Bà Huyện Thanh Quan có làm bài thơ Qua Đèo Ngang nổi tiếng, giang hồ, nho sĩ bấy lâu tâm đắc cũng nhiều, cãi nhau cũng lắm, nhưng ít nghe nói chuyện có ai đó họa vần bài này.
Cái phong vận thơ Đường luật, phải có xướng họa thì mới hay. Cho nên, có thể lúc đương thời, có tay cóc xoài mía ổi nào họa vần với bà Huyện, giờ tư liệu thất lạc đâu đó, nên mọi người ít biết.
Dù vậy, thời hiện đại có nhà thơ Lê Đức Thọ từng họa vần bài thơ này, hình như cũng không nhiều người biết, bài họa này trong tập “thơ Lê Đức Thọ” (1983), đọc thấy khẩu khí Đường thi hào sảng, họa vần đắc ý và có thần thái của người chiến sĩ cách mạng.
Trong tập thơ nói trên còn đôi bài thơ mà những người lính biên thùy phía Bắc vẫn luôn mang theo trong hành trang của mình.
Ác-si-met đã nói: Hãy cho tôi điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng cả trái đất lên. Chỉ vậy thôi cũng thấy sức mạnh của điểm tựa rồi.
Mùa đông năm 1982 khi đi công tác thăm chốt tại Khau Chia - Cao Bằng, bác Lê Đức Thọ nói:“Tôi đến đây nhưng không mang quà cáp gì cả, chỉ có bài thơ này xin tặng mọi người, nhan đề của nó là Điểm Tựa".
Thắng Còng: Nhờ có bài thơ này mà lính biên giới phía Bắc được ăn gạo 100% không phải ăn bo bo và nắp hầm(*) nữa. Nghe các anh lính cũ kể lại giai thoại là khi các anh lính xuống đón Cụ Lê Đức Thọ lên chốt đã mặc quần đằng sau ra đằng trước để giấu các vết rách ở đầu gối. Khi Cụ hỏi thì anh lính nhoẻn miệng cười và nói "Ưu tiên phía trước mà thủ trưởng" và thế là bài thơ "Điểm Tựa" ra đời, phía trước được ưu tiên.
ĐIỂM TỰA
Hàn thử biểu chỉ độ không
Đêm nay trời rét lắm…
Cái rét biên thùy lạnh buốt thịt da
Cả núi rừng chìm đắm giữa sương khuya
Gió vi vu thổi qua khe cửa nhỏ
Trằn trọc mãi thâu đêm không ngủ
Thương anh nhiều, anh chiến sĩ tôi ơi…
Điểm tựa trên cao, anh đứng giữa đỉnh đồi
Một mảnh áo bông thay nhau khi đổi gác
Súng lạnh buốt tay, mắt hướng về phía trước
Tai lắng nghe từng tiếng động trong đêm…
Tôi nhớ buổi chiều anh cõng tôi lên
Thân tôi yếu, không thể nào leo hết dốc
Mỗi bước anh đi tôi đếm từng nhịp thở
Hai trái tim thì thầm to nhỏ
Hơi ấm lưng anh sưởi ấm cả lòng tôi…
Khau Chỉa đây rồi anh nở nụ cười tươi
Ngồi sát bên anh bao lời tâm sự
Theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc
Xa quê hương đã trọn mấy xuân rồi
Cuộc sống chiến trường năm tháng thêm vui…
Đời chiến sĩ đang còn nhiều khổ cực
Quần áo mỏng manh, cơm có bữa chưa no…
Đường dốc gập ghềnh lắm suối nhiều khe
Đôi lúc hỏng xe hàng không tới được
Gạo sấy khoai mì và bát canh toàn quốc
Nước chấm đại dương cũng đỡ lúc đói lòng…
Cũng có khi thịt ấm chân răng
Nhưng có bữa cơm toàn muối trắng
Sinh hoạt tinh thần còn bao thiếu thốn
Cả năm trời mới được một lần phim…
Báo chí báo đài ít có để xem
Điệu múa lời ca còn xa vời vợi
Ngày lại ngày nghe chim hót đầu non
Cả đơn vị anh không một cây đàn…
Mấy tháng một lần thư nhà mới đến
Mẹ lại bảo về vì mấy sào ruộng khoán
Thiếu bàn tay lao động để tăng gia…
Thư của người yêu… anh mỏi mắt chờ đợi
Mực đã cạn lại thiếu tờ giấy viết
Mối tình thắm cũng có khi phai nhạt
Nhưng thời gian rồi tất cả cũng trôi qua…
Đôi mắt anh nhìn khoảng trời xa
Nói đến anh tôi bỗng cười xòa
Đất nước khó khăn quân thù còn đó
Mộ liệt sĩ năm nào còn xanh ngọn cỏ
Nhưng giờ đây ấm áp nghĩa trang…
Ôi hồn anh là tâm hồn thời đại
Còn khó khăn nào hơn thế nữa không anh…
Tạm biệt anh trong vòng tay siết chặt
Anh hôn tôi một cái hôn thắm thiết
Mắt long lanh như thầm gửi điều gì…
Hạt mưa rơi trên đầu cây ngọn cỏ
Vườn nhà ai đào chớm nở những nụ hoa
Đi giữa dòng đời mà sao lòng cứ băn khoăn day dứt
Làm thế nào để anh được ấm thêm đôi chút…
Cứ mỗi độ gió mùa đông bắc sang
Chắc điểm tựa nay rét nhiều anh nhỉ
Gió ơi gió nhắn đôi lời thủ thỉ
Gửi tới anh bao nỗi nhớ tình thương…
Lê Đức Thọ
1982
(*): Bột mì hay mạch được năn thành hình như bánh bao sau đó ấn cho bẹp xuống rồi luộc lên, khi chín trông giống như cái nắp hầm tránh bom ở các đô thị miền Bắc hồi Mỹ ném bom và cứng có lẽ cũng chẳng thua beton khi để lâu.
Rõ ràng là bài thơ nói về tình cảm của bác Thọ với các chiến sỹ nơi biên cương, nhưng ngẫm sâu xa hơn thì đó chính là tình cảm thân thiết gần gũi đầy nhân bản giữa người lãnh đạo, đồng bào và chiến sỹ.
Sau khi trở về, bác Thọ vẫn còn nhớ tới những người lính nơi biên cương xa xôi để rồi một năm sau bác viết bài thơ "Thăm anh" để thăm hỏi xem
Cung cấp ưu tiên lên phía trước
Hay còn phân phối cảnh bình quân?
Khẩu phần đến đủ tay người nhận?
Tiêu cực bao phen có giảm dần?
THĂM ANH
Vừa mới ngày nào lên điểm tựa
Đến nay đã trọn một mùa xuân
Đường đi biên giới đâu xa lắm
Nhưng khó thăm anh lại một lần
Mở đài nghe báo tin thời tiết
Đợt rét mùa này rét rét thêm,
Tôi ở miền Nam tràn nắng ấm,
Ước gì nắng ấm cả vùng biên.
Buổi ấy gặp anh lưu luyến mãi,
Mỗi độ đông về lại nhớ mong.
Chăn lạnh, bông thêm chừng mấy lạng?
Hở sườn mặc áo có còn chăng?
Mỗi năm gà, lợn nuôi bao lứa?
Khoai sắn tăng gia mấy mảnh vườn?
Hai bữa cơm ăn còn đói bụng?
Rau trồng liệu đủ bát canh suông?
Báo Đảng, báo Đoàn lên có tới?
Văn công, phim ảnh mấy tuần xem?
Thư nhà gửi đến mau hay chậm?
Đài mở nghe tin được mấy lần?
Cung cấp ưu tiên lên phía trước
Hay còn phân phối cảnh bình quân?
Khẩu phần đến đủ tay người nhận?
Tiêu cực bao phen có giảm dần?
Xa anh biết anh làm sao nhỉ?
Muốn hỏi thăm anh rõ ngọn ngành;
Cuộc sống ngày càng mong đổi mới
Cho rừng thêm đẹp, lá thêm xanh.
Đời anh bộ đội đầy mưa gió,
Đất nước thanh bình họa chửa yên,
Tay súng, tay cày thêm vững chắc,
Đạp bằng hiểm trở quyết vươn lên.
Tết này, anh hẳn vui hơn trước,
Tổ quốc bàn thờ ảnh Bác treo,
Giò mỡ, bánh chưng, cành mận trắng,
Tiếng đàn, giọng hát, suối mừng reo.
Hậu phương rộng lớn thương anh lắm,
Đồng ruộng đơm bao hạt lúa vàng,
Nhà máy, công trường ngày rộng mở,
Xuân về hoa thắm ngát trăm hương.
Thư anh, tôi gửi từ Minh Hải,
Anh ở biên thùy tận núi cao,
Đất nước hai đầu xa vạn dặm,
Mà lòng thương nhớ vẫn bên nhau.
Lê Đức Thọ
Minh Hải
Ngày 12 tháng 12 năm 1983.