1 là máy bay huấn luyện phi công sơ cấp 2 chỗ ngồi, khi cần có thể thực hiện nhiệm vụ trinh sát liên lạc và chỉ điểm. HL-1 được thiết kế từ năm 1981, chế tạo xong vào tháng 5/1984 và bay thử thành công tháng 6/1984.
HL-1
Các thông số cơ bản của máy bay HL-1: Trọng lượng rỗng 824kg. Trọng lượng cất cánh tối đa 1132kg. Tốc độ bay bằng tối đa 275km/h. Tốc độ cực đại của máy bay khi bổ nhào 365km/h. Tốc độ hạ cánh 90 đến 100km/h. Trần bay 4.600m.

Máy bay HL-2
HL-2
HL-2 là máy bay đậu nước (thủy phi cơ), được thiết kế trên cơ sở của HL-1 để phục vụ công tác biển đảo. HL-2 cớ sơ đồ khí động và tính năng kỹ chiến thuật tương tự HL-1, điểm khác biệt là có lắp bộ càng phao và hai cánh có góc vểnh lớn hơn để tăng tính ổn định.
HL-2
HL-2 được thiết kế từ đầu năm 1985, tháng 3/1987 được chế tạo xong và tháng 4/1987 bay thử thành công.
Các
Các thông số cơ bản của máy bay HL-2. Trọng lượng máy bay 1.300kg. Vận tốc rời nước (rời đất) 120km/h (100km/h). Vận tốc tiếp nước (tiếp đất) 105km/h (90km/h). Đường chạy đà trên nước (trên đất) 480m (180m). Đường hãm đà trên nước (trên đất) 185m (280m).

Máy bay VNS-41

VNS-41 là máy bay lưỡng dụng siêu nhẹ, có thể cất cánh và hạ cánh trên mặt nước.
Máy
VNS-41 được thiết kế từ tháng 2/2004, chế tạo hoàn chỉnh và bay thử thành công trong tháng 12/2004.

Các thông số cơ bản của máy bay VNS-41: Tổ bay 2 người. Trọng lượng rỗng 528kg. Trọng lượng cất cánh tối đa 780kg. Tốc độ bay bằng tối đa 115km/h. Trần bay 3.000m.

Các máy bay VAM-1/2/3 

Tận mục 3 máy bay quân sự đầu tiên “made in Vietnam“
A41 Factory VNS-41
Thủy phi cơ VNS-41 bay kiểm tra tại hồ Trị An
Máy bay không người lái “Made in Việt Nam”
Máy bay không người lái Việt Nam gia nhập thị trường UAV
Vietnam produces 1st hydroplanes

05 tháng 8 2013

Chuyện từ góc công viên

Đạo diễn, NSND Trần Văn Thuỷ sinh năm Canh Thìn - 1940 tại Nam Định. Ông từng có thời gian làm phóng viên chiến trường.
Một số tác phẩm nổi tiếng của ông: Những người dân quê tôi, phim đầu tay, quay ở chiến trường Quảng Đà, đoạt giải Bồ câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig (1970). Hà Nội trong mắt ai, giải vàng LHP Việt Nam 1988.Chuyện tử tế (1985) được đánh giá là tác phẩm đặc sắc nhất của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig”. Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, giải Phim ngắn hay nhất, Liên hoan phim Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 43. Chuyện từ một góc phố(2003), phim về những hậu quả của chất độc màu da cam để lại trong gia đình một cựu phóng viên chiến trường.
Hà Nội trong mắt ai bị cấm lưu hành từ năm 1982 đến 1987. Bộ phim tập hợp nhiều tích chuyện hay trong sử sách, vì vậy mà bị coi là “nhân chuyện xưa nói việc nay”. Chẳng hạn, trong mắt vua Quang Trung, quốc gia chỉ có thể trường tồn và hưng thịnh khi kẻ dưới dám nói những điều ngay thẳng, còn bề trên biết nghe theo lẽ phải. Hay là chuyện bức tượng ở Chùa Bộc (Hà Nội) bây giờ vẫn lưu giữ, trên đầu tượng có đề chữ Tâm. Trước đây nhiều nhà nghiên cứu đều chịu, không biết tượng tạc ai. Về sau cụ Trần Huy Bá mới đặt giấy bản sau bức tượng rồi dùng than củi chà lên, mới hiện ra dòng chữ: “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng”. Tức là đúng vào cái năm Gia Long truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn thì dân chúng Thăng Long vẫn dựng tượng Quang Trung... Rồi cả những chuyện tại sao Nguyễn Siêu lại cho dựng Tháp Bút bên Hồ Gươm; tại sao Tổng đốc Hoàng Diệu lại cho đặt tấm bia ở Ô Quan Chưởng cấm các chức quan sách nhiễu dân...

5/10/09

tôi với đạo diễn Trần Văn Thủy


Tôi biết tới đạo diễn Trần văn Thủy qua Má tôi. Má tôi có vé đi xem phim " cấm" ở nhà chiếu phim tư liêu Phan Kế Bính. Má đươc xemChuyện tử tế của đao diễn. Má về mách tôi. Hay không thể tưởng.Tôi còn nhớ Má đưa tay lên ngưc xoa xoa như lên cơn đau tim khi kể nói tôi nghe về cảm xúc khi con phim Tử tế. Tôi đòi coi. Má trơn mắt. Phim cấm. Hồi đó, cái gì cấm. là hay. Tôi cứ thầm ước đươc coi Tử tế.

2005, khi tôi về Việt Nam. Nhân vụ Việt Nam đang phát động nhân dân ủng hộ cuôc kiện cáo về Da cam, tôi "gặp" đươc đao diễn Trần Van Thủy qua màn ảnh tv. Người ta mời ông lên phát biểu về cuốn phim Chuyện từ một góc công viên của ông. Bữa đó trưc tiếp. Ông lên, nói gì thì tôi không nhớ. Chỉ nhớ mỗi vụ này. Ông cầm micro, phát biểu với cái giong bưc tức." Tôi nói thật nhá. Tôi làm phim này rồi đưa ra nước ngoài giới thiệu toàn bằng tiền của tôi. Các ông lãnh đạo chẳng có ai giúp đâu nhá". TV vụt tắt. Để rồi quay lai với cô xướng ngôn viên tươi cười lãng qua chuyện khác. Tôi đang ngồi với Má. Lặng người đi vì khí phách của ông. Bâng khâng mãi là sau đó ông có bi việc gì không.

Về Mỹ. Bắt đầu truy tìm tông tích của đao diễn trên mạng. Nhưng lúc đó thất vong quá. Chẳng có gì nhiều.

Lần này thì tôi găp đao diễn ở hôi thảo về chất độc da cam ở Riverside hôm qua. Đươc găp người, chứ không qua lời Má hay trên TV nữa.

Ông được mời đến hội thảo để một lần nữa giới thiệu bô phimChuyện từ một góc công viên cho dân RiverSide.

Bô phim hay, xúc động . Tôi khóc. Phim làm lâu rồi. Nhưng với tôi là mới. Với nhiều người trong buổi hội thảo đó. Là mới. Biết bao điều trong đó, hơn 14 năm rồi. Nói lại, cứ như là mới tinh.Tôi sẽ review cuốn phim trong entry khác vậy.

Tôi hỏi là làm sao tôi có thể coi vài cuốn phim của ông. Thật bất ngờ. Hôm sau, ông gói ghém gói quà này tặng tôi. Gói ghém chu đáo quá. làm tôi xúc động.

Ông nói trong này có mấy bộ phim ông làm.Trong đó có phim Tử tế, Chuyện từ một góc công viên, và một bộ phim làm về Mỹ Lai. Thế là cái ước mơ hồi con nít " đươc xem phim Tử tế" của ông tới bữa nay coi như toai nguyện. À, còn một cái khăn choàng ông mang từ Hà nội. Ông còn gởi lời thăm Má tôi nữa.


Phim Tử tế có bao nhiêu người đã từng coi. Nhưng.

Tôi có hẳn đao diễn Trần văn Thủy tặng nhá. Chuyên tử tế trong phim ông làm cũng hơn 20 năm rồi. Nhưng coi lai, việc" tử tế" với nhau, vẫn cứ là một đề tài nóng hổi. Chả trách, Tử tế là một trong những phim hay nhất của Việt nam và cả của thế giới nữa.

nhớ nhất một câu chuyện ông kể trong hội thảo.

Thường thì khi người nước ngoài hỏi những nhà làm phim ở Việt Nam găp những khó khăn gì. Thì người ta hay nhận đươc câu trả lời. Một là kinh phí. Hai là máy móc lac hậu. Ba là chế độ kiểm duyệt. Nhưng ông cho rằng cái khó khăn nhất là "mình làm phim từ trái TIM".

tâm đắc, tâm đắc.

Sống sao cho tử tế. Cái dấu hỏi to thù lù cho tôi sao khi xem phim của ông.Ngồi mà gậm nhấm hai chữ Tử tế. Viết ra chắc bao nhiêu cái entry cho đủ.

Xin cám ơn ông rất nhiều.
Chuyện từ góc công viên
Đạo diễn: Trần Văn Thủy - Hồ Trí Phổ

NSND Trần Văn Thủy sống trong một ngõ nhỏ yên tĩnh trên đường Hoàng Hoa Thám - Hà Nội, nhưng nơi cư ngụ lại là một ngôi nhà cao ráo và rộng rãi, cây trứng gà trước hiên nhà đã xum xuê tỏa bóng.

Ông nói, ngôi nhà này được xây cất bằng chính tiền làm phim với nước ngoài của mình, sau bao nhiêu lận đận vất vả với phim trường trong nước. Bởi có dạo khó khăn và cô đơn quá, mẹ ông đã khóc: “Con ơi, sao cái nghề của con khổ thế”. Nhưng ông vẫn bền bỉ với con đường của mình. Mỗi khi tiếp khách, ông thường trọng thị thắp hương trước bàn thờ tổ tiên mình, như một thói quen, và cũng có thể như muốn phác một cử chỉ rằng, những điều chúng ta trao đổi với nhau đều là chân thành và tử tế.

Trần Văn Thủy là một người xem trọng những việc tử tế. Ông là ân nhân của nhiều học sinh nghèo, những em bé tật nguyền, và đã chắt chiu từng đồng tiền kiếm được để xây bảy cây cầu nhỏ và xây trường học cho những nơi khốn khó.

Gần hai mươi năm qua, ông đã góp phần xây được tám cây cầu to, rộng, đẹp, bền chắc, xây trường tiểu học, trường mầm non, trường mẫu giáo, nhà trẻ, khu văn hóa, gần một trăm giếng bơm nước sạch, nhiều ngàn mét vuông bê tông đường làng, trợ cấp cho người nghèo và các cháu bị hậu quả chất độc da cam, xây dựng lăng mộ tổ, lập ấp, và nhiều việc khác nữa. Ông không nghĩ đó là việc từ thiện, vì hai chữ từ thiện khiến ông có cảm giác đó là sự ban ơn. Ông coi việc mình làm chỉ là tiến hành những điều hiếu nghĩa. Bền bỉ đánh thức sự tử tế xung quanh, và ông đã trở thành một người tử tế từ bao giờ cũng không rõ nữa.

Một số giải thưởng đã đạt được

- Những người dân quê tôi, phim đầu tay, quay ở chiến trường khu Năm, đoạt giải Bồ câu Bạc tại LHP Quốc tế Leipzig (1970).
- Phản bội, giải Vàng LHP Việt Nam 1980, giải Đạo diễn xuất sắc.
- Hà Nội trong mắt ai, giải Vàng LHP Việt Nam 1988, giải Biên kịch xuất sắc Nhất, Đạo diễn xuất sắc Nhất, Quay phim xuất sắc Nhất.
- Chuyện tử tế (1985), giải Bồ câu Bạc LHP quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài gọi là “Quả bom đến từ Việt Nam”, được hơn 10 đài truyền hình lớn trên thế giới mua bản quyền và được chiếu rộng rãi ở châu Âu, Nhật Bản, Úc và Mỹ...
- Chuyện từ góc công viên, Giải Vàng LHP Hội Điện ảnh năm 1996.
- Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai (1999), giải Vàng LHP châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 43.

Ông được trao tặng danh hiệu “Chứng nhân của thế giới” tại hội thảo “The Robert Flaherty” dành cho 200 nhà làm phim tài liệu độc lập, tại New York (Mỹ) năm 2003.

Những ký ức của rồng
 Trần Văn Thủy (phải) và Ðỗ Minh Tuấn ở Boston.
Nếu không có cơ hội sống chung với Trần Văn Thủy, chắc tôi chẳng bao giờ hiểu hết những chuyện đời đằng sau những thước phim đầy máu và nước mắt của anh. Có những ngày hai anh em ngồi nói chuyện cả buổi sáng, anh kể tôi nghe về một thời quay phim trong lửa đạn. Có khi địch càn, ba người ôm máy và phim chui xuống hầm, bị ngạt thở phải chui lên thì lại thấy một tên lính Mỹ cạo râu trước chiếc gương to, đành phải nín thở bò trườn qua chuồng bò, hố tiêu, cỏ dại. Hút chết! Rồi những ngày bị ốm, thèm rau muống, một đồng nghiệp đi công tác mấy ngày, khi về mang cho anh một mớ rau hai phần ba héo úa! Người yếu đến mức tiêm B1 vào ngất xỉu, phải ôm phim ra Bắc.
 
Trên đường đói quá, thấy con cua của đứa trẻ buộc ở cột đầu võng, đấu tranh tư tưởng mãi rồi cuối cùng quyết định ăn trộm con cua ấy nhai nghiến ngấu; phải nằm ngủ giữa đường để nếu chết có người còn biết. Đói và mệt vô cùng, nhưng lúc nào cũng phải ôm khư khư cái bọc đựng 27 cuốn phim đã quay. Nhiều khi đói quá đành tặc lưỡi ăn cả gạo rang chống ẩm trong túi đựng phim. Có lúc phải đổi quần dài lấy mật ong để ăn, mặc quần đùi áo cộc bị muỗi đốt khắp người.
Ra đến Hà Nội, ngồi thẫn thờ ở góc công viên mãi mới gọi xe xích lô. Người đạp xích lô thấy anh nhem nhuốc quá phải lật chiếu lên, không cho anh ngồi lên vì sợ bẩn. Về đến nhà, bà chị không nhận ra. Hôm sau, bố đến ôm lấy cái chân trắng bợt của anh mà khóc. Sau đó, bộ đội đến cho lên xe com-măng-ca đưa vào bệnh viện, tiếp máu và điều trị liền  ba tháng. Trong khi đó, ở nhà lại có dư luận Trần Văn Thủy quay cho hết cơ số phim để chạy khỏi chiến trường nên chắc 27 cuộn phim anh mang ra chẳng có gì đáng xem đâu! Vì thế người ta định vứt đi. May có ông tráng phim thấy tiếc giấu mọi người tráng hộ, nhưng tráng hỏng. Như trời sắp đặt, những cảnh tráng hỏng lại có một hiệu quả hình ảnh rất đặc biệt, khó mà làm lại được.
Khi xem những đoạn tráng hỏng đó trong phim Những người dân quê tôi, đạo diễn Carmen đã nói bộ phim sẽ được giải vì chính những cảnh hỏng này! Y như rằng, bộ phim Những người dân quê tôi của anh đã đoạt giải Bồ câu Bạc tại LHP Leipzig. Những câu chuyện của anh đằng sau bộ phim này đã cho tôi thấy một cách sống động thế nào là những tác phẩm làm bằng máu và nước mắt, khiến tôi biết trân trọng hơn tác phẩm của những người đồng nghiệp như anh.
Trần Văn Thủy cũng tâm sự nhiều với tôi về gia đình anh, về người bố nhân hậu từng nuôi mấy chục người cơ nhỡ trong nhà, về chuyện anh xin tiền tài trợ xây trường, xây cầu cho quê hương! Rồi anh tâm sự cả những nỗi niềm riêng, lo khi về nước, con trai đã đi sang Ba Lan, một mình anh ở cái nhà mênh mông thì buồn lắm. Anh lo cháu nội ra nước ngoài từ bé sẽ không biết tiếng Việt, rồi lo chuyện dời mộ bố mẹ ở quê hương.
 
Càng sống với Trần Văn Thủy, tôi càng thấy ở anh một người tử tế, một nhân cách trí thức, một nghệ sĩ hành động. Không giống như những nghệ sĩ con buôn tham nhũng cả tiền bạc và cả vinh quang, luôn muốn đem cả thế giới đắp cho riêng mình, Trần Văn Thủy luôn trăn trở lo toan cho quê hương, cho bạn bè, đồng nghiệp. Và mặc dù chịu bao nhiêu bất công, bị bao điều xúc phạm, anh vẫn sống đàng hoàng, tự tin và nhân hậu như một thiền sư đắc đạo, không cuống cuồng gây sự hay kiện cáo vì tác phẩm của mình bị đánh giá sai.
Nhân vật đi theo đạo diễn khắp mọi nơi
Chuyến đi của hai anh em đến Philadelphia chiếu phim cho sinh viên đại học để lại nhiều ấn tượng khó quên. Tuyết trắng phủ kín nhà cửa, xe cộ, cây cối suốt chặng đường đi, dường như con tàu đang lao trong một sa mạc tuyết. Rồi những hình ảnh dữ dội về sự kiện Thiên An Môn trong bộ phim tài liệu dài bốn giờ đồng hồ mà chúng tôi đã được xem cùng sinh viên. Nhưng ấn tượng nhất vẫn là bộ phim Chuyện ở góc công viên của anh.
 
Chuyện một em bé nạn nhân chất độc da cam vẫn vượt lên những đau đớn thể chất để luyện tập chơi đàn đã khiến tôi và tất cả khán giả trong phòng giàn giụa nước mắt. Không một hình ảnh nào mang dáng dấp hàng hóa chiến tranh lạnh xuất siêu như trong phim của một số người. Sao một bộ phim làm đã lâu, hay như vậy mà đến tận khi sang đất Mỹ tôi mới có dịp xem?
 
Dường như những nhân vật của Trần Văn Thủy trên khắp thế giới này đều là những con người bình thường, nghèo đói, khổ đau nhưng tử tế và thánh thiện. Từ người nông dân xả thân chiến đấu giữ quê hương, người làm gạch nổi giận trước sự dối trá của nghệ thuật, ông giáo bán rau khuyên học trò tử tế trong mọi cảnh ngộ, người bạn đồng nghiệp lạc quan trên giường bệnh nhìn cái chết đến gần, đến anh cựu chiến binh Mỹ Mike yêu Việt Nam, ghét tiền bạc và quyền lực…
 
Tất thảy đều trần trụi hiện ra với nhân cách cao cả trước một thế giới luân phiên giữa lửa đạn chiến tranh và kim tiền lạnh giá. Có thể nói, tất cả những kiếp người mong manh cao quý trong phim Trần Văn Thủy đều trở thành những đám mây ngũ sắc lấp lánh ánh sáng của nhân cách, của tình người. Anh là con rồng bay dũng mãnh miên man giữa những đám mây của những phận người nghèo đói và cao cả.
Những nhân vật của anh dù cách nhau nửa vòng trái đất và khác nhau một trời một vực, tất thảy họ đều trở thành những người bạn của anh. Những bà xơ trong phim Người tử tế đã bước ra đời, tìm đến anh, đưa cả bao tải tiền quyên góp được giúp anh xây trường học, xây cầu cho quê hương. Mike Bohem, nhân vật trong bộ phim Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai đã đưa Trần Văn Thủy về làng của mình thăm ngôi trường anh học lúc ấu thơ, thăm thác nước ngày xưa mỗi khi giận bố anh vẫn đi lang thang ra đó, thăm một hồ nước cạnh rừng cây lá vàng và thảm cỏ xanh mướt, nơi Mike đã từng suýt chết vì ngã xuống hố băng…
Không phải con rồng nào cũng có cơ duyên được bay đến những chân trời lộng lẫy trong ký ức và ước mơ của bao số phận. Không phải đạo diễn nào cũng đồng cảm với nhân vật của mình và có được tình bạn sâu sắc với họ như vậy. Phải là một con người xứng đáng được chia sẻ, tin yêu. Có lẽ vì thế mà khi tiễn Trần Văn Thủy về lại Boston, Mike Bohem đã ôm lấy anh và nói: “Trước tôi chỉ biết anh như một đạo diễn. Giờ đây, tôi hiểu anh như một con người”.       
Trích 
Sáu tháng ở Boston với Trần Văn Thủy
của
Đỗ Minh Tuấn