23 tháng 5 2014

Điện Thoại Di Động Đầu Tiên Của Liên Xô Thập Niên 1950

Điện thoại di động đầu tiên của Liên Xô

First Russian Mobile Phone



Posted on  by team
This is the photo of the first Soviet cellular phone. The development of such devices has started in 1958 as a cooperative project by the group of the Soviet scientists from different cities.
Đây là hình ảnh của điện thoại di động đầu tiên của Liên Xô. Sự phát triển của các thiết bị như vậy đã bắt đầu vào năm 1958 như là một dự án hợp tác của nhóm các nhà khoa học Liên Xô từ các thành phố khác nhau. 

It was a fully functional mobile phone that was placed in the car of the Soviet elite. It had a full duplex link and in order to dial a phone one had just pick up the receiver and dial a number using this big square buttons with letters and digits on them. On the first models there were even old-style round dial.
Đó là một điện thoại di động đầy đủ chức năng được đặt trong xe hơi của giới tinh hoa Xô viết. Nó có một liên kết song công hoàn toàn và gọi một số điện thoại bằng cách nhấc tổ hợp và quay số bằng cách sử dụng các nút này vuông với chữ cái và chữ số bên trên. Trên các mô hình đầu tiên thậm chí có những kiểu đĩa quay số cũ.
In a common Soviet town the phone base station had only 16 radio channels, but it was enough to serve the local Communist elite with a mobile phone link.
Tại một thị trấn Liên Xô thông thường trạm phát sóng điện thoại chỉ có 16 kênh, nhưng cũng đủ để phục vụ giới tinh hoa cộng sản địa phương với một liên kết điện thoại di động.

There was used a 150 MHz frequency, so the antenna placed on the roof of a high building could give a coverage area of 40-50 miles.
Nó sử dụng tần số 150 MHz, do đó, ăng-ten đặt trên mái nhà của một tòa nhà cao có thể cung cấp cho một vùng phủ sóng rộng 40-50 dặm.

The first devices were started in production in 1963, and till 1970 more than 30 Soviet cities were covered with this elite mobile phone network. As far as the author knows, in USA there was also such kind of mobile telephone system but it started a bit later – at 1969.
Các thiết bị đầu tiên được bắt đầu sản xuất vào năm 1963, và cho đến năm 1970 hơn 30 thành phố của Liên Xô đã được bao phủ bởi mạng lưới điện thoại di động ưu tú này. Theo như tác giả biết, tại Mỹ cũng có loại hệ thống điện thoại di động giống vậy, nhưngbắt đầu một chút sau đó - vào năm 1969.

The system had even some modern day features as “conference-call”. And there was a hierarchy in using this system. People who hold higher Communist positions could throw of the line the lower posts when they needed to talk urgently but all the lines were busy. Some could call only local numbers and more advanced Communists could call worldwide.
Hệ thống thậm chí có một số tính năng hiện đại như ngày nay, chẳng hạn "gọi hội nghị". Và có một hệ thống phân cấp trong việc sử dụng hệ thống này. Những người lãnh đạo Cộng sản giữ các chức vụ cao hơn có thể chiếm của đường dây các chức vụ thấp hơn khi họ cần nói chuyện khẩn trương mà tất cả các kênh đang bận rộn. Một số chỉ có thể gọi số địa phương và lãnh đạo Cộng Sản cao cấp hơn có thể gọi trên toàn thế giới.

In the late 70s there appeared a new, less monstrous model of the Soviet mobile phone. It could be conveniently placed between front passenger chairs in the car, not in the trunk as before.
Trong cuối những năm 70 đã xuất hiện một mô hình điện thoại di động nhỏ đến quái dị mới của Liên Xô. Nó có thể được đặt thuận tiện giữa ghế hành khách phía trước trong xe, không phải trong cốp xe như trước.
The Soviet authorities even didn’t think about providing the service to common people. The mobile phone could give another level of freedom to its owner, and it was not what they expected from the citizens.
Các nhà chức trách của Liên Xô thậm chí không nghĩ về việc cung cấp các dịch vụ cho những người dân thường. Điện thoại di động có thể cung cấp một mức độ tự do cho chủ nhân của nó, và đó không phải là những gì họ mong đợi từ các công dân. 

Cập nhật 16/1/2007
PDA, điện thoại di động và máy tính xách tay 90 năm trước

PDA, Cellphone and Laptop 90 Years Ago

Posted on  by
This is Moscow subway.
Đây là ga tàu điện ngầm Moscow. 

This particular photo is the “Kievskaia” station. It has a lot of epic mosaics about Soviet era.
Hình ảnh đặc biệt này là trạm "Kievskaia". Nó có rất nhiều tranh ghép sử thi về thời kỳ Xô viết. 

Please look down for one amazing picture:
Hãy nhìn xuống một hình ảnh tuyệt vời: 
According to this photo from Moscow subway station “Kievskaia” it can be clearly seen that Communist’s coup was so successfull due to the help of time travelers who had come from the future equipped with PDAs, cell phones and laptops.
Theo bức ảnh này từ ga tàu điện ngầm Moscow "Kievskaia" có thể được nhìn thấy rõ ràng rằng cuộc đảo chính Cộng sản rất thành công do sự giúp đỡ của những du khách thời gian đến từ tương lai được trang bị PDA, điện thoại di động và máy tính xách tay.

Cập nhật 23/5/2014

Điện thoại vô tuyến của Liên Xô
từ thập niên 1950
Russian Radio Phones from 1950s

2
Posted on  by tim

Để so sánh, chúng ta chọn hãng Motorola (và các nhà xản xuất châu Âu ở Đức, Phần Lan), vốn được cho là đi đầu trong lĩnh vực sản xuất điện thoại di động, đã có thành tích gì trong lĩnh vực này?
Năm 1946, ngày 02 tháng 10, nhà cung cấp thiết bị thông tin liên lạc Motorola cung cấp dịch vụ vô tuyến điện thoại trên xe mới tại Illinois Bell Telephone Company's ở Chicago, Illinois, USA.
Năm 1957 Leonud Kupriyanovich nhận được một giấy chứng nhận bản quyền cho "vô tuyến điện thoại" - điện thoại vô tuyến tự động với đường truyền trực tiếp. Thông qua trạm điện thoại tự động thiết bị này có thể được kết nối với bất kỳ thuê bao nào của mạng điện thoại nằm trong vùng phủ sóng của máy phát "vô tuyến điện thoại". Vào thời điểm đó nó là thiết bị có hiệu lực đầu tiên, thể hiện nguyên tắc "vô tuyến điện thoại" được nhà phát minh đặt tên LC-1.
 In 1957 Leonud Kupriyanovich received a copyright certificate for “radiophone” – automatic radio telephone with direct line. Through automatic telephone station this unit could be connected to any subscriber of telephone network within the transmitter’s coverage area of “radiophone”. In that time it was ready the first valid set of equipment, demonstrating the principle of “radiophone” named inventor LC-1.
Trong suốt thập niên 1950 - 1960 Motorola bận rộn với việc phát triển và kinh doanh truyền hình.
"Các điện thoại có kích thước nhỏ, trọng lượng không vượt quá ba kg" - "Khoa học và cuộc sống" đã viết. "Những cục pin được đặt bên trong vỏ của thiết bị; thời gian sử dụng liên tục là 20-30 giờ. LC-1 có 4 bóng chân không đặc biệt, vì vậy lượng điện cấp cho ăng-ten đủ để giao tiếp ở các bước sóng ngắn trong khoảng 20-30 dặm. Trên đơn vị được đặt 2 ăng-ten và trên bảng điều khiển phía trước của nó được cài đặt 4 thiết bị chuyển mạch cho các cuộc gọi, microphone (với lỗ cắm bên ngoài cho tai nghe) và đĩa quay số."
 “The telephone is small in size, its weight does not exceed three kilograms” – wrote “Science and Life”. “The batteries are placed inside the case of the device; period of continuous use of them is 20-30 hours. LK-1 has 4 special vacuum tubes, so return the antenna power is sufficient for communication at short wavelengths in the range of 20-30 miles. On the unit are placed 2 antennas and on its front panel are installed 4 switches for call, the microphone (which is outside for headphones) and dial disk. “

"Sử dụng điện thoại di động đầu tiên không thoải mái như bây giờ." (Tạp chí "Kỹ thuật Trẻ" # 7, 1957)
“Usage of the first mobile phone was not as comfortable as it is now.” (Magazine “Young Technician” #7, 1957″)

"Kupriyanovich với LC-1 trong xe. bên phải thiết bị - loa ngoài ." Tạp chí "Lái xe", 12, 1957
“Kupriyanovich with LC-1 in the car. Right from the device – speakerphone.” Magazine “Driving”, 12, 1957

"LC-1 và trạm phát sóng". "Kỹ thuật Trẻ", 2, năm 1958. 
“LK-1 and the base station”. ‘Young Technician”, 2, 1958.

Model năm 1958 đã giống điện thoại di động nhiều hơn ("Công nghệ - trẻ", 2, 1959) 
 The model of 1958 has been more like a mobile phones (“Tech-youth”, 2, 1959)

Năm 1961 L. Kupriyanovich giới thiệu một mẫu điện thoại di động bỏ túi. 
 In 1961 L. Kupriyanovich demonstrates a pocket cell phone.

Cũng trong những năm cuối thập niên 1950, ở Liên Xô sự phát triển của một hệ thống vô tuyến di động tự động "Altai" đã bắt đầu. Một trong những yêu cầu chính là việc cần phải sử dụng một cách tối đa, tương tự như các ứng dụng mạng điện thoại thông thường, tức là chuyển mạch các kênh truyền thủ công và sự cần thiết phải gọi cho tổng đài viên đã được loại trừ.
 Also in the late 1950-es, in the Soviet Union the developing of a system of automatic mobile radio “Altai” had began. One of the main requirements was that its usage should be maximally similar to the regular telephone network application, i.e. manual switching of channels and the need to call the dispatcher were excluded.



1964 – Motorola: Motorola H12-16 ‘Handie-Talkie’

Bây giờ đây là một công việc thực sự của nghệ thuật, quên trọng lượng to lớn và dây lủng lẳng nguy hiểm, điện thoại này cần phải vượt thời gian để giấu mọi thứ vào bên trong.

Máy vô tuyến điện 2 chiều này rất quan trọng trong việc thúc đẩy các ngành công nghiệp truyền thông phát triển theo hướng di động thực sự.

Vào năm 1973, Motorola đã giới thiệu một nguyên mẫu của điện thoại di động cầm tay đầu tiên (nhấn mạnh ĐẦU TIÊN!) trên thế giới, sử dụng hệ thống DynaTAC (viết tắt của DYNamic Adaptive Total Area Coverage).



Ngày 3 tháng 4 năm 1973, Martin Cooper khi đó làm tại công ty Motorola là người đầu tiên thực hiện cuộc gọi điện thoại di động đầu tiên (nhấn mạnh ĐẦU TIÊN!) với Joel Engel làm tại Bell Labs, đơn vị cũng tham gia phát triển chiếc điện thoại di động đầu tiên khi đang đi bộ trên đại lộ số 6 ở New York từ thiết bị di động do công ty ông chế tạo ra, là một thiết bị không mấy "di động" cho lắm khi nó 9 inches (22,86cm, gần như kích thước của một hộp giày) cao, nặng tới 2½ pound (1,13kg), với 30 bảng mạch, có thể nói chuyện trong 35 phút, và phải mất 10 giờ để nạp đầy pin.

Photo: Eric Risberg/AP

Motorola đã dành thêm 10 năm để có được điện thoại di động vượt qua rào cản công nghệ và quản lý.

Martin Cooper invented the first cell phone (Photo: Rico Shen) 

1982 – Mobira Senator

Khó khăn, chật vật để bỏ túi với kích thước này, con thú mập này chắc chắn sẽ ghì bạn xuống với một con số khổng lồ 21 pounds và phần tạo hình phía trên của nó có thể làm bạn thiệt hại nghiêm trọng nếu bạn đưa lại quá gần lỗ mũi.

1983 – Motorola 8000

Thiết bị điện thoại di động cầm tay thương mại đầu tiên (nhấn mạnh ĐẦU TIÊN!) trên thế giới, điện thoại DynaTAC Motorola, đã nhận được sự chấp thuận của Ủy ban Truyền thông Liên bang Mỹ vào ngày 21 tháng chín năm 1983.

Motorola DynaTAC 8000X

Dịch vụ thương mại bắt đầu vào năm 1983, với điện thoại di động cầm tay nặng 28-ounce.

Nó đã gây sửng sốt với giá $3,995 và thực tế nó cần hai tay để giữ, cũng đáng đồng tiền... đặc biệt vì nó sạc lâu hơn rất nhiều thời gian nó có ở chế độ chờ.

Một sự rút gọn, 16-ounce DynaTAC đã có sẵn cho người tiêu dùng trong năm 1984.

A Motorola DynaTAC 8000X from 1984. This phone has an early British Telecom badge and primitive red LED display (Photo: Redrum0486)

1984 – Nokia’s Mobira Talkman

Trọng lượng chỉ dưới 5 kg và là một trong những điện thoại có thể di chuyển đầu tiên trên thế giới (ngay cả khi bạn cần một chiếc xe để thực hiện) mô hình này đã gây ra nhiều khuấy trộn. Nhiều người đã hoài nghi, nhưng doanh số bán hàng bùng nổ và những người hoài nghi im lặng.

Mobira Talkman, NMT450 portable car phone, 1984 (Photo: Nokia)

1985 – Siemens Oxford C1

Được giới thiệu vào năm 1985 và gần giống với một ắc quy xe hơi, chiếc Siemens này cung cấp kèm vali tiện dụng. 



Toàn bộ vali dành cho điện thoại của bạn là một cố gắng tạo một hình thức kín đáo hơn cho truyền thông di động, đó là tất nhiên, trừ khi bạn cần một va li cho mọi thứ khác trong cuộc sống và sau đó bạn chỉ muốn tránh những cái nhìn đáng ngờ với hai vali đong đưa bên cạnh bạn, Hitman cảnh báo.

 1987 - Mobira Cityman, NMT900 handportable (Photo: Nokia)

Sau hơn 50 năm làm radio xe ô tô, Motorola sản xuất radio trên xe ô tô cuối cùng của nó ở Stotfold, Vương quốc Anh, vào năm 1987.

1988 – Ericsson Hotline

Tinh khiết sáng chói của thập niên 1980, tất cả mọi thứ từ các chi tiết màu da cam neon xuống tới phông chữ hét lên rằng "Tôi đeo miếng đệm vai và tôi tự hào điều này". Với trọng lượng 4kg đây chính xác là loại điện thoại mà có thể đã được sử dụng bởi các loại giám đốc điều hành luôn hét thật to xuống (cấp dưới): "Đặt nó lên bàn của tôi vào mỗi thứ Hai!"

A Motorola MicroTAC 9800X with Red LED display 1989



Chi phí $3.500 cho điện thoại ($7.400 ngày nay) và0 năm 1990 trước khi dịch vụ điện thoại di động Mỹ đạt đến một triệu thuê bao.

The original "bricks" (Image: University of Salford)

First generation of analogue phones released during the 80's (Images: University of Salford)

Năm 1991, thế hệ thứ hai (2G) của công nghệ di động được trình làng. 

Một công ty của Phần Lan khi đó là đã có câu khẩu hiệu đầy tính châm biếm: "Người Phần Lan có thể gọi điện lâu hơn". Câu slogan này ám chỉ sự giới hạn về thời gian thoại của thế hệ di động đầu tiên. 



Trong năm 1994, mạng lưới điện thoại di động "Altai" đã làm việc tại 120 thành phố của Liên Xô cũ, và 53% người dùng điện thoại di động dùng "Altai". 
 In 1994, the network of “Altai” worked in 120 cities of the ex-USSR, and 53% of all mobile phone users had “Altai”
Hệ thống điện thoại di động Altai là dịch vụ điện thoại không dây 0G tiền di động lần đầu tiên được giới thiệu tại Liên Xô vào năm 1963, và đã trở nên sẵn có trong các thành phố lớn vào năm 1965. Altai là một mạng lưới UHF / VHF hoàn toàn tự động cho phép một nút di động kết nối với một điện thoại cố định, và ban đầu được hình thành để phục vụ các quan chức chính phủ và các dịch vụ khẩn cấp, nhưng kể từ đó đã được đưa vào sử dụng phổ biến, và hiện vẫn được sử dụng ở một số nơi, nhờ lợi thế của nó lớn hơn những mạng di động thông thường.

Từ góc độ kỹ thuật "Altai" rõ ràng là đài phát thanh UHF / VHF trung kế phổ thông, nhưng nó được trang bị các mạch chuyển đổi tự động trên cả hai nút di động và tĩnh cho phép điện thoại di động đầu cuối của liên kết tạo ra và truyền tín hiệu quay số kết nối các đầu cuối tĩnh của mạng PSTN. Vài cài đặt ban đầu sử dụng tần số 150 MHz, nhưng như mạng lớn các phát triển sau đó chuyển sang 330 MHz. Trạm phát đã lên đến 22 trung kế độc lập với 8 kênh mỗi trung kế, và thường được gắn cùng với các máy phát truyền hình, đôi khi thậm chí chia sẻ các mạch HF. Điều này cho phép phủ sóng tốt, như thường chỉ có một trạm phát cho mỗi thành phố. 
“Altai” còn là tên hệ thống radar dẫn đường điển hình của Liên Xô đầu thập kỷ 1960.
“Altai” gồm có 4 kênh thu phát độc lập, hoạt động trên 2 anten riêng, tỷ lệ cự ly của màn hình“Altai” cho phép quan sát vùng trời tới cự ly 200, 300 hoặc tối đa 400 km.
Hai anten của đài này đối nhau, nhưng cùng lắp trên một xe thu phát, quay ở hai tốc độ 3 hoặc 6 vòng/phút. Hai anten có thể đặt chế độ quan sát theo góc tà thấp hoặc góc tà cao, trong giới hạn từ 0,5 đến 45 độ.
Màn hình VIKO tại xe quan sát có đường kính lớn tới 450mm. Đó là các đèn o-xi-lô thủy tinh chân không, quét tia điện tử thế hệ cũ.
“Altai” đo được mục tiêu ở tầm cao 34 km. Anten có thể thực hiện quét theo các giẻ quạt, khi không cần hoạt động nhìn vòng. Đặc biệt đài có thể thực hiện quét bằng tay quay.
Độ cao mục tiêu được tính toán một cách tương đối theo thang chia độ, hoặc theo thang chia độ kết hợp với mức đo trung bình của mục tiêu.
“Altai” có thiết bị và các khí tài chống các loại nhiễu chủ động và thụ động.
Trong tổ hợp “Altai” lắp các máy nhận dạng địch-ta Kremni-2 sử dụng anten gắn đồng trục với anten chính.
Khi dẫn đường cho các máy bay tiêm kích, đồng thời để cung cấp các thông tin trên không, tổ hợp “Altai” được đồng bộ với khí tài hệ thống khác.
“Altai” còn có mật danh là PO-80 sản xuất hàng loạt năm 1964 ở xưởng điện cơ Balakhninsk.
“Altai”/PO-80 có độ phân biệt hai tốp gần nhau khá rõ (so với lúc bấy giờ). Nó là đài chủ lực dẫn đường cho các phi đội máy bay MiG-17, MiG-21 của Nga trong bảo vệ vùng trời Liên bang Xô Viết.
Từ tiền đề “Altai”/PO-80 sau này các phiên bản nâng cấp ngày càng hoàn thiện, như đài PO-30, PO-35, PO-37 ngày nay.



Nguồn:
pvo.ru
motorola.com
samhallas.co.uk
retrobrick.com
nokia.com
rigpix.com

09 tháng 5 2014

Hồ sơ WWII : Thiên tài hay kẻ bịp bợm

Auchinleck, Richard O’Connor, Benard Montgomery là những viên tướng của quân đội Anh đã đi vào lịch sử trong trận chiến sa mạc những năm 1940 -1943.Trong số những tài liệu viết về giai đoạn này, cuốn “Những viên tướng sa mạc” của tác giả Correlli Barnett đã gây ra nhiều tranh cãi khi đề cập đến vai trò của trung tướng Benard Montgomery trong chiến thắng của trận Alamein thứ hai. Tướng Montgomery đã chỉ huy quân đồng minh, cụ thể là quân Anh, giành chiến thắng trong trận chiến này, song tác giả Barnett lại cho rằng, tướng Montgomery chỉ là một người khoa trương, đã giành lấy công lao của người khác và che giấu sự yếu kém của mình trong việc chỉ huy sai, thiếu niềm tin.
Tướng O’Connor – Người không gặp thời
Năm 1942, khi quân đồng minh, dưới sự chỉ huy của tướng Claude Auchinleck (21/6/1884 – 23/3/1981), đang giành được những lợi thế trên chiến trường thì có sự thay đổi ở cấp chỉ huy. Tướng Montgomery trở thành người lãnh đạo mới của quân đồng minh và đã chỉ huy quân đồng minh giành chiến thắng trong trận Alamein thứ hai (23/10 – 3/11/1942). Tuy nhiên, theo tác giả Barnett, tướng Montgomery cần phải chia sẻ thành công này với những người tiền nhiệm. Trận Alamein cũng bị đánh giá là một trận chiến đầy tốn kém, không cần thiết và thiếu sự phối hợp hiệu quả.
O'Connor Tướng Richard O’Connor.
Trận chiến sa mạc mở màn với đợt tấn công vào Ai Cập của quân đội Italia từ ngày 13 – 18/9/1940. Bất chấp việc có được lợi thế về mặt quân số, quân đội của tướng Rodolfo Graziani (11/8/1882 – 11/1/1955), một trong những chỉ huy của trùm phát xít Benito Mussolini làm nhiệm vụ tại những chiến trường thuộc địa của Italia tại Libi và Êthiôpia trước và trong Thế Chiến II, chỉ tiến được một đoạn ngắn sau khi vượt qua biên giới Libi. Sau đó, cánh quân này đã đóng dọc từ thị trấn Sidi Barrani đến khu vực sa mạc.
Benard Montgomery Tướng Benard Montgomery theo dõi đơn vị xe tăng quân Anh triển khai trên chiến trường Bắc Phi.
Trước tình thế này, tướng Archibald Wavell, Tổng chỉ huy mặt trận trung tâm và phía đông của Anh, sắp đặt và triển khai lại các lực lượng nhằm đối chọi với hai mũi giáp công của quân Italia, một từ phía Libi của Graziani, một từ phía Ethiôpia. Theo đánh giá của tác giả Barnett, tướng Wavell là “một trong những chiến binh vĩ đại nhất trong lịch sử quân đội Anh và là một trong những nhân vật kiệt xuất trong Thế Chiến II”.
Chỉ huy trên chiến trường của Wavell cùng với lực lượng sa mạc miền Đông là thiếu tướng Richard O’Connor, người được đánh giá là “một người đàn ông có ngoại hình nhỏ bé và luôn giữ thái độ nhã nhặn”. Dưới sự chỉ huy của O’Connor, tình thế trên chiến trường đã có những xoay chuyển. Điều này được thể hiện rõ trong khoảng thời gian 10 tuần, từ 9/12/1940 đến 9/2/1941. Lực lượng của O’Connor’, gồm 31.000 quân, 275 xe tăng và 120 khẩu pháo, với sự yểm trợ của Không quân và Hải quân Hoàng gia, đã đột phá được tuyến phòng thủ của quân Italia ở Sidi Barrani.
Tobruk Quân đồng minh chiến đấu tại thị trấn Tobruk.
Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Anh, vốn giành được ưu thế nhờ sức mạnh của những chiếc xe tăng Matilda, quân Italia đã bị đẩy ra khỏi Ai Cập vào giữa tháng 12. Dưới sự chỉ huy của tướng Wavell, quân của O’Connor đã bao vây và chiếm được thị trấn duyên hải Bardia. Tiếp đó, quân Anh đã giành chiến thắng trong những trận chiến ở Tobruk và Beda Fomm. Như vậy là chỉ trong hai tháng, đoàn quân do Wavell và O’Connor chỉ huy đã tiến được 800 dặm, tương đương 1.300 km, tiêu diệt được 10 sư đoàn của Italia, bắt giữ được 130.000 tù binh, 1.290 khẩu súng và 400 xe tăng. Chỉ với 30.000 quân song dưới sự chỉ huy của tướng O’Connor, thế trận phòng ngự của quân Italia đã bị đột phá. Theo thống kê, quân của O’Connor mất 476 người, 1.255 người bị thương và 43 người mất tích.
Nhận xét về trận chiến này, tác giả Barnett viết: “Đây là một chiến dịch mang tầm vóc hiện đại. Bắt đầu bằng cách dàn xếp các đơn vị quân, tiếp đó là việc tăng cường sức tấn công sau khi cải thiện được nguồn cung. Trận chiến kết thúc bằng một chiến lược táo bạo. Đó là một trận chiến không khoan nhượng”.
Tướng O’Connor từng khẳng định với cấp trên rằng ông có thể đánh thẳng tới Tripôli và chấm dứt cuộc chiến ở Bắc Phi. Trên thực tế, điều này đã có thể xảy ra. Trong chiến tranh, thời khắc tiến hành tấn công phụ thuộc vào sự mệt mỏi về tinh thần và kiệt quệ về thể xác của đối phương. Đó là thời điểm bên thua thường lui về cố thủ. Tuy nhiên, bên muốn tiến công cũng gặp những vấn đề về hậu cần, như nguồn cung cấp nước, nhiên liệu, đạn dược và quân tiếp ứng cho tiền tuyến. Vào đầu tháng 2/1941, tất cả lực lượng của quân Trục tại Bắc Phi đã bị tiêu diệt và những tàn quân không còn ý chí chiến đấu. Song điều ảnh hưởng tới mong muốn tiến thẳng tới Tripôli của tướng O’Connor chính là quyết định của Thủ tướng Anh Winston Churchill, người đã điều bớt quân sang tăng cường cho chiến trận ở Hy Lạp. Nhờ vậy, quân Trục đã có thời gian để chỉnh đốn lại hàng ngũ.
Rommel – “Ác mộng” của quân Đồng minh
Ngày 24/3/1941, “cơn ác mộng” của quân Đồng minh đã xuất hiện. Tướng Erwin Rommel (1891-1944) khét tiếng đã được cử đến Libi vào đầu năm 1941 cùng với sư đoàn Tia chớp số 5, sau trở thành Sư đoàn Thiết giáp số 21, có nhiệm vụ hỗ trợ quân Italia đang sa sút tinh thần vì những thiệt hại do quân Đồng minh gây ra trong chiến dịch do tướng O’Connor chỉ huy. Được đánh giá một là trong những viên tướng có tài thao lược nhất của phát xít Đức trong Thế chiến thứ II, Rommel, người còn có biệt danh là “Cáo sa mạc”, đã quyết định tiến hành phản công. Với sức mạnh của Sư đoàn thiết giáp 21, quân Đức đã giáng những đòn sấm sét đầy bất ngờ vào quân của tướng O’Connor. Tình thế bất ngờ đảo chiều khi sư đoàn này vượt qua khu vực núi rừng Jebel Akhdar để tiến tới thành phố chiến lược Tobruk vào ngày 10/4. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Đức và Italia, tướng O’Connor đã đi lạc vào khu vực kiểm soát của quân địch và bị bắt giữ.
Claude Auchinleck Tướng Claude Auchinleck.
Tuy vậy, đà tiến công của đội quân do Rommel chỉ huy cuối cùng cũng bị chặn lại ở Sollum vào ngày 14/4, nhưng những gì xảy ra đã thay đổi thế trận trên chiến trường. Tất cả thành quả mà đội quân của O’Connor giành được trong phút chốc đã tan biến.
Thất bại của quân Anh đã gia tăng sức ép lên tướng Wavell, buộc ông phải chuẩn bị phương án cho một cuộc phản công quân Đức ở thành phố cảng Tobruk, phía đông bờ Địa Trung Hải của Libi. Thất bại dự đoán được của tướng Wavell đã được dùng làm cơ hội để tướng Claude Auchinleck loại ông khỏi chiến trường. Đây cũng được coi là một cách nhằm tháo gỡ những sức ép từ chính trường. Nhận định về quyết định này, tác giả Barnett cho rằng đó là một sai lầm tai hại. Ông viết: “Không có lý do nào được đưa ra nhằm giảm nhẹ trách nhiệm cho Wavell. Quyết định thay thế Wavell được coi như vật hiến tế che đậy cho những sai lầm của cá nhân Thủ tướng Churchill”.
Gazala Xe tăng Đức tại chiến trường Gazala.
Sau đó, tướng Auchinleck lần đầu bổ nhiệm tướng Alan Cunningham (1/5/1887-30/1/1983) tới làm chỉ huy tại tập đoàn quân số 8 vừa mới thành lập. Trước đó, Cunningham từng thể hiện khá tốt vai trò trong chiến dịch Đông Phi, vì vậy tên tuổi của nhà chỉ huy này được biết đến nhiều hơn O’Connor của chiến dịch Hè năm 1941. Tuy nhiên, quy mô cuộc chiến ở sa mạc miền Đông, sự chuyên nghiệp của quân đoàn Phi châu, những thiết bị hiện đại của Đức và khả năng chỉ huy tài tình của tướng Rommel đã làm cho tướng Cunningham không thể hiện được gì nhiều kể từ sau khi được bổ nhiệm. Căng thẳng, mệt mỏi và mất bình tĩnh, tướng Cunningham đã vội vàng dồn lực cho cuộc tấn công “Crusader” trong nỗ lực lần thứ hai quân Anh tìm cách giành lại thành phố cảng Tobruk. Tuy nhiên, những thất bại trong các cuộc giao tranh với quân của Rommel đã làm cho tướng Cunningham mất chức, buộc tướng Auchinleck phải lên nắm quyền chỉ huy. Nhờ vậy, quân Anh đã kịp giành lại thế trận trước sức áp đảo của quân Đức.
Erwin Rommel 2 Tướng Erwin Rommel cùng các chỉ huy của quân Đức và Italia.
Nhờ những thay đổi ở cấp chỉ huy, quân Đồng minh giành lại lợi thế. Bất chấp những thiệt hại nặng nề, tập đoàn quân số 8 đã đẩy lùi quân Trục về thành phố duyên hải El Agheila. Sau đó, tướng Auchinleck bổ nhiệm tướng Neil Ritchie (29/7/1897-11/12/1983) làm chỉ huy tập đoàn quân số 8. Tuy nhiên, đây lại là một quyết định không mang lại thành công của tướng Auchinleck. Trong bối cảnh mặt trận ở thành phố Agedabia, phía đông bán đảo Cyrenaica, dần ổn định, Rommel quyết định tổ chức phản công, chọc thủng tuyến phòng ngự của quân Anh vào ngày 22/1/1942 và buộc tập đoàn quân số 8 phải lùi về Gazala vào ngày 4/2/1942. Cũng tại đây, bốn tháng sau đó, chiến trận trở nên bế tắc khi hai bên tranh thủ thời gian để chỉnh đốn lại quân ngũ và vũ khí chờ cơ hội tấn công.
Một trận chiến quyết liệt khác đã diễn ra khi tướng Rommel tấn công những vị trí của quân Anh ở Gazala trong giai đoạn từ 28/5 – 13/6/1942. Lần này, quân Anh đã phải rút lui. Một lần nữa, Auchinleck đã phải nắm quyền trực tiếp rồi chỉ huy một trận đánh nhằm trì hoãn đà tiến của đối phương ở thị trấn Mersa Matruh vào ngày 28/9 trước khi buộc phải lùi về Alamein-Alam Halfa. Tuy vậy, Tobruk đã thất thủ khi quân Anh giương cờ trắng vào ngày 21/6/1942.
Alamein – Nơi Auchinleck để lại dấu ấn
Tình hình của quân Anh tại chiến trường sa mạc đã gây ra nhiều trở ngại cho phe Đồng minh. Thị trấn El-Alamein chính là phòng tuyến cuối cùng trước khi quân Trục có thể tiến đến Alexandria, Cairo và kênh đào Suez. Lúc đó, Rommel đang âm mưu tiến hành một cuộc tấn công chiến lược mang tính quyết định. Vì vậy, viên chỉ huy này đã tính dùng những binh sĩ có kinh nghiệm chiến đấu trên sa mạc để tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ nhằm vào đoàn quân mà ông cho rằng đang mất tinh thần chiến đấu.
Tuy vậy, với địa hình hiểm trở, cụ thể nhất là vùng hoang mạc Quattara Depression, nơi được đánh giá là cứ điểm chiến lược của thị trấn Alamein và là nơi những phương tiện cơ giới cỡ lớn khó có thể băng qua, quân Anh đã tập trung phòng thủ ở phòng tuyến này. Từ đây, một loạt thị trấn như Miteiriya, Ruweisat và Alam Halfa đã trở thành những cứ điểm “vệ tinh” cho Alamein. Một tuyến phòng ngự kéo từ tây sang đông đã được quân Anh lập ra nhằm bảo vệ trận tuyến cũng như chờ cơ hội tiến hành phản công. Tướng Auchinleck, với sự hỗ trợ của Thiếu tướng Eric “Chinhk” Dorman-Smith, đã nhận thấy điểm đặc biệt ở Alamein, nơi Rommel đã phải dừng bước sau chiến thắng của quân Anh tại trận chiến đầu tiên tại Alamein trong giai đoạn 1-27/7/1942.
Một lần nữa, chiến trận lại trở nên căng thẳng song lần này, tất cả đã nằm trong sự toan tính của quân Anh. Theo đó, Thiếu tướng Dorman-Smoth đã thấy được tầm quan trọng trong việc phải chọc thủng thế trận của quân Italia, buộc tướng Rommel dùng đến những đơn vị tinh nhuệ của quân Đức nhằm hạn chế khoảng trống và tính toán về phương thức phản công. Vào thời điểm này, tướng Rommel không còn nghi ngờ gì về tài chỉ huy của đối phương. Trong bức thư gửi về cho vợ, tác giả Barnett đã viết: “Quân Anh sử dụng chủ yếu là bộ binh để tấn công lần lượt vào các vị trí của quân đội Italia và sau đó, quân Đức quá yếu để có thể tự duy trì thế trận”.
Như vậy, tướng Auchinleck đã chặn đứng được đà tiến của quân đối phương ngay trước cửa ngõ tiến vào Ai Cập. Sau đó, ông đã tính tới việc tăng cường lại sức mạnh để chuẩn bị cho một đợn tấn công. Tướng Dorman-Smith đã viết một báo cáo có tiêu đề “Đánh giá về tình thế ở chiến trường sa mạc phía đông” vào ngày 27/7/1942, trong đó kết luận rằng quân Anh không còn bị đe dọa, song quân đối phương vào thời điểm hiện tại còn quá mạnh để có thể phản công. Vì vậy, kế hoạch dài hạn chỉ ra rằng cần “huấn luyện những sư đoàn mới để tiến hành phản công, có thể là bắt đầu vào cuối tháng 9″.
Tuy nhiên, vào ngày 13/9/1942, trong chuyến thăm cá nhân của Thủ tướng Anh tới chiến trường sa mạc phía đông, tướng Auchinleck đã bị cho thôi chức. Quyết định này được cho là không phải do tình hình trên chiến trường mà là do một cuộc khủng hoảng chính trị liên quan đến Thủ tướng. Năm 1942, quân Anh hứng chịu ba thất bại lớn trên mặt đất. Đó là tại chiến trường Xinhgapo, Miến Điện và Tobruk.
Tại chiến trường Xinhgapo, quân Anh đã thúc thủ sau khi tướng Anh Arthur Percival đầu hàng quân Nhật do tướng Tomoyuki Yamashita chỉ huy. Khoảng 80.000 quân Anh và các nước đồng minh đã trở thành tù binh sau trận chiến, chưa kể 50.000 tù binh khác bị quân Nhật bắt trong trận chiến Malaixia. Với Thủ tướng Winston Churchill, đây là một “thảm họa tồi tệ nhất” và là “cuộc đầu hàng lớn nhất” trong lịch sử nước Anh. Vì vậy, khi 35.000 quân Anh đầu hàng tại Tobruk, đó là lần “bẽ mặt” thứ hai chỉ trong một thời gian ngắn đối với Thủ tướng Churchill. Chưa kể, khi nhận được tin báo từ chiến trường Bắc Phi về, nhà lãnh đạo của Anh đang ở Mỹ để hội đàm về tình hình chiến sự trên thế giới với Tổng thống Roosevelt. Những thất bại nặng nề này đã buộc Thủ tướng Churchill phải đối mặt với cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội. Ngoài ra, năm đó cũng là một năm mất mát của quân Anh khi quân Nhật đã đánh đắm tàu chiến Prince of Wales và chiếc Repulse, chiến dịch tàu ngầm U-boat của Đức đã gây ra nhiều hoang mang cho phía Anh, trong khi những đợt không kích của quân Đức trong chiến dịch “Baedeker Raids” đã gây ra nhiều thương vong cũng như phá nát các di tích cổ tại nhiều thành phố của Anh trong giai đoạn từ tháng 4 tới tháng 6.
Những sức ép từ chính trường trong nước, buộc Thủ tướng Churchill ra quyết định thay tướng Auchinleck bằng tướng Harold Alexander, còn Trung tướng Benard Montgomery đã trở thành chỉ huy của tập đoàn quân số 8. Sau đó, Thủ tướng Churchill đã vượt qua cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, với 475 phiếu ủng hộ so với 25 phiếu chống. Đây cũng là thời điểm nhà lãnh đạo của Anh tính đến phương án gỡ lại thể diện. Ông yêu cầu giới tướng lĩnh ở mặt trận Bắc Phi phải đảm bảo rằng thị trấn chiến lược Tobruk sẽ không thất thủ. Song nhìn vào tương quan lực lượng hai bên, Thủ tướng Churchill cũng nhận thấy tài chỉ huy của tướng Rommel và sức mạnh của các loại vũ khí mà quân Đức sử dụng trên chiến trường là những vật cản lớn cho đà tiến công của quân Đồng minh. Trong phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội ngày 27/7/1942, Thủ tướng Anh thừa nhận rằng chỉ huy quân đoàn Phi châu của Đức là một “nhân vật khó dò và có tài điều binh khiển tướng”.
Montgomery – “Kẻ bịp bợm” xuất sắc nhất?
Dĩ nhiên, những thất bại cũng giúp người Anh có cơ hội nhìn ra vấn đề. Churchill nhìn vào số lượng và chất lượng của vũ khí mà quân Anh sử dụng. Lý do đơn giản là trước khi những mẫu xe tăng Grant rồi Sherrman của Mỹ được sử dụng, Anh thiếu những mẫu xe tăng có thể đọ được với vũ khí chủ lực của quân Đức, những xe tăng Panzer Mark III và IV.
So với một đội quân sở hữu những chiếc xe tăng có hỏa lực mạnh, các đơn vị quân có khả năng chiến đấu cơ động và ứng biến nhanh với điều kiện thực tế, quân Anh lộ rõ sự yếu thế. Chưa kể, quân Anh thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa lực lượng bộ binh và các đơn vị tăng thiết giáp. Theo tác giả Barnett, tướng Auchinleck đã nhận ra vấn đề của quân Anh và cố gắng giải quyết những chênh lệch giữa vũ khí của quân Anh với đối thủ. Ông viết: “Quân đội phải duy trì tính cơ động. Các đơn vị phải gắn kết và hỗ trợ nhau hơn nữa. Auchinleck cho rằng số quân Anh đang đóng ở sa mạc cần phải tập trung vào tính cơ động trong mỗi trận chiến, trong khi giới chỉ huy cần tăng cường khả năng phán đoán và lanh lẹ trong việc đưa ra những quyết định”.
Benard Montgomery 2 Tướng Benard Montgomery.
Những thay đổi trong cách tiếp cận của tướng Auchinleck đã giúp cho tướng Montgomery thừa hưởng được một đội quân thay đổi theo phong cách hiện đại. Và với sức ép từ chính trường trong nước, giới lãnh đạo Anh yêu cầu tướng Montgomery tiến hành một cuộc tấn công nhưng nhân vật này đã từ chối. Khác với lần Auchinleck để mất Tobruk và bị cho thôi chức, Montogomery đã đấu tranh đến cùng để bảo vệ quyết định không vội xua quân tấn công. Đây được đánh giá là dấu ấn đầu tiên của tướng Montgomery khi nắm quyền chỉ huy tập đoàn quân số 8.
Trong cuốn “Memoirs”, tướng Montgomery từng viết: “Tôi quyết định tập trung sức mạnh để giữ Alam Halfa. Nếu giữ được vị trí này, quân của Rommel sẽ không thể vượt qua được quân đội của tôi để tiến về Cairô. Nếu cố tấn công vào vị trí này, Rommel sẽ tự chuốc lấy thất bại”. Thực tế là vậy nhưng trước khi tướng Montgomery cân nhắc đến cứ điểm chiến lược này, tướng Auchinleck và tướng Dorman-Smith cũng từng nhìn ra tầm quan trọng của Alam Halfa và xây dựng một thế trận phòng thủ khá chắn chắn ở nơi đây.
Alamein. Quân Đức đầu hàng trong trận Alamein thứ 2.
“Sau đó, tôi quyết định rằng cánh quân phía nam cần phải cơ động hơn, do vậy sư đoàn thiết giáp số 7 sẽ giữ tiền tuyến và khi đối thủ tấn công, sư đoàn này có nhiệm vụ quấy phá từ phía đông sang phía nam”. Tưởng như đây là một quyết định được Montgomery tự mình nêu ra, song trong cuốn “Appreciation”, Dorman-Smith từng nói: “Tập đoàn quân số 8 có thể đối diện với kẻ địch ở cánh phía nam. Do vậy, chúng ta cần tổ chức một cánh quân có khả năng cơ động, được huấn luyện kỹ để phục vụ công tác phòng thủ, chờ cơ hội phản công”.
Trận chiến Alam Halfa, bắt đầu từ ngày 31/8 đến 3/9/1942, đã diễn ra theo đúng kế hoạch (của tướng Auchinleck). Tướng Rommel đã chỉ huy quân đội tấn công nhằm giành lợi thế trước quân Anh với số lượng thiết giáp được huy động nhằm đánh vào khu vực giữa hoang mạc Quattara Depression và thị trấn Alam Halfa. Tuy nhiên, nỗ lực này của Rommel đã không thành trước tuyến phòng ngự chắc chắn của quân Anh, nhờ những đơn vị quân được bố trí hợp lý và các sư đoàn thiết giáp cơ động. Sau trận chiến Alam Halfa, Thủ tướng Churchill muốn quân Anh tận dụng thời điểm để tiến công phe Trục trước khi quân Mỹ can thiệp. Tuy nhiên, tướng Montgomery vẫn giữ nguyên quan điểm của ông khi muốn mọi thứ phải đảm bảo trước khi tổ chức tấn công. Do vậy, cuộc tấn công đã bị lùi tới cuối tháng 10/1942, thời điểm Tập đoàn quân số 8 đã có được ưu thế về quân số và vũ khí.
Trước khi bước vào trận chiến El-Alamein thứ hai, quân của tướng Montgomery có 220.000 người so với 100.000 quân của tướng Rommel. Quân Anh cũng có 1.100 xe tăng, trong đó có 270 chiếc xe tăng Sherman mới và 219 chiếc xe tăng Grant. Ngoài ra, Tập đoàn quân số 8 còn có 1.000 khẩu súng cỡ vừa, 1.400 khẩu súng chống tăng. Anh cũng nhanh chóng thành lập đơn vị Không quân Sa mạc để giúp quân đội giành ưu thế trên chiến trường. Trận chiến đã kéo dài trong 13 ngày với phần thắng nghiêng về quân Anh. Tuy vậy, những sai sót từ giới chỉ huy của quân Anh được coi là một phần nguyên nhân trong việc để tướng Rommel trốn thoát khi trận chiến kết thúc.
Trong cuốn sách tái bản “Những vị tướng sa mạc”, tác giả Barnett một lần nữa lặp lại và nhấn mạnh vào những gì mà ông từng kết luận trước đó. Ông buộc tội Montgomery đã bóp méo những kế hoạch của các viên tướng tiền nhiệm, giành hết công cho mình trong việc đưa ra kế hoạch ở trận Alam Halfa, chỉ huy không hợp lý trận Alamein và không tuân theo những gì đã nêu ra trong kế hoạch của mình, gây ra thất bại ban đầu ở Alamein bằng việc điều bộ binh và thiết giáp đi qua những khu vực nhỏ hẹp chứa đầy mìn, thất bại trong việc giăng bẫy bắt Rommel ở thị trấn El-Alamein sau khi quân Anh giành lợi thế, chậm chạp và thận trọng không cần thiết khi chỉ huy quân tiến tới Tripôli.
Tác giả Barnett cho rằng, trong trận chiến sa mạc, quân Anh đã được chỉ huy bởi nhiều viên tướng, từ Wavell tới O’Connor, Auchinleck và Dorman-Smith. Tuy nhiên, việc chỉ có tướng Montgomery được nhắc đến như người đã giúp quân Anh giành chiến thắng trong cuộc chiến sa mạc, vốn “che lấp” công lao của những người khác, là một sự bóp méo trắng trợn sự thật và chính Montgomery phải chịu trách nhiệm chính cho sự bóp méo này.