Hiển thị các bài đăng có nhãn hậu chiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hậu chiến. Hiển thị tất cả bài đăng

30 tháng 4 2014

Triệu người vui, triệu người buồn





Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi nhắc lại chiến thắng ngày 30-4-1975, đã nói rằng: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.

Triệu người vui, triệu người buồn

Chủ Nhật, ngày 22/4/2012 - 02:30


Giới ký giả Mỹ không xa lạ với Marissa Roth. Nữ phóng viên chiến trường 55 tuổi này từng lăn lộn ở nhiều cuộc chiến tranh và từng được xướng tên tại lễ trao giải Pullitzer cách đây vừa tròn 20 năm.

Trong dịp đến Việt Nam mới đây, bà đã chia sẻ về những bức ảnh chụp những người phụ nữ bị ảnh hưởng bởi chiến tranh rằng: “Những người phụ nữ có gương mặt khác nhau nhưng nỗi đau trong tim giống nhau. Phụ nữ không tạo ra chiến tranh nhưng họ luôn là những người phải chịu đựng nhiều nhất”. (VietNamNet)
Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh thống nhất đất nước đã đi qua 37 năm. Có 75 vạn người mẹ mang nặng một nỗi đau về gần 2 triệu đứa con đã để lại cuộc đời mình ở chiến trường. Những bà mẹ đó được phong anh hùng - một danh hiệu mà họ ước gì không bao giờ phải nhận.
Nhà thơ Nguyễn Duy, trong một tác phẩm của mình, đã viết: Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh/ Phe nào thắng thì nhân dân đều bại!
Những người phụ nữ trong ảnh của Marissa mang những nỗi đau giống nhau trong tim. Những bà mẹ ở hai bên bờ sông Bến Hải cũng vậy.
Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi nhắc lại chiến thắng ngày 30-4-1975, đã nói rằng: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.
Hằng năm, chúng ta đều tưng bừng kỷ niệm ngày thống nhất đất nước như một chiến thắng vĩ đại. Cờ, phướn sẽ làm cho phố phường, ngõ xóm trở nên rực rỡ. Và những bài ca chiến thắng sẽ vang lên ở mọi nơi.
Để cho tâm hồn mình bay bổng trong không khí hân hoan đó, thảng hoặc chúng ta quên mất những bà mẹ đang nuốt nước mắt vào trong, những gia đình tang thương vì bom đạn. Chúng ta quên mất những bà mẹ Việt Nam mà lịch sử đã xô đẩy họ đứng ở bên kia chiến tuyến cũng mang những nỗi đau giống như nỗi đau của mọi bà mẹ trên đời.
Nếu như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng nói rằng: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai” thì nỗi đau nào cũng là nỗi đau của cả dân tộc, không thể chỉ là của riêng ai.

Số phận bài báo “triệu người vui, triệu người buồn”…

Thứ Bảy, ngày 22/6/2013 - 07:10

Ông Nguyễn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế (nay là báo Thế Giới và Việt Nam), kể về một câu chuyện trắc trở xung quanh bài phỏng vấn nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Ông Vĩnh kể đó là một trong những bài báo in trên Quốc Tế được xây dựng công phu nhất nhưng cũng lại là bài báo có số phận trải đủ cung bậc thăng trầm...
“Đăng và gỡ”…
. Xây dựng công phu nghĩa là thế nào, thưa ông?
+ Cuối năm 2004, anh em nghiên cứu chính sách đối ngoại bên ngoại giao và báo Quốc Tế được gặp ông Võ Văn Kiệt nhằm trao đổi một số vấn đề đối ngoại. Sau buổi gặp, một phó tổng biên tập được phân công chấp bút, lựa những điều ông Kiệt trăn trở và tâm đắc nhất để soạn lại thành một bài viết dạng phỏng vấn. Hướng nhắm tới là cột mốc quan trọng năm 2005: 30 năm ngày giải phóng miền Nam, rất thích hợp để phát đi một tín hiệu đối ngoại quan trọng từ một nhân vật nguyên là lãnh đạo cấp cao. Bài được gửi xin ý kiến và được nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đồng ý cho đăng với kế hoạch thời gian sẽ đăng Quốc Tế số tết Ất Dậu 2005.
. Vậy còn thăng trầm?
+ Đó là khi bài đã lên khuôn ở nhà in thì tôi nhận được chỉ đạo qua điện thoại không cho phép đăng bài đó.
. Một bài báo quan trọng như thế thông thường khi chưa lên trang chỉ nhân vật và tòa soạn biết, tại sao lại rò rỉ để đến mức bị chỉ đạo gỡ bài?
+ Đó cũng chính là câu tôi đã hỏi vị lãnh đạo đó. Nhưng ông ấy từ chối trả lời mà chỉ yêu cầu tôi thực hiện không cho bài ấy xuất hiện. Cuối cùng, chúng tôi phải bóc hết một “tay in” là tám trang, rồi thay vào một bài khác.
. Bài bị gỡ thường là “có vấn đề”, lúc đó ông có sợ trách nhiệm cá nhân của mình không?
+ Khi thực hiện bài phỏng vấn đặc biệt này, tôi đều có báo cáo với cơ quan chủ quản của báo là Bộ Ngoại giao. Bài viết hoàn thành, chúng tôi cũng gửi lại cho nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc, sau đó ông có phê vào bản thảo là đồng ý cho đăng.


Nhà báo Nguyễn Vĩnh.
. Phản ứng của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi biết bài không được đăng như thế nào?
+ Ông ấy không hài lòng. Nguyên Thủ tướng còn viết thư riêng gửi cho một lãnh đạo cao cấp yêu cầu giải thích về việc này. Tôi vẫn còn giữ hai lá thư đó, bản gửi cho tôi biết, như một kỷ niệm công việc.
. Nhưng cuối cùng bài báo đó cũng được đăng với tựa đề là “Những đòi hỏi mới của thời cuộc”.
+ Đúng rồi, sau lá thư của ông Võ Văn Kiệt, không rõ từ lý do nào và ra sao mà một thời gian sau ngày bị dừng thì tổng biên tập lại nhận được chỉ đạo phải đăng bài này. Nhưng đúng lúc đó thì nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt lại không đồng ý để bài đó được đăng nữa.
. Báo Quốc Tếđã làm gì để thuyết phục ông Võ Văn Kiệt đồng ý?
+ Việc này vượt ra ngoài tầm của Ban Biên tập. Đích thân đồng chí Nguyễn Phú Bình lúc đó là thứ trưởng Bộ Ngoại giao vất vả lắm mới nhận được cái gật đầu của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và bài báo đã được in vào ngày 30-3-2005.
“Triệu người vui, triệu người buồn”
. Dư luận về bài báo đó ra sao, thưa ông?
+ Dư luận rất tốt, rất nhiều báo ở trong nước và ngoài nước in lại hoặc đưa lên mạng bài báo này.
Bài báo hay ở nội dung và tư tưởng. Ngay mở đầu bài viết, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tái khẳng định rằng chiến thắng 30-4 là vĩ đại nhưng người Việt Nam cũng “đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát”. Vì thế một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm sẽ “có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Vết thương chung của dân tộc như vậy cần được giữ lành, “thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Và muốn để mọi người Việt Nam chung tay hàn gắn thì chúng ta, người chiến thắng và đang lãnh đạo đất nước, “phải thực tâm khoan dung và hòa hợp”. Ở một lãnh đạo cấp cao, ý trên thật mới và rất quan trọng cho hòa hợp dân tộc.
. Trong bài trả lời phỏng vấn đó, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn có đánh giá về tướng Dương Văn Minh?
+ Đúng, nguyên Thủ tướng phân tích tướng Minh nhậm chức tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 28-4-1975 là thời điểm mà “một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn”, rồi Sài Gòn không “tử thủ” như các tướng tá khác muốn, trái lại thành phố giữ được nguyên vẹn do ông Minh chấp nhận đầu hàng. Sự việc được ông Kiệt kể lại: “Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30-4, khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường và vào đúng giờ phút ấy mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này”. Với cách nhìn nhận như vậy, ông Kiệt muốn nêu lên một thực tế, ông nói: “Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc Việt Nam chúng ta giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc”.
. Việc đánh giá về ông Dương Văn Minh như thế phải chăng cũng là một nguyên do khiến bài phỏng vấn đó bị yêu cầu dừng xuất bản?
+ Nguyên nhân thực sự tôi không rõ. Tuy nhiên, với hai ý lớn như thế, lại xuất hiện ở thời điểm 2005, khi mà trong nội bộ chúng ta còn có nhận thức và đánh giá chênh nhau, thậm chí khác nhau về thực chất của hòa hợp dân tộc và lực lượng thứ ba có liên quan đến tướng Dương Văn Minh, thì việc bài báo bị dừng lại, tôi nghĩ cũng là điều có thể hiểu được.
Ngoại giao văn hóa
. Về hưu nhưng ông dường như vẫn quan tâm đến thời cuộc với nhiều bài viết trên blog cá nhân và Facebook... Ông nghĩ thế nào về ngoại giao của ta trong thời điểm hiện nay?
+ Chúng ta vẫn thường nghe câu “thêm bạn bớt thù” trong quan hệ quốc tế. Như vậy tức là chúng ta vẫn thừa nhận có thù, làm như điều này “không thể hết được”. Nhưng tôi nghĩ không nên tư duy về thù và “sắp xếp” hai khái niệm bạn/thù theo lối cũ, được như thế thì vẫn tốt hơn. Nói cách khác là nên xác định ở thời nay sẽ chẳng có bạn hay thù nào là vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi đất nước và dân tộc là vĩnh viễn và vĩnh cửu.
. Nhưng có lúc đấu tranh để bảo vệ quyền lợi dân tộc, chúng ta phải chạm trán với kẻ thù, thưa ông?
+ Như thế chúng ta mới cần phải có đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn. Cần nhiều cách ứng xử và biện pháp khác nhau vận dụng khôn ngoan. Trong quan hệ là hợp tác cùng có lợi và bình đẳng, là mềm mỏng nhưng cần thì phải đấu tranh khi lợi ích dân tộc bị xâm hại. Trải qua bao chục năm dâu bể, tôi thoáng nghĩ đến phương cách trung lập. Cái thế địa-chính trị của nước ta nó mách bảo điều này. Lãnh đạo cấp cao chúng ta chẳng nói là nước ta không liên minh với nước này chống lại nước kia, cũng không cho ai đặt căn cứ quân sự và nếu phải sắm vũ khí cũng là để phòng thủ… Đây là một chủ đề rất lớn nên chúng mình để lúc khác bàn đến…

Ông Nguyễn Vĩnh tốt nghiệp khoa Ngữ  Văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội khóa 1963-1967, ra trường ông được nhận vào làm việc như một biên tập viên tập sự tại NXB Ngoại văn. Từ năm 1998 ông được Bộ Ngoại giao bổ nhiệm làm tổng biên tập báo Quốc Tế cho đến năm 2006. Tiếp đó, ông còn là một trong những người gây dựng tuần báo Thời Đại của Liên hiệp Các Tổ chức hữu nghị Việt Nam, là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này đến năm 2008.
HỒ VIẾT THỊNH thực hiện

Nhớ bài báo nổi tiếng của bác Sáu Dân

26/04/2013 - 10:30 (GMT+7)

Bác Sáu Dân - Võ Văn Kiệt để lại cho lớp hậu thế chúng ta nhiều tấm gương soi về cả sự cống hiến và nhân cách con người...

Bác Sáu Dân - Võ Văn Kiệt để lại cho lớp hậu thế chúng ta nhiều tấm gương soi về cả sự cống hiến và nhân cách con người. Trong số đó có cách ông nghĩ và làm được rất nhiều điều có ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho sự hòa hợp dân tộc được thể hiện qua bài báo nổi tiếng của ông “Những đòi hỏi mới của thời cuộc”.
Có người hỏi tôi về kỷ niệm trong nghề báo, với tôi đáng nhớ nhất chắc là chuyện đăng một bài báo nổi tiếng của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào năm 2005 trên Báo Quốc tế khi tôi làm Tổng biên tập. Đây cũng là một trong những bài báo in trên Quốc tế được xây dựng công phu nhất, nhưng cũng là bài báo có đủ cung bậc thăng trầm.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Xin nói ngay, đây không phải bài ông Võ Văn Kiệt gửi đến để đăng mà là bài có một quá trình xây dựng ít ra là đủ tính cẩn trọng có thể của một tòa soạn, cũng như cái cách tiến hành và con đường dẫn tới in bài này cũng đủ công phu và xen vào biết bao khúc mắc...
Số là nhân chuyến ra Bắc công tác vào cuối năm 2004 của ông Võ Văn Kiệt, anh em nghiên cứu chính sách đối ngoại bên Bộ Ngoại giao và Báo Quốc tế được gặp ông Kiệt nhằm trao đổi một số vấn đề đối ngoại. Lúc đó Quốc tế nghĩ ngay tới một bài báo mang tên ông vì hiểu rằng cơ hội đăng bài của ông Kiệt không dễ với cả báo lớn, chứ báo cỡ “thường thường bậc trung” như tờ Quốc tế thì càng hiếm dịp. Vì thế sau buổi gặp một Phó tổng biên tập được phân công chấp bút, lựa ra nội dung cốt yếu, tức là những điều ông Kiệt trăn trở và tâm đắc nhất, để soạn lại thành một bài viết dạng phỏng vấn. Sau khi hoàn thiện bài thì hướng nhắm tới là cột mốc quan trọng năm 2005, 30 năm ngày Giải phóng miền Nam, rất thích hợp để phát đi một tín hiệu đối ngoại quan trọng từ một nhân vật nguyên là lãnh đạo cấp cao.
Những câu chuyện ông Kiệt chia sẻ với các cán bộ ngoại giao xoay quanh mốc thời gian 30 năm ngày Giải phóng miền Nam, nhìn lại sự kiện lớn lao này theo một cách mới mẻ để thực sự có hòa hợp dân tộc; và từ đó nhận thức được nhiệm vụ và những thách thức của đất nước phải vượt qua trong tình hình mới. Chính từ nội dung này mà khi bài báo lên khuôn đã được đặt một cái tít vừa có sức gợi vừa muốn đạt mức độ ấn tượng nơi bạn đọc: “Những đòi hỏi mới của thời cuộc”. Sau đầu đề bài là lời nhấn của Tòa soạn: “...cựu Thủ tướng - “lão tướng” Võ Văn Kiệt - đã trao đổi với phóng viên Báo Quốc tế về những kỷ niệm ngày tiếp quản Sài Gòn và những bức xúc của điều mà ông cho là chúng ta phải nhanh chân, đừng tự ru ngủ mình...”.
“Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc VN chúng ta giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc”.
Võ Văn Kiệt
Ngay mở đầu bài viết, Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tái khẳng định, chiến thắng 30/4 là vĩ đại, nhưng người Việt Nam cũng “đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát”. Từ thực tế lịch sử và chính qua trường hợp gia đình mình, ông Kiệt khái quát người dân miền Nam “rơi vào hoàn  cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia”. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm sẽ “có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Vết thương chung của dân tộc như vậy cần được giữ lành “thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Và muốn để mọi người Việt Nam chung tay hàn gắn thì chúng ta, người chiến thắng và những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước “phải thực tâm khoan dung và hòa hợp”. Ở một người từng là lãnh đạo cấp cao như ông Kiệt thì ý trên thật mới mẻ và rất quan trọng cho hòa hợp dân tộc.
Cái ý lớn bao trùm về ngày 30/4, về hòa hợp dân tộc ông Kiệt nói trong bài báo là vậy, đương nhiên còn những ý khác cũng rất mới và quan trọng. Như cách đánh giá về tướng Dương Văn Minh. Ông Kiệt nhận xét rằng, tướng Minh nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 28/4/1975 là thời điểm mà “một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn”, rồi Sài Gòn không “tử thủ” như các tướng tá khác muốn, trái lại thành phố giữ được nguyên vẹn do ông Minh chấp nhận đầu hàng. Sự việc trên được ông Kiệt kể lại: “Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30/4 khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho Cách mạng, đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này”.
Ông Kiệt còn phân tích, cái thế thắng của chúng ta trong năm 1975 là không thể cưỡng lại được, tuy nhiên quyết định của tướng Dương Văn Minh không chỉ dựa trên tình hình chiến sự mà còn phản ánh những hành động chính trị trước đó của ông, bởi chính ông đã đảo chính lật chế độ Ngô Đình Diệm và cũng là người sau đó “đã không chịu làm vừa lòng Mỹ, khiến người Mỹ phải bật đèn xanh cho Nguyễn Khánh lật đổ ông”.
Với cách nhìn nhận như vậy, ông Kiệt muốn nêu lên một thực tế, ông nói: “Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc Việt Nam chúng ta giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc”.
Bài báo đăng trên tờ Quốc tế ngày 31/3/2005
Bài báo đăng trên tờ Quốc tế ngày 31/3/2005
Một tư tưởng về chiến thắng 30/4 và hòa hợp dân tộc như vậy được nói ra từ thời điểm hơn 8, 9 năm về trước, khi mà trong nội bộ chúng ta còn có nhận thức và đánh giá chênh nhau, thậm chí khác nhau về thực chất của công cuộc hòa giải và hòa hợp dân tộc; đồng thời với cách nhìn nhận về lực lượng thứ 3 và sự đánh giá liên quan đến tướng Dương Văn Minh..., thì việc bài báo của ông Võ Văn Kiệt “gặp sóng gió” là điều có thể hiểu được.
Nói “sóng gió” vì bài phỏng vấn Nguyên Thủ tướng in rồi, nhà in đã đóng quyển, nhưng rồi phải thay bài khác, sau đó đợi dịp thích hợp tới ngày lễ Giải phóng miền Nam 30/4.
Nhưng sự việc đâu dễ dàng. Bởi vì lần này, chính tác giả, ông Võ Văn Kiệt lại yêu cầu Báo Quốc tế không được phép đăng bài ông nữa. Tờ báo đã từng bị mắc kẹt, nay còn bị một cú kẹt lớn hơn!
Rất may là tất cả mọi sự việc tôi đã báo cáo hết và tường tận với Bộ chủ quản ngay từ đầu. Nghĩa là từ lúc Báo Quốc tế đặt vấn đề bài vở với Nguyên Thủ tướng tới nội dung cuộc phỏng vấn được ông thông qua, ký tên Sáu Dân vào một góc bản thảo cuối cùng. Kế đến là lệnh dừng bài rồi lúc này là lệnh sử dụng lại bài này. Tâm điểm và khúc mắc nhất là việc ông Kiệt thông báo cho Báo Quốc tế biết “không được phép in bài của ông nữa”... Vô hình trung đến lúc này, câu chuyện rắc rối khó xử đã vượt ngoài tầm với của một tờ báo.
Sau không biết bao nhiêu hệ lụy, những trao đi đổi lại khá là miên man - nếu có thể nói được như vậy về vụ việc này - giữa các cơ quan liên quan với nhau, lúc căng lúc chùng, có phen gần như thất bại (ông Kiệt mấy tuần lễ liền “kiên trì” giữ ý kiến không đăng bài nữa); rồi câu chuyện cũng đến hồi kết thúc... Bài phỏng vấn thay vì in vào số Tết Ất Dậu 2005 lại chuyển in vào Quốc tế số định kỳ, ra ngày 31/3/2005, đúng một tháng trước sự kiện kỷ niệm 30 năm ngày Giải phóng miền Nam.
Sau khi báo nhà đăng, tôi và đồng nghiệp thở phào như trút đi một cái gánh quá nặng của mọi thứ sức ép! Báo tôi liên tiếp nhận được những lời chúc mừng chia sẻ. Các tờ báo rất có uy tín của đất nước, với số lượng phát hành rất lớn như: Tuổi trẻ, Thanh niên, Lao động..., các tờ báo điện tử VnExpress, Vietnamnet cũng như nhiều cơ quan báo chí khác... đều nhất loạt từ ngày 15/4 trở đi in lại, post lên mạng bài phỏng vấn nổi tiếng và rất có giá trị này của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Nguyễn Vĩnh (Nguyên Tổng biên tập Báo Quốc tế)



NGUYÊN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT
NHỮNG ĐÒI HỎI MỚI CỦA THỜI CUỘC
Tháng Tư sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc là tháng Thống nhất đất nước. Nhân dịp 30 năm ngày đất nước về một dải "từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái", cựu Thủ tướng - "lão tướng" VÕ VĂN KIỆT đã trao đổi với phóng viên Báo Quốc Tế về những kỷ niệm ngày tiếp quản Sài Gòn và những bức xúc trước thời cuộc. Ông cho răng chúng ta phải nhanh chân, đừng tự ru ngủ mình...
Thưa ông, thấm thoắt đã gần 30 năm kể từ ngày tiếp quản Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại từ cuộc kháng chiến đó, ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?
Suy nghĩ của tôi chỉ đơn giản là làm sao để không còn những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh như chúng tôi nữa. Chiến tranh đã qua cách đây hàng chục năm. Chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là, tôi mong chiến tranh thực sự phải thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại.
Thưa ông, "khép lại" là một khái niệm không đơn giản khi làm?
Không gì là không làm được! "Hoà hiếu", "khoan dung" là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi nghĩ mọi người Việt Nam chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy, khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hoà hợp.
Chúng ta đã có nhiều nỗ lực để làm điều đó, thưa ông?
Đôi khi phải nhìn kết quả thay vì nhìn những gì mà chúng ta nghĩ là nỗ lực. Theo cách mà chúng ta đang làm để kỷ niệm những ngày lịch sử hiện nay, tôi e rằng chúng ta lại đang lặp lại những gì mà chúng ta đã làm trước đó. Lịch sử cũng như cuộc sống, cái đúng, cái sai nói một lần người ta hiểu; nói hai ba lần người ta im lặng; nhắc lại quá mức cần thiết thì có thể gây ra sự phản cảm. Trong khi đó theo tôi, chúng ta vẫn còn biết bao nhiêu điều cần nói, biết bao việc cần làm.

“Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp”.
Theo ông bây giờ, việc cần làm tiếp là gì?
Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu.
Thưa ông, để lành được vết thương này phải có sự tham gia của mọi người Việt?
Đấy là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo dựng, thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hoà hợp. Sau 30/4, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: "Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó.
Khó khăn nằm ở chỗ nào thưa ông?
Hồ Chủ tịch từng mong muốn khi chiến tranh chấm dứt, hoà bình lập lại sẽ đi thăm các nước để cảm ơn bè bạn quốc tế. Sau năm 1975, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác làm việc này. Đánh giá cao sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế và cảm ơn là việc làm phù hợp với đạo lý và truyền thống Việt Nam. Nhưng về đối nội, theo tôi đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng chế độ cũ, hiện đang ở trong nước, hay ở bên ngoài. Bản thân tôi, cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ, không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ.
Ông Minh đã tuyên bố đầu hàng?
Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho các tướng dưới quyền ông "tử thủ", chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình nữa. Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30/4, khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho Cách mạng, đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này.
Theo ông, từ đâu ông Minh lại có quyết định như vậy?
Thế thắng của ta trong năm 1975 là không thể cưỡng lại được, tuy nhiên, quyết định của ông Minh không chỉ dựa trên tình hình chiến sự mà còn phản ánh những hành động chính trị trước đó của ông. Ông Minh là vị tướng đã đảo chính lật chế độ Ngô Đình Diệm, ông cũng là người, sau đó đã không chịu làm vừa lòng Mỹ, khiến người Mỹ phải bật đèn xanh cho Nguyễn Khánh lật đổ ông.

Và, "Lực lượng thứ Ba" cũng đóng một vai trò đáng kể, thưa ông?
Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Minh chính là kết quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ Ba, lực lượng những người đấu tranh với Mỹ - Thiệu ngay trong lòng chế độ Sài Gòn. Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung, và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng tổ quốc của mọi người Việt Nam chúng ta trong giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc.
Thưa ông, ở thời điểm này nhìn lại, ông có bằng lòng với những gì chúng ta đã làm trong 30 năm qua?
Chúng ta đều có thể vui mừng khi có một Việt Nam thống nhất, quyết tâm vượt qua nghèo đói và quyết tâm hội nhập như ngày hôm nay. Nhưng, nhìn lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi thấy tiếc. Giá như đổi mới sớm hơn thì chúng ta có thể đã không phải trải qua những năm phải trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985.
Bài học về những năm bỏ lỡ cơ hội này là gì, thưa ông?
Phải tiếp tục đổi mới nữa và tránh xa sự tự mãn, tránh xa bệnh say sưa thành tích! Trong những năm qua, chúng ta tiếp tục giữ được sự tăng trưởng khá, đó là một thành tựu lớn. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý rằng, với một nước mà GDP chỉ mới đạt trên dưới 40 tỷ USD như Việt Nam, mức tăng trưởng 6-7% chưa phải là đã đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và nhu cầu hội nhập. Nếu chúng ta không tự khắc phục được những lực cản, không phát huy được nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài, để có được mức tăng trưởng hai con số trong những năm tới, thì khoảng cách của sự tụt hậu so với khu vực, so với thế giới là không thể nào thu hẹp được. Tôi muốn lưu ý rằng, làm được một chiến thắng kỳ vĩ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Thế giới đã đi rất xa, chúng ta phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.

Thưa ông, trong đối ngoại, chúng ta nên tiếp tục như thế nào trong giai đoạn tới?
Những kết quả đối ngoại vừa qua, trong một chừng mực nhất định đúng là đã góp phần mở đường để giải quyết nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế. Nhưng nội dung cụ thể của những khẩu hiệu ấy là gì? Và tới đây, với một thế giới đang thay đổi từng ngày như thế này, chúng ta lựa chọn và xây dựng vai trò và vị trí của mình như thế nào là điều hết sức quan trọng. Sau sự kiện ngày 11/9, những biến cố ở Trung Đông, những cải tổ chính trị tích cực từ bên trong của các nước ASEAN như Indonesia, sau sự kiện sóng thần tàn phá ở một số nước Đông Nam Á... Tất cả cho thấy, thế giới ngày nay đã trở nên gần gũi và liên hệ với nhau hơn, thực sự không còn chỗ thành công lớn cho những nỗ lực đơn độc. Vị trí đối ngoại của chúng ta, vì thế, không chỉ tuỳ thuộc vào thế, mà phải tăng tốc thêm lực và khả năng thích ứng với toàn cầu của mình. Ngoại giao tới đây, vì thế, tôi nghĩ phải có vai trò vượt lên phía trước, phải chủ động cảnh báo cho trong nước cả thách thức lẫn cơ hội, kịp thời đáp ứng những đòi hỏi mới của thời cuộc.
Xin cảm ơn ông!
Thạch Anh (thực hiện)
Quốc Tế
Đại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của chúng ta
31/08/2005 09:12 GMT+7
TT - Mấy hôm nay, thủ đô Hà Nội đang chuẩn bị lễ kỷ niệm 60 năm Quốc khánh. Đi qua quảng trường Ba Đình lịch sử, tôi thấy anh em đang dựng một khẩu hiệu rất lớn: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
.
Với hơn 60 năm tham gia chiến đấu và xây dựng, tôi không nhìn khẩu hiệu đó như một vật trang trí bằng gỗ, bằng giấy, bằng vải... Tôi bồi hồi xúc động với nhận thức rằng nó là một tư tưởng lớn của Bác, một đạo lý lớn của dân tộc. Từ 60 năm trước nó đã thể hiện ở chính nơi đây, nó vẫn thấm trong tim của Người đã yên nghỉ trong lăng kia.
Nhân những ngày này, ngẫm lại, tôi càng thấy thấm thía tư tưởng lớn đó của Bác: đoàn kết là bản năng của nhiều loài sinh vật (đàn chim, bầy kiến, bầy ong...). Ở loài người, bản năng đó đã phát triển thành một nhu cầu có ý thức. Tùy nơi, tùy lúc, ý thức đó có thể đậm hay nhạt. Mà nghiệm trong lịch sử VN và lịch sử các dân tộc trên thế giới, thấy sự đậm nhạt này có quan hệ mật thiết với sức mạnh của quốc gia, với sự hưng thịnh của các nền văn minh.
Trong tác phẩm Nên học sử ta, viết vào đầu năm 1942, Bác đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”.
"Từ khi làm nhiệm vụ quản lý ở địa phương cũng như ở tầm quốc gia, tôi đã có dịp tìm hiểu nhiều nước và tiếp xúc với nhiều chính khách lớn trên thế giới. Qua đó, tôi kiểm nghiệm lại nhiều điều và rút ra một bài học - thời bình cũng không khác trong thời chiến - về một chân lý muôn thuở: Quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực và do đó càng có uy tín quốc tế. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau , thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế do đó cũng không thể vững vàng"
Ngay từ năm 1941, trong bài “Kính cáo đồng bào”, Bác viết: “Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết. Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại. Cứu quốc là việc chung. Ai là người VN đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm...”.
Cách mạng Tháng Tám là một kết quả rực rỡ của tư tưởng đó.
Không chỉ có sĩ, nông, công, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Nhờ đó kẻ xâm lược mất đi chỗ dựa ban đầu. Kẻ thù trong nước bị tê liệt. Còn những người có tâm huyết với nước với dân thì được thu phục và tận tụy đến cùng với cách mạng và kháng chiến.
Đoàn kết đồng thời có nghĩa là phải khoan dung
Đoàn kết đồng thời có nghĩa là phải khoan dung. Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương xóa bỏ mọi hận thù và chia rẽ do chế độ cũ để lại, sẵn sàng thu dụng những người có tài, có năng lực, có tâm huyết, mà không kể đến quá khứ. Bác đã tuyên bố: “Chính phủ không để tâm moi ra những tội cũ để đem ra làm án mới làm gì”.
Ở Bác, đại đoàn kết không chỉ đóng khung trong phạm vi quốc gia, mà được thể hiện cả trên phạm vi quốc tế. Ngay từ trước cách mạng, Bác đã ra sức tìm kiếm những quan hệ với bất cứ nước nào có thể đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó, tư tưởng này không phải lúc nào cũng đem lại kết quả như ý, nhưng ít nhất thì tấm lòng chân thành của Bác cũng đã có sức mạnh kiềm chế kẻ thù, giảm thiểu được khả năng đối đầu, trì hoãn những xung đột bất lợi, bảo vệ những thành quả đầu tiên của cách mạng...
Đến Đại hội Đảng lần thứ II đầu năm 1951, vấn đề đại đoàn kết được đặt ra và nhìn nhận trong những hoàn cảnh khác. Đã có không ít ý kiến xung quanh vấn đề này. Bác kết luận: “Chính vì Đảng Lao động VN là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc VN”. Lời giải thích đó của Bác đã có sức thuyết phục mạnh mẽ trong đại hội Đảng.
Về phần mình, trải qua bao năm tháng suốt từ trước Cách mạng Tháng Tám đến ngày nay, từ những phút gian nguy giữa sống và chết, đến những ngày chia ngọt sẻ bùi từng thắng lợi, tôi đã bao lần được đồng bào che chở cưu mang, đã chứng kiến bao tấm gương hi sinh của những người thuộc mọi tầng lớp và lứa tuổi... Tôi càng thấm thía những bài học lớn đó của Hồ Chí Minh.
Tiếc rằng một số năm sau đó, tư tưởng đại đoàn kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp đã được vận dụng một cách máy móc, một chiều.
Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế.
Tư tưởng thành phần chủ nghĩa đã dẫn tới hai kết quả: làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy rất cơ bản về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng.
Bước vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tư tưởng đại đoàn kết của Bác lại một lần nữa bừng lên như một sức mạnh vĩ đại của cả dân tộc. Nhiều thành phần khác nhau trong xã hội miền Nam, kể cả các nhân sĩ, các nhà tư sản, thậm chí cả những sĩ quan cao cấp trong quân đội chính quyền Sài Gòn, cũng đã hình thành nhiều tổ chức, nhiều khuynh hướng khác nhau chống lại chế độ độc tài tay sai của Mỹ (Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu). Có một số là thành viên bí mật của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam VN và mặt trận Sài Gòn - Gia định. Do đó, chính quyền tay sai đã bị cô lập càng bị cô lập hơn, đã suy yếu càng suy yếu hơn. Lực lượng cách mạng đã lớn mạnh càng lớn mạnh hơn.
Ngày nay, nước ta không còn những kẻ xâm lược. Nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.
Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp...
Đến nay, 30 năm rồi, những điểm có thể gặp nhau là rất cơ bản, đó là đất nước VN, là dân tộc VN, là phát triển, là phồn vinh, là độc lập, tự do, hạnh phúc.
Những điểm gặp thì đã có. Nhưng người đến gặp thì chúng ta vẫn mong muốn đông hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Trong thời gian này tôi có may mắn được sống và chiến đấu cùng đồng bào các giới trong lòng Sài Gòn - Gia Định, sau đó hơn 15 năm tiếp theo tại miền Tây Nam bộ. Sài Gòn là thành phố lớn, có đủ mọi tầng lớp dân cư đô thị khác nhau. Còn Tây Nam bộ suốt kháng chiến chống Pháp và nhiều năm kháng chiến chống Mỹ là một vùng có những nhà địa chủ giàu có nhất nước ta, những nhà trí thức từng du học ở Pháp, những quan chức cao cấp của chính quyền đương thời, những nhà tu hành và tín đồ của nhiều tôn giáo, những người thuộc những dân tộc khác nhau, như Khơme, Chăm, Hoa... Nhưng ở cả hai địa bàn ấy, chúng tôi vẫn tồn tại và hoạt động được là nhờ được sống giữa lòng dân, thuộc đủ các tầng lớp xã hội. Bài học về sức mạnh dân tộc càng thấm sâu trong máu thịt tôi.
Trên lĩnh vực quốc tế, tinh thần đoàn kết cũng đã đạt được nhiều kết quả thật ngoạn mục. Phong trào phản chiến ở Mỹ, ở Pháp và phong trào phản đối chiến tranh xâm lược VN ở nhiều nước trên thế giới, đã làm cho kẻ thù xâm lược VN càng ngày càng bị cô lập. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Bác Hồ đã làm cho những người bạn lớn của chúng ta dù còn mếch lòng với nhau nhưng vẫn luôn luôn nhất trí ủng hộ sự nghiệp kháng chiến của chúng ta.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, rất nhiều vận hội đã mở ra cho cả nước:
- Đất nước đã được hòa bình, thống nhất. Giang sơn đã trở về một mối. Lòng người cũng qui về một mối.
- Toàn dân vui mừng được yên ổn làm ăn, kiến tạo lại đất nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển chung của cả dân tộc.
- Một đội ngũ đông đảo công thương gia và trí thức miền Nam, có những khả năng và kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực khác nhau, là một vốn quí, có thể đóng góp vào việc xây dựng một nước VN hòa bình, giàu mạnh.
- Hầu hết quân đội, sĩ quan và những viên chức trong chính quyền cũ cũng đều mong mỏi được sống trong hòa bình, hòa hợp, có cơ hội làm lại một cuộc sống yên ổn.
- Trên bình diện quốc tế, cả những nước đã từng đem quân tham gia vào cuộc chiến ở VN cũng thấy cần xóa đi những ám ảnh của quá khứ và bày tỏ thiện chí với VN. Kể cả trong chính quyền Mỹ cũng thấy có những dấu hiệu muốn sớm đi tới bình thường hóa quan hệ với VN, như một cách để làm dịu vết thương nhức nhối của cuộc chiến...
Rất tiếc là ý thức đoàn kết dân tộc lại một lần nữa bị phần nào xao nhãng bởi bệnh chủ quan và say sưa vì chiến thắng, bởi những cách nhìn hẹp hòi, biệt phái, bởi chuyện phân biệt thắng - thua, bởi những kỳ thị ta - ngụy...
Tiếp đó, cuộc cải tạo công thương nghiệp tư nhân ở miền Nam và việc hợp tác hóa nông nghiệp một cách rập khuôn, mà sau này Đại hội Đảng lần thứ VI đã rút kinh nghiệm, là vừa đụng chạm tới cả những người đã từng có công đóng góp cho cách mạng, vừa triệt tiêu đi một nguồn lực kinh tế rất quan trọng.
Kinh tế khó khăn, đời sống bế tắc, cộng với những phương thức quản lý xã hội quá cứng nhắc và tình trạng kỳ thị thành phần... đã làm cho cả một số người yêu nước, muốn đóng góp cho đất nước cũng đành dứt áo ra đi.
Những tổn thất kể trên ít nhiều đã trực tiếp liên quan đến nhiệm vụ của tôi, một người lãnh đạo thành phố mang tên Bác. Tôi đã chứng kiến nhiều nhà trí thức, nhà công thương trước khi rời quê hương vẫn trăn trở cân nhắc, rồi cũng phải “liều mình nhắm mắt đưa chân”. Mặc dầu trong phạm vi khả năng và quyền hạn của mình, Thành ủy chúng tôi cũng đã chân tình giúp đỡ và động viên nhiều anh chị em, nhưng tôi vẫn thấy lúc bấy giờ Thành ủy vẫn có nhiều bất lực và có phần trách nhiệm về tình hình đó.
Trên bình diện quốc tế, một số chủ trương cứng rắn quá mức cần thiết đã làm cho VN lâm vào tình cảnh thêm thù bớt bạn mà thật ra không phải là hoàn toàn không tránh được.
Kết quả là VN bỏ lỡ rất nhiều vận hội. Tiếp đó là những năm tháng đầy khó khăn, với những khủng hoảng kéo dài. Đó chính là một bài học lớn của lịch sử.
Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi
Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng VN làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai... đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt.
Ngày nay chúng ta đã có một nước VN độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.
Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh VN trên trường quốc tế?
Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu qui tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được qui tụ. Con người mà không qui tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.
Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: Trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự nhận thức các qui luật của thiên nhiên và của xã hội. Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm của Bác Hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không. Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng
Nhân kỷ niệm 60 năm Cách mạng Tháng Tám, chúng ta hãy cùng nhau nhớ lại không khí hào hùng và sôi nổi của những ngày tháng đó. Ngọn lửa tạo nên không khí đó chính là tinh thần yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, mà người thắp nên ngọn lửa đó chính là Bác Hồ. Khi đó, tất cả mọi người VN đều như một. Khi đó, yêu nước là cách tốt nhất để yêu mình.
Để ngọn lửa đó còn sáng mãi, chúng ta hãy cùng ôn lại mấy bài học lớn của Bác:
- Đất nước VN, giang sơn VN cùng mọi thành quả của nền văn hóa VN không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người VN, của cả dân tộc VN.
- Đã thế thì mọi người VN đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hóa đó.
- Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người VN đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hóa này.
Nếu thực hiện tốt những tư tưởng đó, với kỷ niệm 60 năm quốc khánh, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng dòng chữ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công” trên quảng trường Ba Đình sẽ không chỉ là một khẩu hiệu bằng sắt, bằng gỗ, bằng vải màu..., mà sẽ là sức mạnh giúp chúng ta vượt qua bao thách thức trước mắt. Từ tinh thần của Ba Đình ngày ấy, nó sẽ trở lại với dân tộc, nó sẽ đem lại cả sức sống, niềm tin, niềm vui, nghĩa tình và hạnh phúc cho hàng triệu và hàng triệu người VN chúng ta.
Để thật sự đại đoàn kết dân tộc
Người ta thường nói đến đại đoàn kết khi chiến đấu chống xâm lược, khi gặp những khó khăn chống chọi với kẻ thù, ít nói đến đại đoàn kết dân tộc khi hòa bình. Chúng ta hình như chỉ chú trọng đến lịch sử đấu tranh, những vinh quang, anh hùng của chiến đấu chống xâm lược mà ít quan tâm đến lịch sử xây dựng, vinh danh những vĩ nhân xây dựng đất nước.
Nếu chúng ta đã từng coi mất nước là mối nhục, đã đại đoàn kết dân tộc để giành được độc lập cho đất nước thì ngày nay cũng phải làm sao cho mọi người dân ý thức được rằng nghèo nàn, lạc hậu là mối nhục không thể chấp nhận được. Từ đó, chúng ta đại đoàn kết dân tộc để xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh không thua kém các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới!
Sau 30 năm sống và làm việc kể từ ngày đất nước thống nhất, tôi vô cùng thấm thía khi nghe nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói trong bài báo trên rằng đoàn kết có nghĩa là phải khoan dung.
Đọc bài viết của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi mong ước con cháu của những người cộng sản cũng như những người đã từng chống cộng sản mãi mãi không còn coi nhau là kẻ thù nữa, mọi người VN chỉ có kẻ thù chung là sự nghèo nàn, lạc hậu của đất nước.
Bài học luôn mới
Đoàn kết là bài học luôn mới trong mọi thời, là kim chỉ nam để hành động và thành công. Trong xu thế mới hiện nay chúng ta mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng mở cửa để thu hút chất xám VN ở khắp nơi trên thế giới. Những người trẻ chúng tôi mong muốn Chính phủ tạo ra môi trường thuận lợi với những qui định cụ thể trong việc sử dụng nguồn lực con người. Hiện nay ở nhiều nơi, nhiều cơ quan vẫn còn tình trạng sử dụng lao động “con ông cháu cha”, quen biết.
Vì thế đã bỏ qua rất nhiều người có tâm huyết, có khả năng làm tốt công việc hơn những người quen biết. Những người trẻ sinh sau chiến tranh, tôi nghĩ họ không thể vì chiến tranh, vì những sai lầm của ông, của bố họ trước đây mà bị đẩy ra khỏi “cuộc chạy” đưa đất nước tiến lên. Bài học đoàn kết trong thời đại ngày nay, theo tôi, là bài học không phân biệt đối xử, không kỳ thị, moi móc quá khứ, bài học của lòng bao dung. Có như thế nguồn lực con người trong cuộc chiến chống nghèo nàn, lạc hậu của đất nước mới dồi dào.
Phải biến khẩu hiệu thành hành động!
Nghe nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói ông không nhìn khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” như một vật trang trí bằng gỗ, bằng giấy, bằng vải, tôi thấy giật mình!
Lâu nay chúng ta quen sống với khẩu hiệu, phong trào... nên những vấn đề có tính tư tưởng, tính sống còn ngày càng trở nên quen thuộc và đôi khi chúng ta bước qua nó với một cái nhìn... vô cảm. Cuộc sống cứ cuốn chúng ta trôi theo nhịp điệu “cơm áo gạo tiền” hằng ngày, đã làm chúng ta trở nên bàng quan với thực tế, quay lưng với lịch sử!
Những sự kiện được báo chí khơi gợi như những cuốn nhật ký của anh Thạc, chị Trâm... đã đốt cháy lên ngọn lửa khát vọng của tuổi trẻ. Vậy tinh thần đoàn kết dân tộc, qua bài viết của nguyên Thủ tướng, có được khơi dậy? Ông Võ Văn Kiệt bảo đó là cội nguồn của sức mạnh, nhưng với chúng ta đó còn là động lực, là niềm tin, là khát vọng!
Muốn ngọn lửa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc rực sáng trong vận hội mới, chúng ta phải hành động bằng những việc làm cụ thể của mỗi cá nhân, của chính sách nhà nước và chiến lược của cả dân tộc!

VÕ VĂN KIỆT


 
Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng
QĐND Việt Nam, nguyên Tham mưu trưởng chiến dịch Hồ Chí Minh: Những điều
 
Trong những số gần đây, chuyên mục Gặp gỡ- phỏng vấn của Quân đội nhân dân cuối tuần liên tục đăng tải loạt bài phỏng vấn các vị tướng lĩnh đã từng tham gia vào Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.  Để khép lại loạt bài này, chúng tôi xin được đăng bài phỏng vấn Thượng tướng Lê Ngọc Hiền-nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, nguyên Tham mưu trưởng chiến dịch Hồ Chí Minh. Ở vị trí người tham gia hoạch định chiến lược, chiến dịch, Thượng tướng là người nắm rõ về thế cuộc trên chiến trường lúc ấy. Cho đến tận bây giờ, khi đã về nghỉ hưu tại ngôi nhà ấm cúng trong khu tập thể quân đội ở phố Lý Nam Đế, ông vẫn tiếp tục suy tư và đúc rút những bài học quý báu từ mùa Xuân toàn thắng 1975.
 
Tại sao ta vạch ra chiến lược hai năm?
 
PV: Thưa Thượng tướng, từ trước tới nay các tài liệu lịch sử thường nhắc tới kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm (1975-1976), nhưng ít người hiểu từ những thực tế nào mà Bộ Tổng tham mưu lại vạch ra chiến lược trên?
 
Thượng tướng Lê Ngọc Hiền: Đây đúng là một vấn đề lớn, có giá trị nghiên cứu không chỉ trong quá khứ mà còn cả ở hiện tại và tương lai.
 
Sau khi những tên lính chiến đấu cuối cùng của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, tình hình thay đổi có lợi cho ta. Từ chỗ phải đương đầu với hai lực lượng chiến lược Mỹ-chư hầu và quân  nguỵ, nay ta chỉ còn phải đánh với quân đội tay sai. Bộ Tổng tham mưu nhận thấy rằng muốn tiêu diệt và đánh tan rã hoàn toàn đạo quân tay sai với hơn 1 triệu tên này thì ta phải sử dụng đòn tác chiến của chủ lực là chính, tập trung mở các chiến dịch tấn công, kết hợp với nổi dậy của quần chúng. Ta phải phấn đấu nâng mức diệt  gọn các đơn vị tiểu đoàn, trung đoàn (như đã làm được trong các chiến dịch năm 1971, 1972) lên mức tiêu diệt về chiến dịch các đơn vị sư đoàn, quân đoàn, tiến lên tiêu diệt về chiến lược, đánh tan rã hoàn toàn đạo quân tay sai.
 
Tuy trên chiến trường tương quan lực lượng đã thay đổi rõ ràng có lợi cho ta, song quân nguỵ lúc đó vẫn được đánh giá là đạo quân mạnh nhất đối đầu với cách mạng trong khu vực Đông và Đông Nam châu Á. Đó là đội quân binh chủng hợp thành hoàn chỉnh, hiện đại, trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hoàn toàn do Mỹ cung cấp với quân số hơn một triệu người, trong đó có: 75 vạn quân chính quy, 37 vạn quân địa phương, bảo an, dân vệ, 45 vạn phòng vệ dân sự (trong đó, 23 vạn đã được cấp súng), chưa kể 8 vạn cảnh sát vũ trang. 
 
Căn cứ vào tình hình, khi tính toán thời gian thực hiện nhiệm vụ, tập thể nghiên cứu của Bộ Tổng tham mưu thấy rằng cần thiết phải hai năm lực lượng vũ trang ta mới có thể tiêu diệt và đánh tan rã hoàn toàn quân nguỵ. Lúc bàn kế hoạch, một khó khăn mà ta phải giải quyết là về đạn dược. Để thực hiện được kế hoạch hai năm, cần hàng triệu viên đạn pháo, cối, mà trong kho lúc đó chỉ còn 78 vạn viên. Ta phải khắc phục khó khăn này bằng nhiều cách, trong đó có việc lấy vũ khí của đối phương.
 
Trong khi thảo luận, các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương còn gợi ra phương án có thể thời gian thực hiện nhanh hơn, ngay trong năm 1975, đồng thời cũng tính tới gặp khó khăn, qua năm 1976, sang năm 1977.
 
Việc nhấn mạnh sử dụng đòn tác chiến của chủ lực, không có nghĩa là ta xem nhẹ đòn tác chiến tiến công tổng hợp, tiến công và nổi dậy, đánh địch bằng cả 3 đòn: đòn chủ lực diệt sinh lực địch trên chiến trường miền núi; đòn nông thôn diệt địch, phá bình định, mở rộng vùng giải phóng; đòn thành phố khi ta chuyển sang tổng tiến công nổi dậy, đánh vào các trung tâm đầu não. Trong đó, đòn của chủ lực là đòn quyết định!
 
- Chắc rằng sự tính toán của ta không chỉ dựa vào những yếu tố về quân sự, thưa Thượng tướng?
 
- Đúng vậy. Những người hoạch định chiến lược tính rằng trong kế hoạch hai năm trên, có hai thời cơ chính trị quan trọng mà ta cần triệt để tận dụng. Đó là: cuộc bầu cử tổng thống nguỵ vào cuối năm 1975 và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cuối năm 1976. Nếu trong hai thời điểm trên, ta đánh mạnh, thắng lớn thì sẽ tạo ra sức ép buộc Mỹ phải thay đổi chính sách, không thể ngoan cố kéo dài chiến tranh.
 
- Mọi người đều đã biết, chúng ta chỉ mất gần hai tháng để hoàn thành “kế hoạch hai năm”. Tại sao lại có bước “đại nhảy vọt” ấy, thưa Thượng tướng?
 
- Nguyên nhân chủ yếu nằm trong khâu chỉ đạo chiến lược, chỉ huy chiến dịch đã đạt được thành công vượt xa yêu cầu, từ chỗ kế hoạch chỉ đề ra là diệt sư đoàn thì ngay trong chiến dịch đầu tiên là chiến dịch Tây Nguyên ta đã diệt được quân đoàn- quân khu địch. Đây là điều mà chính những người vạch kế hoạch như chúng tôi cũng chưa dự tính được đầy đủ.
 
Vì vậy, chỉ trong gần hai tháng với ba chiến dịch: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế- Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã tiêu diệt và đánh tan rã toàn bộ quân ngụy mà không cần thời gian hai năm như trong kế hoạch.
 
Cụ thể, chỉ trong hai chiến dịch Tây Nguyên, Huế- Đà Nẵng, ta đã diệt và đánh tan rã quân đoàn 2- quân khu 2 và quân đoàn 1- quân khu 1 ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 35% tổng số binh lực, 40% lực lượng binh chủng của chúng, thu và phá hủy 40% cơ sở vật chất, giải phóng 16 tỉnh với 8 triệu dân. Chiến dịch Hồ Chí Minh của ta đã đánh vào tận hang ổ đầu não của quân ngụy, diệt và đánh tan rã lực lượng chủ yếu quân ngụy gồm quân đòan 3, lực lượng tổng dự bị chiến lược và biệt khu thủ đô. Ta không phải mở chiến dịch lớn để diệt quân đoàn 4 của ngụy ở Đồng bằng sông Cửu Long mà lực lượng tiến công, nổi dậy tại chỗ đã tự giải quyết được.
 
Địch- sai lầm chiến lược, ta-phân tích đúng, chớp nhanh thời cơ, mưu trí, dũng cảm
 
PV:  Có ý kiến cho rằng, nếu ngụy không sai lầm nghiêm trọng về chiến lược khi đã rút toàn bộ quân đoàn 2 khỏi vùng Tây Nguyên thì có thể tình thế không thuận lợi cho ta đến vậy?
 
Thượng tướng Lê Ngọc Hiền: Trong chiến đấu thì thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ có thể xuất hiện nhờ những nỗ lực chủ quan của ta. Thời cơ cũng có thể đến do địch mắc phải sai lầm mà ta triệt để khai thác được. Đúng là đối phương đã phạm sai lầm khi rút Quân đoàn 2 ra khỏi Tây Nguyên. Họ tính rằng nếu dồn lực lượng quân đoàn 2 về giữ 3 nơi hiểm yếu là đèo An Khê trên đường 19, đèo Tu Na hoặc Cung Sơn trên đường 7, đèo Phượng Hoàng trên đường 21 thì ta sẽ bị chặn lại, phải tổ chức chiến dịch mới. Khi đó mùa mưa đến, ta sẽ gặp khó khăn, khiến chiến tranh sẽ kéo dài.
 
Điều sai lầm là họ không tính đến tinh thần bạc nhược, kỷ luật kém của binh sĩ. Ý định của họ là chủ động rút quân có tổ chức, có kế hoạch nhưng khi thực hiện lại trở thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn.
 
- Và đối phương cũng không tính hết sự nhanh nhạy trong việc nắm bắt thời cơ của ta?
 
- Sau khi ta giải phóng xong thị xã Buôn Ma Thuột, tình hình hết sức khẩn trương. Mặc dù, lúc đó có nhiều nguồn tin cho rằng quân ngụy sẽ tăng viện hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng bộ phận thông tin lại nhận được những tin tức của chúng hỏi nhau kiểu như: “Có đốt tài liệu không?”, “Xe cộ giải quyết thế nào?”. Từ đó, chúng tôi nhận định rằng quân ngụy sẽ rút lui chiến lược, và điều này ngày càng rõ ra. Ngay tối 16-3, khi không liên lạc được với Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, anh Văn Tiến Dũng và tôi trực tiếp gọi điện thoại xuống Sư đoàn 320 ra lệnh nhanh chóng chuyển đội hình từ đánh địch tăng viện hòng phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột sang hành quân gấp lên hướng Bắc, tiến công địch trên đường rút lui.
 
Nhưng lúc ấy, sư 320 có khó khăn khi cả 3 trung đoàn đều phân tán cách xa nhau, nhanh nhất chỉ có thể huy động được một tiểu đoàn. Anh Văn Tiến Dũng ra lệnh phải xuất kích ngay. Thực tế, lực lượng đánh địch rút chạy của ta lúc đầu chỉ có một tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 64. Lực lượng của trung đoàn 48 và trung đoàn 64 (thuộc Sư 320) đến sau. Một tiểu đoàn chặn cả một quân đoàn- quân khu địch với đầy đủ xe tăng, máy bay, pháo binh...! Đây có lẽ là một điều chưa từng xảy ra trong lịch sử. Tuy lực lượng ít hơn địch nhiều lần nhưng tinh thần chiến đấu quả cảm, kỹ thuật, chiến thuật của ta lại hơn hẳn. Vì thế, chiến sĩ ta đã không hề nao núng, kiên trì cắm chốt, chặn đứng đường rút chạy, chờ lực lượng ta ở phía sau vận động tới tiêu diệt địch.
 
Trước khi ta nổ súng, đài quan sát của ta báo về cho tôi biết: “Đầu đội hình địch đang đi vào Cheo Reo, bảy, tám xe một hàng ngang. Đuôi đội hình  địch thì ở tít tận chân trời phía Plei-cu, không thể trông thấy hết”. Tôi mừng không tả xiết. Vậy là trúng rồi. Đội hình hành quân kéo dài hàng trăm cây số của địch nhất định sẽ bị ta đánh tan tác.
 
Dương Văn Minh chỉ là con bài của Mỹ hòng tranh thủ giải pháp thỏa hiệp
 
PV: Mới đây, có ý kiến cho rằng “Sài Gòn giữ được nguyên vẹn như vậy không thể không nói tới vai trò của Dương Văn Minh và nội các của ông ta”. Thượng tướng đánh giá thế nào về ý kiến này?
 
Thượng tướng Lê Ngọc Hiền: Tôi xin khẳng định Dương Văn Minh chỉ là con bài của Mỹ hòng tranh thủ giải pháp thỏa hiệp. Anh em bộ đội và quần chúng nhân dân rất bất bình với ý kiến này.
 
Sài Gòn giữ được nguyên vẹn hoàn toàn không có một chút gì vai trò của Dương Văn Minh. Ngay trong kế hoạch tác chiến, ta đã xác định rất rõ ràng 6 cụm mục tiêu cho 6 cánh quân (chứ không phải 5 như sách báo vẫn nói), toàn là những cơ quan đầu não của địch: Cụm một là bộ tư lệnh hải quân, cảng hải quân và thương cảng do cánh quân Đông Nam (Quân đoàn 2) đảm nhận. Cụm hai là dinh Độc Lập do cánh quân chính Đông (Quân đoàn 4) đảm nhận. Cụm ba là bộ tổng tham mưu ngụỵ do cánh quân phía Bắc (Quân đoàn 1) đảm nhận. Cụm bốn là căn cứ không quân Tân Sơn Nhất- bộ tư lệnh không quân, bộ tư lệnh quân dù do cánh quân phía Tây Bắc (Quân đoàn 3) đảm nhận. Cụm năm là bộ tư lệnh biệt khu thủ đô do cánh quân Tây Nam (Đoàn 232) đảm nhận. Cụm sáu là tổng nha cảnh sát do hai trung đoàn độc lập số 88 và 24 đảm nhận. Toàn bộ pháo binh của ta sẽ tập trung đánh vào những mục tiêu này, nhằm đánh giập đầu, làm tê liệt hoàn toàn đối phương. Không hề có một quả đạn pháo nào của ta bắn vào khu dân cư. Như vậy, ngay từ đầu ta đã xác định rõ rằng phải cố gắng giữ nguyên vẹn thành phố.
 
Tôi cho rằng ý kiến này có ác ý, coi Dương Văn Minh là “cơ sở” của công tác địch vận, qua đó phủ nhận toàn bộ hy sinh xương máu của đồng bào, đồng chí, đồng đội trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như ngay trong chiến dịch cuối cùng, quyết định là chiến dịch Hồ Chí Minh.
 
Trong chiến dịch cuối cùng này, con số hy sinh và bị thương của bộ đội ta lên tới vài nghìn. Sự thật là đối phương đã ngoan cố chống cự đến những giờ phút cuối cùng. Biết bao chiến sĩ của ta đã ngã xuống ở ngay trên đường phố Sài Gòn. Máu của chiến sĩ ta vẫn đổ khi thắng lợi đã đến rất gần. Đau lòng lắm…(Nói đến đây, ông nghẹn lại, nước mắt trào ra. Chúng tôi lặng im, mắt  cay xè, toàn thân gai lên.)
                                                               *
*        *
 Chiến tranh đã qua 30 năm. Những đồi cây bị bom đạn phá trụi, xám xịt, đã xanh trở lại. Các cao ốc, biệt thự đã dần thay thế những ngôi nhà đổ nát. Một thế hệ sau chiến tranh đã trưởng thành. Khép lại quá khứ, xây dựng tương lai, đoàn kết dân tộc để hàn gắn vết thương chiến tranh là điều mà chúng ta luôn hướng tới. Nhưng như thế không có nghĩa ta lãng quên lịch sử, lãng quên tất cả những gì đã diễn ra, lãng quên những người đã hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vĩ đại để có cuộc sống hôm nay.
 
Lịch sử có giá trị khách quan, bền vững, có sự công bằng của nó. Không ai, không thế lực nào có thể xuyên tạc, bóp méo.
 
Hồ Quang Phương (thực hiện)
QĐND Cuối Tuần
 


27 tháng 7 2013

Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người


Sau chiến tranh nhiều gia đình có nhu cầu tìm kiếm người thân bị chết hoặc mất tích, họ phải đến nhờ vả những người có khả năng đặc biệt giúp đỡ, do đó, các nhà ngoại cảm có cơ hội xuất hiện khắp nơi tại Việt Nam và có nhiều bằng chứng khá thuyết phục về khả năng kỳ lạ của họ. Trước thực tế này, Nhà nước Việt Nam đã cho thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người.

Trung tâm được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1996 tại địa chỉ số 10 đường Đào Tấn, quận Ba Đình, Hà Nội (Viện Vật lý Việt Nam) do Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đạt Tam làm Giám đốc và sau này (2007) là Giáo sư Tiến sĩ Đào Vọng Đức, nguyên Viện trưởng Viện Vật lý (Việt Nam), làm Giám đốc, Trung tâm có ba bộ môn: Năng lượng sinh học, Thông tin dự báo và Cận tâm lý.

Bộ môn cận tâm lý do Tiến sĩ Nguyễn Chu Phác Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Nhà trường (Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam), Phó chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Việt Nam, làm chủ nhiệm và Đại tá Hàn Thụy Vũ. Bộ môn này, sau khi tìm hiểu, khảo sát và sàng lọc, đã tập hợp lại các nhà ngoại cảm để dùng các khả năng đặc biệt của họ trong các đề tài khoa học như tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ - đáng chú ý là đề tài TK08a và TK08b "Xác minh tên liệt sĩ trên mộ vô danh". Ban chủ nhiệm đề tài đã cùng một số nhà ngoại cảm đi đến các nghĩa trang liệt sĩ Kim Tân (Thanh Hoá), Phú Long (Ninh Bình), Mai Dịch và Đông Kim Ngưu (Hà Nội). Thành công lớn của bộ môn là trong 4 nghĩa trang này các nhà ngoại cảm đã tiếp xúc được với 60 vong linh, hỏi được họ tên của các vong linh, quê quán và cả tên họ của thân nhân gia đình hiện đang còn sống.

Cho tới nay, theo những nhà khoa học tự nhiên - ngoại cảm thì những nhà ngoại cảm thuộc trung tâm này, đặc biệt là các nhà ngoại cảm trong bộ môn cận tâm lý, đã giúp tìm được hơn mười ngàn bộ hài cốt liệt sĩ quy tập về nghĩa trang, và cũng đã thành công trong việc tìm lại mộ của một số danh nhân như tướng quân Hoàng Công Chất, nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến, nhà văn Nam Cao, nhà cách mạng Nguyễn Đức Cảnh v.v., cũng như nhiều người khác. Trong nhiều trường hợp trung tâm hoặc người nhà đã đi xác định bằng phương pháp thử ADN (DNA) và cho kết quả chính xác 100%.

Một số bài báo:

Những người làm "khoa học kỳ lạ" - QUỐC VIỆT - ĐỨC BÌNH - Tuổi tẻ Online - 1 tháng 8 năm 2005.

Những người làm "khoa học kỳ lạ"

08/01/2005 13:00 GMT+7
TTCN - “Ngày xưa Galillée đã “điên” khi nói Trái đất tròn, nhưng bây giờ Trái đất tròn thật. Nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ bảo thủ tin vào những gì đang có, đang giải thích rõ ràng được thì có lẽ 100 năm, thậm chí 1.000 năm sau, khoa học vẫn chỉ giậm chân tại chỗ”.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2005/01/08/Pj6ievfL.jpg
Giáo sư Lê Xuân Tú
TTCN - “Ngày xưa Galillée đã “điên” khi nói Trái đất tròn, nhưng bây giờ Trái đất tròn thật. Nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ bảo thủ tin vào những gì đang có, đang giải thích rõ ràng được thì có lẽ 100 năm, thậm chí 1.000 năm sau, khoa học vẫn chỉ giậm chân tại chỗ”. 
GS-TS Đào Vọng Đức - nguyên viện trưởng Viện Vật lý Hà Nội, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người - đã nói như thế về công việc của mình và đồng nghiệp. Phóng sự này phản ánh thực tế nỗ lực của họ, còn kết quả như thế nào thì như lời của chính họ đã nói: “Cứ dấn thân vào đi, rồi sự thật sẽ sáng tỏ”.
Căn phòng 107 nhỏ bé lọt thỏm trong khu nhà đồ sộ của Viện Vật lý ở số 10 Đào Tấn, Đống Đa, Hà Nội. Vật dụng đơn sơ với vài chiếc tủ hồ sơ, máy vi tính, bàn ghế cũ kỹ. Không gian quạnh quẽ, mốc thếch mùi thời gian, ít ai tin nổi đó lại là trụ sở của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Một cơ quan thuộc Liên hiệp Các hội khoa học - kỹ thuật VN bao gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học và những người có khả năng khác thường chuyên đi tìm câu trả lời cho những việc mà... hiện nay chưa trả lời được.
Trồng lúa bằng...nhân điện
Trong hàng loạt đề tài “kỳ lạ” trung tâm này nghiên cứu, gần đây có một đề tài “Nghiên cứu tác động nông nghiệp đối với cây” mà nói rõ hơn là “trồng lúa bằng nhân điện” đã và đang được rất nhiều người chú ý. Chúng tôi tìm gặp GS-TSKH Lê Xuân Tú, trưởng bộ môn năng lượng sinh học của trung tâm, kiêm chủ nhiệm đề tài này, không khó. Hình như ông cũng muốn công việc “kỳ lạ” của mình và cộng sự được rõ ràng hơn trước lắm ý kiến khen, chê ngược xuôi.
“Đó là phương pháp trồng lúa mà chỉ bón phân, chăm sóc bằng ánh mắt”. GS-TSKH Tú ngồi đối diện chúng tôi với đôi mắt nhìn thẳng nghiêm túc sau tròng kính cận. Ông kể chương trình nghiên cứu này đã được thực hiện hơn hai năm tại các cánh đồng ở Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc... Khởi đầu phương pháp này cũng không hề khác truyền thống với giống má, thửa ruộng, đất đai, nước...
Điểm khác biệt chỉ là cách trồng lúa truyền thống phải bón phân, phun thuốc trừ sâu, còn lúa trồng bằng năng lượng sinh học (nhân điện) thì hoàn toàn không cần trợ lực bởi các “ngoại vật” này. Hằng tuần, những người thực hiện (người có khả năng truyền năng lượng sinh học) sẽ đến nhìn lúa trên thửa ruộng đó khoảng 1-2 phút. “Tất cả chỉ có thế thôi, chẳng bí thuật, bí quyết gì cả. Nhưng không phải ai cũng làm được”. Ông Tú nhấn mạnh và cho biết đó là những người phải qua tập luyện đạt đến mức độ thu nhận, phát truyền được năng lượng sinh học của vũ trụ.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2005/01/08/YiSgGU6G.jpg
TS Lê Xuân Cuộc, Trung tâm nghiên cứu cây đặc sản (Bộ NN & PTNT) kiểm tra thành công của giống lúa Bắc thơm được nhóm nghiên cứu trồng (6-2004)
Theo ông, nhận thức cũng như thực hành về năng lượng sinh học ở VN còn ít nhiều tranh luận, nhưng trên thế giới nó đã tồn tại từ lâu. Đây là nguyên khí của vũ trụ có nhiều ảnh hưởng về sinh học lên sinh vật. Ở Ấn Độ, Pháp, Nga, Mỹ, Trung Quốc... đều có các trung tâm nghiên cứu, thực hành và bộ môn giảng dạy hẳn hoi. Nếu con người không có những dạng năng lượng sinh học khác nhau làm sao người ta đo được điện não đồ, tâm đồ...
Trở lại ứng dụng trong nông nghiệp, ông Tú cho biết cụ thể các ruộng lúa “bón bằng mắt” đã được thử nghiệm ở các địa phương Đan Thầm, Mỹ Hưng, Duyên Thái, Song Phượng, tỉnh Hà Tây; Châu Phong, Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc... Song song với các thửa ruộng trồng lúa bằng nhân điện, nhóm nghiên cứu cũng thuê luôn đất ruộng ở sát bên và trồng theo phương pháp truyền thống để so sánh. Kết quả là lúa “bón bằng mắt” vẫn lên xanh tốt như lúa trồng bón phân, xịt thuốc, năng suất đạt 5-6 tấn/ha. Nhưng cái hơn rõ ràng là lúa “năng lượng sinh học” cho ra thóc sạch, gạo sạch, lâu thiu, còn độ thơm dẻo thì như bình thường.
Trong quá trình trồng, người tò mò, chờ đợi kết quả nhiều, người phản bác cũng không ít. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu vẫn kiên trì công việc “lạ đời” của mình. Ngay từ đầu, họ đã mời các nhà khoa học nông nghiệp đến tham quan, kiểm tra tại ruộng. Sau thu hoạch, hạt gạo cũng được gửi đến Viện Công nghệ sau thu hoạch, Viện Cơ điện để phân tích cho kết quả tốt. Đặc biệt, Viện Thổ nhưỡng tham gia nghiên cứu cũng cho thấy đất trồng lúa “năng lượng sinh học” vẫn đảm bảo độ phì nhiêu như đất trồng lúa thường sau hai vụ “trồng chay” và thu hoạch.
Trả lời câu hỏi của chúng tôi là đến nay có thể khẳng định kết quả đề tài như thế nào, GS-TSKH Tú cho biết một hội đồng khoa học sẽ nghiệm thu trong tháng 1-2005. Riêng ông khẳng định đã đi đúng đường và gặt hái kết quả tốt. “Đó là tiền túi, công sức của cả một tập thể. Ban đầu chỉ thử nghiệm trên 2m2, sau đó tăng 200m2, 900m2, rồi lên đến 20.000m2 sau bốn vụ...”.
Tâm sự với chúng tôi, ông Tú rất hi vọng vào kết quả cuối cùng được thừa nhận, khi ấy sẽ góp phần phát triển bền vững nền nông nghiệp quốc gia. “Phương pháp đơn giản. Vấn đề lớn nhất là con người thực hiện, và chúng tôi đang đào tạo những con người này. Nếu thành công, chắc chắn chúng tôi không chỉ áp dụng trên cây lúa”.
Tìm hài cốt liệt sĩ từ xa
Chuyện những người có khả năng ngoại cảm tìm kiếm, xác minh hài cốt thật sự đã rộ lên suốt hai thập niên qua ở VN với nhiều tên tuổi khắp Bắc - Trung - Nam. Kéo theo đó là hàng loạt người tin, hàng loạt cuộc tìm kiếm có kết quả cũng như... hàng loạt ý kiến phản bác. Ngay từ khi ra đời năm 1996, các nhà khoa học của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người đã xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm mà họ phải lý giải trên cơ sở khoa học và các chứng minh thực nghiệm.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2005/01/08/aHAxiSS3.jpg
Giáo sư Đào Đức Vọng
Nó thuộc bộ môn nghiên cứu cận tâm lý do tiến sĩ - thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ nhiệm. Năm nay đã gần 80 tuổi nhưng ông vẫn cùng các cộng sự Dương Mạnh Hùng, Phan Thị Bích Hằng, Lê Khắc Bảy, Thẩm Thúy Hoàn... lặn lội khắp đất nước để thực nghiệm và tìm hiểu sự thật trong một loạt đề tài TK05, TK06, TK07...
Trong nhóm họ, Dương Mạnh Hùng là lương y ở Hà Nội. Năm 20 tuổi, anh chết sau một trận sốt cao và đã được tẩm liệm (gia đình anh còn lưu giữ các bức ảnh này). Ông bác ở quê ra trễ nên lật tờ giấy bản trên mặt cháu để được nhìn lần cuối cùng. Bỗng thấy tờ giấy lay động, ông gọi người nhà nhanh chóng đưa vào Bệnh viện Việt - Đức cấp cứu.
Sau lần thoát chết ấy, anh Hùng tiếp tục học nghề thuốc và đi chữa bệnh. Một lần, trong lúc bắt mạch người bệnh, trong đầu anh tự nhiên như hiện lên cả một đoạn phim về gia đình bệnh nhân cả người còn sống lẫn người đã mất. Trong đầu thấy gì, miệng anh cứ thốt lên như thế, người bệnh ngạc nhiên đến hốt hoảng, còn anh cũng thấy sợ chính mình. Sau đó anh liên tục phát xuất khả năng này mỗi khi bắt mạch thái tố cho bệnh nhân... Riêng Thẩm Thúy Hoàn mới sinh năm 1977 nhưng cũng có khả năng nhìn thấy những điều người khác không thể thấy được như anh Hùng ngay từ năm cô mới... 11 tuổi.
Trong quá trình đi tìm kiếm hài cốt, họ thường phối hợp với nhau, thậm chí mời thêm cả các cộng tác viên như nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Văn Nhã cùng tham gia từ xa để kiểm chứng mức độ chính xác. Đây cũng là điểm khác biệt với những người đi tìm hài cốt riêng lẻ để có thể đối chiếu, so sánh, tổng kết các kết quả khoa học. Có đề tài họ đi tìm người đã mất theo nguyện vọng của người còn sống. Nhưng có đề tài họ “thấy và nghe được” người chết vô danh để tìm kiếm thân nhân còn sống.
Ở nghĩa trang Mường Thanh, nhóm nghiên cứu (gồm tướng Nguyễn Chu Phác, Hàn Thụy Vũ, nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy) sau khi đọc điếu văn và làm lễ tạ ơn các liệt sĩ, đã chia thành hai tốp xuống các ngôi mộ vô danh. Ở một ngôi mộ, anh Hùng bỗng “thấy và nghe” một người nói: “Tôi là liệt sĩ La Đình Hưởng, quê ở Bắc Cạn, năm 1952 hi sinh ở đường 6, trận Pheo, Hòa Bình. Tôi có bạn thân tên Nguyễn Nguyên Huân, học viên khóa 4, Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, hiện vẫn còn sống ở số nhà 66 Triệu Việt Vương...”.
Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người được thành lập theo giấy phép số 572 ngày 9-3-1996 của Bộ Khoa học - công nghệ & môi trường. Các bộ môn nghiên cứu chính của trung tâm là cận tâm lý do tiến sĩ - thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ nhiệm; năng lượng sinh học do GS-TSKH Lê Xuân Tú làm chủ nhiệm; dự báo và thông tin tư liệu do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải làm chủ nhiệm; cảm xạ học do lương y Nguyễn Hồng Quang làm chủ nhiệm...
Sau đó, anh Hùng về Hà Nội xác minh và gặp đúng ông Huân xác nhận có bạn là liệt sĩ La Đình Hưởng. Ngoài ra, anh Hùng còn “thấy và nghe” được một liệt sĩ khác tự xưng tên là Trần Văn Chính, nhắn lời hỏi thăm đồng đội Trần Thọ Vệ hiện còn sống ở thôn Phú Điền, xã Phú Hộ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Sau này khi nghe anh Hùng chuyển lời hỏi thăm, ông Vệ đã khóc và cho biết liệt sĩ Chính cùng quê với ông. Cả hai là dân công hỏa tuyến...
Trao đổi với chúng tôi, GS-TS Đào Vọng Đức cho biết các nhà ngoại cảm thành viên hoặc cộng tác viên của trung tâm có nhiều đặc điểm khác nhau. Người thì “thấy” khi bắt mạch cho người bệnh. Người thì “thấy” khi đến tận nơi, thậm chí nhiều người còn “thấy” ở cách xa khi có người nhà thật tâm nhờ tìm kiếm. Khả năng này lúc mạnh, lúc yếu, thậm chí có lúc “mất sóng” hoàn toàn, nhưng mỗi người trong họ đều đã tìm kiếm thành công ít nhất hàng trăm trường hợp. Trong đó có nhiều liệt sĩ vô danh tập trung ở các nghĩa trang liệt sĩ lớn như Mai Dịch, Đông Kim Ngưu (Hà Nội), Kim Tân (Thanh Hóa), Phú Long (Ninh Bình)...
Tuy nhiên, những trường hợp được đưa vào đề tài nghiên cứu đều phải qua kiểm chứng, xác minh, phản biện rất kỹ, bởi nội dung chính của đề tài là “nghiên cứu độ tin cậy về khả năng tìm mộ của các nhà ngoại cảm”. Ngoài việc đã tìm kiếm được hơn 1.000 hài cốt liệt sĩ và nhân dân, các nhà ngoại cảm của trung tâm còn tham gia giúp đỡ tìm kiếm những người mất tích, chữa cai nghiện ma túy...
Vĩ Thanh
“Bởi chúng tôi đang cố gắng lý giải những vấn đề mà khoa học hiện nay chưa có khả năng trả lời cụ thể, nên ai muốn nói đúng cũng được, nói sai cũng được. Nhưng đến giờ chúng tôi có thể khẳng định là hoàn toàn thanh thản với những gì mình đã làm...”.
GS-TS Đức nhẹ nhàng tâm sự với chúng tôi và cho biết nguyên tắc hàng đầu của trung tâm là phi lợi nhuận không ai có lương từ đây. Ông không khẳng định tất cả những gì mình và đồng nghiệp làm là đúng hoặc tương lai sẽ hoàn toàn đúng, “nhưng những nhà khoa học chúng tôi cảm thấy sẽ có lỗi với thế hệ sau nếu không làm...”.
Qua phóng sự này, chúng tôi chỉ muốn kể về những con người đang “đốt đuốc lao vào đêm tối”. Họ có thể tìm được con đường đi tới ánh sáng hay họ có thể vấp ngã, nhưng ít ra họ đã dám dũng cảm đốt đuốc để dấn bước...
QUỐC VIỆT - ĐỨC BÌNH


Người có hiện tượng lạ: Khoa học, không phải huyễn hoặc! - Ngọc Huyền -  VietNamNet - 11 tháng 6 năm 2006, bản gốc đã bị gỡ.


Bịt mắt nhưng vẫn đọc được...người có hiện tượng lạ như trên là chuyện có thật mà khoa học đang lý giải, chứ không phải huyễn hoặc!
>> Leonardo da Vinci có thể người gốc Ả Rập
>> Muốn sống lâu, hãy giảm thân nhiệt 
Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải thuộc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người giải thích về một số hiện tượng lạ ở người nhưng có thật tại Việt Nam. 
Gần đây, báo chí đưa tin về những con người có khả năng kỳ lạ, như bịt mắt mà vẫn nhìn thấy và đọc được... Là nhà khoa học, ông có tin vào những chuyện như thế không? Liệu đó có phải là trò ảo thuật?
 
Nhà khoa học NGuyễn Phúc Giác Hải. (Ảnh: N.Huyền)
Nguyễn Phúc Giác Hải: Những người có khả năng kỳ lạ thì có nhiều như nhận biết ý nghĩ của người khác, định vị địa điểm khác để tìm những người mất tích, xác định vật bị thất lạc hay tìm mộ từ xa.
Những trường hợp này Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người đã giới thiệu rất nhiều. Thế nhưng, gần đây có hiện tượng một người phụ nữ là chị Hoàng Thị Thiêm, 40 tuổi ở Lương Sơn, Hòa Bình.
Chị Thiêm có khả năng bịt mắt mà vẫn đọc được.
Tuy nhiên, người được thực nghiệm luôn đòi hỏi không được bịt ở giữa trán, hai nhân trung và một chút xuống khoang mũi giữa hai khóe mắt.
Vì vậy, chúng tôi đã bịt khăn trễ xuống một chút ở trán và chị phải đọc ngang trục mắt.
Sau đó, chúng tôi còn tự chế ra một cái kính bằng cách dùng kính đeo mắt thông thường có lót bên trong một tấm xốp dày. Đồng thời, lót hai lần mút đen có độ khoét hở một chút trán (ấn đường) và buộc dây thật chắt ở phía sau.
Trước khi đưa vào thực nghiệm, chúng tôi đã đưa cho những người khác để thử.
Hơn nữa, chúng tôi thử chị bằng cách đưa các tài liệu chỉ riêng tôi có và bằng các góc độ khác nhau thì chị vẫn đọc được. Chiếc kính do chúng tôi tự chế buộc trục mắt của chị Thiêm luôn đi theo tầm ngang, chứ không phải trên hoặc dưới để chị có thể nhìn qua khe được.
 
Chị Hoàng Thị Thiêm đang đọc báo. (Ảnh: Nguyễn Phúc Giác Hải)
Chúng tôi đã thử nghiệm nhiều lần khả năng đọc của chị Thiêm khi được bịt mắt.
Mới đầu, chị Thiêm chỉ "nhìn" được bằng "ấn đường", tức phần trên trán. Sau đó, để tờ giấy bên cạnh thái dương, chị cũng nhìn được. Bịt kín cả mặt, nhưng không che vùng trán và chỉ để hở tý mũi, chị cũng đọc được. Cũng nên lưu ý, mắt của chị Thiêm cũng như mắt của mọi người bình thường khác, nghĩa là không nhìn thấy trong bóng tối. Khi tắt đèn đi thì chị Thiêm không đọc được, dù bịt mắt hay không bịt mắt!
Có thể đó là những vùng trên đầu của chị Thiêm có chức năng tiếp nhận thông tin. Thế nhưng thông tin ấy được truyền hình ảnh trong não như thế nào thì đó là vấn đề đặt ra. Cần phải có nhiều nghiên cứu thêm nữa để đưa ra được cách lý giải phù hợp về mặt khoa học.
Tuy nhiên, tôi khẳng định đây là một hiện tượng phi thường, chứ không phải là một trò ảo thuật!.
- Như trường hợp của chị Thiêm, một số tờ báo cho là hiện tượng "lạ" nhưng cũng có báo như tờ An Ninh thủ đô số 1870 (2705) ngày 3/11 cho biết "thực tế người phụ nữ "ba mắt" này có dấu hiệu của một trò lừa bịp hơn là một khả năng phi thường của con người"... Ý kiến của ông như thế nào?
- Tôi cho rằng đó là ý kiến cá nhân của họ.
Điều thứ nhất, khả năng kỳ lạ của chị Hoàng Thị Thiêm đã được kiểm chứng qua nhiều nghiên cứu của Liên hiệp Tin học Ứng dụng UIA, Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người trong hai năm nay.
Trong một số cuộc kiểm chứng, còn có sự chứng kiến của  nhiều người và kể cả các nhà báo. Thậm chí, một số phóng viên báo chí đã trực tiếp làm thí nghiệm với chị Thiêm, nhưng chị vẫn vượt qua các cuộc kiểm tra và vẫn đọc được khi bị bịt mắt lại.
Vậy thì đó không phải là dấu hiệu lừa bịp!
Trong khi đó, có một bác sỹ đến từ Hưng Yên đã phản đối khả năng của chị Thiêm. Ông cho rằng, chị Thiêm làm được thì ông cũng làm được. Thế nhưng khi chúng tôi yêu cầu được thử nghiệm với ông thì ông đã từ chối. Nếu ông có khả năng thực sự như vậy thì đó là một điều may mắn cho chúng tôi vì đã phát hiện thêm một người nữa có khả năng kỳ lạ! 
 
Đeo kính có lớp xốp dày và hai miếng mút màu đen lót bên trong nhưng vẫn... đọc được.  (Ảnh: Nguyễn Phúc Giác Hải)
Thứ hai, nếu ai đó không tin, họ có thể đề nghị được thực nghiệm lại khả năng của chị Thiêm nhưng không cần lời đề nghị này, chúng tôi cũng vẫn tiếp tục khảo sát hiện tượng kỳ lạ này.
Thứ ba, nhiều phóng viên đã thử bằng những cách khác nhau như dùng tay bịt hai mắt chị vẫn đọc được... 
- Thế nhưng, khoa học lý giải như thế nào về những hiện tượng kỳ lạ đó?
- Đối với khả năng đặc biệt của chị Thiêm có thể đọc được bằng ấn đường, để bên cạnh thái dương. Tức là chị có cảm giác đó là những vùng có thể tiếp nhận thông tin. Nhưng những thông tin đó được truyền hình ảnh trong não như thế nào đó là vấn đề chúng tôi cần phải tiếp tục có thêm nhiều nghiên cứu nữa để đưa ra những giả thuyết thích hợp.  
 

Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải sinh năm 1934 tại Hải Phòng. Năm 1957, ông theo bố mẹ lên Hà Nội học tập và công tác. Năm 1954, sinh viên Khoa sinh Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc Gia Hà Nội) sau đó chuyển sang Khoa sinh Trường Đại học Sư Phạm I Hà Nội. Từ 1956-1958: Giáo viên Trường Sư phạm Trung cấp Trung Ương. Từ 1958-1964: Giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Công nông Trung Ương. 1964-1999: Nghiên cứu viên chính Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Sau 1999: Nghỉ hưu.
Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải đã từng đảm nhiệm chức vụ Tổng thư ký đầu tiên Hội Di truyền học Việt Nam; Ủy viên BCH TW Hội các ngành Sinh học Việt Nam; Ủy viên BCH Hội Thiên văn Vũ trụ - Hội Vật lý Việt Nam; Hội viên phong tặng "Hội Thiên văn Quốc tế Thái Bình Dương" . Ông cũng là tác giả công trình nghiên cứu "Nguồn gốc tên nước Việt Nam" và các quyển sách như  "Những kỳ lạ trong thế giới sinh vật" NXB giáo dục 1964; "Từ nguyên tử đến con người" (NXB Từ điển Bác khoa- 2006) và quyển "Lý thuyết mã số vũ trụ" sắp xuất bản.
Khả năng bịt mắt đọc sách của chị Thiêm không những đặc biệt mà còn gọi là phi thường. Sở dĩ như vậy là do hiện nay,  trên thế giới, chưa phát hiện trường hợp tương tự. 
Chúng ta không nên bỏ qua, không nghiên cứu hiện tượng này! 
Thử giải thích về mặt khoa học. Chúng ta có hai cây đàn dựng đứng cạnh nhau.Khi đánh dây son ở một cây đàn và bịt dây đàn lại thì cây đàn bên cạnh cũng rung lên nốt "son". Người ta gọi đó là hiện tượng "cộng hưởng". 
Tôi đã từng được biết những hiện tượng kỳ lạ như trường hợp một cặp song sinh.
Người anh là Đ.T.Q, hiện đang là Trưởng phòng biên tập của một tờ báo báo ở Hà Nội. Còn người em là Đ.T.M, hiện đang là bác sỹ thú y. Anh có nhọt trên đầu em cũng có nhọt trên đầu. Anh đí đánh nhau người ngoài đường bị đau tay thì tay của em ở nhà cũng bị đau!
Tôi cho rằng đây là hiện tượng cộng hưởng như đã nêu trên.
Chúng ta thử nêu giả thuyết, giữa con người có cùng tần số bước sóng suy nghĩ thì họ có thể đưa ý nghĩ của họ sang cho người kia nhận. 
Đối với người có khả năng ngoại cảm, họ có thể điều khiển tần số trong não của họ như một máy nhận - phát sóng của họ để bắt vào sóng của người kia. 
Đó là cách giải thích và là giả thuyết để nghiên cứu.
- Ở Việt Nam, những người có khả năng kỳ lạ có nhiều không? Các nhà khoa học có khảo sát và nghiên cứu đến nơi, đến chốn tất cả những trường hợp đó không?
- Đã gọi là khả năng kỳ lạ thì không có nhiều. Mỗi một khả năng khác nhau, chúng tôi có cách khảo sát khác nhau.
Trường hợp người đọc được ý nghĩ của người khác, chúng tôi đã thực nghiệm bằng cách viết ý nghĩ của mình ra giấy ở một phòng khác và gấp lại. Chỉ có chúng tôi biết nội dung đã ghi trong tờ giấy nhưng người này vẫn đọc ra được những chữ đó. Rõ ràng, họ đã đọc được những ý nghĩ mà chúng tôi gửi vào trong tờ giấy đó.
Cũng có một số người có khả năng "lạ" như khi họ đến một ngôi nhà, họ có thể cảm thấy trường khí của ngôi nhà này hợp hay không hợp với chủ nhân của ngôi nhà. Người ta gọi những người này là "cảm xạ phong thủy". Rồi có người có khả năng phát ra năng lượng để điều chỉnh rối loạn sinh học của người khác (người dùng năng lượng để chữa bệnh). Cũng có người có khả năng nhận biết suy nghĩ người khác, gọi là người có thần giao cách cảm. Lại cũng có người có khả năng điều khiển ý nghĩ của người khác gọi là tâm lý điều khiển.
Bây giờ tôi quay lại vấn đề nghiên cứu hiện tượng lạ... chúng ta không thể đòi hỏi một lúc mà xuyên suốt các công việc.
Chúng tôi mới chỉ đi những bước đầu tiên. Việc nghiên cứu các hiện tượng "lạ" này thường gặp khó khăn do nhận thức của mọi người, vì thế, phải dũng cảm chịu những búa rìu dư luận... Có trường hợp cấp trên đã "mở", đã cho phép nghiên cứu nhưng do người ta không truyền đạt cho cấp dưới tạo điều kiện nghiên cứu nên một số trường hợp nhà nghiên cứu đành phải bỏ dỡ...
 
Bịt mắt bằng khẩu trang dày nhưng vẫn có thể nhìn thấy để đọc (Ảnh: N.P.G.Hải)
Điển hình, có một trường hợp "đầu thai" ở Thanh Hóa. Một đứa bé đẻ ra nói rằng trước đây là con của một gia đình ở cách nơi nó sinh ra mấy chục cây số. Trung tâm tiềm năng lập tức cử người đến nghiên cứu. Thế nhưng khi đến nơi, địa phương đã không cho tiếp xúc.
Hay như trường hợp ở huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, xảy ra hiện tượng một nữ sinh bị ngất thì hàng chục nữ sinh bị ngất theo gây rối loạn tập thể.
Tôi giải thích đó là sự cộng hưởng. Trong khi đó, ngành y tế giải thích là rối loạn của tuổi dậy thì. Nếu giải thích như thế, rối loạn chỉ có thể xảy ra ở một người chứ tại sao lại xảy ra hiện tượng ngất dây chuyền, hàng loạt như thế? Đây là cách nhìn của nhà khoa học nghiên cứu ngoại cảm, nhưng một vài người trong ngành y tế bó hẹp và giải thích, công chúng không nghe.
- Theo chúng tôi được biết ở nước ngoài khi nghiên cứu những khả năng kỳ lạ của con người họ được trang bị phòng cách ly, hệ thống đo điện não hiện đại... Vậy ở Việt Nam, có đủ điều kiện nghiên cứu những người có khả năng kỳ lạ chưa? 
- Ở nước ngoài, họ có phòng nghiên cứu và đầy đủ thiết bị nghiên cứu. Còn ở Việt Nam có rất nhiều hạn chế do tổ chức nghiên cứu chưa chính quy. Trang thiết bị nghiên cứu của chúng tôi chỉ có máy ghi âm, máy ảnh, máy ghi hình.
Ngoài ra, trong một vài trường hợp có thể sử dụng thêm điện kế, người đặc biệt thì đưa đi đo điện não, một số trường hợp phân tích biến chuyển về tác động của năng lượng sinh học đối với các hoạt động cơ thể thì chúng tôi đưa đi phân tích chỉ số sinh hóa có gì biến đổi không.... Và kết quả xét nghiệm cho thấy, khi thực hiện các hiện tượng "lạ", năng lượng sinh học ở những người này có biến đổi.  
Trung tâm Nghiên cứu Tiềm Năng con người - Được thành lập tháng 11/1996, Giám đốc Trung tâm là GS.TS Đào Vọng Đức. Nhiệm vụ: - Điều tra, phát hiện những con người Việt Nam có khả năng kỳ lạ. Xác minh đưa vào thừ tiễn. - Xây dựng những giả thuyết lý luận để giải thích các hiện tượng kỳ lạ mà Khoa học chưa giải thích được. - Kinh phí hoạt động của Trung tâm được trích từ kinh phí hoạt động khoa học của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Những đề tài đặc biệt được Chính phủ cấp kinh phí riêng thông qua Bộ Khoa học và Công nghệ và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Năm 2006, Trung tâm được Nhà nước cấp kinh phí 400 triệu đồng.  

Hơn nữa, Trung tâm thiếu cơ sở để đưa những người có khả năng kỳ lạ về Trung tâm để thực nghiệm. Ví dụ như người có khả năng chữa bệnh không dùng thuốc muốn theo dõi họ phải có những hội trường lớn để bệnh nhân đến chữa bệnh và theo dõi...
Ngoài ra, có sự hạn hẹp về kinh phí nghiên cứu và sự nhận thức của xã hội về các hiện tượng người có khả năng kỳ lạ.
- Cho đến nay Việt nam có ghi chép và thống kê những người có khả năng kỳ lạ này không? Số lượng khoảng bao nhiêu?
- Có vì đây là nhiệm vụ chính của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người điều tra và phát hiện những con người Việt Nam có khả năng kỳ lạ.
Trong 10 năm hoạt động, Trung tâm đã phát hiện được khoảng 20 người có khả năng kỳ lạ thực sự. Còn lại, chỉ là hoang tưởng vì không đạt tiêu chuẩn.
- Thế nhưng, những nghiên cứu nói trên chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu khoa học thôi sao... Liệu chúng có khả năng ứng dụng được gì trong thực tế cuộc sống không?
- Chúng tôi vừa có nghiên cứu vừa đưa vào ứng dụng...
Ví dụ người có khả năng dùng năng lượng để chữa bệnh thì chúng tôi khai thác chắc chắn để xác nhận khả năng của họ. Tuy nhiên, việc đưa vào thực tiễn chữa bệnh thì nhiều khi lại vướng thủ tục hành nghề. Do vậy, những người này cũng không phát huy được khả năng của họ. Hơn nữa, có khi họ còn bị làm phiền, rắc rối và lây sang cả những người xung quanh.
Riêng vấn đề "tìm mộ bằng ngoại cảm" lúc đầu có nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng trước những bằng chứng hết sức thuyết phục và nhất là do yêu cầu bức xúc của gia đình thân nhân liệt sỹ như vậy vấn đề này cần được thực hiện để phát huy.
Còn việc một số nhà ngoại cảm có khả năng định vị sinh học, tìm người mất tích và giúp các cơ quan điều tra tìm hung thủ thì đã có thật trong thực tế. Tuy nhiên, việc này vẫn còn được các cơ quan chức năng giữ kín!
Trờ lại vấn đề người có hiện tượng "lạ" như bịt mắt mà vẫn đọc được, chẳng hạn,  trên thế giới hiện nay chưa có ai bịt mắt mà đọc sách được. Nhân đây, tôi đề nghị các cơ quan khoa học tiếp tục nghiên cứu và có thể mời một số nhà khoa học trên thế giới cùng tham gia kiểm chứng, khảo nghiệm.
- Xin cảm ơn ông! 


Cập nhật lúc 14h00' ngày 02/10/2006
Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam) đã triển khai nghiên cứu và đưa vào ứng dụng ba đề tài khoa học về năng lượng cảm xạ, gồm: nghiên cứu sự ảnh hưởng của âm nhạc dân tộc trong phương pháp trị liệu bởi rung động thư giãn cảm xạ học; nghiên cứu ứng dụng cảm xạ địa sinh học trong đời sống; ứng dụng vỗ huyệt bằng năng lượng cảm xạ điều trị đau trong các chứng bệnh vùng cổ vai.
Việc nghiên cứu tìm hiểu những tính năng này để khai thác năng lực tiềm ẩn trong cơ thể con người kết hợp với việc luyện tập dưỡng sinh sẽ đem lại kết quả hữu ích tăng cường sức khỏe và phòng chữa bệnh tật.
Với đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của âm nhạc với đời sống con người và loài vật, các nhà khoa học đã dẫn chứng nhiều ví dụ khẳng định tác động tích cực của âm nhạc giúp trẻ em có trí nhớ tốt hơn, phản xạ tốt hơn những em không được học nhạc. Theo lý giải, âm nhạc có thể đã kích thích vào bán cầu não trái - nơi điều khiển khả năng tiếp thu của trẻ tiết ra nhiều hormone có ích hơn.

Theo TTXVN, Tuổi trẻ


Kính báo về chương trình tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm - An ninh Thế giới ngày 2 tháng 4 năm 2007.
Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống Kính báo về chương trình tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm
2:02, 02/04/2007



Để tiện cho việc tìm mộ của hàng hài cốt liệt sĩ, thân nhân của các liệt sĩ cần phải biết một số quy định. Chúng tôi xin giới thiệu những quy định chung trong việc tìm hài cốt liệt sĩ và địa chỉ những nơi có thể liên hệ tìm hài cốt.
Ba cơ quan (Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống) đã nhận được hàng ngàn bức thư của các gia đình liệt sĩ và người có công, đề nghị cơ quan hỗ trợ việc tìm hài cốt thân nhân mất tích bằng phương pháp ngoại cảm.
Chúng tôi rất xúc động và cảm thông trước những tình cảm thiêng liêng mà các gia đình dành cho người thân đã mất, và xin cảm ơn sự tín nhiệm đối với các nhà ngoại cảm và đối  với cơ quan chúng tôi.
Tuy nhiên, vì số thư quá nhiều, do vậy chưa thể trả lời riêng cho từng gia đình được, chúng tôi xin phép được trả lời chung và hướng dẫn phương thức đăng ký tìm mộ bằng khả năng đặc biệt cho các đối tượng có nhu cầu như sau:
Để việc tìm kiếm mộ mất tích đạt hiệu quả cao, các gia đình cần thực hiện chu đáo các quy trình, gồm:
1- Công tác chuẩn bị: Việc tìm mộ liệt sĩ và người  thân mất tích trước hết phải xuất phát từ tình cảm thương nhớ, quý kính, hoặc hiếu thảo đối với người đã khuất, phải xác định đây là nghĩa cử thiêng liêng, không nên đi tìm chỉ vì phong trào, hoặc vì nghĩa vụ khiên cưỡng, hoặc vì cầu lợi cá nhân...
2 - Người chủ trì công việc tìm kiếm: Phải là người có vai trò và quan hệ mật thiết nhất đối với người đã khuất, nếu vì lý do chính đáng mà không thể tham gia trực tiếp được thì phải thắp hương ủy quyền cho người có vai trò tiếp theo.
3 - Chuẩn bị về kinh phí:  Trong chương trình khảo nghiệm tìm mộ mất tích bằng khả năng đặc biệt, cả ba cơ quan chúng tôi chỉ đạo không thu lệ phí dưới bất kỳ hình thức nào. Nơi nào thu lệ phí thì nơi đó không thuộc sự bảo trợ của chương trình nghiên cứu khảo nghiệm này.
- Các gia đình có lòng hảo tâm, muốn bồi dưỡng trực tiếp cho các nhà ngoại cảm thì phải xuất phát từ sự tự nguyện, thiện tâm, không gượng ép và không được nghe theo bất kỳ hình thức gợi ý nào.
- Trong quá trình đi tìm phải rất tiết kiệm, giản dị, tránh ăn uống lãng phí và tránh  ở khách sạn sang trọng. Thực tế đã chứng minh: những gia đình nào khi đi tìm liệt  sĩ mà tiêu pha, ăn ở tốn kém hoặc kêu ca, ngại khó ngại khổ... thì xác suất thành công rất ít, mọi người thường gọi hiện tượng này là “liệt sĩ cảnh cáo đấy”.
4 - Quá trình đi tìm: Cần đến trực tiếp gặp các nhà ngoại cảm theo sự giới thiệu của cơ quan. (Riêng đối với nhóm  nhà ngoại cảm của Nguyễn Văn Nhã thì chỉ cần liên lạc bằng điện thoại).
- Đối với các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Đỗ Bá Hiệp, Vũ Minh Nghĩa, Dương Thị Năng, Hoàng Thị Thiêm, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa... thì không cần phải có ảnh, thậm chí cũng không cần khai tên hoặc tiểu sử, mà chỉ cần nói họ của người muốn tìm là đủ.  Riêng đối với nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng thì cần mang theo tấm ảnh của người cần tìm.
- Vì hiện nay nhu cầu tìm mộ liệt sĩ rất đông, mọi người cần phải xếp hàng theo thứ tự, phải quý kính và coi tất cả các liệt sĩ của gia đình khác cũng như là liệt sĩ của gia đình mình, đều được coi là linh khí quốc gia, đều phải được trân trọng như nhau. Những người chen ngang không theo sắp xếp của tổ chức thì đi tìm tại hiện trường rất vất vả mà hiệu quả thành công lại rất ít. Mọi người gọi hiện tượng này là “các liệt sĩ không hài lòng với việc chen ngang nên làm nhiễu thông tin”. Riêng các liệt sĩ tình báo thường được làm nhanh và thông tin rõ nét hơn. Mọi người cho rằng có lẽ Hội đồng tâm linh “ưu tiên” cho các liệt sĩ tình báo vì gia đình đã chịu nhiều sự thiệt thòi!!!
- Các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Dương Thị Năng, Hoàng Thị Thiêm, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa... không cần đến hiện trường mà chỉ ngồi ở nhà vẫn có thể vẽ được sơ đồ nơi có mộ.
Riêng Vũ Thị Minh Nghĩa  thì  thường trực  tiếp  tìm  kiếm  các liệt sĩ, sau đó các liệt sĩ mới “thông báo” ngược lại cho gia đình  (gọi là hiện tượng liệt sĩ đi tìm thân nhân).
- Khi nhận được băng ghi âm và bản vẽ hướng dẫn của nhà ngoại cảm thì các gia đình phải khẩn trương đi tìm, nếu để lâu sẽ kém hiệu quả. Đến hiện trường thì phải thường xuyên liên lạc bằng điện thoại để điều chỉnh tọa độ. Đa số các trường hợp tìm mộ đều phải điều chỉnh nhiều lần thì mới thành công.
- Chương trình khảo nghiệm mời vong linh của các liệt sĩ tạm gá (nhập) vào người thân của mình để đi tìm mộ (còn gọi là áp vong) đang được khảo nghiệm và bước đầu đã có một số ca thành công. Khi xác suất độ tin cậy đủ lớn thì đây sẽ là giải pháp rất thuận lợi giúp cho việc tìm mộ thất lạc được nhanh chóng. Kết quả của phương pháp này sẽ được kính báo sau.
5 - Các gia đình liệt sĩ có thể nhận được các kênh thông tin khác từ các đồng đội, hội cựu chiến binh, từ các tầng lớp nhân dân trong toàn xã hội bằng cách đưa thông tin và truy cập trang website nhắn tìm đồng đội (www.nhantimdongdoi.org), www.uia.edu.vn.
6- Một số  nhà ngoại cảm đã được tặng thưởng gương Huyền Thông (là giải thưởng dành cho các nhà ngoại cảm đã tìm được trên 1.000 thông tin về mộ liệt sĩ thất lạc) như: Nguyễn Văn Liên, Phan Bích Hằng, Nguyễn Thị Nguyện, Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Văn Nhã, Vũ Thị Minh Nghĩa...
7- Địa chỉ, điện thoại của một số nhà ngoại cảm:
- Nguyễn Thị Nguyện (tạm cắt, vì quá đông): Nhà 12, ngách 45, ngõ 6, đường Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội.
- Phan Bích Hằng (tạm cắt vì quá đông): Phòng kế toán, Trường ĐHQTKD, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà, Hà Nội.
- Đỗ Bá Hiệp (tạm cắt vì quá đông): Số 1, Đông Tác,  Kim Liên, Hà Nội.
- Hoàng Thị Thiêm (tạm cắt vì quá đông ): Số 1, Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội.
- Vũ Minh Nghĩa:   0903616818.         
- Nguyễn Văn Nhã, 0903905957, 73 An Bình, TP HCM.
- Phạm Huy Lập: 0903746547 (nhóm anh Nhã).
- Trần Văn Tìa: 0913786781 (nhóm anh Nhã).
- Nguyễn Văn Liên: 0320864011 - 1900561518, tạm về quê Tứ  Kỳ, Hải Dương.
Áp vong liệt sĩ vào thân nhân để đi tìm mộ: Số 1, Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội.
Tra thông tin về liệt sĩ trên trang Website www.uia.edu.vn
www. nhantimdongdoi.org



Sử dụng tiềm năng con người - viễn tưởng hay hiện thực?

TP - Nhân Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người (NC&ƯDTNCN) được thành lập, PV Tiền Phong có cuộc trao đổi với Viện trưởng, GS.TSKH.VS Phạm Minh Hạc, về nhiều vấn đề tưởng như bí ẩn nhưng lại hết sức nghiêm túc đối với các nhà khoa học.
Tiềm năng con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học, song đây dường như là vấn đề rất mới mẻ và nhạy cảm nữa. Xin GS cho biết ý tưởng và mục đích thành lập Viện NC&ƯDTNCN?
Tiềm năng con người là vấn đề rất lớn của từng con người, của thực tiễn xã hội, do đó, nó cũng là vấn đề của nhiều môn khoa học như Triết học, Tâm lý học, Vật lý học, Y học, Sinh vật học... Cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, vấn đề phát triển, phát huy tiềm năng con người được nhiều quốc gia đặc biệt chú trọng.
Ở nước ta, Nghị quyết Đại hội Đảng XI cũng xác định trong thời kỳ 2011-2020, phải tập trung vào nhân lực có trình độ cao, vấn đề này cũng liên quan tiềm năng con người.
Tiềm năng con người còn là vấn đề của văn hoá. Khoảng vài thập kỷ nay, nổi lên vấn đề văn hoá phương Đông.
Văn hoá Việt Nam thuộc văn hoá phương Đông, với rất nhiều vấn đề liên quan đến tiềm năng con người như văn hoá tâm linh, phong thuỷ, dịch học... Viện NC&ƯDTNCN ra đời trong bối cảnh trên, mục đích không ngoài đáp ứng được những bài toán đặt ra từ thực tiễn cuộc sống.
Xin GS điểm qua cơ cấu tổ chức của Viện?
Viện NC&ƯDTNCN là một tổ chức phi chính phủ trực thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Ngoài các phòng ban hành chính, chúng tôi bước đầu lập ra một số bộ môn để nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người như: Phương pháp luận; Cận tâm lý học - văn hoá tâm linh; Khoa học dự báo; Văn hoá phương Đông; năng lượng sinh học; Nghiên cứu các hiện tượng siêu hình.
Không thể phủ nhận đóng góp của những người có khả năng đặc biệt đối với đời sống xã hội, chẳng hạn đóng góp của những nhà ngoại cảm đối với công tác tìm kiếm hài cốt liệt sỹ. Tuy nhiên, đây luôn là đề tài nhạy cảm. Đã xuất hiện cả những “trung tâm” tìm kiếm hài cốt liệt sỹ mang màu sắc mê tín dị đoan, thậm chí lừa đảo, bịp bợm, Tiền Phong từng có loạt bài phản ánh. Viện NC&ƯDTNCN có phương án gì để phát huy được năng lực của những nhà ngoại cảm đích thực, và ngăn chặn được những người “giả danh ngoại cảm”, thưa GS?
Trong các lĩnh vực nghiên cứu của chúng tôi, có văn hoá tâm linh, trong đó có vấn đề “giao tiếp giữa người dương và người âm”.
Các nhà ngoại cảm đích thực sẽ tiếp tục đóng góp sức lực của mình để đáp ứng các nhu cầu văn hoá tâm linh của người dân, trong đó có các gia đình liệt sỹ.
Viện chúng tôi sẽ kiên trì định hướng khoa học, loại trừ mọi biểu hiện mê tín dị đoan, giả dối bịp bợm.
Trong tháng qua, chúng tôi đã có thảo luận về chủ đề ngoại cảm và tìm mộ; quan điểm của chúng tôi, để có cơ sở khoa học đánh giá vấn đề này, nhất thiết phải giám định ADN, và chúng tôi đang tìm kinh phí để tiến hành việc này.
Chữa bệnh bằng năng lượng sinh học cũng được rất nhiều người quan tâm, và đây cũng là đề tài nhạy cảm, thật giả khó lường. Viện NC&ƯDTNCN có hướng đi nào cho vấn đề này, thưa GS?
Như đã nói, chúng tôi có bộ môn Năng lượng sinh học, phạm vi nghiên cứu gồm nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề chữa bệnh. Vấn đề này không mới, từ lâu nó đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, và đã có nhiều ứng dụng.
Các nhà khoa học đã chứng minh, trong từng tế bào con người có năng lượng, năng lượng đó tạo ra năng lượng tâm lý, năng lượng tinh thần, tạo ra sức mạnh tinh thần của con người.
Trong Hội đồng khoa học của Viện chúng tôi, có một nữ GS-TS chuyên nghiên cứu về năng lượng sinh học. Cá nhân tôi cũng có nghiên cứu về vấn đề này (luận văn Tiến sỹ khoa học của tôi từ năm 1977 có tên “Hành vi và hoạt động”; đầu năm 2013 này, tôi cũng mới phát hành cuốn “Học thuyết và Tâm lý học Xich-mua Frớt”). Tuy nhiên phải nhận thấy viện chúng tôi mới thành lập, cán bộ chưa đông, tài chính eo hẹp.
Chúng tôi sẽ cố gắng tối đa để phục vụ nhu cầu của người dân về việc chữa bệnh bằng năng lượng sinh học, hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ nhoi nào đó để cải thiện sức khoẻ của người dân, trên cơ sở khoa học, khách quan, trung thực.
Thưa GS, còn có rất nhiều lĩnh vực có thể ứng dụng tiềm năng con người, không thể không nói đến công tác khám phá những vụ án mạng. Viện NC&ƯDTNCN sẽ nghiên cứu cả vấn đề này?
Trong cuốn sách “Sự thật tưởng như huyền thoại” hơn 600 trang do NXB Văn học phát hành đầu năm nay, có đề cập đến những vụ án mạng được khám phá với sự góp sức của các nhà ngoại cảm.
Trong Hội đồng khoa học Viện chúng tôi có Thiếu tướng Nguyễn Tiến Quý, hiện là Viện trưởng Viện Khoa học hình sự Bộ Công an. Chắc chắn chúng tôi sẽ có nghiên cứu vấn đề tiềm năng con người ứng dụng vào khoa học hình sự, và vấn đề này sẽ được nghiên cứu bởi bộ môn Cận tâm lý học.
Xin cám ơn GS. 
Cập nhật lúc 08h38' ngày 29/01/2013
Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam đã tổ chức lễ ra mắt Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người ngày 27/1.

Viện hoạt động trên hai lĩnh vực chủ yếu là nghiên cứu và ứng dụng những khả năng đặc biệt của con người vào phục vụ đời sống xã hội. Giáo sư, tiến sĩ khoa học Phạm Minh Hạc - người được bổ nhiệm là Viện trưởng cho biết, viện sẽ tiến hành nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn những vấn đề liên quan đến khả năng đặc biệt của con người và phát triển tiềm năng con người bằng biện chứn khoa học hiện đại.
Trong công tác ứng dụng, viện sẽ triển khai các kết quả nghiên cứu, nhằm đưa những khả năng đặc biệt của con người vào phục vụ đời sống xã hộ theo bản sắc văn hóa dân tộc, tiến hành tư vấn, bồi dưỡng, phổ biến tri thức, hợp tác với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, thực hiện nhiệm vụ của viện là phát huy tiềm năng con người.
Theo đánh giá của Viện trưởng Phạm Minh Hạc, phần lớn các nghiên cứu về khả năng đặc biệt của con người ở nước ta thời gian qua mới dừng lại ở mức quan sát, ghi nhận, thống kê những khả năng và chưa tiếp cận được bản chất và cơ sở khoa học của những khả năng đặc biệt, những điều còn bí ẩn với con người.
"Nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề này là mục tiêu lớn của viện", giáo sư Hạc nhấn mạnh. Tính khoa học và thực tiễn, phục vụ thiết thực đời sống xã hội sẽ được viện tập trung trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng.
Theo Vietnamnet




Ngoài ra, bạn đọc có thể tải bản PDF của M Schlecker bằng tiếng Anh tại đây:

Psychic Experience, Truth, and Visuality in Post-war Vietnam