Auchinleck, Richard O’Connor, Benard
Montgomery là những viên tướng của quân đội Anh đã đi vào lịch sử trong
trận chiến sa mạc những năm 1940 -1943.Trong
số những tài liệu viết về giai đoạn này, cuốn “Những viên tướng sa mạc”
của tác giả Correlli Barnett đã gây ra nhiều tranh cãi khi đề cập đến
vai trò của trung tướng Benard Montgomery trong chiến thắng của trận
Alamein thứ hai. Tướng Montgomery đã chỉ huy quân đồng minh, cụ thể là
quân Anh, giành chiến thắng trong trận chiến này, song tác giả Barnett
lại cho rằng, tướng Montgomery chỉ là một người khoa trương, đã giành
lấy công lao của người khác và che giấu sự yếu kém của mình trong việc
chỉ huy sai, thiếu niềm tin.
Tướng O’Connor – Người không gặp thời
Năm 1942, khi quân đồng minh, dưới sự chỉ
huy của tướng Claude Auchinleck (21/6/1884 – 23/3/1981), đang giành
được những lợi thế trên chiến trường thì có sự thay đổi ở cấp chỉ huy.
Tướng Montgomery trở thành người lãnh đạo mới của quân đồng minh và đã
chỉ huy quân đồng minh giành chiến thắng trong trận Alamein thứ hai
(23/10 – 3/11/1942). Tuy nhiên, theo tác giả Barnett, tướng Montgomery
cần phải chia sẻ thành công này với những người tiền nhiệm. Trận Alamein
cũng bị đánh giá là một trận chiến đầy tốn kém, không cần thiết và
thiếu sự phối hợp hiệu quả.
Trận chiến sa mạc mở màn với đợt tấn công
vào Ai Cập của quân đội Italia từ ngày 13 – 18/9/1940. Bất chấp việc có
được lợi thế về mặt quân số, quân đội của tướng Rodolfo Graziani
(11/8/1882 – 11/1/1955), một trong những chỉ huy của trùm phát xít
Benito Mussolini làm nhiệm vụ tại những chiến trường thuộc địa của
Italia tại Libi và Êthiôpia trước và trong Thế Chiến II, chỉ tiến được
một đoạn ngắn sau khi vượt qua biên giới Libi. Sau đó, cánh quân này đã
đóng dọc từ thị trấn Sidi Barrani đến khu vực sa mạc.
Trước tình thế này, tướng Archibald
Wavell, Tổng chỉ huy mặt trận trung tâm và phía đông của Anh, sắp đặt và
triển khai lại các lực lượng nhằm đối chọi với hai mũi giáp công của
quân Italia, một từ phía Libi của Graziani, một từ phía Ethiôpia. Theo
đánh giá của tác giả Barnett, tướng Wavell là “một trong những chiến
binh vĩ đại nhất trong lịch sử quân đội Anh và là một trong những nhân
vật kiệt xuất trong Thế Chiến II”.
Chỉ huy trên chiến trường của Wavell cùng
với lực lượng sa mạc miền Đông là thiếu tướng Richard O’Connor, người
được đánh giá là “một người đàn ông có ngoại hình nhỏ bé và luôn giữ
thái độ nhã nhặn”. Dưới sự chỉ huy của O’Connor, tình thế trên chiến
trường đã có những xoay chuyển. Điều này được thể hiện rõ trong khoảng
thời gian 10 tuần, từ 9/12/1940 đến 9/2/1941. Lực lượng của O’Connor’,
gồm 31.000 quân, 275 xe tăng và 120 khẩu pháo, với sự yểm trợ của Không
quân và Hải quân Hoàng gia, đã đột phá được tuyến phòng thủ của quân
Italia ở Sidi Barrani.
Trước sức tấn công mãnh liệt của quân
Anh, vốn giành được ưu thế nhờ sức mạnh của những chiếc xe tăng Matilda,
quân Italia đã bị đẩy ra khỏi Ai Cập vào giữa tháng 12. Dưới sự chỉ huy
của tướng Wavell, quân của O’Connor đã bao vây và chiếm được thị trấn
duyên hải Bardia. Tiếp đó, quân Anh đã giành chiến thắng trong những
trận chiến ở Tobruk và Beda Fomm. Như vậy là chỉ trong hai tháng, đoàn
quân do Wavell và O’Connor chỉ huy đã tiến được 800 dặm, tương đương
1.300 km, tiêu diệt được 10 sư đoàn của Italia, bắt giữ được 130.000 tù
binh, 1.290 khẩu súng và 400 xe tăng. Chỉ với 30.000 quân song dưới sự
chỉ huy của tướng O’Connor, thế trận phòng ngự của quân Italia đã bị đột
phá. Theo thống kê, quân của O’Connor mất 476 người, 1.255 người bị
thương và 43 người mất tích.
Nhận xét về trận chiến này, tác giả
Barnett viết: “Đây là một chiến dịch mang tầm vóc hiện đại. Bắt đầu bằng
cách dàn xếp các đơn vị quân, tiếp đó là việc tăng cường sức tấn công
sau khi cải thiện được nguồn cung. Trận chiến kết thúc bằng một chiến
lược táo bạo. Đó là một trận chiến không khoan nhượng”.
Tướng O’Connor từng khẳng định với cấp
trên rằng ông có thể đánh thẳng tới Tripôli và chấm dứt cuộc chiến ở Bắc
Phi. Trên thực tế, điều này đã có thể xảy ra. Trong chiến tranh, thời
khắc tiến hành tấn công phụ thuộc vào sự mệt mỏi về tinh thần và kiệt
quệ về thể xác của đối phương. Đó là thời điểm bên thua thường lui về cố
thủ. Tuy nhiên, bên muốn tiến công cũng gặp những vấn đề về hậu cần,
như nguồn cung cấp nước, nhiên liệu, đạn dược và quân tiếp ứng cho tiền
tuyến. Vào đầu tháng 2/1941, tất cả lực lượng của quân Trục tại Bắc Phi
đã bị tiêu diệt và những tàn quân không còn ý chí chiến đấu. Song điều
ảnh hưởng tới mong muốn tiến thẳng tới Tripôli của tướng O’Connor chính
là quyết định của Thủ tướng Anh Winston Churchill, người đã điều bớt
quân sang tăng cường cho chiến trận ở Hy Lạp. Nhờ vậy, quân Trục đã có
thời gian để chỉnh đốn lại hàng ngũ.
Rommel – “Ác mộng” của quân Đồng minh
Ngày 24/3/1941, “cơn ác mộng” của quân
Đồng minh đã xuất hiện. Tướng Erwin Rommel (1891-1944) khét tiếng đã
được cử đến Libi vào đầu năm 1941 cùng với sư đoàn Tia chớp số 5, sau
trở thành Sư đoàn Thiết giáp số 21, có nhiệm vụ hỗ trợ quân Italia đang
sa sút tinh thần vì những thiệt hại do quân Đồng minh gây ra trong chiến
dịch do tướng O’Connor chỉ huy. Được đánh giá một là trong những viên
tướng có tài thao lược nhất của phát xít Đức trong Thế chiến thứ II,
Rommel, người còn có biệt danh là “Cáo sa mạc”, đã quyết định tiến hành
phản công. Với sức mạnh của Sư đoàn thiết giáp 21, quân Đức đã giáng
những đòn sấm sét đầy bất ngờ vào quân của tướng O’Connor. Tình thế bất
ngờ đảo chiều khi sư đoàn này vượt qua khu vực núi rừng Jebel Akhdar để
tiến tới thành phố chiến lược Tobruk vào ngày 10/4. Trước sức tấn công
mạnh mẽ của quân Đức và Italia, tướng O’Connor đã đi lạc vào khu vực
kiểm soát của quân địch và bị bắt giữ.
Tuy vậy, đà tiến công của đội quân do
Rommel chỉ huy cuối cùng cũng bị chặn lại ở Sollum vào ngày 14/4, nhưng
những gì xảy ra đã thay đổi thế trận trên chiến trường. Tất cả thành quả
mà đội quân của O’Connor giành được trong phút chốc đã tan biến.
Thất bại của quân Anh đã gia tăng sức ép
lên tướng Wavell, buộc ông phải chuẩn bị phương án cho một cuộc phản
công quân Đức ở thành phố cảng Tobruk, phía đông bờ Địa Trung Hải của
Libi. Thất bại dự đoán được của tướng Wavell đã được dùng làm cơ hội để
tướng Claude Auchinleck loại ông khỏi chiến trường. Đây cũng được coi là
một cách nhằm tháo gỡ những sức ép từ chính trường. Nhận định về quyết
định này, tác giả Barnett cho rằng đó là một sai lầm tai hại. Ông viết:
“Không có lý do nào được đưa ra nhằm giảm nhẹ trách nhiệm cho Wavell.
Quyết định thay thế Wavell được coi như vật hiến tế che đậy cho những
sai lầm của cá nhân Thủ tướng Churchill”.
Sau đó, tướng Auchinleck lần đầu bổ nhiệm
tướng Alan Cunningham (1/5/1887-30/1/1983) tới làm chỉ huy tại tập đoàn
quân số 8 vừa mới thành lập. Trước đó, Cunningham từng thể hiện khá tốt
vai trò trong chiến dịch Đông Phi, vì vậy tên tuổi của nhà chỉ huy này
được biết đến nhiều hơn O’Connor của chiến dịch Hè năm 1941. Tuy nhiên,
quy mô cuộc chiến ở sa mạc miền Đông, sự chuyên nghiệp của quân đoàn Phi
châu, những thiết bị hiện đại của Đức và khả năng chỉ huy tài tình của
tướng Rommel đã làm cho tướng Cunningham không thể hiện được gì nhiều kể
từ sau khi được bổ nhiệm. Căng thẳng, mệt mỏi và mất bình tĩnh, tướng
Cunningham đã vội vàng dồn lực cho cuộc tấn công “Crusader” trong nỗ lực
lần thứ hai quân Anh tìm cách giành lại thành phố cảng Tobruk. Tuy
nhiên, những thất bại trong các cuộc giao tranh với quân của Rommel đã
làm cho tướng Cunningham mất chức, buộc tướng Auchinleck phải lên nắm
quyền chỉ huy. Nhờ vậy, quân Anh đã kịp giành lại thế trận trước sức áp
đảo của quân Đức.
Nhờ những thay đổi ở cấp chỉ huy, quân
Đồng minh giành lại lợi thế. Bất chấp những thiệt hại nặng nề, tập đoàn
quân số 8 đã đẩy lùi quân Trục về thành phố duyên hải El Agheila. Sau
đó, tướng Auchinleck bổ nhiệm tướng Neil Ritchie (29/7/1897-11/12/1983)
làm chỉ huy tập đoàn quân số 8. Tuy nhiên, đây lại là một quyết định
không mang lại thành công của tướng Auchinleck. Trong bối cảnh mặt trận ở
thành phố Agedabia, phía đông bán đảo Cyrenaica, dần ổn định, Rommel
quyết định tổ chức phản công, chọc thủng tuyến phòng ngự của quân Anh
vào ngày 22/1/1942 và buộc tập đoàn quân số 8 phải lùi về Gazala vào
ngày 4/2/1942. Cũng tại đây, bốn tháng sau đó, chiến trận trở nên bế tắc
khi hai bên tranh thủ thời gian để chỉnh đốn lại quân ngũ và vũ khí chờ
cơ hội tấn công.
Một trận chiến quyết liệt khác đã diễn ra
khi tướng Rommel tấn công những vị trí của quân Anh ở Gazala trong giai
đoạn từ 28/5 – 13/6/1942. Lần này, quân Anh đã phải rút lui. Một lần
nữa, Auchinleck đã phải nắm quyền trực tiếp rồi chỉ huy một trận đánh
nhằm trì hoãn đà tiến của đối phương ở thị trấn Mersa Matruh vào ngày
28/9 trước khi buộc phải lùi về Alamein-Alam Halfa. Tuy vậy, Tobruk đã
thất thủ khi quân Anh giương cờ trắng vào ngày 21/6/1942.
Alamein – Nơi Auchinleck để lại dấu ấn
Tình hình của quân Anh tại chiến trường
sa mạc đã gây ra nhiều trở ngại cho phe Đồng minh. Thị trấn El-Alamein
chính là phòng tuyến cuối cùng trước khi quân Trục có thể tiến đến
Alexandria, Cairo và kênh đào Suez. Lúc đó, Rommel đang âm mưu tiến hành
một cuộc tấn công chiến lược mang tính quyết định. Vì vậy, viên chỉ huy
này đã tính dùng những binh sĩ có kinh nghiệm chiến đấu trên sa mạc để
tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ nhằm vào đoàn quân mà ông cho rằng
đang mất tinh thần chiến đấu.
Tuy vậy, với địa hình hiểm trở, cụ thể
nhất là vùng hoang mạc Quattara Depression, nơi được đánh giá là cứ điểm
chiến lược của thị trấn Alamein và là nơi những phương tiện cơ giới cỡ
lớn khó có thể băng qua, quân Anh đã tập trung phòng thủ ở phòng tuyến
này. Từ đây, một loạt thị trấn như Miteiriya, Ruweisat và Alam Halfa đã
trở thành những cứ điểm “vệ tinh” cho Alamein. Một tuyến phòng ngự kéo
từ tây sang đông đã được quân Anh lập ra nhằm bảo vệ trận tuyến cũng như
chờ cơ hội tiến hành phản công. Tướng Auchinleck, với sự hỗ trợ của
Thiếu tướng Eric “Chinhk” Dorman-Smith, đã nhận thấy điểm đặc biệt ở
Alamein, nơi Rommel đã phải dừng bước sau chiến thắng của quân Anh tại
trận chiến đầu tiên tại Alamein trong giai đoạn 1-27/7/1942.
Một lần nữa, chiến trận lại trở nên căng
thẳng song lần này, tất cả đã nằm trong sự toan tính của quân Anh. Theo
đó, Thiếu tướng Dorman-Smoth đã thấy được tầm quan trọng trong việc phải
chọc thủng thế trận của quân Italia, buộc tướng Rommel dùng đến những
đơn vị tinh nhuệ của quân Đức nhằm hạn chế khoảng trống và tính toán về
phương thức phản công. Vào thời điểm này, tướng Rommel không còn nghi
ngờ gì về tài chỉ huy của đối phương. Trong bức thư gửi về cho vợ, tác
giả Barnett đã viết: “Quân Anh sử dụng chủ yếu là bộ binh để tấn công
lần lượt vào các vị trí của quân đội Italia và sau đó, quân Đức quá yếu
để có thể tự duy trì thế trận”.
Như vậy, tướng Auchinleck đã chặn đứng
được đà tiến của quân đối phương ngay trước cửa ngõ tiến vào Ai Cập. Sau
đó, ông đã tính tới việc tăng cường lại sức mạnh để chuẩn bị cho một
đợn tấn công. Tướng Dorman-Smith đã viết một báo cáo có tiêu đề “Đánh
giá về tình thế ở chiến trường sa mạc phía đông” vào ngày 27/7/1942,
trong đó kết luận rằng quân Anh không còn bị đe dọa, song quân đối
phương vào thời điểm hiện tại còn quá mạnh để có thể phản công. Vì vậy,
kế hoạch dài hạn chỉ ra rằng cần “huấn luyện những sư đoàn mới để tiến
hành phản công, có thể là bắt đầu vào cuối tháng 9″.
Tuy nhiên, vào ngày 13/9/1942, trong
chuyến thăm cá nhân của Thủ tướng Anh tới chiến trường sa mạc phía đông,
tướng Auchinleck đã bị cho thôi chức. Quyết định này được cho là không
phải do tình hình trên chiến trường mà là do một cuộc khủng hoảng chính
trị liên quan đến Thủ tướng. Năm 1942, quân Anh hứng chịu ba thất bại
lớn trên mặt đất. Đó là tại chiến trường Xinhgapo, Miến Điện và Tobruk.
Tại chiến trường Xinhgapo, quân Anh đã
thúc thủ sau khi tướng Anh Arthur Percival đầu hàng quân Nhật do tướng
Tomoyuki Yamashita chỉ huy. Khoảng 80.000 quân Anh và các nước đồng minh
đã trở thành tù binh sau trận chiến, chưa kể 50.000 tù binh khác bị
quân Nhật bắt trong trận chiến Malaixia. Với Thủ tướng Winston
Churchill, đây là một “thảm họa tồi tệ nhất” và là “cuộc đầu hàng lớn
nhất” trong lịch sử nước Anh. Vì vậy, khi 35.000 quân Anh đầu hàng tại
Tobruk, đó là lần “bẽ mặt” thứ hai chỉ trong một thời gian ngắn đối với
Thủ tướng Churchill. Chưa kể, khi nhận được tin báo từ chiến trường Bắc
Phi về, nhà lãnh đạo của Anh đang ở Mỹ để hội đàm về tình hình chiến sự
trên thế giới với Tổng thống Roosevelt. Những thất bại nặng nề này đã
buộc Thủ tướng Churchill phải đối mặt với cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại
Quốc hội. Ngoài ra, năm đó cũng là một năm mất mát của quân Anh khi quân
Nhật đã đánh đắm tàu chiến Prince of Wales và chiếc Repulse, chiến dịch
tàu ngầm U-boat của Đức đã gây ra nhiều hoang mang cho phía Anh, trong
khi những đợt không kích của quân Đức trong chiến dịch “Baedeker Raids”
đã gây ra nhiều thương vong cũng như phá nát các di tích cổ tại nhiều
thành phố của Anh trong giai đoạn từ tháng 4 tới tháng 6.
Những sức ép từ chính trường trong nước,
buộc Thủ tướng Churchill ra quyết định thay tướng Auchinleck bằng tướng
Harold Alexander, còn Trung tướng Benard Montgomery đã trở thành chỉ huy
của tập đoàn quân số 8. Sau đó, Thủ tướng Churchill đã vượt qua cuộc bỏ
phiếu tín nhiệm, với 475 phiếu ủng hộ so với 25 phiếu chống. Đây cũng
là thời điểm nhà lãnh đạo của Anh tính đến phương án gỡ lại thể diện.
Ông yêu cầu giới tướng lĩnh ở mặt trận Bắc Phi phải đảm bảo rằng thị
trấn chiến lược Tobruk sẽ không thất thủ. Song nhìn vào tương quan lực
lượng hai bên, Thủ tướng Churchill cũng nhận thấy tài chỉ huy của tướng
Rommel và sức mạnh của các loại vũ khí mà quân Đức sử dụng trên chiến
trường là những vật cản lớn cho đà tiến công của quân Đồng minh. Trong
phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội ngày 27/7/1942, Thủ tướng Anh thừa
nhận rằng chỉ huy quân đoàn Phi châu của Đức là một “nhân vật khó dò và
có tài điều binh khiển tướng”.
Montgomery – “Kẻ bịp bợm” xuất sắc nhất?
Dĩ nhiên, những thất bại cũng giúp người
Anh có cơ hội nhìn ra vấn đề. Churchill nhìn vào số lượng và chất lượng
của vũ khí mà quân Anh sử dụng. Lý do đơn giản là trước khi những mẫu xe
tăng Grant rồi Sherrman của Mỹ được sử dụng, Anh thiếu những mẫu xe
tăng có thể đọ được với vũ khí chủ lực của quân Đức, những xe tăng
Panzer Mark III và IV.
So với một đội quân sở hữu những chiếc xe
tăng có hỏa lực mạnh, các đơn vị quân có khả năng chiến đấu cơ động và
ứng biến nhanh với điều kiện thực tế, quân Anh lộ rõ sự yếu thế. Chưa
kể, quân Anh thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa lực lượng bộ binh và các đơn
vị tăng thiết giáp. Theo tác giả Barnett, tướng Auchinleck đã nhận ra
vấn đề của quân Anh và cố gắng giải quyết những chênh lệch giữa vũ khí
của quân Anh với đối thủ. Ông viết: “Quân đội phải duy trì tính cơ động.
Các đơn vị phải gắn kết và hỗ trợ nhau hơn nữa. Auchinleck cho rằng số
quân Anh đang đóng ở sa mạc cần phải tập trung vào tính cơ động trong
mỗi trận chiến, trong khi giới chỉ huy cần tăng cường khả năng phán đoán
và lanh lẹ trong việc đưa ra những quyết định”.
Những thay đổi trong cách tiếp cận của
tướng Auchinleck đã giúp cho tướng Montgomery thừa hưởng được một đội
quân thay đổi theo phong cách hiện đại. Và với sức ép từ chính trường
trong nước, giới lãnh đạo Anh yêu cầu tướng Montgomery tiến hành một
cuộc tấn công nhưng nhân vật này đã từ chối. Khác với lần Auchinleck để
mất Tobruk và bị cho thôi chức, Montogomery đã đấu tranh đến cùng để bảo
vệ quyết định không vội xua quân tấn công. Đây được đánh giá là dấu ấn
đầu tiên của tướng Montgomery khi nắm quyền chỉ huy tập đoàn quân số 8.
Trong cuốn “Memoirs”, tướng Montgomery
từng viết: “Tôi quyết định tập trung sức mạnh để giữ Alam Halfa. Nếu giữ
được vị trí này, quân của Rommel sẽ không thể vượt qua được quân đội
của tôi để tiến về Cairô. Nếu cố tấn công vào vị trí này, Rommel sẽ tự
chuốc lấy thất bại”. Thực tế là vậy nhưng trước khi tướng Montgomery cân
nhắc đến cứ điểm chiến lược này, tướng Auchinleck và tướng Dorman-Smith
cũng từng nhìn ra tầm quan trọng của Alam Halfa và xây dựng một thế
trận phòng thủ khá chắn chắn ở nơi đây.
“Sau đó, tôi quyết định rằng cánh quân
phía nam cần phải cơ động hơn, do vậy sư đoàn thiết giáp số 7 sẽ giữ
tiền tuyến và khi đối thủ tấn công, sư đoàn này có nhiệm vụ quấy phá từ
phía đông sang phía nam”. Tưởng như đây là một quyết định được
Montgomery tự mình nêu ra, song trong cuốn “Appreciation”, Dorman-Smith
từng nói: “Tập đoàn quân số 8 có thể đối diện với kẻ địch ở cánh phía
nam. Do vậy, chúng ta cần tổ chức một cánh quân có khả năng cơ động,
được huấn luyện kỹ để phục vụ công tác phòng thủ, chờ cơ hội phản công”.
Trận chiến Alam Halfa, bắt đầu từ ngày
31/8 đến 3/9/1942, đã diễn ra theo đúng kế hoạch (của tướng Auchinleck).
Tướng Rommel đã chỉ huy quân đội tấn công nhằm giành lợi thế trước quân
Anh với số lượng thiết giáp được huy động nhằm đánh vào khu vực giữa
hoang mạc Quattara Depression và thị trấn Alam Halfa. Tuy nhiên, nỗ lực
này của Rommel đã không thành trước tuyến phòng ngự chắc chắn của quân
Anh, nhờ những đơn vị quân được bố trí hợp lý và các sư đoàn thiết giáp
cơ động. Sau trận chiến Alam Halfa, Thủ tướng Churchill muốn quân Anh
tận dụng thời điểm để tiến công phe Trục trước khi quân Mỹ can thiệp.
Tuy nhiên, tướng Montgomery vẫn giữ nguyên quan điểm của ông khi muốn
mọi thứ phải đảm bảo trước khi tổ chức tấn công. Do vậy, cuộc tấn công
đã bị lùi tới cuối tháng 10/1942, thời điểm Tập đoàn quân số 8 đã có
được ưu thế về quân số và vũ khí.
Trước khi bước vào trận chiến El-Alamein
thứ hai, quân của tướng Montgomery có 220.000 người so với 100.000 quân
của tướng Rommel. Quân Anh cũng có 1.100 xe tăng, trong đó có 270 chiếc
xe tăng Sherman mới và 219 chiếc xe tăng Grant. Ngoài ra, Tập đoàn quân
số 8 còn có 1.000 khẩu súng cỡ vừa, 1.400 khẩu súng chống tăng. Anh cũng
nhanh chóng thành lập đơn vị Không quân Sa mạc để giúp quân đội giành
ưu thế trên chiến trường. Trận chiến đã kéo dài trong 13 ngày với phần
thắng nghiêng về quân Anh. Tuy vậy, những sai sót từ giới chỉ huy của
quân Anh được coi là một phần nguyên nhân trong việc để tướng Rommel
trốn thoát khi trận chiến kết thúc.
Trong cuốn sách tái bản “Những vị tướng
sa mạc”, tác giả Barnett một lần nữa lặp lại và nhấn mạnh vào những gì
mà ông từng kết luận trước đó. Ông buộc tội Montgomery đã bóp méo những
kế hoạch của các viên tướng tiền nhiệm, giành hết công cho mình trong
việc đưa ra kế hoạch ở trận Alam Halfa, chỉ huy không hợp lý trận
Alamein và không tuân theo những gì đã nêu ra trong kế hoạch của mình,
gây ra thất bại ban đầu ở Alamein bằng việc điều bộ binh và thiết giáp
đi qua những khu vực nhỏ hẹp chứa đầy mìn, thất bại trong việc giăng bẫy
bắt Rommel ở thị trấn El-Alamein sau khi quân Anh giành lợi thế, chậm
chạp và thận trọng không cần thiết khi chỉ huy quân tiến tới Tripôli.
Tác giả Barnett cho rằng, trong trận
chiến sa mạc, quân Anh đã được chỉ huy bởi nhiều viên tướng, từ Wavell
tới O’Connor, Auchinleck và Dorman-Smith. Tuy nhiên, việc chỉ có tướng
Montgomery được nhắc đến như người đã giúp quân Anh giành chiến thắng
trong cuộc chiến sa mạc, vốn “che lấp” công lao của những người khác, là
một sự bóp méo trắng trợn sự thật và chính Montgomery phải chịu trách
nhiệm chính cho sự bóp méo này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét