http://vn.360plus.yahoo.com/ngoducthohannom/article?mid=342
Thấy họ thi nhau chửi ông nghị Hoàng Hữu Phước về vụ cụ Phan Bội Châu và cụ Lương Khải Siêu, lại còn dùng bài của một ông giáo nào đó trên Rờ Fát Anh để chửi nữa chứ, Khoằm mới táng hai phát cái link bên Đông Tác giao lưu vào, không biết họ có để lại không?
Một phát ở link trên và 1 phát ở đây THƯ NGỎ GỬI BẠN ĐỌC NGUYỄN XUÂN DIỆN BLOG ĐÃ ĐỌC BÀI PHẢN HỒI CỦA TÔI
Thế là hai ông cùng Hán Nôm cả.
Còn đây là link bên Đông Tác giao lưu Lương Khải Siêu và Phan Bội Châu
Hiển thị các bài đăng có nhãn rânchủ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn rânchủ. Hiển thị tất cả bài đăng
30 tháng 12 2011
20 tháng 12 2011
KHI KẺ NÔ LỆ DẠY TA YÊU NƯỚC « xichloviet
KHI KẺ NÔ LỆ DẠY TA YÊU NƯỚC
Xichloviet
Đọc bài viết “ Cách Đối Xữ Giữa Người Thắng Kẻ Thua Trong Cuộc Chiến” của Tác giả Phan Hoài Nam đăng lại trên kbchn.net tôi chợt nhớ cũng tác giả này từng có bài viết có ý rằng phải để cho Tàu nó đánh VN thì . . . . dân ta mới phục hồi lại lòng yêu nước. Lần này ông ta lại khuyên người Việt nên học yêu nước theo kiểu … Mỹ. Bó tay, chỉ có những người sùng Mỹ và rất hận CS mới có thể viết ra được như thế.
Viết lách lưu manh của dân chống cộng kiểu như PHN bao năm qua dù có che đậy thế nào chăng nữa cũng không thể dấu được cái đuôi cho thấy họ còn hận CS ghê lắm nên viết lách thế nào cũng phải đã giò lái anh CS một cái mới hả dạ. Vòng vo tam quốc tứ xứ thập phuơng xuyên tạc rồi cũng không nhịn được phải phang anh CS một cái mới ăn được cơm.
Mở đầu bài viết anh PHN này đã trình làng ngay cái đuôi mình . PHN viết :
“Ai cũng biết chỉ có lòng yêu nước mới có thể giúp cho dân tộc VN thoát ra khỏi bế tắc hiện nay và để được sống đúng với nhân phẩm con người. “
Anh ta cho rằng dân tộc VN dù đang độc lập thống nhất dù đang phát triển dù thoát khỏi đói nghèo được Liên hiệp Quốc đề cao, dù nhận được bao nhiêu lời ngợi khen của thế giới thì vẫn đang “ bế tắc “ và chẳng có nhân phẩm tí nào. ( Tất cả cũng chỉ vì CS đúng không ông PHN?)
Đối với PHN và những người đang hăng say chống cộng thì suy diễn này rất dễ hiểu. “Bế tắc” có nghĩa là dân Việt không dám làm cái cách mạng hoa lài hoa hồng như PHN và các anh cờ vàng mong đợi. Đúng ra là PHN và các anh cờ vàng quá bế tắc trong việc phát động người dân căm thù CS như mình, người dân không nổi dậy như các anh kỳ vọng thế là PHN úp cái “bế tắc “ ấy ngay lên đầu người dân và các anh đổ tại người dân không yêu nước cho nên CS mới mạnh, thế thôi, chẳng có gì lạ cả.
PHN viết:
“ Cũng vì lòng yêu nước mà từ đầu thế kỷ 18, đã có những phong trào trí thức người Nhật tìm cách thoát khỏi quỹ đạo văn hóa của người Trung Hoa” ….. “Sự khác biệt giữa đất nước chúng ta và nước Nhật cũng chính từ sự khác biệt về lòng yêu nước. Cùng là một nước ở Á Châu, diện tích, dân số, tài nguyên gần như nhau nhưng một nước thì giàu có và được cả thế giới kính nể, còn nước kia thì ngược lại…”
Viết như thế PHN hoặc là cố tình bôi nhọ dân tộc hoặc là không hiểu tí gì về văn hóa và lịch sử Việt Nam.
Chẳng lẽ PHN không biết dù có những tương đồng nhiều mặt nhưng sự khác biệt lớn nhất của nước ta với nước Nhật là khác biệt về lịch sử?
Không phải từ thế kỷ 18 ,mà từ khi lập quốc, và nhất là trong thời gian dài Bắc thuộc, dân tộc ta đã nỗ lực liên tục duy trì bản sắc riêng của mình để tránh nguy cơ bị Tàu nó đồng hóa. Ta có quyền tự hào rằng dân ta có tinh thần độc lập cao không thua kém bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Từ xa xưa phong tục nhuộm răng ăn trầu phổ biến trong xã hội phong kiến cũng vì mục đích tạo bản sắc độc lập riêng.
“Búi tó củ hành làm anh thiên hạ” đó là lời truyền miệng nhau trong dân gian cũng chỉ để tạo bản sắc khác hẳn với người Tàu. Về ngôn ngữ, dân tộc ta có ngôn ngữ riêng, lấy chữ nôm làm chữ viết riêng. Khi các nhà truyền đạo Ca tô theo chân đế quốc vào nước ta phiên âm ngôn ngữ việt ra ngôn ngữ la tinh dễ học để phục vụ cho mục đích truyền giáo thì dân ta không bỏ qua cơ hội dùng chữ này để mở mang dân trí và nó trở thành quốc ngữ hoàn toàn khác với người Tàu. Đó là tố chất thông minh sáng tạo và tinh thần học hỏi của người Việt, nó phát sinh từ lòng yêu nước, yêu dân tộc mà ra. Cả dân tộc Việt cùng nhau bảo tồn văn hóa chứ không phải chỉ có trí thức Nhật tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng Tàu như PHN ba hoa.
Tục nhuộm răng là một nét văn hóa độc đáo của dân ta để phân biệt với các tộc người khác và giữ gìn bản sắc dân tộc. Hầu như tất cả người dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng.Trong bài hịch củavua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì đây là một tập tục quan trọng trong văn hóa người Việt.
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn…
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Lời dụ này đã thể hiện rõ mục đích cuộc tiến quân (bảo vệ các truyền thống văn hóa dân tộc như các tục để tóc dài, nhuộm răng đen khác Tàu) và quyết tâm đánh giặc đến cùng (đánh cho kẻ xâm lược không kịp trở tay, thân không còn mảnh giáp) và khẳng định chủ quyền quốc gia của Việt Nam (đánh cho lịch sử muôn đời biết rằng nước Nam anh hùng này là nơi đất có chủ).
Sang thế kỷ 20, dân tộc ta đã cho thế giới thấy sức mạnh kỳ diệu từ lòng yêu nước trong cuộc chiến tranh giành độc lập, quá thừa để bàn cãi ở đây.
Các anh cờ vàng và anh PHN này thường hay dùng nước Nhật để so sánh với VN và đi đến kết luận là cùng một màu da, tương đồng về địa lý, và dân số nhưng người Nhật phát triển vượt trội rồi đổ cái chậm tiến lạc hậu đói nghèo đó lên đầu nhà cầm quyền thậm chí như PHN đổ cả lên đầu dân tộc ta.
So sánh VN với Nhật PHN không thể không biết hoặc biết mà cố tình lờ đi rằng ngay từ năm 1894 Nhật đã đánh thắng Trung Hoa buộc phải nhường Đài Loan và công nhận riều Tiên độc lập qua Hiệp ước Shimonosheki .
Từ năm 1905 Nhật đã là cường quốc, Nhật đánh bại nước Nga có hải quân hạng nhì thế giới bấy giờ, Nước Nga của Sa Hoàng thảm bại buộc phải trao một số quyền đáng kể ở Triều Tiên và Trung Quốc cho Nhật Bản. Theo đó, Tokyo được trao bán đảo Kwantung cùng với cảng Arthur và phía nam đảo Sakhalin cho tới vĩ tuyến 50.
Và sau thất bại của Nga, các cường quốc phương tây buộc phải thừa nhận đất nước mặt trời mọc là một sức mạnh vào hàng thế giới.
Đó là về hải quân, về không quân thì năm 1945 khi dân VN còn chân đất kéo xe tay, người kéo cày thay trâu và hơn 90% người dân mù chữ thì Nhật Bản đã có máy bay đánh Trân Châu Cảng khiến Mỹ phải kinh hồn bạt vía, thất điên bát đảo.
Trước khi thua trận bằng 2 quả bom nguyên tử của Mỹ, Nhật từng đã xâm lược Trung Hoa trong 8 năm trời từ năm 1937 đến 1945.
Những cây viết cờ vàng thường so sánh với Nhật hay Nam Hàn để chê bai dân tộc mình, lèo lái suy nghĩ của người đọc về huớng tương đồng về văn hóa, địa lý, màu da nhưng người Việt lại chậm tiến so với người họ, mà cố tình lập lờ, cố tình quên đi lý do lịch sử hoàn toàn khác nhau. Hoặc là họ lưu manh trí trá cố đánh lừa người đọc hoặc họ không đứng ở góc nhìn của dân tộc để nhìn lịch sử mà họ đứng ở góc nhìn của kẻ quen làm nô lệ.
Hết so sánh với người Nhật, PHN lại so sánh cuộc chiến VN với cuộc nội chiến Mỹ để đá giò lái CS, rồi khuyên dân ta nên . . . . .học Mỹ về lòng yêu nước.
PHN viết :” Hy vọng rằng qua bài học về lòng yêu nước của người Mỹ và Nhật chúng ta có thể rút được vài điểm nào đó để tìm cách xây dựng lại lòng yêu nước của người Việt Nam.”
Xưa nay rất nhiều nước trên thế giới cho rằng cần học VN về lòng yêu nước chứ chưa từng thấy có ai khuyên VN nên học lòng yêu nước từ Mỹ cả. Duy nhất chỉ có PHN có đầu óc như thế.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, và nhất là sau 1975, cả thế giới đã phải nhìn nhận tinh thần bất khuất và sức mạnh từ lòng yêu nước mãnh liệt của dân tộc VN. VN được xem là tấm gương cho những nước thuộc địa, những nước bị cường quốc áp bức. Ngay những chiến binh Mỹ cũng vô cùng ngạc nhiên về sức mạnh từ lòng yêu nước của dân Việt và xem đó là tấm gương cho các nước yếu, thế mà PHN khuyên dân ta phải học theo Mỹ mới có được lòng yêu nước. Chỉ có đầu óc quen làm nô lệ mới nghĩ ra và can đảm viết lên điều này.
Ngày nay bất cứ ai muốn tìm hiểu cũng có thể tìm được thông tin và ai cũng nhận ra hai cuộc chiến Nam Bắc Mỹ và cuộc chiến tranh VN hoàn toàn khác xa nhau cả về tính chất lẫn quy mô. Việc so sánh là là có ý đồ đen tối và vô cùng khập khiễng.
Cuộc chiến tranh VN là cuộc chiến tranh đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập từ 2 đế quốc. Dù cuộc chiến có sự hiện diện của quân đội VNCH đi nữa nó cũng không thể gọi được là cuộc nội chiến vì VNCH được đẻ ra và là công cụ của Pháp rồi đến Mỹ. Đánh Pháp, đánh Mỹ là buộc phải đánh VNCH, dù đó là anh em, dù đó là đồng bào. Đó là điều dĩ nhiên, đó là sự bắt buộc, đó là sự nghiệt ngã của chiến tranh. Đó mới là nguyên nhân của những nỗi niềm cờ vàng kéo dài gần 4 thập kỷ qua.
Một quân đội được đẻ ra và nuôi dưỡng bởi đế quốc, được chỉ huy bằng những tướng lãnh được đào tạo bởi thực dân và đế quốc như quân đội VNCH, bị sai khiến và lệ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang không thể so sánh với quân ly khai miền Nam trong cuộc nội chiến Mỹ được.
Những người CS từng xác định trong chiến lược của mình là chỉ cần đuổi bố chạy thì con sẽ chết, họ đã đúng và thưc tế đã chứng minh y như thế. Hiệp định Paris CSVN cũng ở chiếu trên ký với bố Mỹ chứ không phải với con VNCH.
Từ bản chất cuộc chiến hoàn toàn khác nhau cho nên những so sánh của PHN về cuộc chiến VN với cuộc nội chiến Mỹ hoàn toàn không có giá trị.
PHN đề cao “tinh thần hào hiệp mã thượng” của người Mỹ, nhưng lại nhìn dân tộc VN với cái nhìn đã bị Mỹ hóa và đầy hận thù cho nên thể không thấy được dân tộc ta ứng xử nhân bản như thế nào với cựu thù.
Nói về tính nhân bản và tinh thần mã thượng của dân tộc ta thì chính người Mỹ phải công nhận trước tiên. Những cựu binh Mỹ từng gây tội ác với nhân dân ta vô cùng ngạc nhiên bởi thái độ của người dân đối với họ khi họ quay lại chiến trường xưa, chính thái độ và cách hành xử nhân bản đó đã cảm hóa được rất nhiều người mà ta có thể tìm thấy vô số dữ kiện loại này trên interrnet.
Nếu so sánh điều này với người Nhật thì PHN hãy đọc bản tin sâu đây :
Tạp chí National Geographic Vol.182, No. 5 ra ngày 18 – 11- 1992 có bài “Portugal’s sea road to the East” p. 56- 93, cho biết :
Vào năm 1638 tại Nagasaki Nhật bản có khỏang 100 ngàn giáo dân Công giáo làm nội ứng cho quân Bồ Đào Nha xâm chiếm Nhật. Triều đình Nhật cử tướng Lemitsu đem đại quân đến đánh bật bọn xâm lược ra khỏi đất nước. Tất cả cha cố, thừa sai bị tử hình, và 37 ngàn tên giáo dân Công giáo nối giáo cho giặc bị tiêu diệt . Một số tên trốn thoát nhảy theo tàu Bồ Đào Nha trốn sang Hội An Việt Nam.”
Ở VN chiêu trò của thực dân cũng chẳng khác gì . Nửa cuối thế kỷ 19 có đến 600 ngàn người theo tôn giáo này phá bỏ tập tục cha ông, lìa bỏ nề nếp văn hóa dân tộc . Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay với họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858, đa số giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
“Năm 1873, 5000 giáo dân Ca tô dưới sự lãnh đạo của linh mục Trận Lục giúp Pháp hạ thành Ninh Bình và đánh chiếm chiến lũy Ba Đình cỉa Đinh Công Tráng.
Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .
Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này !
Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử. “(1)
Nhìn những sự kiện lịch sử nêu trên, nếu so sánh hành động tàn sát giáo dân của người Nhật với việc cấm đạo của vua quan các triều đại phong kiến VN thì VN còn quá nhẹ, quá hiền và quá nhân đạo.
Học gì từ “tinh thần hào hiệp mã thượng” của người Mỹ và người Nhật đây hả ông PHN?
PHN viết :
“Người Việt Nam ngày nay không còn mấy ai hãnh diện về đất nước “
Không hiểu PHN căn cứ vào đâu để phát biểu hàm hồ như thế, Cứ nhìn những giọt nước mắt sung sướng nghẹn ngào mỗi khi cờ VN được kéo lên khi vận động viên đem huy chương về cho tổ quốc. Cứ nhìn màu đỏ rực lửa trên sân vận động mỗi khi có đội VN thi đấu. Cứ nhìn rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường khi VN thắng trận đủ để thấy PHN phát biểu lếu láo và vô cùng cảm tính. Cũng chỉ vì căm thù mà PHN hồ đồ dán cái bất mãn của mình cho cả dân tộc.
PHN viết :
“Vào ngày 7/5/1975, có nghĩa là chỉ có 1 tuần sau khi quân đội Miền Bắc chiếm được Miền Nam, trong lễ ăn mừng chiến thắng tướng Trần Văn Trà đã nói trước mặt mọi người: “Trong cuộc chiến này, cả Miền Bắc và Miền Nam đều chiến thắng, chỉ có người Mỹ bại trận”.
Và dĩ nhiên, sau khi bóp méo câu nói của Tướng Trà rồi so sánh với phát biểu của tướng Ulysses Grant PHN phán thòng thêm một câu đá giò lái CS như sau :
“…câu nói của tướng Trần Văn Trà là câu nói mị dân, nằm trong mục đích tuyên truyền của chế độ để gạt tất cả những quân dân cán chính của VNCH, tin vào chính sách “khoan hồng của Đảng”
Thực tế Tướng Trà phát biểu không phải là trong lễ mừng chiến thắng như PHN viết, mà phát biểu khi ông trực tiếp gặp tổng thống Dương Văn Minh, phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu vừa thông báo quyết định, vừa truyền đạt chính sách của cách mạng như sau :
“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định trả tự do cho các ông về với gia đình. Giờ đây miền Nam Việt Nam đã được hoàn toàn giải phóng, nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai đã toàn thắng…
Bây giờ đất nước Việt Nam đã độc lập và thống nhất, không phải là lúc nói chuyện người thắng kẻ thua. Đối với chúng ta, không có kẻ thua, người thắng mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta thắng Mỹ…
Mỗi người Việt Nam lúc này hãy thực hiện tốt chính sách hòa hợp dân tộc của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đem hết sức lực và trí tuệ của mình để góp phần xây dựng đất nước sau 30 năm chiến tranh tàn phá…”.
Ngay từ những giờ phút đầu tiên khi đối phương đầu hàng Tướng Trà đã nói đến việc hòa giải dân tộc.
Kiểu bóp méo xuyên tạc và so sánh trí trá xảo quyệt của PHN dễ làm cho những người thiếu thông tin bị lừa. Nếu phải so sánh các hành xử của các tướng lãnh Nam Bắc Mỹ trong cuộc nội chiến thì hãy so sánh với sự chống đối và ly khai của Ba Cụt dưới chế độ VNCH là chính xác nhất. Ba cụt cũng ly khai và không chấp nhận quyền lực của Ngô Đình Diệm, Ba cụt cũng thất bại như các tướng miền Nam trong cuộc chiến Nam Bắc Mỹ nhưng Ba Cụt thì cuối cùng bị Ngô Đình Điệm . . . tử hình. Không hiểu sao PHN không phân tích “tinh thần mã thượng” của chế độ VNCH và lý do gì chế độ VNCH không học theo Mỹ trong trường hợp này nhỉ?
Đó cũng là lý do tôi đặt tựa cho bài viết này là “KHI KẺ NÔ LỆ DẠY TA YÊU NƯỚC”
dinhphdc wrote on Jul 24, '12
BẢN NĂNG PHẢN XẠ CỦA CỜ VÀNG
xichloviet
Khi cần tập hợp nhau thì biện pháp kích động là bước khởi động không thể thiếu của dân cờ vàng, nhằm kích thích “phản xạ cờ vàng” – tập hợp số đông cùng hội cùng thuyền – biểu dương lực lượng, để hù dọa trấn áp đối phương bảo vệ bầy đàn. Nó giống y như tiếng tru tiếng hú để thông tin với nhau của các loài động vật hoang dã nhằm cảnh báo mối nguy hiểm đang xuất hiện đe dọa chúng.
Không kích động nhau cờ vàng chắc chắn sẽ tan rã.
Việc báo động lâm nguy trong thế giới bầy đàn hoang dã từ xa xưa đã là điều rất tự nhiên và cần thiết, đó là quá trình tiến hóa hàng triệu năm của loài vật. Nó rất hữu ích trong việc bảo vệ sự tồn tại của giống nói, nó là bản năng di truyền, nó ăn vào máu biết bao thế hệ để tạo thành phản xạ nhằm đối phó với những hiểm nguy của thế giới xung quanh.
Khi con người tiến hóa làm bá chủ thiên nhiên, thống trị thế giới muôn loài, không còn kẻ thù từ thế giới hoang dã, mối hiểm nguy từ các giống loài khác không còn, phản xạ bầy đàn của con người đã thoái hóa. Tàn tích của phản xạ chỉ còn là sự giật mình khi có tiếng động bất thường.
Có một nghịch lý là dân cờ vàng mấy chục năm qua lại ra sức tạo ra những phản xạ bầy đàn đã thoái hóa của con người cho chính bầy đàn của mình để xù lông với đồng loại.
Giống như thế giới thiên nhiên hoang dã, dân cờ vàng rất lo sợ cho sự tồn tại của bầy đàn mình cho nên mấy chục năm qua họ đã tạo được sự phản xạ rất đặc biệt, rất nhậy bén, không giống ai mà ta chỉ có thể đặt tên là “phản xạ cờ vàng “ .
Nếu so sánh với loài vật hoang dã thì nó không khác tí nào cả. Cũng lo sợ hiểm nguy, cũng ra sức tạo hiệu ứng báo động dây chuyền trong bầy đàn, cũng phát đi những tín hiệu báo động về “nguy cơ” và cũng sử dụng đám đông nhe răng xù lông để uy hiếp đối thủ. Nó rất đặc trưng không thể lầm lẫn với bất cứ cộng đồng nào, nhưng nó khác loài động vật hoang dã một chút ở chỗ cờ vàng kích động nhau không đơn thuần chỉ là tru lên tiếng báo động hiểm nguy mà họ luôn phóng đại cường điệu quá mức sự nguy hiểm.
Cờ vàng nhận thức rằng cường điệu phóng đại bóp méo để kích động sẽ đánh động bầy đàn tốt hơn, quy tụ nhau được nhiều hơn, gia tăng được sức mạnh bầy đàn hơn và cảm thấy bình an, nhẹ nhõm khi quần tụ được đám đông cùng nhau xù lông khoe nanh vuốt. Họ thừa biết rằng xù lông để trấn áp đối phương thì hiệu quả càng ngày càng ít ỏi nhưng họ vẫn cứ phải làm vì cái cần của họ là thích được sống trong hơi thở đồng điệu, sự chở che của bầy đàn và hơn nữa, nó trấn áp nỗi tự kỷ ám thị của chính mình.
Động vật hoang dã dùng tiếng tru, tiếng kêu hay những tín hiệu hình thể trực quan để báo động nhau. Dân cờ vàng không thể tru lên được cho nên nhất thiết phải có những cơ quan truyền thông cờ vàng để làm công việc đó. Những cơ quan truyền thông cờ vàng là nơi để cộng đồng cờ vàng cùng nhau góp tiếng nói kích động và cảnh giác nhau về những “nguy cơ”. Những cơ quan này phải xác định rất cụ thể cái mà họ gọi là “lằn ranh quốc cộng” để tác nghiệp. Truyền thông cờ vàng phải biết đâu là “nguy cơ” và phải biết đâu là làm lợi cho CS.
Nguy cơ cộng sản trong cộng đồng cờ vàng xưa nay vẫn là bóng ma vô hình len lỏi mọi ngóc ngách cuộc sống của họ, và trở thành nỗi tự kỷ ám thị trầm trọng. Dường như chẳng có lúc nào họ không cảnh báo nhau về “nguy cơ” đó và hình như ở đâu cũng có thể có nguy cơ Cộng Sản rình rập. Mỗi thành viên cộng đồng cờ vàng đều có những đánh giá về nguy cơ khác hẳn nhau cho nên mấy chục năm qua cứ như thế nguy cơ nó tràn ngập trong cộng đồng cờ vàng và đã đến lúc họ cảm thấy bất lực vì nguy cơ đầy dẫy mà những tiếng kêu tụ tập bầy đàn càng ngày càng yếu ớt, và cái vũ khí nhe răng xù lông hù dọa càng ngày càng mất dần tác dụng.
Chính cờ vàng đang lãnh lấy hậu quả từ những “nguy cơ” được họ tạo ra để hù dọa nhau. Từ chỗ nó không có thực, phản xạ bầy đàn làm nó thành mối đe dọa có thực và nó trở thành nỗi tự kỷ ám thị có sự truyền nhiễm như một thứ dịch bệnh nặng nề đeo bám họ.
Cộng đồng Việt ở hải ngoại còn nhớ rõ những trò kích động nhau để chống lại cái gọi là “nguy cơ Cộng Sản”, “tuyên truyền làm lợi cho CS”, hay “phỉ báng cờ vàng” mà chỉ có họ mới nhìn thấy nó trong sợi dây thắt lưng một ca sĩ, nhìn thấy nó trong những bức tranh triển lãm nghệ thuật, và ngay cả trong cái chậu rửa chân. Qua sự kích động thì dân cờ vàng nào cũng thấy đó là “nguy cơ” cần phải dập tắt. Họ thực sự bị ám ảnh mạnh bởi lá cờ đỏ sao vàng đến nỗi bằng mọi giá họ không để cho nó xuất hiện bất cứ nơi đâu dù là trên sợi dây nịt hay một thoáng truyền hình. Sự kích động lẫn nhau cũng chỉ đi đến cái đích cuối là tụ tập bầy đàn để tỏ thái độ chống lại những “nguy cơ” họ tự tạo cho mình.
Sự kích động lẫn nhau cũng nhằm nuôi dưỡng hận thù và ra sức tố cộng với mục đích hạ thấp hình ảnh của đảng CSVN bằng những trò nói láo để vuốt ve lừa mị nhau về hình ảnh một đảng CS tàn bạo thối nát đang suy tàn vì mất lòng dân. Họ cho rằng nhân dân trong nước cũng đang phẫn nộ sẽ có tiếng nói chung với bầy đàn của họ và họ mơ đến việc “giải thể Cộng Sản”. Chính vì đua nhau nói láo để tố cộng cho nên họ rất lo sợ làn sóng người trở về VN và tất cả những thông tin về sự thật mà họ cho rằng “có lợi cho Cộng Sản”.
Chỉ cần một cái bắt tay của BU MỸ với CS đã đủ “làm lợi cho cộng sản “ gấp trăm ngàn lần những lời lẽ vu vơ mà cờ vàng tố khổ. Tuy nhiên chẳng khi nào và chắc chắn là không bao giờ họ có những sự “lên tiếng” để tỏ thái độ với bu. Điều này nói lên rằng những cáo buộc nhau “làm lợi cho CS” suy cho cùng chỉ là để triệt hạ nhau cái tội nói ngược với tiếng nói chung của bầy đàn mà thôi.
Sự kích động lẫn nhau còn là sự kêu gọi tập trung cờ vàng để tự sướng rằng mình vẫn là một thế lực. Những hình ảnh quen thuộc của một rừng cờ vàng khi họ tập họp nhau lại có tác dụng nâng đỡ tinh thần nhau và tạo ảo giác rất mạnh, cho họ cái cảm giác rất ấm áp và an toàn khi ở trong bầy đàn.
Gần đây nhất là vụ cờ vàng kích động để thỉnh nguyện BU can thiệp vào nội bộ VN và xin được hát cho bu nghe bài ca tố cộng. Cờ vàng được dịp sướng đê mê khi tập họp được hàng trăm ngàn chữ ký tưởng chừng như chắc chắn bu phải đoái hoài và được mách bu. Vẫn là sự kích động từ truyền thông cờ vàng, vẫn là trò nói láo phóng đại nổ banh nhà lồng chợ và vẫn là việc tạo ra những bánh vẽ. Thế mà đến thế kỷ 21 rồi mà họ vẫn đưa nhau được lên mây bằng tàu bay giấy.
Cả tuần qua dân cờ vàng lại cùng nhau phát tiếng tru bầy đàn khi phát hiện “nguy cơ” ngay chính trong tờ báo ruột thịt của mình, tờ Người Việt, tờ nhật báo lớn nhất là nồng cốt của tiếng nói cờ vàng, và ngay lập tức trò kích động phản xạ cờ vàng lại được dùng đến. Lý do được nói đến để kích động là tờ báo này đã dám đăng ý kiến 1 độc giả được cho rằng ca ngợi CS, phỉ báng cờ vàng mặc dù độc giả này phát biểu với ý cá nhân và chỉ lập lại ý của cả trăm ngàn ý kiến khác trên internet
Khi bị các chuyên gia kích động lên tiếng, tờ báo này đánh hơi ngay được hậu quả và nghĩ ngay đến nồi cơm. Tờ Người Việt đã từng nếm mùi gây rối của những anh cờ vàng vô công rỗi nghề ăn vạ cả năm trời trước cửa mà chỉ đòi được xin lỗi, làm cho nồi cơm của mình bị ảnh hưởng nặng nề. Lần này rút kinh nghiệm, tránh voi không xấu mặt nào, tờ báo đã chủ động tự xử trước bằng cách đá văng nồi cơm nhân viên của mình đồng thời nhanh chóng hạ mình “xin lỗi” rất thành khẩn để hạ nhiệt đám đông , để lấy lòng cờ vàng và cứu lấy nồi cơm tờ báo.
Thập niên 80, 90 cờ vàng rất thành công trong việc quy tụ bầy đàn. Sự kích động có hiệu quả rất cao và phản xạ cờ vàng có sức lan tỏa mạnh mẽ. Sự kích động đã dẫn đến những cuộc biểu tình lớn tập họp được số đông và đạt được mục tiêu xù lông trấn áp và triệt hạ đối phương. Thời gian này những lãnh tụ cờ vàng vẫn còn sức lực và tham vọng biến bầy đàn cờ vàng thành một đảng mafia khống chế cộng đồng. Nếu sự kiện này xảy ra vào thập niên 80, 90 có lẽ phản xạ cờ vàng sẽ rất ghê gớm và chưa biết điều gì xảy ra cho tờ báo Người Việt.
Tuy nhiên có thể thấy trong cuộc họp của báo Người Việt để trần tình thú nhận tội lỗi vừa qua, cái khí thế cờ vàng đã sa sút trầm trọng. Điều này có phần bởi thái độ của bộ sậu tờ báo này đã chủ động cúi rạp mình sát đất để “thành khẩn nhận lỗi”, nhưng phần lớn sự xì hơi của cái khí thế là bởi sự kích động phản xạ cờ vàng đã quá nhàm không thể tạo ra hiệu ứng domino như ngày nào, không thể nhân lên cái sự “phẫn nộ”, và cái “nguy cơ” từ tờ báo cũng nhẹ hều chẳng khác những nguy cơ đang tràn ngập cộng đồng, không thể xù lông mà giải quyết được nữa rồi.
Một buổi họp để giải quyết mâu thuẫn cờ vàng mà lại có sự hiện diện công khai hai thằng” Việt gian”. Nó ngồi chình ình trước mặt để quay phim như trêu ngươi mà vẫn phải ngậm bồ hòn đủ thấy cái khí thế cờ vàng nó tuột dốc thê thảm. Hai cái gai “Việt gian” nó rung đùi trước mặt còn đáng “phẫn nộ” gấp trăm lần cái ý kiến của một độc giả ảo ở đâu đâu “phỉ báng cờ vàng” mà cử tọa vẫn lặng thinh, chỉ phản ứng yếu ớt bằng tràng pháo tay tán thưởng phát biểu của lão già gần xuống lỗ cuối buổi họp cảnh báo về sự có mặt hai thằng Việt Gian. Lão già cũng không quên thòng thêm một câu tự sự không biết ngụ ý gì, rằng đã gần đất xa trời nên không sợ gì nữa.
Cái sự “phỉ báng” nó đang xảy ra như cơm bữa đối với dân cờ vàng, cho nên cái sự “phẫn nộ” nó xẹp dần bởi số lượng càng ngày càng tăng của cái sự “phỉ báng” mà phải bó tay. Giờ đây họ chỉ phản ứng như một phản xạ bầy đàn nhưng rất yếu ớt, họ phải phản ứng vì tự ái cờ vàng , vì cảm thấy bị sỉ nhục, nhưng nó chỉ còn tác dụng hù dọa với những kẻ yếm thế hèn nhát mà thôi.
Những kích động bầy đàn của cờ vàng luôn khởi đi từ các anh được học hành, xưng là trí thức, có chữ nghĩa, có tài nói láo dẻo như bún. Các anh này có rất nhiều kinh nghiệm và thủ thuật để kích động tập hợp bầy đàn của mình thông qua các hệ thống truyền thông chống cộng. Có thể nói ngay rằng các anh này có công rất lớn trong việc tạo ra những “phản xạ cờ vàng” .
Nếu anh cờ vàng nào cho rằng những so sánh trong bài viết này là phỉ báng, là mạ lị xin mời các anh lên tiếng phản biện về sự khác biệt giữa phản xạ bầy đàn cờ vàng của các anh và loài động vật hoang dã ra sao.
Xin mời các nhà trí thức, các anh tiến sĩ cờ vàng hãy phản biện cho việc các anh đã dầy công tạo dựng thành công cho riêng bầy đàn của mình cái bản năng phản xạ bầy đàn mà con người đã thoái hóa từ rất lâu lâu rồi: bản năng thú vật.
05 tháng 12 2011
Cao Hải Hà: Đổ vỡ ở thiên đường...
http://www.hacao.net/2011/12/o-vo-o-thien-uong.html
Gớm, khéo rững mỡ, phải chi đang sống trong túng bấn, cùng quẫn. Phải chi suốt đời bị đè đầu, cưỡi cổ bởi bè lũ độc tài thì hẳn có lý để làm cách mạng hoa nhài. Ở đây là thiên đường, đời sống cao ngất ngưởng lại được bao bọc bởi một chính quyền mà mở mồm ra là tự do, khép mồm lại là dân chủ. Ấy thế mà dân Mỹ vẫn một mực đứng lên, dứt khoát đứng lên biểu tình. Khổ thế cơ chứ!
Khổ nữa ở chỗ, dân xứ khác đứng lên không sao chứ dân Mỹ mà đứng lên thì dân xứ khác cũng nhao nhao đứng theo. Mới có chuyện hôm trước dân Mỹ đứng lên thì hôm sau dân Anh nổi dậy, rồi Úc cũng đâu chịu ngồi yên, Nhật cũng ham vui, rồi đến lượt Hàn Quốc cũng bỗng dưng phấn khởi…Rõ là, đang yên đang lành, đang giời quang mây tạnh chả muốn lại cứ muốn nổi lửa lên em. Đúng là cái lũ thân lừa ưa nặng.
Gớm, khéo rững mỡ, phải chi đang sống trong túng bấn, cùng quẫn. Phải chi suốt đời bị đè đầu, cưỡi cổ bởi bè lũ độc tài thì hẳn có lý để làm cách mạng hoa nhài. Ở đây là thiên đường, đời sống cao ngất ngưởng lại được bao bọc bởi một chính quyền mà mở mồm ra là tự do, khép mồm lại là dân chủ. Ấy thế mà dân Mỹ vẫn một mực đứng lên, dứt khoát đứng lên biểu tình. Khổ thế cơ chứ!
Khổ nữa ở chỗ, dân xứ khác đứng lên không sao chứ dân Mỹ mà đứng lên thì dân xứ khác cũng nhao nhao đứng theo. Mới có chuyện hôm trước dân Mỹ đứng lên thì hôm sau dân Anh nổi dậy, rồi Úc cũng đâu chịu ngồi yên, Nhật cũng ham vui, rồi đến lượt Hàn Quốc cũng bỗng dưng phấn khởi…Rõ là, đang yên đang lành, đang giời quang mây tạnh chả muốn lại cứ muốn nổi lửa lên em. Đúng là cái lũ thân lừa ưa nặng.
10 tháng 5 2010
Sự trung thực của truyền thông chống Cộng!
Trong Bài trả lời Phỏng vấn của D. Medvedev cho báo "Izvestia" http://www.rian.ru/interview/20100507/231257764.html
Medvedev ủng hộ việc điều tra hình sự đối với những đảng viên quốc xã già nua và nói về tội phạm Đức Quốc xã ở Đức và các nơi khác trong xã hội rằng:
Thì Báo Tổ Quốc trương ngay bài: Tổng thống Nga Medvedev: Tội ác cộng sản không bao giờ hết thời hiệu pháp lý!http://baotoquoc.com/2010/05/07/tuye...-h/#more-12006
Medvedev ủng hộ việc điều tra hình sự đối với những đảng viên quốc xã già nua và nói về tội phạm Đức Quốc xã ở Đức và các nơi khác trong xã hội rằng:
Trích:
“Đây là vấn đề trách nhiệm đạo đức của chúng ta trước các thệ hệ tương lai, và, nếu chúng ta hiện nay nhắm mắt làm ngơ trước các tội ác này, thì trong tương lai những tội ác như thế có thể sẽ lặp lại – như thế này hay thế khác, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở các nước khác nhau, Bởi vậy, có lẽ, tất cả điều này nói ra nghe thật găy gắt, nhưng những tội ác này thực tế không được biết về mốc thời gian xa xưa, và những ai đã từng gây nên tội ác, cần phải chịu trách nhiệm cho dù họ đã có bao nhiêu tuổi”. |
Rất nhiều bloger đã mang bài báo này về bàn luận, ví dụ: http://callaflowers.multiply.com/notes/item/44
Vấn đề là tớ chẳng thấy trong bài trả lời phỏng vấn của Medvedev cho báo "Izvestia" có chữ nào là CS cả, tớ thấy Medvedev nói tới "Đức Quốc xã" còn trong bài của BÁO TỔ QUỐC và entry của callaflowers thì "Đức Quốc xã" biến mất và thay vào đó là CS, thế là sao nhể?
Đó là sự trung thực trong truyền thông chống Cộng?
Ôi báo của Chúa!
Quà của báo “Tin tức” tặng tổng thống Dmitry Medvedev - ảnh chụp phóng viên chiến tuyến Pavel Troshkin – do tổng biên tập tòa báo Vitaly Abramov trao (phóng viên nhiếp ảnh: Ekaterina Shtukina /”Izvestia”)
Dmitry Medvedev: “Chúng ta không phải ngại ngùng kể sự thật về chiến tranh, sự thật mà vì nó chúng ta đã chịu quá nhiều đau khổ”
Phóng viên phỏng vấn Vitaly Abramov
V.A.: Dmitry Anatolievich kính mến! Trước đây chúng ta quen nói: ở Liên Xô không có một gia đình nào mà chiến tranh không chạm tay vào. Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã để lại dấu ấn gì trong gia đình ngài?
D.M.: Tôi cũng cho câu nói đó hoàn toàn chính xác. Đó không phải câu nói mỹ miều, sáo rỗng. Chiến tranh đã động chạm tới mỗi gia đình Xô Viết ở mức độ khác nhau. Đối với một bộ phận nhân dân rất đông đảo - chiến tranh đi kèm sự mất mát người thân, đối với những người khác – là những khó khăn mà tất cả những ai sống ở Liên Xô thời kỳ đó đều phải đương đầu.
Họ hàng cả nội ngoại của tôi đều chịu tác động của chiến tranh. Cả hai ông nội (Afanasy Fiođorovich) và ngoại (Venhiamin Sergheevich) đều tham gia chiến tranh, cả hai đều trải qua những thử thách chinh chiến khác nhau. Lúc tôi còn nhỏ, mỗi lần về chơi nhà ông nội Afanasy ở Krasnodar, ông đều kể chuyện chiến tranh, khiến tôi xúc động mạnh. Ông nói chân thật, không giấu nước mắt. Ông kể những chuyện thời đó ít ai dám nói. Ông chiến đấu ở nhiều nơi, bị thương nặng, đã được tặng các huân và huy chương khác nhau. Tôi ghi nhớ các câu chuyện của ông, bởi tôi tiếp nhận chúng từ chính người ruột thịt của mình.
Và ông ngoại Venhiamin cũng kể cho tôi nghe nhiều về chiến tranh, về những cảm xúc của ông lúc đó. Tôi vẫn nhớ rõ: ông kể cho tôi nghe chuyện phải khó khăn lắm mới quen với việc bắn vào con người, những cảm giác nặng nề như thế nào khi phải hành động như thế, mặc dù hiểu là để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ những người thân khỏi kẻ thù xâm lược đất nước chúng ta, giết đồng bào của chúng ta, đốt cháy các thành phố và làng mạc của chúng ta. Đó là câu chuyện rất riêng tư mà lúc còn trẻ tôi ít nghĩ tới. Song với tuổi tác tôi hiểu ra - trận nghĩa là gì, khi mặt đối mặt với kẻ thù.
Cha mẹ tôi đi sơ tán. Mẹ tôi từng sống ở Tadzikistan, lúc đó còn nhỏ, vẻn vẹn vài tuổi, khi xảy ra chiến tranh. Mẹ tôi cùng bà ngoại sống nơi sơ tán, các ông nội ngoại ra trận. Kỷ niệm gia đình, tất nhiên, luôn tạo ra bầu không khí đặc biệt, mỗi khi chúng tôi kỷ niệm 9 tháng năm. Ví dụ, tôi luôn nhớ năm 75, khi tôi lên mười. Năm đó kỷ niệm 30 năm ngày kết thúc chiến tranh. Các cựu chiến binh phấn khởi, ai nấy đeo huân huy chương. Nhạc được bật lên, họ ôm nhau, lúc đó họ còn rất đông. Chỗ nào chúng tôi đến, bất kể tượng đài Chiến thắng hay nghĩa trang Piscariov, chỗ nào cũng thấy rất đông các cựu chiến binh, và không khí ngày hội. Kỷ niệm về những ngày đó đọng lại mãi trong trí nhớ của tôi.
V.A.: Ngài sinh ra hai mươi năm sau chiến tranh. Có nghĩa, chiến tranh đối với Ngài là một bộ phận của lịch sử, chứ không phải lý lịch. Thái độ của Ngài về lịch sử chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã thay đổi như thế nào với thời gian? Ai đã có thể ảnh hưởng tới sự thay đổi đó và như thế nào?
D.M.: Nó không thay đổi một cách tận gốc. Về các tiêu chí cơ bản thái độ đó vẫn như trước.
Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại có ý nghĩa gì với chúng ta? Đó là sự tấn công của cả một bộ máy xâm lược khổng lồ, những kẻ mang đến nỗi đau và chết chóc. Ở đây không thể thêm hay bớt điều gì, bất chấp thời gian bao lâu đã trôi qua. Mặc dù tôi sinh ra sau khi chiến tranh kết thúc rất lâu và thế hệ ngày nay biết về chiến tranh chỉ qua sách vở, phim ảnh, chuyện các cựu chiến binh kể, song điều này, theo tôi, là hoàn toàn hiển nhiên với tất cả những ai sống ở nước Nga.
Vì lẽ đó, chiến tranh là một phần lịch sử, song đồng thời là một phần lịch sử diễn ra cách đây không lâu, điều tôi muốn nhấn mạnh. Có thể bàn cãi rằng sự kiện này khác có thể diễn ra theo các cách khác. Song riêng về các sự kiện chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại – thì đến tận bây giờ vẫn còn sống một số lượng khổng lồ những người từng tham gia chiến đấu và là nhân chứng sống cuộc chiến đã xảy ra. Đây không phải chuyện xảy ra 200, 300 năm trước, mặc dù lúc đó cũng xảy ra các thảm họa toàn cầu, những cuộc chiến tranh lớn.
Vì thế thái độ của tôi với các sự kiện thời gian đó thay đổi một cách không tận gốc.
Tất nhiên, không ai lý tưởng hóa vai trò của Liên Xô thời kỳ sau chiến tranh. Song không bao giờ được phép gọi nạn nhân là đao phủ. Những ai đặt vai trò của Hồng Quân và phát xít Đức lên cùng một thớt là phạm tội ác đạo đức.
Tất nhiên, nhiều tài liệu chỉ được công khai hóa vào cuối những năm 80, khi các tài liệu lưu trữ bắt đầu được đăng, khi chúng ta có khả năng tiếp cận một phần các nguồn từng là tuyệt mật. Một thời gian dài chiến tranh chỉ được tung hô như chiến thắng vĩ đại của nhân dân Xô Viết và Hồng Quân. Song chiến tranh còn là một khối lượng khổng lồ các nạn nhân và những tổn thất khổng lồ mà nhân dân Liên Xô phải hứng chịu cùng các nước châu Âu khác. Có thể, về phần này, thì tất nhiên có một số thay đổi.
V.A.: Cách đây không lâu Ngài tuyên chiến tệ nạn viết lại lịch sử bằng việc thành lập một ủy ban chuyên môn. Những hành động viết lại lịch sử nào thúc đẩy Ngài làm việc đó?
D.M.: Cách xử sự đáng xấu hổ của một số nhà chính trị, những người để đạt được những mục đích nhỏ mọn, thậm chí tôi có thể gọi là tiểu nhân, của mình, bắt đầu áp dụng những cách diễn giải khoa học giả hiệu khác nhau để đơn giản gặt hái uy tín chính trị. Song sự việc không chỉ ở chỗ bác lại các nhân vật cụ thể, mà còn ở chỗ họ có quyền có ý kiến riêng của mình. Vấn đề ở tương lai của chúng ta, chúng ta sẽ để lại kỷ niệm gì về mình, con cháu chúng ta sẽ nghĩ gì, họ sẽ biết gì về chiến tranh và các bài học nào từ cuộc chiến tranh này.
Đối với thế hệ tôi và các anh, đối với những người trưởng thành và còn trẻ, những từ như “phát xít”, “đảng viên quốc xã” chỉ có thể mang ý nghĩa tiêu cực. Song , đáng tiếc, bây giờ điều đó đối với tất cả không phải như vậy. Ở nhiều nước châu Âu đang diễn ra việc phục hồi phát xít. Thậm chí ở Nga cũng có một số quái thai sử dụng biểu tượng Đức quốc xã và tụ tập lực lượng dưới những khẩu hiệu như thế. Vì thế đây không còn là vấn đề nhàm tản. Song điều quan trọng nhất – chúng ta phải đưa được sự thật đến cho con người. Vậy sự thật về cái gì?
Nhân dân chúng ta không có cuộc lựa chọn khác. Họ là những người sống vào thời điểm đó ở nước ta, - họ có thể hoặc chết hoặc trở thành nô lệ. Không có khả năng thứ ba. Và đây là một sự thật hiển nhiên. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là câu hỏi ai khởi chiến và ai có tội trong chuyện đó? Đây cũng là một điều hoàn toàn hiển nhiên. Nó được công nhận không chỉ bằng hồ sơ vụ án Nuremberg Trials, trong các văn kiện, mà còn trong ký ức một số lượng người khổng lồ. Mưu toan đánh tráo các sự kiện lịch sử trông giống một ác ý.
Chúng ta phải đưa ra sự thật. Và điều này không có nghĩa phải đấu tranh với các cách diễn giải khác nhau các sự kiện chiến tranh hay với các học thuyết. Xin mời nêu ra và chứng minh những giả thiết mới, song có những bằng chứng không cần chứng minh – hoặc do tính hiển nhiên của chúng, hoặc do chúng được xác nhận bởi các văn bản quốc tế, như được tôi nhấn mạnh là các biên bản vụ án Nuremberg Trials. Về những vấn đề này thì tranh luận là không thể, bởi chúng được tiến hành theo hướng rất tồi tệ.
Nếu vào một lúc chúng ta sẽ cho rằng công việc đã kết thúc ở đây, thì ủy ban chuyên môn sẽ chấm dứt hoạt động.
V.A.: Các sự kiện ở các nước cộng hòa Baltic, Ucraine, Gruzia nói lên việc lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai được lý giải theo cách có lợi cho một số thế lực chính trị. Tuy nhiên, không thể không tính tới sự thật lịch sử các dân tộc. Lịch sử đó khác nhau. Phải làm gì để những người hy sinh trong chiến tranh chống Đức Quốc xã được tưởng nhớ với lòng biết ơn ở mọi nơi?
D.M.: Tất nhiên, mỗi nước mỗi lịch sử. Và không thể nói rằng các sự kiện thời sau chiến tranh đều mang lại phồn vinh cho tất cả các nước được giải phóng. Tuy nhiên ở đây có một điều láu lỉnh. Chúng ta phải hiểu: nếu Liên Xô không cùng các nước khác thuộc khối chống Hitle giải phóng châu Âu, châu Âu đã hoàn toàn khác. Đó có thể chỉ là một trại tập trung khổng lồ làm việc cho một quốc gia. Đa số người châu Âu đang sống đơn giản có thể không bao giờ được sinh ra trên đời.Tôi từng nói về chuyện đó mới đây, khi chúng tôi cùng đồng nghiệp Slovakia kỷ niệm ngày giải phóng. Song, mặt khác, các sự kiện sau chiến tranh đã là phần khác của lịch sử, nó bị tư tưởng hóa tuyệt đối, và thật dễ hiểu là Liên Xô, như một nhà nước, đã theo đuổi những mục đích của mình. Liên Xô là một quốc gia rất phức tạp. Nếu nói thẳng, thì chế độ được xây dựng ở Liên Xô không thể gọi cách khác, ngoài độc tài. Đáng tiếc, đó là một chế độ chà đạp các quyền và tự do cơ bản. Và không chỉ đối với các công dân của mình (sau chiến tranh một bộ phận nhân dân, là những người chiến thắng, đã bị đưa đến tù giam tại các trại tập trung). Ở các nước XHCN khác cũng như vậy. Và, tất nhiên, không thể xóa bỏ điều đó khỏi lịch sử.
Song nghệ thuật của nhà sử học, một mặt, sự tỉnh táo lý trí của người bình thường, mặt khác, chính ở chỗ tách biệt sứ mạng của Hồng Quân và nhà nước Xô Viết trong giai đoạn chiến tranh vơí cái xảy ra sau đó. Đúng vậy, trong cuộc sống chuyện đó được phân chia rất phức tạp, song cần thiết phải làm để một lần nữa nhấn mạnh: nếu không có vai trò của Hồng Quân, nếu không có sự hy sinh khủng khiếp mà nhân dân Xô Viết phải gánh chịu vì chiến tranh, châu Âu đã hoàn toàn khác. Ai cũng hiểu là một châu Âu hiện đại, phồn vinh, thịnh vượng, giàu có, phát triển tốt có thể không có. Và tôi nghĩ, chỉ người điếc mới không nghe thấy những luận cứ này.
Tôi nghĩ, ở đây chỉ cần chúng ta đơn giản, không phải ngại ngùng gì, kể về điều đó, không phải ngại ngùng trở về những sự kiện thời kỳ đó, nói về điều đó ở khắp các diễn đàn khác nhau nhất: cả ở Nga, cả ở các nước láng giềng, các quốc gia châu Âu, cả từ diễn đàn Liên Hợp Quốc, và trong bất kỳ cuộc gặp gỡ, hội thảo nào. Không nên ngại kể sự thật về chiến tranh, sự thật mà vì nó chúng ta chịu quá nhiều đau khổ. Tôi nghĩ, như thế sẽ trung thực và đúng sự thật hơn cả.
Anh nhắc tên các nước, nơi diễn ra việc anh hùng hóa bọn tội phạm Đức Quốc xã. Điều đó rất đáng buồn. Tất nhiên, không ai lý tưởng hóa vai trò của Liên Xô thời kỳ sau chiến tranh. Song cương quyết không được gọi nạn nhân là đao phủ. Những ai đặt vai trò của Hồng Quân và phát xít Đức lên cùng một thớt là phạm tội ác đạo đức.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng về mặt này người Đức xử sự xứng đáng hơn nhiều đại diện các quốc gia Cận Baltic, mặc dù đối với họ đây là đề tài rất nhạy cảm. Mặt khác, có những bản án sau chiến tranh chưa hề bị ai hủy (và tôi tin là chúng sẽ không bao giờ bị hủy), kể cả các bản án của The Nuremberg Trials . Chính ở đó các tội ác của Đức Quốc Xã được chỉ định là tội ác chống nhân loại. Những tội ác này không có thời điểm hết hạn, và trách nhiệm về chúng phải là vô thời hạn.
V.A.: Sau những vụ án ầm ỹ mới đây xử các nguyên đảng viên Đức Quốc Xã ở châu Âu, trong xã hội xuất hiện tranh luận: có nên xử mấy người già nua hay không? Đã đến lúc ân xá tất cả những ai còn sống, thậm chí tội phạm Đức Quốc Xã, để giai đoạn đáng sợ đó mãi chìm vào quá khứ?
D.M.: Anh ngụ ý những tội ác mà vì chúng người ta xử Demianhiuk bây giờ ai cũng biết? Song sự việc không chỉ ở các tên cụ thể. Những tội ác như thế không có thời điểm hết hạn, bất kể người phạm tội là ai. Đây là vấn đề trách nhiệm đạo đức của chúng ta trước các thế hệ tương lai, và, nếu bây giờ chúng ta nhắm mắt làm ngơ những tội ác này, trong tương lai chúng có thể được lặp lại, bằng cách này hay cách khác, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở các quốc gia khác nhau. Vì thế, điều này có thể nghe tàn nhẫn, song những tội ác này quả không có mốc hết hạn, thì những ai phạm những tội ác đó, phải bị trừng phạt, bất kể họ bao nhiêu tuổi.
Ôi chao, là báo giới chống Công! Đã không bênh cho Tổng thống của mình, lại còn chửi bới ông thê thảm, để tới tận bây giờ, qua Nguyễn Tiến Hưng, ông mới được "giải oan" (???), nhưng phải chờ đến 30 năm.
Ôi hô, ai tai!
Vấn đề là tớ chẳng thấy trong bài trả lời phỏng vấn của Medvedev cho báo "Izvestia" có chữ nào là CS cả, tớ thấy Medvedev nói tới "Đức Quốc xã" còn trong bài của BÁO TỔ QUỐC và entry của callaflowers thì "Đức Quốc xã" biến mất và thay vào đó là CS, thế là sao nhể?
Đó là sự trung thực trong truyền thông chống Cộng?
Bài trả lời phỏng vấn của Medvedev cho báo Izvestia.(http://www.rian.ru/interview/20100507/231257764.html) - Medvedev không dùng một lần nào từ "communism".
Thế mà các "nhà chống Cộng" ấy lại cứ lôi CS ra chửi!
Thế mà các "nhà chống Cộng" ấy lại cứ lôi CS ra chửi!
Một vài bạn nghe sau khi đọc được thắc mắc của mình đã comment cho biết:
Anonymous # 9. May 2010, 22:09
Clava bogu writes:
Mình đã đọc qua bài báo tại trang http://www.izvestia.ru/pobeda/article3141617/ và nghe ông Medvedev nói, thì chẳng có điều nào ông nói "Tội ác cộng sản không bao giờ hết thời hiệu pháp lý" cả, đây chỉ là sự xuyên tạc sự thật mà thôi.
Tôi nghe ông Medvedev nói và xin dịch sơ qua cho mọi người cùng hiểu, quan điểm của ông đối với những người cộng sản. Từ đó thì có thể đánh giá được bài báo trong "Báo tổ quốc" bịa đặt hay là không nhé.
Tôi cố gắng dịch theo sát nghĩa của câu nên câu cú hơi lủng củng. Nhưng qua đây để thấy được sự xuyên tạc vô cùng bậy bạ của mấy tờ báo trên.
Anonymous # 9. May 2010, 22:24
Mai writes:
@DinhPhDc :
Theo link của bạn mình đọc thấy đoạn này:
Anonymous # 9. May 2010, 22:09
Clava bogu writes:
Mình đã đọc qua bài báo tại trang http://www.izvestia.ru/pobeda/article3141617/ và nghe ông Medvedev nói, thì chẳng có điều nào ông nói "Tội ác cộng sản không bao giờ hết thời hiệu pháp lý" cả, đây chỉ là sự xuyên tạc sự thật mà thôi.
Tôi nghe ông Medvedev nói và xin dịch sơ qua cho mọi người cùng hiểu, quan điểm của ông đối với những người cộng sản. Từ đó thì có thể đánh giá được bài báo trong "Báo tổ quốc" bịa đặt hay là không nhé.
Quân phát xít đã muốn chúng ta thành tro tàn ... nhưng vấp phải sự chống trả quyết liệt bằng lòng quả cảm và sức mạnh. Những phòng tuyến phòng ngự tại Leningrat, Moskva, Ctalingrat, Kurt. Đấy không phải chỉ đơn giản là những giai đoạn của cuộc chiến tranh này,... niềm vui chiến thắng, thương vong và hi sinh của những người đồng đội.
Và chỉ có một sự lựa chọn: Một là chiến thắng hay là trở thành những kẻ nô lệ. Cuộc chiến tranh này đã đưa cho chúng ta sức mạnh, mỗi ngày mỗi giờ, mỗi phút mọi người đều hiểu được lời giải đáp.
Tôi đặc biệt phải có trách nhiệm cho số phận của những người lính cựu binh của chúng ta cho đến hết cuộc đời. Những người cựu chiến binh vẫn tiếp tục là những người quan trọng, họ đã đem lại cho chúng ta tự do. Thời gian có quyền lực to lớn nhưng vẫn kém hơn "человеческий память không biết dịch tiếng việt là gì --->" trí nhớ của con người(kí ức của chúng tôi với các bạn).
Chúng tôi không bao giờ quên ơn những người lính đã ở trên chiến trường, những người vợ có chồng làm việc trong các công xưởng, và những đứa trẻ gì gì đó, "đoạn này nghe không rõ lắm". Tất cả họ là những người anh hùng. Năm 45 không phải chỉ đơn thuần là chiến tranh mà còn có niềm vui chiến thắng, một chiến thắng hoàn toàn. Để có điều đó là cả sự đấu tranh của toàn bộ những người cộng sản và liên minh thời bấy giờ.
Ngày hôm nay trong cuộc diễu binh, đi cùng với những người lính của Nga là những người bạn cùng chí hướng như nước (chắc mấy nước thuộc liên xô cũ), cùng liên kết thành một khối và sẽ đấu tranh cho nền hòa bình của thế giới, không cho phép thêm những sự tổn thất khác. Chiến tranh đã quyết định số phận của 10 triệu người dân ở Boctok và của rất nhiều đất nước khác. Riêng nước Nga cũng có rất nhiều gia đình có người chết và thương vong...
Với những điều này thì không có gì có thể đo được, và chúng ta không thể nào quên. Đây là những tượng đài vĩnh cửu. Và chúng ta cần phải nhớ rằng, chiến tranh không bắt đầu trên 1 phần nào...
Chỉ có sự đoàn kết mới bảo vệ được sự àn toàn cho thế giới. Và cuộc sống của những thế hệ trẻ sẽ được tự do và hạnh phúc. nhưng người cựu binh đáng kính, 65 năm trước các đồng chí đã cứu cả thế giới,đất nước chúng ta và cho chúng tôi cuộc sống ngày hôm nay, hãy nhận sự "низкий вам поклон- không biết dịch câu này- nghĩa là cúi chào theo kiểu tôn trọng" của chúng tôi. Chúc mừng các bạn nhân ngày chiến thắng. Lời của chiến thắng URA...
Tôi cố gắng dịch theo sát nghĩa của câu nên câu cú hơi lủng củng. Nhưng qua đây để thấy được sự xuyên tạc vô cùng bậy bạ của mấy tờ báo trên.
Anonymous # 9. May 2010, 22:24
Mai writes:
@DinhPhDc :
Theo link của bạn mình đọc thấy đoạn này:
Советский Союз был очень сложным государством. Если говорить прямо, тот режим, который сложился в СССР, иначе, как тоталитарным, назвать нельзя. К сожалению, это был режим, при котором подавлялись элементарные права и свободы. И не только применительно к своим людям (часть из которых после войны, будучи победителями, переехала в лагеря). Так было и в других странах соцлагеря тоже. И, конечно, из истории это не вычеркнутьTạm dịch:
Liên Xô khi ấy là một nhà nước phức tạp. Nói thẳng ra đó là chế độ chuyên chế không thể gọi khác được. Thật không may, chế độ ấy đàn áp các quyền cơ bản và tự do, không chỉ cho người dân của mình (một số người chiến thắng sau chiến tranh bị đưa vào trại) mà còn đối với các nước khối Đông Âu. Và, tất nhiên, điều đó không phù hợp với lịch sửChỉ là một thái độ đáng tiếc, không phải lên án mạnh mẽ vậy mà trên trang vietcatholic lại viết:
Liên Xô (lúc ấy) có một cấu trúc rất phức tạp. Người ta có thể miêu tả chính quyền Stalin như là một chế độ toàn trị. Các quyền cơ bản và quyền tự do đã bị đàn áp. Stalin đã giết dân mình hàng loạt, tội ác này không tha thứ được.
Ôi báo của Chúa!
tqvn2004 : Tốt nhất là tìm đọc bản gốc. Tôi đã nhờ người biết tiếng Nga dịch giúp bản gốc ở đây (vẫn đang dịch dở dang): http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=1524
hoặc ở trang Dân Luận: http://danluan.org/node/4957
Cuộc phỏng vấn ông Medvedev của nhật báo Nga “Izvesti"
Có bác nào rành tiếng Nga dịch hộ tôi bài này với:
http://www.izvestia.ru/pobeda/article3141617/
Nghe giới thiệu bên blog Lê Diễn Đức, thấy hay hay nên tôi muốn đọc bản gốc:
http://ledienduc.wordpress.com/2010/...n-tr%E1%BB%8B/
Cảm ơn trước ạ!
Hiện đã có bản dịch toàn văn Trả lời phỏng vấn của Dmitry Medvedev cho báo “Izvestia”.
Bản dịch thô, chưa được hiệu chỉnh, kichbu hoàn thành lúc May 12, '10 2:14 AM, bạn nào quan tâm có thể đọc tại đây
Tôi xin trích vài đoạn để so sánh với các bản dịch.
Đoạn về thời hiệu pháp lý của tội ác:
Câu hỏi và câu trả lời không hề đả động tới cộng sản.
Đoạn về Stalin:
Không có lời nào gọi Stalin là tội phạm chiến tranh.
Sau khi bác bạn đọc bản dịch trên, có thể các bạn có bản dịch khác, hãy so sánh và rút ra kết luận về câu hỏi của tôi ở topic này.
Xin nói rõ quan điểm của tôi, tôi chỉ thắc mắc về sự trung thực trong truyền thông mà thôi, không bênh vực cho bất kỳ một tư tửơng, phe cánh nào, cộng sản hay chống cộng. Sự thắc mắc này đã làm phiền đến một người bạn, người dã dịch bản tin mà tôi để linhk ở trên, chỉ là một người bạn online, thậm chí tôi không biết tên thật của người bạn này, xin cảm ơn bạn, kichbu của tôi!
Tôi xin trích vài đoạn để so sánh với các bản dịch.
Đoạn về thời hiệu pháp lý của tội ác:
Trích:
V. Abramov: Sau các vụ án xử những tội phạm phát xít ồn ào cách đây không lâu ở Đức và các nước khác trong xã hội xuất hiện cuộc tranh luận – có nhất thiết phải xử các ông già lụ khụ nữa không? Đã đến lúc tha thứ tất cả những người bây giờ vẫn còn sống, thậm chí cả những kẻ tội phạm Nadi để cái thời khủng khiếp ấy, cuối cùng, lùi hẳn hoàn toàn vào quá khứ? D. Medvedev: Ông có ý nói những tội ác mà hiện nay vì nó người ta đang xét xử Demyanyuk nào đó phải không? Vấn đề không nằm ở những tên tuổi cụ thể. Những tội ác như vậy không bao giờ hết thời hiệu pháp lý, cho dù chúng ta nói đến ai đi chăng nữa. Đây là vấn đề trách nhiệm đạo đức của chúng ta trước những thế hệ mai sau, và, nếu chúng ta bây giờ nhắm mắt làm ngơ trước những tội ác như thế này, thì trong tương lại những tội ác như thế có thể lặp lại – như thế này hay thế khác, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở các quốc gia khác nhau. Bởi vậy, có lẽ, điều này nói lên có vẻ gay gắt, nhưng các tội ác này thực tế không bao giờ biết thời hiệu pháp lý, và những kẻ phạm tội cần phải chịu trách nhiệm cho dù họ bao nhiêu tuổi đi chăng nữa. |
Đoạn về Stalin:
Trích:
V. Bramov: Trong thời gian gần đây có những câu hỏi đưa ra cho Nga về vai trò của Stalin trong Chiến thắng. “Izvestia” cũng không thể trảng lánh vấn đề này. Và trong ngữ cảnh như thế này. Vâng, Stalin đã lãnh đạo đất nước chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Nhưng liệu cái quyền này có thể biến một bạo chúa đã từng gây nên các tội ác chống lại nhân dân của mình thành anh hùng được không? Hitle, ví dụ, đã tránh cho nước Đức thoát khỏi nạn thất nghiệp, đã xây dựng các xa lộ. Tuy nhiên ở đó không có xa lộ nào mang tên Hitle.Còn những tấm áp phích với chân dung của Stalin trong những ngày lễ không được treo. D. Medvedev: Có những vấn đề tuyệt đối rõ ràng – nhân dân của chúng ta, chứ không phải Stalin và thậm chí các tướng lĩnh với tất cả tầm quan trọng mà họ nắm giữ, đã chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc. Vâng, vại trò của họ, tất nhiên, vô cùng quan trọng, nhưng đồng thời nhân dân bằng cái giá của những cố gắng phi thường, bằng cái giá tổn thất của biết bao sinh mạng đã chiến thắng. Còn liên quan đến vai trò của Stalin thì như thế nào, có thể đánh giá vai trò của Stalin theo các cách khác nhau. Ai đó cho rằng vai trò của vị Tổng tư lệnh tối cao vô cùng to lớn, người nào đó nói rằng điều đó không phải như vậy. Vấn đề không nằm ở chỗ này, mà ở chỗ chúng ta nhìn chung đánh giá chính nhân vật Stalin như thế nào.Nếu nói đánh giá về mặt nhà nước, về điều rằng lãnh đạo đất nước hiện nay nhận xét về Stalin như thế nào trong những năm gần đây, kể từ khi xuất hiện một quốc gia Nga mới, thì nhận xét ở đây hoàn toàn rõ ràng – Stalin đã phạm vô số các tội ác chống lại nhân dân của mình. Và mặc dù ông ta làm được rất nhiều việc, mặc dù dưới sự lãnh đạo của Stalin đất nước đã đạt được nhiều thành tích, thì những gì ông ta gây ra liên quan đến nhân dân của mình, là không thể tha thứ được. Đó là điều thứ nhất. Thứ hai. Những người yêu quý Stalin hay căm ghét Stalin, đều có quyền bày tỏ quan điểm của mình. Và rằng có nhiều cựu chiến binh, những con người của thế hệ những người chiến thắng có thái độ tốt với Stalin – điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Tôi cho rằng họ có quyền về điều đó. Mỗi người đều có quyền có những nhận xét của riêng mình. Một vấn đề khác nữa là những đánh giá cá nhân kiểu đó không gây áp lực lên các đánh giá của chính phủ. Còn cá nhân tôi thêm lần nữa nói lại điều này. Tôi có cảm giác, đôi khi đề tài này bị “bơm”. Nếu nói về quan niệm về Stalin và một số nhà lãnh đạo riêng lẻ khác, thì trong những năm 1990s đã có không ít những người kính nể con người này, và không một ai nói về renessans (phục hưng - Khoằm) chủ nghĩa Stalin. Còn bây giờ bỗng nhiên người ta bắt đầu nói. Vâng, những nhân vật lịch sử có thể trở thành đối tượng của sự thần thánh hóa, của thế hệ. Đôi lúc thanh niên, đặc biệt thanh niên có xu hướng “cánh tả” thường làm việc này. Nhưng, cuối cùng, đó là việc của họ. Mặc dù, rất nhiên, đối với đa số người trên thế giới hình tượng Stalin đã rõ ràng, nó không hề gây nên bất kỳ những cảm xúc nồng ấm nào cả. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể nói rằng chủ nghĩa Stalin đang quay lại trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, rằng chúng ta quay lại với biểu tượng này, rằng chúng ta đang chuẩn bị những áp phích nào đó, còn làm thêm cái gì đó. Điều này là không thể có và không thể xảy ra. Và, nếu các bạn muốn, thì hệ tư tưởng của quốc gia hiện nay và đánh giá của tôi như là đánh giá của Tổng thống LB Nga nằm ở chỗ đó. Bởi vậy tôi ở đây luôn luôn muốn tách biệt đánh giá về mặt nhà nước ra khỏi những đánh giá mang tính cá nhân. |
Sau khi bác bạn đọc bản dịch trên, có thể các bạn có bản dịch khác, hãy so sánh và rút ra kết luận về câu hỏi của tôi ở topic này.
Xin nói rõ quan điểm của tôi, tôi chỉ thắc mắc về sự trung thực trong truyền thông mà thôi, không bênh vực cho bất kỳ một tư tửơng, phe cánh nào, cộng sản hay chống cộng. Sự thắc mắc này đã làm phiền đến một người bạn, người dã dịch bản tin mà tôi để linhk ở trên, chỉ là một người bạn online, thậm chí tôi không biết tên thật của người bạn này, xin cảm ơn bạn, kichbu của tôi!
Đây là đoạn mà báo giới chống Cộng đánh tráo từ của ông Medvedev:
Trích:
Các bạn còn nhớ một số nước, ở đó đã xảy ra sự anh hùng hóa những kẻ tội phạm Đức quốc xã. Đây là điều rất buồn. Vâng, tất nhiên, không ai lý tưởng hóa vai trò của Liên Xô trong thời kỳ hậu chiến. Nhưng không thể xem những kẻ đồ tể là những nạn nhân trong bất kỳ trường hợp nào. Những người xem vai trò của Hồng quân và vai trò của quân xâm lược phát xít cũng như nhau đã phạm phải tội ác đạo đức. Tôi muốn nhấn mạnh rằng những người Đức trong ý nghĩa này cư xử đàng hoàng hơn rất nhiều so với các đại diện của các quốc gia vùng Pribaltics, mặc dù đối với họ đây là đề tài đau lòng. Mặt khác, có những quyết định thời hậu chiến đã không thể thay đổi được và tôi tin tưởng, chúng sẽ không bao giờ thay đổi được, bao gồm cả các quyết định của tòa án Nyurnberg. Chính ở đó các tội ác của những kẻ theo chủ nghĩa Nadi đã được phân loại như những tội ác chống loài người. Những tội ác này không bao giờ hết thời hiệu pháp lý, và vì nó tinh thần trách nhiện cần được thể hiện ngay lập tức. |
Bài của Lê Diễn Đức - Tổng thống Nga Medvedev: Tội ác cộng sản không bao giờ hết thời hiệu pháp lý http://ledienduc.wordpress.com/2010/...ai-toan-trị/
Lê Diễn Đức dù có link nguồn bài phỏng vấn nhưng vẫn cắt cúp lời nói của ông Medvedev, vứt phéng Phát xít Đức và hướng người đọc về phía Cộng sản, bởi cuối bài viết Lê Diễn Đức còn hùng hồn lên án Đảng Cộng Sản Việt Nam bằng các chứng cứ: Cải cách Ruộng đất, Tết Mậu Thân 1968 v.v
RFI có nhẹ nhàng hơn chút, không cắt cúp lồng ghép nhưng giọng điệu thì ai cũng biết rồi.
Tổng thống Nga lên án chế độ toàn trị ở Liên Xô http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/2010...an-tri-lien-xo
Trích:
Tội phạm giết người không hết thời hiệu Vào tháng tháng 3/2010 vừa qua, Viện công tố quân sự Nga trong phúc trình trả lời Toà án Nhân quyền châu Âu ở Strasbourg về đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại của thân nhân những nạn nhân Ba Lan trong vụ thảm sát Katyn, khẳng định rằng, vụ thảm sát xảy ra từ năm 1940 đã hết thời hiệu pháp lý và nước Nga ngày hôm nay không thể chịu trách nhiệm cho một chính thể trong thời gian trên. Tuyên bố hôm nay của Medvedev đã ngược lại hoàn toàn với lập trường của chính phủ Nga trước đó. - “Nếu ngày hôm nay, nhắm mắt trước các tội ác này, thì trong tương lai những tội ác như vậy có thể lặp lại – muốn hay không, ở dạng này hay dạng khác, ở các nước khác nhau. Vì vậy, mặc dù điều này diễn tả tuy gay gắt, nhưng tội ác như vậy là không bao giờ hết thời hiệu. Những kẻ gây ra chúng sẽ phải chịu trách nhiệm, bất kể đã xảy ra cách đây bao nhiêu năm” – Medvedev nói. - ‘Đối với những tội phạm như vậy không có thời hiệu – bất kể người gây ra nó là ai. Đây là vấn đề của trách nhiệm đạo đức cho các thế hệ tương lai của chúng ta” – Ông nói. |
Trích:
Một nước nhỏ, độc tài, toàn trị như Việt Nam khó bao giờ được những cường quốc dân chủ tin cậy, có quan hệ đồng minh thật lòng và chơi hết mình. Trong khi đó, để giữ vững chế độ, Đảng Cộng sản Việt Nam lại còn cam chịu cúi đầu hèn hạ trước mọi sự bức hiếp, lấn lướt của lãnh đạo Bắc Kinh trong kinh tế cũng như chính trị. Làm sao trong hoàn cảnh như thế nước Việt Nam có thể giữ được chủ quyền! Mặt khác, từ vụ thảm sát Katyn cách đây 70 năm, những cuộc đối đầu bền bỉ và khó khăn của dân tộc Ba Lan trên con đường công khai hoá sự thật, và cùng với nhận định hôm nay của Tổng thống Nga Medvedev, người Việt chúng ta, trước hết là các nhà sử học, phải có trách nhiệm lột trần các tội ác mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã gây ra và đưa chúng ra ánh sáng công lý, chưa phải hôm nay thì trong tương lai. Trước sinh mạng của hàng trăm ngàn người vô tội bị giết oan trong Cải cách Ruộng đất, hàng ngàn người bị thảm sát tập thể trong Tết Mậu Thân 1968, hàng ngàn (hoặc hàng chục ngàn?) người chết vì bị lừa gạt trong chiến dịch bán bãi lấy vàng/vượt biên bán chính thức, v.v… Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ nhìn nhận tội ác của mình, không hề có ý định thành tâm xin lỗi nhân dân, mà ngược lại, bao che, bưng bít và đàn áp thẳng tay những ai đi tìm sự thật. Những điều mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang làm hoàn toàn giống các đảng cộng sản anh em của họ một thời trong khối xã hội chủ nghĩa. Nhưng sự thật có thể giấu giếm nhưng không bao giờ có thể xoá bỏ nó khỏi lịch sử! Nguồn tin tham khảo: Nhật báo Ba Lan Gazeta Wyborcza 7/05/2010. Toàn bộ cuộc phỏng vấn của nhật báo Nga “Izvestia” nằm tại link: http://www.izvestia.ru/pobeda/article3141617 |
Tổng thống Nga lên án chế độ toàn trị ở Liên Xô http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/2010...an-tri-lien-xo
Bản dịch của theviewingplatform trên
Quà của báo “Tin tức” tặng tổng thống Dmitry Medvedev - ảnh chụp phóng viên chiến tuyến Pavel Troshkin – do tổng biên tập tòa báo Vitaly Abramov trao (phóng viên nhiếp ảnh: Ekaterina Shtukina /”Izvestia”)
Dmitry Medvedev: “Chúng ta không phải ngại ngùng kể sự thật về chiến tranh, sự thật mà vì nó chúng ta đã chịu quá nhiều đau khổ”
Phóng viên phỏng vấn Vitaly Abramov
V.A.: Dmitry Anatolievich kính mến! Trước đây chúng ta quen nói: ở Liên Xô không có một gia đình nào mà chiến tranh không chạm tay vào. Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã để lại dấu ấn gì trong gia đình ngài?
D.M.: Tôi cũng cho câu nói đó hoàn toàn chính xác. Đó không phải câu nói mỹ miều, sáo rỗng. Chiến tranh đã động chạm tới mỗi gia đình Xô Viết ở mức độ khác nhau. Đối với một bộ phận nhân dân rất đông đảo - chiến tranh đi kèm sự mất mát người thân, đối với những người khác – là những khó khăn mà tất cả những ai sống ở Liên Xô thời kỳ đó đều phải đương đầu.
Họ hàng cả nội ngoại của tôi đều chịu tác động của chiến tranh. Cả hai ông nội (Afanasy Fiođorovich) và ngoại (Venhiamin Sergheevich) đều tham gia chiến tranh, cả hai đều trải qua những thử thách chinh chiến khác nhau. Lúc tôi còn nhỏ, mỗi lần về chơi nhà ông nội Afanasy ở Krasnodar, ông đều kể chuyện chiến tranh, khiến tôi xúc động mạnh. Ông nói chân thật, không giấu nước mắt. Ông kể những chuyện thời đó ít ai dám nói. Ông chiến đấu ở nhiều nơi, bị thương nặng, đã được tặng các huân và huy chương khác nhau. Tôi ghi nhớ các câu chuyện của ông, bởi tôi tiếp nhận chúng từ chính người ruột thịt của mình.
Và ông ngoại Venhiamin cũng kể cho tôi nghe nhiều về chiến tranh, về những cảm xúc của ông lúc đó. Tôi vẫn nhớ rõ: ông kể cho tôi nghe chuyện phải khó khăn lắm mới quen với việc bắn vào con người, những cảm giác nặng nề như thế nào khi phải hành động như thế, mặc dù hiểu là để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ những người thân khỏi kẻ thù xâm lược đất nước chúng ta, giết đồng bào của chúng ta, đốt cháy các thành phố và làng mạc của chúng ta. Đó là câu chuyện rất riêng tư mà lúc còn trẻ tôi ít nghĩ tới. Song với tuổi tác tôi hiểu ra - trận nghĩa là gì, khi mặt đối mặt với kẻ thù.
Cha mẹ tôi đi sơ tán. Mẹ tôi từng sống ở Tadzikistan, lúc đó còn nhỏ, vẻn vẹn vài tuổi, khi xảy ra chiến tranh. Mẹ tôi cùng bà ngoại sống nơi sơ tán, các ông nội ngoại ra trận. Kỷ niệm gia đình, tất nhiên, luôn tạo ra bầu không khí đặc biệt, mỗi khi chúng tôi kỷ niệm 9 tháng năm. Ví dụ, tôi luôn nhớ năm 75, khi tôi lên mười. Năm đó kỷ niệm 30 năm ngày kết thúc chiến tranh. Các cựu chiến binh phấn khởi, ai nấy đeo huân huy chương. Nhạc được bật lên, họ ôm nhau, lúc đó họ còn rất đông. Chỗ nào chúng tôi đến, bất kể tượng đài Chiến thắng hay nghĩa trang Piscariov, chỗ nào cũng thấy rất đông các cựu chiến binh, và không khí ngày hội. Kỷ niệm về những ngày đó đọng lại mãi trong trí nhớ của tôi.
V.A.: Ngài sinh ra hai mươi năm sau chiến tranh. Có nghĩa, chiến tranh đối với Ngài là một bộ phận của lịch sử, chứ không phải lý lịch. Thái độ của Ngài về lịch sử chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã thay đổi như thế nào với thời gian? Ai đã có thể ảnh hưởng tới sự thay đổi đó và như thế nào?
D.M.: Nó không thay đổi một cách tận gốc. Về các tiêu chí cơ bản thái độ đó vẫn như trước.
Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại có ý nghĩa gì với chúng ta? Đó là sự tấn công của cả một bộ máy xâm lược khổng lồ, những kẻ mang đến nỗi đau và chết chóc. Ở đây không thể thêm hay bớt điều gì, bất chấp thời gian bao lâu đã trôi qua. Mặc dù tôi sinh ra sau khi chiến tranh kết thúc rất lâu và thế hệ ngày nay biết về chiến tranh chỉ qua sách vở, phim ảnh, chuyện các cựu chiến binh kể, song điều này, theo tôi, là hoàn toàn hiển nhiên với tất cả những ai sống ở nước Nga.
Vì lẽ đó, chiến tranh là một phần lịch sử, song đồng thời là một phần lịch sử diễn ra cách đây không lâu, điều tôi muốn nhấn mạnh. Có thể bàn cãi rằng sự kiện này khác có thể diễn ra theo các cách khác. Song riêng về các sự kiện chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại – thì đến tận bây giờ vẫn còn sống một số lượng khổng lồ những người từng tham gia chiến đấu và là nhân chứng sống cuộc chiến đã xảy ra. Đây không phải chuyện xảy ra 200, 300 năm trước, mặc dù lúc đó cũng xảy ra các thảm họa toàn cầu, những cuộc chiến tranh lớn.
Vì thế thái độ của tôi với các sự kiện thời gian đó thay đổi một cách không tận gốc.
Tất nhiên, không ai lý tưởng hóa vai trò của Liên Xô thời kỳ sau chiến tranh. Song không bao giờ được phép gọi nạn nhân là đao phủ. Những ai đặt vai trò của Hồng Quân và phát xít Đức lên cùng một thớt là phạm tội ác đạo đức.
Tất nhiên, nhiều tài liệu chỉ được công khai hóa vào cuối những năm 80, khi các tài liệu lưu trữ bắt đầu được đăng, khi chúng ta có khả năng tiếp cận một phần các nguồn từng là tuyệt mật. Một thời gian dài chiến tranh chỉ được tung hô như chiến thắng vĩ đại của nhân dân Xô Viết và Hồng Quân. Song chiến tranh còn là một khối lượng khổng lồ các nạn nhân và những tổn thất khổng lồ mà nhân dân Liên Xô phải hứng chịu cùng các nước châu Âu khác. Có thể, về phần này, thì tất nhiên có một số thay đổi.
V.A.: Cách đây không lâu Ngài tuyên chiến tệ nạn viết lại lịch sử bằng việc thành lập một ủy ban chuyên môn. Những hành động viết lại lịch sử nào thúc đẩy Ngài làm việc đó?
D.M.: Cách xử sự đáng xấu hổ của một số nhà chính trị, những người để đạt được những mục đích nhỏ mọn, thậm chí tôi có thể gọi là tiểu nhân, của mình, bắt đầu áp dụng những cách diễn giải khoa học giả hiệu khác nhau để đơn giản gặt hái uy tín chính trị. Song sự việc không chỉ ở chỗ bác lại các nhân vật cụ thể, mà còn ở chỗ họ có quyền có ý kiến riêng của mình. Vấn đề ở tương lai của chúng ta, chúng ta sẽ để lại kỷ niệm gì về mình, con cháu chúng ta sẽ nghĩ gì, họ sẽ biết gì về chiến tranh và các bài học nào từ cuộc chiến tranh này.
Đối với thế hệ tôi và các anh, đối với những người trưởng thành và còn trẻ, những từ như “phát xít”, “đảng viên quốc xã” chỉ có thể mang ý nghĩa tiêu cực. Song , đáng tiếc, bây giờ điều đó đối với tất cả không phải như vậy. Ở nhiều nước châu Âu đang diễn ra việc phục hồi phát xít. Thậm chí ở Nga cũng có một số quái thai sử dụng biểu tượng Đức quốc xã và tụ tập lực lượng dưới những khẩu hiệu như thế. Vì thế đây không còn là vấn đề nhàm tản. Song điều quan trọng nhất – chúng ta phải đưa được sự thật đến cho con người. Vậy sự thật về cái gì?
Nhân dân chúng ta không có cuộc lựa chọn khác. Họ là những người sống vào thời điểm đó ở nước ta, - họ có thể hoặc chết hoặc trở thành nô lệ. Không có khả năng thứ ba. Và đây là một sự thật hiển nhiên. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là câu hỏi ai khởi chiến và ai có tội trong chuyện đó? Đây cũng là một điều hoàn toàn hiển nhiên. Nó được công nhận không chỉ bằng hồ sơ vụ án Nuremberg Trials, trong các văn kiện, mà còn trong ký ức một số lượng người khổng lồ. Mưu toan đánh tráo các sự kiện lịch sử trông giống một ác ý.
Chúng ta phải đưa ra sự thật. Và điều này không có nghĩa phải đấu tranh với các cách diễn giải khác nhau các sự kiện chiến tranh hay với các học thuyết. Xin mời nêu ra và chứng minh những giả thiết mới, song có những bằng chứng không cần chứng minh – hoặc do tính hiển nhiên của chúng, hoặc do chúng được xác nhận bởi các văn bản quốc tế, như được tôi nhấn mạnh là các biên bản vụ án Nuremberg Trials. Về những vấn đề này thì tranh luận là không thể, bởi chúng được tiến hành theo hướng rất tồi tệ.
Nếu vào một lúc chúng ta sẽ cho rằng công việc đã kết thúc ở đây, thì ủy ban chuyên môn sẽ chấm dứt hoạt động.
V.A.: Các sự kiện ở các nước cộng hòa Baltic, Ucraine, Gruzia nói lên việc lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai được lý giải theo cách có lợi cho một số thế lực chính trị. Tuy nhiên, không thể không tính tới sự thật lịch sử các dân tộc. Lịch sử đó khác nhau. Phải làm gì để những người hy sinh trong chiến tranh chống Đức Quốc xã được tưởng nhớ với lòng biết ơn ở mọi nơi?
D.M.: Tất nhiên, mỗi nước mỗi lịch sử. Và không thể nói rằng các sự kiện thời sau chiến tranh đều mang lại phồn vinh cho tất cả các nước được giải phóng. Tuy nhiên ở đây có một điều láu lỉnh. Chúng ta phải hiểu: nếu Liên Xô không cùng các nước khác thuộc khối chống Hitle giải phóng châu Âu, châu Âu đã hoàn toàn khác. Đó có thể chỉ là một trại tập trung khổng lồ làm việc cho một quốc gia. Đa số người châu Âu đang sống đơn giản có thể không bao giờ được sinh ra trên đời.Tôi từng nói về chuyện đó mới đây, khi chúng tôi cùng đồng nghiệp Slovakia kỷ niệm ngày giải phóng. Song, mặt khác, các sự kiện sau chiến tranh đã là phần khác của lịch sử, nó bị tư tưởng hóa tuyệt đối, và thật dễ hiểu là Liên Xô, như một nhà nước, đã theo đuổi những mục đích của mình. Liên Xô là một quốc gia rất phức tạp. Nếu nói thẳng, thì chế độ được xây dựng ở Liên Xô không thể gọi cách khác, ngoài độc tài. Đáng tiếc, đó là một chế độ chà đạp các quyền và tự do cơ bản. Và không chỉ đối với các công dân của mình (sau chiến tranh một bộ phận nhân dân, là những người chiến thắng, đã bị đưa đến tù giam tại các trại tập trung). Ở các nước XHCN khác cũng như vậy. Và, tất nhiên, không thể xóa bỏ điều đó khỏi lịch sử.
Song nghệ thuật của nhà sử học, một mặt, sự tỉnh táo lý trí của người bình thường, mặt khác, chính ở chỗ tách biệt sứ mạng của Hồng Quân và nhà nước Xô Viết trong giai đoạn chiến tranh vơí cái xảy ra sau đó. Đúng vậy, trong cuộc sống chuyện đó được phân chia rất phức tạp, song cần thiết phải làm để một lần nữa nhấn mạnh: nếu không có vai trò của Hồng Quân, nếu không có sự hy sinh khủng khiếp mà nhân dân Xô Viết phải gánh chịu vì chiến tranh, châu Âu đã hoàn toàn khác. Ai cũng hiểu là một châu Âu hiện đại, phồn vinh, thịnh vượng, giàu có, phát triển tốt có thể không có. Và tôi nghĩ, chỉ người điếc mới không nghe thấy những luận cứ này.
Tôi nghĩ, ở đây chỉ cần chúng ta đơn giản, không phải ngại ngùng gì, kể về điều đó, không phải ngại ngùng trở về những sự kiện thời kỳ đó, nói về điều đó ở khắp các diễn đàn khác nhau nhất: cả ở Nga, cả ở các nước láng giềng, các quốc gia châu Âu, cả từ diễn đàn Liên Hợp Quốc, và trong bất kỳ cuộc gặp gỡ, hội thảo nào. Không nên ngại kể sự thật về chiến tranh, sự thật mà vì nó chúng ta chịu quá nhiều đau khổ. Tôi nghĩ, như thế sẽ trung thực và đúng sự thật hơn cả.
Anh nhắc tên các nước, nơi diễn ra việc anh hùng hóa bọn tội phạm Đức Quốc xã. Điều đó rất đáng buồn. Tất nhiên, không ai lý tưởng hóa vai trò của Liên Xô thời kỳ sau chiến tranh. Song cương quyết không được gọi nạn nhân là đao phủ. Những ai đặt vai trò của Hồng Quân và phát xít Đức lên cùng một thớt là phạm tội ác đạo đức.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng về mặt này người Đức xử sự xứng đáng hơn nhiều đại diện các quốc gia Cận Baltic, mặc dù đối với họ đây là đề tài rất nhạy cảm. Mặt khác, có những bản án sau chiến tranh chưa hề bị ai hủy (và tôi tin là chúng sẽ không bao giờ bị hủy), kể cả các bản án của The Nuremberg Trials . Chính ở đó các tội ác của Đức Quốc Xã được chỉ định là tội ác chống nhân loại. Những tội ác này không có thời điểm hết hạn, và trách nhiệm về chúng phải là vô thời hạn.
V.A.: Sau những vụ án ầm ỹ mới đây xử các nguyên đảng viên Đức Quốc Xã ở châu Âu, trong xã hội xuất hiện tranh luận: có nên xử mấy người già nua hay không? Đã đến lúc ân xá tất cả những ai còn sống, thậm chí tội phạm Đức Quốc Xã, để giai đoạn đáng sợ đó mãi chìm vào quá khứ?
D.M.: Anh ngụ ý những tội ác mà vì chúng người ta xử Demianhiuk bây giờ ai cũng biết? Song sự việc không chỉ ở các tên cụ thể. Những tội ác như thế không có thời điểm hết hạn, bất kể người phạm tội là ai. Đây là vấn đề trách nhiệm đạo đức của chúng ta trước các thế hệ tương lai, và, nếu bây giờ chúng ta nhắm mắt làm ngơ những tội ác này, trong tương lai chúng có thể được lặp lại, bằng cách này hay cách khác, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở các quốc gia khác nhau. Vì thế, điều này có thể nghe tàn nhẫn, song những tội ác này quả không có mốc hết hạn, thì những ai phạm những tội ác đó, phải bị trừng phạt, bất kể họ bao nhiêu tuổi.
V.A.: Trong lúc ở Nga người ta viết những sách giáo khoa ít thành công nhất về lịch sử, xã hội phương Tây kịp quen với truyền thống đặt vòng nguyệt quế xuống đài tưởng niệm chiến thắng nước Đức phát xít cho quân đội đồng minh. Về việc Hồng Quân từng tiếp quản Berlin, về những tổn thất khổng lồ của Liên Xô trong chiến tranh, ở đó người ta nếu biết, cũng chỉ là các nhà sử học và chính trị. Chúng ta đang mất dần Chiến thắng của mình...
D.M.: Tôi cho rằng ở Nga về mặt này tương đối bình thường và, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau như tôi đã nói, nhìn chung không sức mạnh nào có thể thay đổi quan điểm của chúng ta về Chiến thắng.
Sự thật là quân đội Hitler chịu gần ba phần tư tổn thất là ở hướng Đông, ở Liên Xô. Gần bảy mươi phần trăm tổn thất vật chất, vũ khí là do quân đội Liên Xô gây nên cho phát xít Đức. Sự thật chính ở chỗ đó!
Hay nói chung có thể làm phim về đề tài này. Hiển nhiên, nếu đủ trình độ làm việc này (mà người Mỹ làm việc này rất giỏi), thì kết quả sẽ là chiến thắng thuộc về phương Tây và chân lý cuối cùng sẽ là phim “Saving Private Ryan”. Đây là một bộ phim hay. Song điều đó không có nghĩa là nó nói sự thật. Đây là một blockbuster về chiến tranh, mặc dù các tác giả phim có thể còn theo đuổi các thiện ý nào khác. Song chúng ta phải luôn nhớ chuyện thực xảy ra như thế nào.
Tiện đây tôi muốn nói nền điện ảnh của chúng ta, cả Xô Viết và Nga hiện đại, về mặt này, theo tôi, có trình độ rất cao. Vào thời Liên Xô, mặc dù điện ảnh bị chính trị hóa nặng và không phải lúc nào cũng chịu được thử thách thời gian, song phim thời kỳ đó tuyệt vời về chất lượng: “Đàn sếu bay”, “Nhà ga Belorusy”, “Họ chiến đấu vì Tổ quốc”. Thậm chí cả bộ phim phiêu lưu như “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân”. Song đây đồng thời là bộ phim về chiến tranh, được làm một cách tài năng. Và chúng ta càng chiếu nhiều những bộ phim này bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu.
Phải làm những bộ phim mới. Với công nghệ điện ảnh mới. Nói chung không nên sao chép cái đã có. Tôi cho rằng ở đây cho phép các thử nghiệm. Điều quan trong để họ đạt được đích, để họ kể sự thật.
Với sách giáo khoa cũng thế. Đây là một đề tài riêng, một lúc nào đó có thể tiếp tục câu chuyện về nó. Tôi nghĩ thái độ với Chiến tranh Thế giới thứ Hai quả thực được hình thành bởi sách, ở giai đoạn, khi trẻ bắt đầu đọc. Về mặt này sứ mệnh của sách giáo khoa, sách lịch sử là hoàn toàn quan trọng. Hiện nay có nhiều công trình về Chiến tranh Vệ quốc đã được in. Những công trình này được đổi mới và bổ sung: xuất hiện các nghiên cứu mới, những chứng cớ được chứng minh, nảy sinh các đề tài tranh luận.
Song thiết nghĩ, tinh túy của các công trình dạng đó phải được đưa vào sách giáo khoa, hơn nữa phải tính tới cái mà tôi và anh vừa nói tới, tính tới khả năng không cho phép việc đánh tráo các sự kiện hiển nhiên. Bởi trẻ em, bất kể chúng sống ở đâu, ở Nga hay các nước khác, như trang giấy trắng sẵn sàng tiếp nhận kiến thức mới. Nếu ngay từ lúc bé, chúng hấp thụ thông tin không đúng, sau đó rất khó thay đổi quan điểm. Như chúng ta đều biết là nhiều công dân Nga đã bị sốc như thế nào sau một số sự kiện, khi họ được chỉ cho thấy những trang lịch sử nước nhà hoàn toàn nặng nề, đầy kịch tính, liên can tới hoạt động của một số nhà lãnh đạo nhà nước Xô Viết.
Afanasy Fiodorovich Medvedev, ông nội tổng thống Dmitry Medvedev cùng bà nội Nadezhda Vasilievna và hai người con của họ Anatoly và Svetlana. Năm 1941.
D.M.: Tôi cho rằng ở Nga về mặt này tương đối bình thường và, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau như tôi đã nói, nhìn chung không sức mạnh nào có thể thay đổi quan điểm của chúng ta về Chiến thắng.
Sự thật là quân đội Hitler chịu gần ba phần tư tổn thất là ở hướng Đông, ở Liên Xô. Gần bảy mươi phần trăm tổn thất vật chất, vũ khí là do quân đội Liên Xô gây nên cho phát xít Đức. Sự thật chính ở chỗ đó!
Hay nói chung có thể làm phim về đề tài này. Hiển nhiên, nếu đủ trình độ làm việc này (mà người Mỹ làm việc này rất giỏi), thì kết quả sẽ là chiến thắng thuộc về phương Tây và chân lý cuối cùng sẽ là phim “Saving Private Ryan”. Đây là một bộ phim hay. Song điều đó không có nghĩa là nó nói sự thật. Đây là một blockbuster về chiến tranh, mặc dù các tác giả phim có thể còn theo đuổi các thiện ý nào khác. Song chúng ta phải luôn nhớ chuyện thực xảy ra như thế nào.
Tiện đây tôi muốn nói nền điện ảnh của chúng ta, cả Xô Viết và Nga hiện đại, về mặt này, theo tôi, có trình độ rất cao. Vào thời Liên Xô, mặc dù điện ảnh bị chính trị hóa nặng và không phải lúc nào cũng chịu được thử thách thời gian, song phim thời kỳ đó tuyệt vời về chất lượng: “Đàn sếu bay”, “Nhà ga Belorusy”, “Họ chiến đấu vì Tổ quốc”. Thậm chí cả bộ phim phiêu lưu như “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân”. Song đây đồng thời là bộ phim về chiến tranh, được làm một cách tài năng. Và chúng ta càng chiếu nhiều những bộ phim này bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu.
Phải làm những bộ phim mới. Với công nghệ điện ảnh mới. Nói chung không nên sao chép cái đã có. Tôi cho rằng ở đây cho phép các thử nghiệm. Điều quan trong để họ đạt được đích, để họ kể sự thật.
Với sách giáo khoa cũng thế. Đây là một đề tài riêng, một lúc nào đó có thể tiếp tục câu chuyện về nó. Tôi nghĩ thái độ với Chiến tranh Thế giới thứ Hai quả thực được hình thành bởi sách, ở giai đoạn, khi trẻ bắt đầu đọc. Về mặt này sứ mệnh của sách giáo khoa, sách lịch sử là hoàn toàn quan trọng. Hiện nay có nhiều công trình về Chiến tranh Vệ quốc đã được in. Những công trình này được đổi mới và bổ sung: xuất hiện các nghiên cứu mới, những chứng cớ được chứng minh, nảy sinh các đề tài tranh luận.
Song thiết nghĩ, tinh túy của các công trình dạng đó phải được đưa vào sách giáo khoa, hơn nữa phải tính tới cái mà tôi và anh vừa nói tới, tính tới khả năng không cho phép việc đánh tráo các sự kiện hiển nhiên. Bởi trẻ em, bất kể chúng sống ở đâu, ở Nga hay các nước khác, như trang giấy trắng sẵn sàng tiếp nhận kiến thức mới. Nếu ngay từ lúc bé, chúng hấp thụ thông tin không đúng, sau đó rất khó thay đổi quan điểm. Như chúng ta đều biết là nhiều công dân Nga đã bị sốc như thế nào sau một số sự kiện, khi họ được chỉ cho thấy những trang lịch sử nước nhà hoàn toàn nặng nề, đầy kịch tính, liên can tới hoạt động của một số nhà lãnh đạo nhà nước Xô Viết.
Afanasy Fiodorovich Medvedev, ông nội tổng thống Dmitry Medvedev cùng bà nội Nadezhda Vasilievna và hai người con của họ Anatoly và Svetlana. Năm 1941.
V.A.: Trong nhiều thập kỷ con số thương vong chính thức của Liên Xô trong chiến tranh được thay đổi nhiều lần. Liệu thống kê đau buồn này sẽ trở thành chính xác và dứt điểm một lúc nào đó?
D.M.: Đây là một chủ đề khó. Tôi còn nhớ rõ tập cuối của anh hùng ca điện ảnh “Giải phóng” kết thúc bằng một dòng chữ chạy – ai tổn thất gì trong thời gian Thế Chiến thứ Hai. Những con số đáng sợ. Và dòng cuối cùng về những thiệt hại của Liên Xô: “Số người dân Xô Viết chết là hơn hai mươi triệu”. Tất cả các con số: mười bốn triệu hay hai mươi triệu hoặc giả hai mươi bảy triệu – đều là những con số khổng lồ, nằm ngoài sức chịu đựng. Song chúng ta không thể giản lược hóa tình huống. Chúng ta phải tiến hành công việc này đến nơi đến chốn.
Đây là công việc gì? Phải xác định chính xác, chúng ta đang nói về những mất mát nào. Có những tổn thất trực tiếp trong chiến tranh – đó là những người đã hy sinh ngoài mặt trận. Có những người chết vì bị thương (cả trong và sau chiến tranh). Có những người chết trong trại tù binh, chết vì đói, vì bom, ở nơi chiếm đóng. Tất cả điều này đòi hỏi một công việc rất chính xác và công phu. Bây giờ tất cả các kho lưu trữ đã mở công khai, ở đây không còn vấn đề gì. Công việc tương tự cũng đang được tiến hành dưới sự chỉ đạo của Tổng Tham mưu, nơi có hẳn một tổ công tác đặc trách. Tôi hy vọng nó sẽ hoàn thành trọn vẹn công việc. Song chúng ta phải làm việc đó một cách thận trọng tối đa.
V.A.: Gần đây nhiều người hỏi ngài về vai trò của Stalin trong chiến thắng. “Izvestia” cũng không bỏ qua cơ hội đó. Trong ngữ cảnh nào? Đúng là Stalin đã lãnh đạo một đất nước chiến thắng phát xít. Song điều dó không cho quyền biến bạo chúa phạm tội ác chống nhân loại thành anh hùng?
D.M.: Có những sự thật hiển nhiên – người chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là nhân dân chúng ta, chứ không phải Stalin và thậm chí không phải các tướng lĩnh với tính quan trọng của việc họ làm. Đúng thế, vai trò của họ hiển nhiên rất nghiêm túc, song chiến thắng chiến tranh chính là nhân dân bằng giá của những nỗ lực phi thường, giá sự sống của một số lượng người khổng lồ.
Còn về vai trò của Stalin, thì có thể đánh giá nó nhiều cách khác nhau. Có người cho vai trò của Tổng tư lệnh Tối cao là tuyệt đối, có người không cho như vậy. Vấn đề không phải ở đó, mà ở chỗ chúng ta đánh giá bản thân Stalin nói chung như thế nào. Nếu nói về sự đánh giá cấp nhà nước, về việc chính quyền chính thức nhà nước đánh giá Stalin như thế nào trong những năm gần đây, kể từ thời điểm khai sinh nhà nước Nga mới, thì ở đây có sự đánh giá rõ ràng – Stalin đã phạm vô vàn tội ác chống nhân loại. Và mặc dù ông ta làm việc nhiều, mặc dù dưới sự lãnh đạo của ông ta đất nước đạt được các thành tựu, song tội ác ông ta phạm chống nhân loại không thể được tha thứ. Đây là điều thứ nhất.
Điều thứ hai là những người yêu Stalin hay ghét Stalin đều có quyền bày tỏ quan điểm của mình. Và không có gì đáng ngạc nhiên việc nhiều cựu chiến binh, những người thuộc thế hệ những người chiến thắng có thái độ tốt với Stalin. Tôi cho rằng đó là quyền của họ. Mỗi người có quyền đánh giá riêng. Song những đánh giá riêng đó không có quyền ảnh hưởng tới những đánh giá của nhà nước. Và tôi một lần nữa vừa đưa ra những đánh giá đó.
Đôi khi có cảm giác đề tài này bị khai thác quá tải. Nếu nói về thái độ về Stalin và một số nhà lãnh đạo khác, thì ngay những năm 90 có không ít những người sủng bái nhân vật này, song không ai nói về sự khôi phục chủ nghĩa Stalin. Song bây giờ người ta rộ lên nói. Đúng thế, các nhân vật lịch sử có thể trở thành đối tượng ngưỡng mộ, thần thánh hóa. Đôi khi người làm việc đó là chính thanh niên, đặc biệt thanh niên Tả khuynh. Song đó suy cho cùng là việc riêng của họ. Còn hiển nhiên đối với tuyệt đại đa số con người trên thế giới hình ảnh Stalin là rõ ràng, nó không gợi nên bất cứ tình cảm ấm áp nào.
Song không bao giờ có thể nói rằng chủ nghĩa Stalin đang trở lại đời sống hàng ngày của chúng ta, rằng chúng ta khôi phục lại biểu tượng chế độ cũ, rằng chúng ta chuẩn bị sử dụng những khẩu hiệu nào đó, và bao nhiêu thứ nữa. Tất cả những cái đó sẽ không bao giờ có. Điều đó tuyệt nhiên bị loại bỏ. Và đây, nếu các anh muốn, chính là hệ tư tưởng nhà nước hiện nay và sự đánh giá của tôi như Tổng thống Liên bang Nga. Vì thế trong vấn đề này tôi luôn tách rời đánh giá chính thức của nhà nước khỏi những đánh giá cá nhân.
V.A.: Đmitry Anatolievich, Ngài, như một nhà chính trị, có thể giải thích như thế nào việc Stalin suốt cả một năm làm ngơ nhiều cảnh báo về âm mưu xâm lược của nước Đức?
D.M.: Anh biết tôi không phải nhà sử học. Mặc dù như bất kỳ nhà chính trị nào, như bất kỳ người nào đứng ở vị trí lãnh đạo nhà nước, tôi tất nhiên rất quan tâm tới lịch sử đất nước.
Tôi không thể tự ý khẳng định tại sao ông ta làm ngơ, mặc dù về đề tài này người ta đã viết không ít sách và làm không ít phim. Tôi nghĩ, ông ta đơn giản muốn là không thể xảy ra nguy cơ đó. Ông ta tin rằng những hiệp ước này nọ của ông ta sẽ không bị bội ước bởiArthur Neville Chamberlain và Édouard Daladier , khi ký hiệp ước Munich Agreement. Song, như đã biết, họ ký cái họ không có ý định thực hiện. Sir Winston Leonard Spencer-Churchill từng có câu nổi tiếng về việc họ kén cá chọn canh giữa một bên là nỗi nhục bội ước với một bên là chiến tranh, song họ thoạt tiên nhận nỗi nhục bội ước, và sau đó vẫn là chiến tranh.
Với Stalin cũng thế - cuộc lựa chọn đầy khó khăn. Ông ta tính trì hoãn ngày xảy ra kết quả nặng nề này. Ở đâu đó, có thể, ông ta đã tính sai. Song rõ ràng là do hậu quả của đánh giá sai lầm đó đã buộc phải trả giá. Và cái giá thì khủng khiếp: đó là sinh mạng của đồng bào chúng ta. Dù sao chăng nữa, như chúng ta biết, lịch sử không biết giả định thuyết.
Venhiamin Sergheevich Shaposhnhikov, ông ngoại tổng thống Dmitry Medvedev
Đây là đề tài rất tinh tế. Tôi nhấn mạnh, đây đã không phải sự đánh giá Stalin như một cá nhân chịu trách nhiệm trước nhân dân Nga và lúc đó là Liên Xô, mà là sự đánh giá Stalin như nhà lãnh đạo thời kỳ đó. Ông ta có những giải pháp yếu, cũng như có những giải pháp rất mạnh, trong đó có cả thời kỳ chiến tranh. Không thể bác bỏ điều này được.
Mặt khác, đúng là ai cũng hiểu, để đề phòng chiến tranh với Hitler nước ta có thể chuẩn bị trước, kỹ lưỡng hơn, nếu không diễn ra việc thanh trừng các nhà lãnh đạo quân đội, nếu không nuôi ảo tưởng rằng Hitler không đời nào tấn công Liên Xô giai đoạn đó.
V.A.: Bất cứ cuộc chiến tranh nào suy cho cùng là bài học khó khăn cho cả người thắng lẫn kẻ thua. Tương lai của đất nước phụ thuộc nhiều vào việc các nhà chính trị lĩnh hội bài học đó như thế nào. Cá nhân Ngài, vị Tổng thống thứ Ba của nước Nga, rút ra những bài học gì từ lịch sử chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại?
D.M.: Bài học quan trọng nhất là ở chỗ chúng ta phải cùng các nước khác, các thành viên khác của cộng đồng thế giới cố gắng loại bỏ những nguy cơ như thế. Ý tưởng thuyết phục kẻ xâm lược, nhà độc tài từ bỏ dã tâm, như một quy luật, không bao giờ mang lại kết quả tích cực, đặc biệt khi tên độc tài này đã có đủ sức mạnh và đang say men hiếu chiến. Vì thế nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là xây dựng một hệ thống an ninh quốc tế ổn định. Nhiệm vụ đó là gì? Là tiếp xúc thường xuyên với thế giới và xây dựng những khuôn khổ quốc tế cho việc giải quyết những vấn đề như thế.
Loài người đã rút ra những bài học đầy thích đáng sau Thế chiến thứ Hai, và chúng ta có một công cụ quốc tế rất quan trọng. Ví dụ, tổ chức Liên hợp Quốc. Chúng ta có các tòa án quốc tế. Chúng ta có nhiều công ước quốc tế nhằm mục đích trừng phạt tội chống nhân loại gây nên bởi tội phạm quốc tế.
Song mặt khác, hệ thống an ninh quốc tế hiện nay không hoàn thiện, điều tôi nhiều lần buộc phải nói đến. Chính vì thế mới xuất hiện đề nghị của chúng ta xây dựng một cấu trúc an ninh châu Âu mới – Hiệp ước an ninh châu Âu. Tính tức thời của nó đã trở nên rõ như ban ngày, mặc dù nó gây phản ứng khác nhau. Ai đó cho rằng đây là trò bịa đặt láu lỉnh của những người Nga láu lỉnh nhằm mục đích làm Mỹ suy yếu, chia rẽ Mỹ và các nước châu Âu, chơi trò chơi nào đó của mình. Còn tôi đã nhiều lần nói rằng hiệp ước này theo đuổi những mục đích hoàn toàn khác. Chúng ta đơn giản phải tìm được một mặt bằng nơi có thể tựu trung tất cả các vấn đề khác nhau. Chúng ta phải tìm được phương thức giải quyết mâu thuẫn.
Rõ ràng là nếu chúng ta có những cơ cấu an ninh châu Âu hữu dụng, thì, có thể, những sự kiện xảy ra tháng Tám 2008 đã có thể tránh được. Có thể, một tòa án quốc tế nào đó đã diễn ra giữa các tỉnh của Gruzia muốn tự trị và Gruzia còn lại. Có thể, các cơ chế quốc tế đã được đưa vào sử dụng. Tất cả chuyện đó đã không xảy ra. Xảy ra cái khác, cái đau buồn – người chết, xung đột vũ trang, buộc phải giải quyết nó.
Vì thế, nhiệm vụ đảm bảo an ninh trên lục địa Âu không phải trừu tượng và không mang tính xã giao, nó hoàn toàn thực tế. Tôi nghĩ, những người đi trước chúng ta đã nghĩ về điều tương tự vào những năm 30, song họ không đủ dũng cảm thông qua các quyết định thích hợp. Kết quả ai cũng biết – cuộc chiến tranh khốc liệt, đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. Chính vì thế chúng ta phải xây dựng các cơ chế quốc tế hiện đại.
Như chúng ta biết, sau chiến tranh, năm 1975, đã xuất hiện Hiệp ước An ninh và cộng tác Helsinki ở châu Âu. Song thời gian không dậm chân tại chỗ. Nhiều thời gian đã trôi qua từ thời đó. Phải làm gì? Phải xây dựng những khung mới, không bác bỏ cái cũ, vận dụng kinh nghiệm hiện đại.
D.M.: Đây là một chủ đề khó. Tôi còn nhớ rõ tập cuối của anh hùng ca điện ảnh “Giải phóng” kết thúc bằng một dòng chữ chạy – ai tổn thất gì trong thời gian Thế Chiến thứ Hai. Những con số đáng sợ. Và dòng cuối cùng về những thiệt hại của Liên Xô: “Số người dân Xô Viết chết là hơn hai mươi triệu”. Tất cả các con số: mười bốn triệu hay hai mươi triệu hoặc giả hai mươi bảy triệu – đều là những con số khổng lồ, nằm ngoài sức chịu đựng. Song chúng ta không thể giản lược hóa tình huống. Chúng ta phải tiến hành công việc này đến nơi đến chốn.
Đây là công việc gì? Phải xác định chính xác, chúng ta đang nói về những mất mát nào. Có những tổn thất trực tiếp trong chiến tranh – đó là những người đã hy sinh ngoài mặt trận. Có những người chết vì bị thương (cả trong và sau chiến tranh). Có những người chết trong trại tù binh, chết vì đói, vì bom, ở nơi chiếm đóng. Tất cả điều này đòi hỏi một công việc rất chính xác và công phu. Bây giờ tất cả các kho lưu trữ đã mở công khai, ở đây không còn vấn đề gì. Công việc tương tự cũng đang được tiến hành dưới sự chỉ đạo của Tổng Tham mưu, nơi có hẳn một tổ công tác đặc trách. Tôi hy vọng nó sẽ hoàn thành trọn vẹn công việc. Song chúng ta phải làm việc đó một cách thận trọng tối đa.
V.A.: Gần đây nhiều người hỏi ngài về vai trò của Stalin trong chiến thắng. “Izvestia” cũng không bỏ qua cơ hội đó. Trong ngữ cảnh nào? Đúng là Stalin đã lãnh đạo một đất nước chiến thắng phát xít. Song điều dó không cho quyền biến bạo chúa phạm tội ác chống nhân loại thành anh hùng?
D.M.: Có những sự thật hiển nhiên – người chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là nhân dân chúng ta, chứ không phải Stalin và thậm chí không phải các tướng lĩnh với tính quan trọng của việc họ làm. Đúng thế, vai trò của họ hiển nhiên rất nghiêm túc, song chiến thắng chiến tranh chính là nhân dân bằng giá của những nỗ lực phi thường, giá sự sống của một số lượng người khổng lồ.
Còn về vai trò của Stalin, thì có thể đánh giá nó nhiều cách khác nhau. Có người cho vai trò của Tổng tư lệnh Tối cao là tuyệt đối, có người không cho như vậy. Vấn đề không phải ở đó, mà ở chỗ chúng ta đánh giá bản thân Stalin nói chung như thế nào. Nếu nói về sự đánh giá cấp nhà nước, về việc chính quyền chính thức nhà nước đánh giá Stalin như thế nào trong những năm gần đây, kể từ thời điểm khai sinh nhà nước Nga mới, thì ở đây có sự đánh giá rõ ràng – Stalin đã phạm vô vàn tội ác chống nhân loại. Và mặc dù ông ta làm việc nhiều, mặc dù dưới sự lãnh đạo của ông ta đất nước đạt được các thành tựu, song tội ác ông ta phạm chống nhân loại không thể được tha thứ. Đây là điều thứ nhất.
Điều thứ hai là những người yêu Stalin hay ghét Stalin đều có quyền bày tỏ quan điểm của mình. Và không có gì đáng ngạc nhiên việc nhiều cựu chiến binh, những người thuộc thế hệ những người chiến thắng có thái độ tốt với Stalin. Tôi cho rằng đó là quyền của họ. Mỗi người có quyền đánh giá riêng. Song những đánh giá riêng đó không có quyền ảnh hưởng tới những đánh giá của nhà nước. Và tôi một lần nữa vừa đưa ra những đánh giá đó.
Đôi khi có cảm giác đề tài này bị khai thác quá tải. Nếu nói về thái độ về Stalin và một số nhà lãnh đạo khác, thì ngay những năm 90 có không ít những người sủng bái nhân vật này, song không ai nói về sự khôi phục chủ nghĩa Stalin. Song bây giờ người ta rộ lên nói. Đúng thế, các nhân vật lịch sử có thể trở thành đối tượng ngưỡng mộ, thần thánh hóa. Đôi khi người làm việc đó là chính thanh niên, đặc biệt thanh niên Tả khuynh. Song đó suy cho cùng là việc riêng của họ. Còn hiển nhiên đối với tuyệt đại đa số con người trên thế giới hình ảnh Stalin là rõ ràng, nó không gợi nên bất cứ tình cảm ấm áp nào.
Song không bao giờ có thể nói rằng chủ nghĩa Stalin đang trở lại đời sống hàng ngày của chúng ta, rằng chúng ta khôi phục lại biểu tượng chế độ cũ, rằng chúng ta chuẩn bị sử dụng những khẩu hiệu nào đó, và bao nhiêu thứ nữa. Tất cả những cái đó sẽ không bao giờ có. Điều đó tuyệt nhiên bị loại bỏ. Và đây, nếu các anh muốn, chính là hệ tư tưởng nhà nước hiện nay và sự đánh giá của tôi như Tổng thống Liên bang Nga. Vì thế trong vấn đề này tôi luôn tách rời đánh giá chính thức của nhà nước khỏi những đánh giá cá nhân.
V.A.: Đmitry Anatolievich, Ngài, như một nhà chính trị, có thể giải thích như thế nào việc Stalin suốt cả một năm làm ngơ nhiều cảnh báo về âm mưu xâm lược của nước Đức?
D.M.: Anh biết tôi không phải nhà sử học. Mặc dù như bất kỳ nhà chính trị nào, như bất kỳ người nào đứng ở vị trí lãnh đạo nhà nước, tôi tất nhiên rất quan tâm tới lịch sử đất nước.
Tôi không thể tự ý khẳng định tại sao ông ta làm ngơ, mặc dù về đề tài này người ta đã viết không ít sách và làm không ít phim. Tôi nghĩ, ông ta đơn giản muốn là không thể xảy ra nguy cơ đó. Ông ta tin rằng những hiệp ước này nọ của ông ta sẽ không bị bội ước bởiArthur Neville Chamberlain và Édouard Daladier , khi ký hiệp ước Munich Agreement. Song, như đã biết, họ ký cái họ không có ý định thực hiện. Sir Winston Leonard Spencer-Churchill từng có câu nổi tiếng về việc họ kén cá chọn canh giữa một bên là nỗi nhục bội ước với một bên là chiến tranh, song họ thoạt tiên nhận nỗi nhục bội ước, và sau đó vẫn là chiến tranh.
Với Stalin cũng thế - cuộc lựa chọn đầy khó khăn. Ông ta tính trì hoãn ngày xảy ra kết quả nặng nề này. Ở đâu đó, có thể, ông ta đã tính sai. Song rõ ràng là do hậu quả của đánh giá sai lầm đó đã buộc phải trả giá. Và cái giá thì khủng khiếp: đó là sinh mạng của đồng bào chúng ta. Dù sao chăng nữa, như chúng ta biết, lịch sử không biết giả định thuyết.
Venhiamin Sergheevich Shaposhnhikov, ông ngoại tổng thống Dmitry Medvedev
Đây là đề tài rất tinh tế. Tôi nhấn mạnh, đây đã không phải sự đánh giá Stalin như một cá nhân chịu trách nhiệm trước nhân dân Nga và lúc đó là Liên Xô, mà là sự đánh giá Stalin như nhà lãnh đạo thời kỳ đó. Ông ta có những giải pháp yếu, cũng như có những giải pháp rất mạnh, trong đó có cả thời kỳ chiến tranh. Không thể bác bỏ điều này được.
Mặt khác, đúng là ai cũng hiểu, để đề phòng chiến tranh với Hitler nước ta có thể chuẩn bị trước, kỹ lưỡng hơn, nếu không diễn ra việc thanh trừng các nhà lãnh đạo quân đội, nếu không nuôi ảo tưởng rằng Hitler không đời nào tấn công Liên Xô giai đoạn đó.
V.A.: Bất cứ cuộc chiến tranh nào suy cho cùng là bài học khó khăn cho cả người thắng lẫn kẻ thua. Tương lai của đất nước phụ thuộc nhiều vào việc các nhà chính trị lĩnh hội bài học đó như thế nào. Cá nhân Ngài, vị Tổng thống thứ Ba của nước Nga, rút ra những bài học gì từ lịch sử chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại?
D.M.: Bài học quan trọng nhất là ở chỗ chúng ta phải cùng các nước khác, các thành viên khác của cộng đồng thế giới cố gắng loại bỏ những nguy cơ như thế. Ý tưởng thuyết phục kẻ xâm lược, nhà độc tài từ bỏ dã tâm, như một quy luật, không bao giờ mang lại kết quả tích cực, đặc biệt khi tên độc tài này đã có đủ sức mạnh và đang say men hiếu chiến. Vì thế nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là xây dựng một hệ thống an ninh quốc tế ổn định. Nhiệm vụ đó là gì? Là tiếp xúc thường xuyên với thế giới và xây dựng những khuôn khổ quốc tế cho việc giải quyết những vấn đề như thế.
Loài người đã rút ra những bài học đầy thích đáng sau Thế chiến thứ Hai, và chúng ta có một công cụ quốc tế rất quan trọng. Ví dụ, tổ chức Liên hợp Quốc. Chúng ta có các tòa án quốc tế. Chúng ta có nhiều công ước quốc tế nhằm mục đích trừng phạt tội chống nhân loại gây nên bởi tội phạm quốc tế.
Song mặt khác, hệ thống an ninh quốc tế hiện nay không hoàn thiện, điều tôi nhiều lần buộc phải nói đến. Chính vì thế mới xuất hiện đề nghị của chúng ta xây dựng một cấu trúc an ninh châu Âu mới – Hiệp ước an ninh châu Âu. Tính tức thời của nó đã trở nên rõ như ban ngày, mặc dù nó gây phản ứng khác nhau. Ai đó cho rằng đây là trò bịa đặt láu lỉnh của những người Nga láu lỉnh nhằm mục đích làm Mỹ suy yếu, chia rẽ Mỹ và các nước châu Âu, chơi trò chơi nào đó của mình. Còn tôi đã nhiều lần nói rằng hiệp ước này theo đuổi những mục đích hoàn toàn khác. Chúng ta đơn giản phải tìm được một mặt bằng nơi có thể tựu trung tất cả các vấn đề khác nhau. Chúng ta phải tìm được phương thức giải quyết mâu thuẫn.
Rõ ràng là nếu chúng ta có những cơ cấu an ninh châu Âu hữu dụng, thì, có thể, những sự kiện xảy ra tháng Tám 2008 đã có thể tránh được. Có thể, một tòa án quốc tế nào đó đã diễn ra giữa các tỉnh của Gruzia muốn tự trị và Gruzia còn lại. Có thể, các cơ chế quốc tế đã được đưa vào sử dụng. Tất cả chuyện đó đã không xảy ra. Xảy ra cái khác, cái đau buồn – người chết, xung đột vũ trang, buộc phải giải quyết nó.
Vì thế, nhiệm vụ đảm bảo an ninh trên lục địa Âu không phải trừu tượng và không mang tính xã giao, nó hoàn toàn thực tế. Tôi nghĩ, những người đi trước chúng ta đã nghĩ về điều tương tự vào những năm 30, song họ không đủ dũng cảm thông qua các quyết định thích hợp. Kết quả ai cũng biết – cuộc chiến tranh khốc liệt, đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. Chính vì thế chúng ta phải xây dựng các cơ chế quốc tế hiện đại.
Như chúng ta biết, sau chiến tranh, năm 1975, đã xuất hiện Hiệp ước An ninh và cộng tác Helsinki ở châu Âu. Song thời gian không dậm chân tại chỗ. Nhiều thời gian đã trôi qua từ thời đó. Phải làm gì? Phải xây dựng những khung mới, không bác bỏ cái cũ, vận dụng kinh nghiệm hiện đại.
V.A.: Cấu trúc châu Âu và Xuyên Đại Tây Dương cuối cùng được hình thành vào năm 1975, 30 năm sau chiến tranh. Song sau đó không lâu, vào năm 1989, Công ước Helsinki bắt đầu bị vi phạm. Từ đó bản đồ châu Âu thường xuyên thay đổi. Nhiều người cho quá trình này là thất bại của Liên Xô, biểu hiện sức yếu của nước Nga mới. Ngài có thể nói gì về chuyện đó?
D.M.: Trong bất cứ trường hợp nào, chuyện xảy ra 14-15 năm sau khi ký Công ước Helsinki đã giúp liên kết châu Âu. Đó là một.
Điều thứ hai là việc chấm dứt “chiến tranh lạnh”. Mà trong chiến tranh lạnh, về thực chất, tất cả đều thua. Việc nó chấm dứt thực chất là thắng lợi của tất cả, bởi không còn sự đối đầu như trước, không còn đe dọa chiến tranh trực tiếp, không còn căng thẳng trong bầu không khí châu Âu. Các dân tộc tự do giao tiếp, đến chơi nhà nhau. Về tổng thể chúng ta đang sống trong một châu Âu khác, và trong thực tế đúng là như thế. Song, tất nhiên, các sự kiện thời gian đó quá bi đát đối với nhiều nước châu Âu và nước Nga trong số đó. Là một phần của quốc gia Xô Viết rộng lớn, tất cả chúng ta trải qua thời kỳ tan rã đất nước khổng lồ đầy kịch tính và sự hình thành các quốc gia mới, trong đó có nước Nga hiện đại. Đây là một quá trình rất phức tạp.
Tất nhiên, mỗi người có cách đánh giá riêng chuyện đó: người thì cho chuyện đó mang tính nhục mạ với đa số nhân dân, người thì thấy trong đó điều tích cực. Tôi nghĩ chỉ lịch sử có thể có đánh giá cuối cùng thời kỳ đó. Chỉ có điều nếu người ta luôn tự suy diễn, thì chúng tôi trực tiếp tham gia các sự kiện ở các mức độ khác nhau. Dù chúng ta có thái độ thế nào với chuyện xảy ra, đó là những sự kiện vô cùng bi đát.
V.A.: Kể từ khi “bức màn sắt” không còn nữa, ở Nga thường có thể nghe thấy câu hỏi cay đắng: tại sao người chiến thắng sống tồi hơn những người thua trận? Trong suốt hai mươi năm qua không một nhà chính trị nào trả lời được nó.
D.M.: Tôi không thể chịu trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra ở nhà nước ta từ thời điểm chấm dứt chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, bởỉ về mặt pháp lý và tinh thần tôi chỉ chịu trách nhiệm về giai đoạn mà tôi được trao vinh dự và trách nhiệm lãnh đạo quốc gia của chúng ta. Song, tất nhiên, như một người từng sống ở Liên Xô và hiện sống ở nước Nga, tôi có quan điểm của mình về vấn đề này. Quan điểm đó như sau:
Liên Xô đã đạt được mục đích quan trọng nhất trong thời kỳ chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là chiến thắng một kẻ thù rất mạnh, tiêu diệt nó và xây dựng điều kiện cho châu Âu tự do phát triển. Liên Xô đã đạt được mục đích đó bằng cái giá của những hy sinh khủng khiếp.
Tiếp theo Liên Xô đi bằng con đường của mình. Sống trong nó là một xã hội rất khắc nghiệt, về thực chất, độc tài, không cho phép nhiều quá trình kinh tế phát triển, chà đạp nhân quyền. Điều đó dẫn tới nhiều bất công và tất cả những gì liên quan tới độc tài.
Vì vậy, thời kỳ đó, tôi xin nhấn mạnh đây là đánh giá của tôi, thật đáng tiếc, không được tận dụng triệt để (bất chấp việc chúng ta đã khôi phục lại được nền kinh tế, chúng ta đã tạo ra được lượng trữ đáng kể để phát triển công nghiệp). Có thể phát triển quốc gia và nền kinh tế của nó theo cách khác, như cách chúng tôi làm đã hai mươi năm qua. Thời kỳ sau chiến tranh là thời kỳ của những thành tựu vĩ đại, song cũng là thời kỳ của những thử thách lớn lao, những vấn đề phức tạp. Tôi không cho rằng cấu trúc kinh tế tồn tại thời kỳ sau chiến tranh, cũng như chế độ chính trị lúc đó là thích hợp để phát triển bình thường. Chính do nguyên nhân này mà nảy sinh sự khác biệt về mức sống, về thái độ khác nhau của nhân dân đối với chế độ. Một thời kỳ đầy tủi nhục. Những cảm xúc như thế tất cả chúng ta đều cảm thấy, đặc biệt, khi lần đầu tiên ra nước ngoài. Song chúng ta đều hiểu sự phồn vinh châu Âu được tạo ra bằng cái giá như thế nào, sự thừa thãi vật chất, những quầy hàng lộng lẫy, những người dân sung túc, những nụ cười trên các khuôn mặt. Và chúng ta đã không tìm ra được câu trả lời thích đáng nhất cho câu hỏi: tại sao mọi sự ở nước ta không như thế.
Tuy nhiên cũng không nên bôi đen thời kỳ này: ông cha chúng ta từng sống và làm việc lúc đó , và cả chúng ta nữa. Từng có nhiều trang sử tươi sáng trong đó. Song, quả thực, đất nước thời kỳ đó đã không thể giải quyết được hàng loạt nhiệm vụ. Và cũng xin nói luôn, đây là nguyên nhân chính dẫn tới việc Liên Xô chấm dứt sự tồn tại.
Nếu Liên Xô tỏ ra có tính cạnh tranh hơn, nếu nó tạo ra được những điều kiện để phát triển nhân cách, cũng như kinh tế theo những nguyên tắc hiện đại, thì Liên Xô có thể có số phận khác, có thể hấp dẫn hơn với chúng ta. Và lúc đó đã không xảy ra những sự kiện đầy kịch tính cuối những năm tám mươi, đầu chín mươi.
V.A.: Người dân đến tận giờ vẫn chưa hoàn toàn có khả năng tiếp cận một khối lượng khổng lồ các tài liệu chiến tranh. Đã đến lúc vi tính hóa chúng hay chưa? Khả năng nhận hay chỉ là cho biết yêu cầu qua internet (như cách người ta làm trên website về dịch vụ và đơn đặt hàng của nhà nước) có thể cho phép nhiều người biết được về số phận người thân, giúp họ viết sử gia đình mình.
D.M.: Thời điểm đó đã đến và chúng ta đã đang làm như thế ở khắp nơi. Tôi bản thân là người hâm mộ công nghệ số. Chúng rất tiện để lưu trữ lượng thông tin lớn. Trước đây, nếu để nhận được tài liệu nào đó, phải cầm một quyển sách to, đào bới, ghi chép. Việc này có nhiều ưu điểm, bởi một cách vô tình hay hữu ý con người làm quen với một loạt các tài liệu hay được trình bày trong sách hay tập tài liệu nào đó ở đấy.
Bây giờ việc đó trở nên đơn giản hơn: chỉ cần cất tập tài liệu trong một địa chỉ mạng nào đó, cũng như chỉ cần đánh trên phím chữ thông tin cần tìm – và ngay lập tức anh nhận được thông tin. Thật tiện lợi! Và chúng ta phải làm như thế, làm việc đó một cách công khai, xóa con dấu tuyệt mật khỏi các tài liệu thời kỳ đó. Sáu mươi năm trôi qua là đủ rồi, và nhân dân phải biết sự thật về chiến tranh, cũng như các sự kiện thời kỳ khác.
Chúng ta có thể nhớ lại thời kỳ trước chiến tranh, cũng như các sự kiện lúc bắt đầu chiến tranh. Chúng ta sẽ nói về chuyện gì xảy ra ở Katyn. Đây là một trang sử đen tối. Hơn nữa lại một trang đen tối song sự thật về nó không được nói. Đến tận nay, như tôi thấy, người ta một cách nghiêm túc nhất tiếp tục tranh luận về việc ai là người thông qua quyết định tử hình các quân nhân Balan. Mặc dù các tài liệu về chuyện đó đã được công khai hóa, song tôi một lần nữa đã ra chỉ thị đưa chúng lên mạng. Song người ta vẫn tranh luận. Tại sao? Bởi đề tài này từng bị giấu – là lý do thứ nhất, và thứ hai là nó được công khai hóa theo cách hoàn toàn tráo trở. Và đây chính là trường hợp giả mạo lịch sử! Bởi giả mạo lịch sử không chỉ là những người ngoài cuộc, không chỉ những người sống ở các nước khác. Bản thân chúng ta cũng ngụy tạo lịch sử. Và sự thật suy cho cùng phải được chỉ cho biết không chỉ công dân của chúng ta, mà cả người nước ngoài quan tâm.
Đây chỉ là một trang lịch sử, song có lẽ là trang rất quan trọng. Vì thể càng có nhiều tài liệu lưu trữ được công bố công khai trên mạng bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Suy cho cùng, tôi cho rằng chúng ta cần tạo ra một hệ thống lưu trữ tài liệu chiến tranh cho phép bất cứ công dân Nga nào và bất kỳ người nước ngoài quan tâm nào tự do lấy được mọi giấy tờ đã được xóa triện tuyệt mật, và bây giờ đã đến lúc hành động như thế với tất cả các tài liệu.
V.A.: Dmitry Anatolievich, liên minh chống Hitler đã liên hợp được các nước tưởng như không thể liên hợp về cấu trúc. Sự liên kết theo khối đã giúp chiến thắng một kẻ thù hùng mạnh và có tổ chức tốt. Chính sách các khối được áp dụng sau đó. Nước Nga hiện nay chỉ vào khối Collective Security Treaty Organisation có lực lượng vũ trang không thể so sánh được với NATO. Liệu nước Nga có thể vào một liên minh quân sự nào khác?
D.M.: Theo quan điểm của tôi, việc “chiến tranh lạnh” chấm dứt và hết thời của tư duy liên minh đã giúp thống nhất châu Âu, nhận được một châu Âu, nơi có thể sống tiện nghi và thú vị đến đó. Ý tôi muốn nói cả Tây Âu, cả Đông Âu, cả Liên bang Nga. Hệ thống liên minh khối không dẫn tới điều gì tốt đẹp. Mặc dù có quan điểm cho rằng nếu có các khối, sẽ có cân bằng. Ví dụ, từng có khối Warsaw Pact và NATO, và tất cả trong trạng thái cân bằng. Song một khối biến mất, bắt đầu chiến tranh, bắt đầu vẽ lại bản đồ. Đó là lập trường phiến diện, mặc dù, sự có mặt của các đối trọng trên thế giới hiển nhiên là cần thiết. Vấn đề ở chỗ những đối trọng này là gì, chúng phải thế nào, chúng nhất thiết phải có nền tảng vũ khí hay không, chúng có phải chỉ nhằm hạn chế chiến lược . Quan điểm của tôi là không.
Chính vì thế chúng ta mới nói về thế giới đa cực, bởi trong trường hợp ngược lại sẽ phải kết luận rằng chỉ một hệ thống an ninh khối có khả năng bảo đảm hòa bình và phồn vinh trên hành tinh chúng ta. Song không phải như thế. Các sự kiện những năm 90 - ở châu Âu, ở Cận Đông, ở Caucasus, ở các nơi khác chỉ ra rằng: không một khối nào bằng cách như vậy có thể giải quyết được các nhiệm vụ của mình và an ninh, đáng tiếc, nó không thể đảm bảo được ở mức cần thiết. Chính vì thế mới cần xây dựng những cơ chế có thể làm việc trong chế độ ngoài khối.
Song chúng ta có bổn phận đối tác: có Collective Security Treaty Organisation – tổ chức “Hiệp ước an ninh tập thể, mà thành phần của nó là các quốc gia gần gũi với chúng ta. Đây không phải là khối quân sự theo nghĩa truyền thống của từ này, song đây là tổ chức có nhiệm vụ bảo đảm an ninh các quốc gia liên hợp lại. Tôi xin nhắc là theo Cương lĩnh của Hiệp ước này và tổ chức tương ứng, việc tấn công một nước được coi là tấn công tất cả, giống NATO. Song điều đó không có nghĩa là chúng ta phải trở lại tư duy khối và cố biến CSTO thành Warsaw Pact mới, bơm vào nó vũ khí, lực lượng và mãi mãi chạy đua với NATO. Chúng ta biết sự cạnh tranh này đã tác động thế nào tới Liên Xô, cuộc chạy đua vũ trang đã khiến nước ta kiệt quệ như thế nào và điều đó đã dẫn tới kết quả gì: nền kinh tế không hiệu quả, chạy đua vũ trang bất tận, nhà nước tan rã.
Tất nhiên, chúng ta phải giữ được các khả năng chiến lược của mình. Thế giới phức tạp, một loạt các nước muốn có vũ khí hạt nhân, ai đó thử vũ khí mới. Vì thế chúng ta không thể lãng quên an ninh. Vũ khí hạt nhân chiến lược của chúng ta là công cụ quá đỗi hiệu quả để bảo vệ các quyền lợi quốc gia. Chúng ta không cần phóng đại giá trị của nó, song cũng không được coi thường các khả năng và ảnh hưởng của nó tới cục diện các lực lượng. Chúng ta phải hoàn thiện hệ thống phòng thủ của mình và đồng thời thỏa thuận với các đối tác chính của chúng ta, điều chúng ta làm suốt thời gian qua, kể cả khi ký với người Mỹ Hiệp ước hạn chế vũ khí tấn công chiến lược. Bằng cách đó chúng ta đạt được thỏa hiệp, điều cho phép chúng ta bảo vệ quyền lợi của chúng ta, cho người Mỹ bảo vệ quyền lợi của họ và đồng thời không phá vỡ tình huống xung quanh. Tôi cho rằng con đường này là đúng nhất.
V.A.: Thời “Perestroyka”, khi người Xô Viết mở cửa nhìn vào thế giới, có cảm giác rằng nền văn minh đã trưởng thành, cấu trúc thế giới đã vững chãi và sẽ không có chuyện gì tương tự chiến tranh thế giới thứ Hai sẽ xảy ra. Song đã hai mươi năm trôi qua. Và thế giới lại bị giằng xé bởi những mâu thuẫn. Theo Ngài, liệu có khả năng, dù chỉ là phỏng đoán, lặp lại xung đột quy mô tương tự chiến tranh thế giới thứ Hai?
D.M.: Đáng tiếc, khả năng xung đột như thế là có và điều đó liên quan tới việc tồn tại rất nhiều nước khác nhau với những quyền lợi rất khác nhau. Trên hành tinh có một khối lượng khổng lồ vũ khí, có những người đến tận bây giờ vẫn nhìn nhận chiến tranh với tư cách công cụ giải quyết các vấn đề chính trị của mình. Cuối cùng, có cả sự tình cờ. Vì thế chúng ta phải sẵn sàng cho tình huống đó. Cái gì cần cho việc đó?
Tôi đã nói về việc này: cần làm việc trong khuôn khổ cộng đồng quốc tế, trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, trên lục địa châu Âu trong khuôn khổ OSCE, ký các hiệp định mới tương tự Hiệp ước an ninh châu Âu. Chúng ta đang và sẽ tiệp tục làm việc này.
Và tất nhiên chúng ta phải rất mạnh. Chúng ta phải sẵn sàng cho tình huống xuất hiện các vấn đề nào đó. Đây là một điều bất di bất dịch. Dù chúng ta yêu hòa bình đến thế nào, chúng ta luôn phải trong tư thế sẵn sàng bảo vệ đất nước. Và đây là các lực lượng vũ trang, đây là sự quan tâm tới quân đội, xây dựng vũ khí hiện đại, đây là những điều kiện sống và trả lương lao động bình thường cho quân nhân, là quân đội có hiệu quả, năng động, song mạnh và được huấn luyện tốt, nơi những sỹ quan và binh lính được huyến luyện tốt phục vụ. Tất cả những thứ đó là mệnh lệnh tuyệt đối, là quyền ưu tiên vô song của xã hội chúng ta. Là Tổng tư lệnh Tối cao, tôi đã và sẽ dành sự quan tâm tối đa nhất cho việc đó, bởi nếu không chúng ta có thể yếu trước nguy cơ xuất hiện.
V.A.: Thời Liên Xô “chiến tranh lạnh” bất tận được lĩnh hội như điều khó chịu, dù hiện tượng thật dễ hiểu – cuộc đấu tranh của hai hệ thống chính trị đối lập. Đã hầu như hai mươi năm không còn cả Liên Xô lẫn chủ nghĩa cộng sản, song “chiến tranh lạnh” vẫn tồn tại. Tại sao Mỹ và nhiều nước khác vẫn không tin nước Nga?
D.M.: Tôi sẽ còn nói cho anh nghe hơn nữa: cả ở nước ta người ta cũng không tin cả Mỹ lẫn các nước khối Bắc Đại Tây Dương, một số cường quốc khác trên thế giới. Điều này liên quan tới cái gì? Nó liên quan tới lịch sử của chúng ta, cách chúng ta lĩnh hội nhau. Tất cả chúng ta đều nhớ chuyện gì đã xảy ra thời Xô Viết. Đây là một chuỗi quan điểm, khái niệm về nhau. Anh thử nhớ lại ở trường người ta đã nói gì cho chúng ta nghe về người Mỹ, người châu Âu! Đây là một lập trường tuyệt nhiên mang tính tư tưởng hệ. Nó không đúng hay, trong bất kỳ trường hợp nào, không phải đúng trong mọi sự. Nó theo đuổi những mục đích hoàn toàn cụ thể, đẻ chúng ta nhìn những người sống ở đó như những kẻ thù của chúng ta. Đây là phương pháp đảm bảo tính hiệu quả lãnh đạo trong một nhà nước, đồng thời đạt được những mục đích chính trị nào đó.
Ở các nước đó cũng y như thế. Và theo tôi, nếu nói về tình huống hiện tại, thì nó vẫn giữ trong mình những đặc tính các giáo điều cũ. Điều này đặc biệt điển hình với thế giới phương Tây. Bởi, nếu nói thẳng, nhiều người ở nước ta thời kỳ cuối những năm 80, đầu những năm 90 rất khao khát lối sống mới. Và đã từng có giai đoạn lãng mạn như thế trong mối tương giao với phương Tây. Chúng ta từng cho rằng người ta đợi chúng ta, rằng chúng ta cởi mở, hiện đại, đã không còn đe dọa ai, chúng ta sẽ nhanh chóng và đơn giản hòa vào loạt các quốc gia phát triển văn minh khác.
D.M.: Trong bất cứ trường hợp nào, chuyện xảy ra 14-15 năm sau khi ký Công ước Helsinki đã giúp liên kết châu Âu. Đó là một.
Điều thứ hai là việc chấm dứt “chiến tranh lạnh”. Mà trong chiến tranh lạnh, về thực chất, tất cả đều thua. Việc nó chấm dứt thực chất là thắng lợi của tất cả, bởi không còn sự đối đầu như trước, không còn đe dọa chiến tranh trực tiếp, không còn căng thẳng trong bầu không khí châu Âu. Các dân tộc tự do giao tiếp, đến chơi nhà nhau. Về tổng thể chúng ta đang sống trong một châu Âu khác, và trong thực tế đúng là như thế. Song, tất nhiên, các sự kiện thời gian đó quá bi đát đối với nhiều nước châu Âu và nước Nga trong số đó. Là một phần của quốc gia Xô Viết rộng lớn, tất cả chúng ta trải qua thời kỳ tan rã đất nước khổng lồ đầy kịch tính và sự hình thành các quốc gia mới, trong đó có nước Nga hiện đại. Đây là một quá trình rất phức tạp.
Tất nhiên, mỗi người có cách đánh giá riêng chuyện đó: người thì cho chuyện đó mang tính nhục mạ với đa số nhân dân, người thì thấy trong đó điều tích cực. Tôi nghĩ chỉ lịch sử có thể có đánh giá cuối cùng thời kỳ đó. Chỉ có điều nếu người ta luôn tự suy diễn, thì chúng tôi trực tiếp tham gia các sự kiện ở các mức độ khác nhau. Dù chúng ta có thái độ thế nào với chuyện xảy ra, đó là những sự kiện vô cùng bi đát.
V.A.: Kể từ khi “bức màn sắt” không còn nữa, ở Nga thường có thể nghe thấy câu hỏi cay đắng: tại sao người chiến thắng sống tồi hơn những người thua trận? Trong suốt hai mươi năm qua không một nhà chính trị nào trả lời được nó.
D.M.: Tôi không thể chịu trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra ở nhà nước ta từ thời điểm chấm dứt chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, bởỉ về mặt pháp lý và tinh thần tôi chỉ chịu trách nhiệm về giai đoạn mà tôi được trao vinh dự và trách nhiệm lãnh đạo quốc gia của chúng ta. Song, tất nhiên, như một người từng sống ở Liên Xô và hiện sống ở nước Nga, tôi có quan điểm của mình về vấn đề này. Quan điểm đó như sau:
Liên Xô đã đạt được mục đích quan trọng nhất trong thời kỳ chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là chiến thắng một kẻ thù rất mạnh, tiêu diệt nó và xây dựng điều kiện cho châu Âu tự do phát triển. Liên Xô đã đạt được mục đích đó bằng cái giá của những hy sinh khủng khiếp.
Tiếp theo Liên Xô đi bằng con đường của mình. Sống trong nó là một xã hội rất khắc nghiệt, về thực chất, độc tài, không cho phép nhiều quá trình kinh tế phát triển, chà đạp nhân quyền. Điều đó dẫn tới nhiều bất công và tất cả những gì liên quan tới độc tài.
Vì vậy, thời kỳ đó, tôi xin nhấn mạnh đây là đánh giá của tôi, thật đáng tiếc, không được tận dụng triệt để (bất chấp việc chúng ta đã khôi phục lại được nền kinh tế, chúng ta đã tạo ra được lượng trữ đáng kể để phát triển công nghiệp). Có thể phát triển quốc gia và nền kinh tế của nó theo cách khác, như cách chúng tôi làm đã hai mươi năm qua. Thời kỳ sau chiến tranh là thời kỳ của những thành tựu vĩ đại, song cũng là thời kỳ của những thử thách lớn lao, những vấn đề phức tạp. Tôi không cho rằng cấu trúc kinh tế tồn tại thời kỳ sau chiến tranh, cũng như chế độ chính trị lúc đó là thích hợp để phát triển bình thường. Chính do nguyên nhân này mà nảy sinh sự khác biệt về mức sống, về thái độ khác nhau của nhân dân đối với chế độ. Một thời kỳ đầy tủi nhục. Những cảm xúc như thế tất cả chúng ta đều cảm thấy, đặc biệt, khi lần đầu tiên ra nước ngoài. Song chúng ta đều hiểu sự phồn vinh châu Âu được tạo ra bằng cái giá như thế nào, sự thừa thãi vật chất, những quầy hàng lộng lẫy, những người dân sung túc, những nụ cười trên các khuôn mặt. Và chúng ta đã không tìm ra được câu trả lời thích đáng nhất cho câu hỏi: tại sao mọi sự ở nước ta không như thế.
Tuy nhiên cũng không nên bôi đen thời kỳ này: ông cha chúng ta từng sống và làm việc lúc đó , và cả chúng ta nữa. Từng có nhiều trang sử tươi sáng trong đó. Song, quả thực, đất nước thời kỳ đó đã không thể giải quyết được hàng loạt nhiệm vụ. Và cũng xin nói luôn, đây là nguyên nhân chính dẫn tới việc Liên Xô chấm dứt sự tồn tại.
Nếu Liên Xô tỏ ra có tính cạnh tranh hơn, nếu nó tạo ra được những điều kiện để phát triển nhân cách, cũng như kinh tế theo những nguyên tắc hiện đại, thì Liên Xô có thể có số phận khác, có thể hấp dẫn hơn với chúng ta. Và lúc đó đã không xảy ra những sự kiện đầy kịch tính cuối những năm tám mươi, đầu chín mươi.
V.A.: Người dân đến tận giờ vẫn chưa hoàn toàn có khả năng tiếp cận một khối lượng khổng lồ các tài liệu chiến tranh. Đã đến lúc vi tính hóa chúng hay chưa? Khả năng nhận hay chỉ là cho biết yêu cầu qua internet (như cách người ta làm trên website về dịch vụ và đơn đặt hàng của nhà nước) có thể cho phép nhiều người biết được về số phận người thân, giúp họ viết sử gia đình mình.
D.M.: Thời điểm đó đã đến và chúng ta đã đang làm như thế ở khắp nơi. Tôi bản thân là người hâm mộ công nghệ số. Chúng rất tiện để lưu trữ lượng thông tin lớn. Trước đây, nếu để nhận được tài liệu nào đó, phải cầm một quyển sách to, đào bới, ghi chép. Việc này có nhiều ưu điểm, bởi một cách vô tình hay hữu ý con người làm quen với một loạt các tài liệu hay được trình bày trong sách hay tập tài liệu nào đó ở đấy.
Bây giờ việc đó trở nên đơn giản hơn: chỉ cần cất tập tài liệu trong một địa chỉ mạng nào đó, cũng như chỉ cần đánh trên phím chữ thông tin cần tìm – và ngay lập tức anh nhận được thông tin. Thật tiện lợi! Và chúng ta phải làm như thế, làm việc đó một cách công khai, xóa con dấu tuyệt mật khỏi các tài liệu thời kỳ đó. Sáu mươi năm trôi qua là đủ rồi, và nhân dân phải biết sự thật về chiến tranh, cũng như các sự kiện thời kỳ khác.
Chúng ta có thể nhớ lại thời kỳ trước chiến tranh, cũng như các sự kiện lúc bắt đầu chiến tranh. Chúng ta sẽ nói về chuyện gì xảy ra ở Katyn. Đây là một trang sử đen tối. Hơn nữa lại một trang đen tối song sự thật về nó không được nói. Đến tận nay, như tôi thấy, người ta một cách nghiêm túc nhất tiếp tục tranh luận về việc ai là người thông qua quyết định tử hình các quân nhân Balan. Mặc dù các tài liệu về chuyện đó đã được công khai hóa, song tôi một lần nữa đã ra chỉ thị đưa chúng lên mạng. Song người ta vẫn tranh luận. Tại sao? Bởi đề tài này từng bị giấu – là lý do thứ nhất, và thứ hai là nó được công khai hóa theo cách hoàn toàn tráo trở. Và đây chính là trường hợp giả mạo lịch sử! Bởi giả mạo lịch sử không chỉ là những người ngoài cuộc, không chỉ những người sống ở các nước khác. Bản thân chúng ta cũng ngụy tạo lịch sử. Và sự thật suy cho cùng phải được chỉ cho biết không chỉ công dân của chúng ta, mà cả người nước ngoài quan tâm.
Đây chỉ là một trang lịch sử, song có lẽ là trang rất quan trọng. Vì thể càng có nhiều tài liệu lưu trữ được công bố công khai trên mạng bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Suy cho cùng, tôi cho rằng chúng ta cần tạo ra một hệ thống lưu trữ tài liệu chiến tranh cho phép bất cứ công dân Nga nào và bất kỳ người nước ngoài quan tâm nào tự do lấy được mọi giấy tờ đã được xóa triện tuyệt mật, và bây giờ đã đến lúc hành động như thế với tất cả các tài liệu.
V.A.: Dmitry Anatolievich, liên minh chống Hitler đã liên hợp được các nước tưởng như không thể liên hợp về cấu trúc. Sự liên kết theo khối đã giúp chiến thắng một kẻ thù hùng mạnh và có tổ chức tốt. Chính sách các khối được áp dụng sau đó. Nước Nga hiện nay chỉ vào khối Collective Security Treaty Organisation có lực lượng vũ trang không thể so sánh được với NATO. Liệu nước Nga có thể vào một liên minh quân sự nào khác?
D.M.: Theo quan điểm của tôi, việc “chiến tranh lạnh” chấm dứt và hết thời của tư duy liên minh đã giúp thống nhất châu Âu, nhận được một châu Âu, nơi có thể sống tiện nghi và thú vị đến đó. Ý tôi muốn nói cả Tây Âu, cả Đông Âu, cả Liên bang Nga. Hệ thống liên minh khối không dẫn tới điều gì tốt đẹp. Mặc dù có quan điểm cho rằng nếu có các khối, sẽ có cân bằng. Ví dụ, từng có khối Warsaw Pact và NATO, và tất cả trong trạng thái cân bằng. Song một khối biến mất, bắt đầu chiến tranh, bắt đầu vẽ lại bản đồ. Đó là lập trường phiến diện, mặc dù, sự có mặt của các đối trọng trên thế giới hiển nhiên là cần thiết. Vấn đề ở chỗ những đối trọng này là gì, chúng phải thế nào, chúng nhất thiết phải có nền tảng vũ khí hay không, chúng có phải chỉ nhằm hạn chế chiến lược . Quan điểm của tôi là không.
Chính vì thế chúng ta mới nói về thế giới đa cực, bởi trong trường hợp ngược lại sẽ phải kết luận rằng chỉ một hệ thống an ninh khối có khả năng bảo đảm hòa bình và phồn vinh trên hành tinh chúng ta. Song không phải như thế. Các sự kiện những năm 90 - ở châu Âu, ở Cận Đông, ở Caucasus, ở các nơi khác chỉ ra rằng: không một khối nào bằng cách như vậy có thể giải quyết được các nhiệm vụ của mình và an ninh, đáng tiếc, nó không thể đảm bảo được ở mức cần thiết. Chính vì thế mới cần xây dựng những cơ chế có thể làm việc trong chế độ ngoài khối.
Song chúng ta có bổn phận đối tác: có Collective Security Treaty Organisation – tổ chức “Hiệp ước an ninh tập thể, mà thành phần của nó là các quốc gia gần gũi với chúng ta. Đây không phải là khối quân sự theo nghĩa truyền thống của từ này, song đây là tổ chức có nhiệm vụ bảo đảm an ninh các quốc gia liên hợp lại. Tôi xin nhắc là theo Cương lĩnh của Hiệp ước này và tổ chức tương ứng, việc tấn công một nước được coi là tấn công tất cả, giống NATO. Song điều đó không có nghĩa là chúng ta phải trở lại tư duy khối và cố biến CSTO thành Warsaw Pact mới, bơm vào nó vũ khí, lực lượng và mãi mãi chạy đua với NATO. Chúng ta biết sự cạnh tranh này đã tác động thế nào tới Liên Xô, cuộc chạy đua vũ trang đã khiến nước ta kiệt quệ như thế nào và điều đó đã dẫn tới kết quả gì: nền kinh tế không hiệu quả, chạy đua vũ trang bất tận, nhà nước tan rã.
Tất nhiên, chúng ta phải giữ được các khả năng chiến lược của mình. Thế giới phức tạp, một loạt các nước muốn có vũ khí hạt nhân, ai đó thử vũ khí mới. Vì thế chúng ta không thể lãng quên an ninh. Vũ khí hạt nhân chiến lược của chúng ta là công cụ quá đỗi hiệu quả để bảo vệ các quyền lợi quốc gia. Chúng ta không cần phóng đại giá trị của nó, song cũng không được coi thường các khả năng và ảnh hưởng của nó tới cục diện các lực lượng. Chúng ta phải hoàn thiện hệ thống phòng thủ của mình và đồng thời thỏa thuận với các đối tác chính của chúng ta, điều chúng ta làm suốt thời gian qua, kể cả khi ký với người Mỹ Hiệp ước hạn chế vũ khí tấn công chiến lược. Bằng cách đó chúng ta đạt được thỏa hiệp, điều cho phép chúng ta bảo vệ quyền lợi của chúng ta, cho người Mỹ bảo vệ quyền lợi của họ và đồng thời không phá vỡ tình huống xung quanh. Tôi cho rằng con đường này là đúng nhất.
V.A.: Thời “Perestroyka”, khi người Xô Viết mở cửa nhìn vào thế giới, có cảm giác rằng nền văn minh đã trưởng thành, cấu trúc thế giới đã vững chãi và sẽ không có chuyện gì tương tự chiến tranh thế giới thứ Hai sẽ xảy ra. Song đã hai mươi năm trôi qua. Và thế giới lại bị giằng xé bởi những mâu thuẫn. Theo Ngài, liệu có khả năng, dù chỉ là phỏng đoán, lặp lại xung đột quy mô tương tự chiến tranh thế giới thứ Hai?
D.M.: Đáng tiếc, khả năng xung đột như thế là có và điều đó liên quan tới việc tồn tại rất nhiều nước khác nhau với những quyền lợi rất khác nhau. Trên hành tinh có một khối lượng khổng lồ vũ khí, có những người đến tận bây giờ vẫn nhìn nhận chiến tranh với tư cách công cụ giải quyết các vấn đề chính trị của mình. Cuối cùng, có cả sự tình cờ. Vì thế chúng ta phải sẵn sàng cho tình huống đó. Cái gì cần cho việc đó?
Tôi đã nói về việc này: cần làm việc trong khuôn khổ cộng đồng quốc tế, trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, trên lục địa châu Âu trong khuôn khổ OSCE, ký các hiệp định mới tương tự Hiệp ước an ninh châu Âu. Chúng ta đang và sẽ tiệp tục làm việc này.
Và tất nhiên chúng ta phải rất mạnh. Chúng ta phải sẵn sàng cho tình huống xuất hiện các vấn đề nào đó. Đây là một điều bất di bất dịch. Dù chúng ta yêu hòa bình đến thế nào, chúng ta luôn phải trong tư thế sẵn sàng bảo vệ đất nước. Và đây là các lực lượng vũ trang, đây là sự quan tâm tới quân đội, xây dựng vũ khí hiện đại, đây là những điều kiện sống và trả lương lao động bình thường cho quân nhân, là quân đội có hiệu quả, năng động, song mạnh và được huấn luyện tốt, nơi những sỹ quan và binh lính được huyến luyện tốt phục vụ. Tất cả những thứ đó là mệnh lệnh tuyệt đối, là quyền ưu tiên vô song của xã hội chúng ta. Là Tổng tư lệnh Tối cao, tôi đã và sẽ dành sự quan tâm tối đa nhất cho việc đó, bởi nếu không chúng ta có thể yếu trước nguy cơ xuất hiện.
V.A.: Thời Liên Xô “chiến tranh lạnh” bất tận được lĩnh hội như điều khó chịu, dù hiện tượng thật dễ hiểu – cuộc đấu tranh của hai hệ thống chính trị đối lập. Đã hầu như hai mươi năm không còn cả Liên Xô lẫn chủ nghĩa cộng sản, song “chiến tranh lạnh” vẫn tồn tại. Tại sao Mỹ và nhiều nước khác vẫn không tin nước Nga?
D.M.: Tôi sẽ còn nói cho anh nghe hơn nữa: cả ở nước ta người ta cũng không tin cả Mỹ lẫn các nước khối Bắc Đại Tây Dương, một số cường quốc khác trên thế giới. Điều này liên quan tới cái gì? Nó liên quan tới lịch sử của chúng ta, cách chúng ta lĩnh hội nhau. Tất cả chúng ta đều nhớ chuyện gì đã xảy ra thời Xô Viết. Đây là một chuỗi quan điểm, khái niệm về nhau. Anh thử nhớ lại ở trường người ta đã nói gì cho chúng ta nghe về người Mỹ, người châu Âu! Đây là một lập trường tuyệt nhiên mang tính tư tưởng hệ. Nó không đúng hay, trong bất kỳ trường hợp nào, không phải đúng trong mọi sự. Nó theo đuổi những mục đích hoàn toàn cụ thể, đẻ chúng ta nhìn những người sống ở đó như những kẻ thù của chúng ta. Đây là phương pháp đảm bảo tính hiệu quả lãnh đạo trong một nhà nước, đồng thời đạt được những mục đích chính trị nào đó.
Ở các nước đó cũng y như thế. Và theo tôi, nếu nói về tình huống hiện tại, thì nó vẫn giữ trong mình những đặc tính các giáo điều cũ. Điều này đặc biệt điển hình với thế giới phương Tây. Bởi, nếu nói thẳng, nhiều người ở nước ta thời kỳ cuối những năm 80, đầu những năm 90 rất khao khát lối sống mới. Và đã từng có giai đoạn lãng mạn như thế trong mối tương giao với phương Tây. Chúng ta từng cho rằng người ta đợi chúng ta, rằng chúng ta cởi mở, hiện đại, đã không còn đe dọa ai, chúng ta sẽ nhanh chóng và đơn giản hòa vào loạt các quốc gia phát triển văn minh khác.
Chuyện xảy ra không hoàn toàn như thế. Thứ nhất, chúng ta hóa ra khong sẵn sàng trong mọi sự làm được việc đó, bởi quán tính tư duy, đã và vẫn còn sự cần thiết xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại ở nước ta. Và có quá trình trưởng thành của các thể chế xã hội công dân. Song ở phương Tây không phải ai cũng sẵn sàng từ bỏ định kiến.
Đôi khi tóc phải dựng ngược, khi xem người ta thảo luận điều gì trong quốc hội và các cấu trúc chính trị các nước khác. Còn giữ y nguyên các công cụ “chiến tranh lạnh”, những sự ngu xuẩn, nếu nói thẳng, cả về phần những hạn chế mà vào thời của mình được gán cho Liên Xô, cả về phần khái niệm về cơ cấu xã hội ở nước ta, thậm chí ở cấp đời sống hàng ngày. Đôi khi tôi xem phim Hollywood sản xuất và kinh ngạc cách người ta dựng phim về nước Nga hiện đại. Đây đơn giản là một mớ những khái niệm viễn tưởng nào đấy. Trò viễn tưởng này, nó ăn sâu vào lý trí, người ta nhìn chúng ta qua lăng kính những sản phẩm quảng cáo, phim ảnh, sách báo: nước Nga là nước nơi thường xuyên mưa và tuyết rơi, nơi mọi sự hỗn độn, con người độc ác, uống vodka ừng ực hàng cốc, không có năng lực làm gì khác, hiếu chiến, thích đánh nhau, sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào, không thể chìa lưng cho họ, nếu không họ có thể cho ăn đòn từ phía sau. Đây là điều rất tồi tệ!
Tôi thậm chí hiểu là, có thể, người ta làm như thế không cố ý – nhằm cụng đầu các dân tộc. Song đây là những định kiến làm hại sự hiểu biết lẫn nhau và suy cho cùng đầu độc bầu không khí trên hành tinh. Và điều này không chỉ liên quan tới nước Nga. Những định kiến đó tồn tại trong cả một loạt các nước lớn đang phát triển khác, các nước láng giềng của chúng ta. Theo tôi, phải từ bỏ những định kiến đó. Ở đây chúng ta cũng có việc cần làm. Tôi không muốn ném đá chỉ về phía người Mỹ hay người Âu, chúng ta cũng có đủ loại lầm lẫn. Song tôi nghĩ là dù sao chúng ta cũng đã làm một bước quan trọng hơn nhiều về phía trước.
V.A.: Đến tận giờ giữa Nga và Nhật vẫn không có hiệp định hòa bình. Người Nhật gắn việc ký nó với việc trả đảo Nam-Kuril. Liệu có cơ hội tìm thỏa hiệp và ký hiệp định đó?
D.M.: Chúng ta và Nhật không trong trạng thái chiến tranh từ năm 56, khi ký Tuyên bố nổi tiếng. Mối quan hệ giữa hai nước được bình thường hóa, các tiếp xúc kinh tế và chính trị phát triển. Có những vấn đề, trong đó có vấn đề lãnh thổ ai cũng biết. Vấn đề hiệp định hòa bình mà người Nhật gắn vào việc giải quyết vấn đề lãnh thổ. Đây là vấn đề rất phức tạp, song không có nghĩa là bỏ mặc nó. Chúng ta vẫn cố nghiên cứu đề tài này, ngụ ý rõ những khái niệm của chúng ta về việc nó có thể được giải quyết bằng cách nào, trước hết phải tính tới quyền lợi của Liên bang Nga. Các đối tác Nhật cũng làm như thế.
Tôi nghĩ, nếu tích cực làm việc này, tôi nói thực, nếu từ bỏ cái gọi là các quan điểm cực đoan, thì suy cho cùng về mặt triển vọng lịch sử vấn đề này là giải quyết được.
V.A.: 7 tháng 5, tròn đúng hai năm từ thời điểm Ngài nhậm chức tổng thống Nga. Sự quan tâm về cựu chiến binh và hậu vệ binh, lương hưu và căn hộ cho họ - là một trong những thành tựu của hai năm qua. Theo Ngài, còn có những thành tích hiển nhiên nào trong hai năm này, khi Ngài lãnh đạo đất nước?
D.M.: Sẽ là tuyệt nhiên không khiêm tốn và đúng nếu tôi tự nói về những thành tích nào đó. Cần có thái độ phê phán với hoạt động của mình. Nếu làm được điều gì đó tốt – thì rất tốt. Song riêng về các cựu chiến binh tôi xin nói một điều mà tôi cho là thực sự quan trọng về nguyên tắc – đó là ngày 7 tháng 5 năm 2008, vào ngày nhậm chức, tôi đã ký sắc lệnh về việc giải quyết vấn đề căn hộ cho các cựu chiến binh. Và chúng ta đã làm việc đó. Trong thời gian gần nhất sẽ nhận được căn hộ những ai ghi danh sách sớm hơn, còn tất cả những người đứng tên sau 1 tháng 3 năm 2005 còn lại sẽ nhận được cũng trong tương lai gần nhất.
Các cựu chiến binh quả thật trong tầm quan tâm đặc biệt của chúng ta. Chúng ta cố thực hiện các chương trình khác nhau. Mới đây tôi thăm bệnh viện các cựu chiến binh Vệ quốc Vĩ đại, tôi thấy nó trông rất không tồi. Ở nước ta có hơn 50 bệnh viện như thế, nhà nước chi kinh phí cho chúng, chúng ta mua về dụng cụ y tế mới. Chúng ta thậm chí tổ chức cuộc thi, quyết định trợ giúp các bác sỹ làm việc ở đó bằng tiền.
Chúng ta bằng đôi chút gì đó đã giúp tô điểm số phận phức tạp xảy ra với các cựu chiến binh của chúng ta, cho dù chỉ bằng việc trả ơn họ bằng vật chất. Đây không phải là những món tiền khổng lồ, song việc cựu chiến binh Vệ quốc Vĩ đại, người tham gia chiến tranh hay thương bệnh binh hiện nhận trung bình tổng cộng tất cả các khoản gần 23 ngàn roubles hàng tháng (770USD), theo tôi, đây chỉ là một phần nhỏ trách nhiệm của chúng ta, bổn phận của chúng ta mà chúng ta phải làm trước các cựu chiến binh. Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc đó. Đây là điều cực kỳ quan trọng đối với tương lai của chúng ta. Để các thế hệ trong tương lai cũng đối xử đúng với các cựu chiến binh tương lai. Để không làm đứt sợi chỉ thời gian giữa con người, giữa các thế hệ, giữa thế hệ hiện đại và những người đã mang về cho chúng ta Chiến thắng gian nan như thế.
V.A.: Dmitry Anatolievich, ở Nga, các nước châu Âu khác có nhiều đài tưởng niệm các sự kiện và anh hùng chiến tranh thế giới thứ Hai. Đài tưởng niệm nào gây ấn tượng mạnh nhất cho Ngài?
D.M.: Tôi người Leningrad (St. Peterburg hiện tại), và, tất nhiên, đối với tôi các địa danh Leningrad có ý nghĩa đặc biệt. Thời học sinh và sau đó tôi thường đến nghĩa trang Piskaryovskoye. Một số lượng khổng lồ người được chôn cất ở đó. Chúng ta không chỉ không biết họ tên của họ, chúng ta thậm chí không biết tất cả họ có bao nhiêu người. Ở đó thậm chí không có cả bia mộ, đơn giản chỉ được viết: “Chôn cất năm 1941, 1942”. Điều đó thật đáng buồn và gây ấn tượng rất mạnh. Tiếng phách kế metronom vang nhịp ở đó, mỗi khi tiến lại tượng đài...
Ngoài nghĩa trang Piskaryovskoye ở Leningrad, tôi tất nhiên từng và vẫn đến những nơi khác. Không thể không ghi nhận Đồi mộ Mamaev Kurgan tuyệt nhiên hùng vĩ. Trong những năm gần đây tôi đến đó mấy lần. Đây là một địa danh độc đáo, và không chỉ từ góc độ sự ảnh hưởng của nó tới chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, tới sự phát triển của nó, mà còn về mặt hơi thở sự sống toát ra từ nó. Khi anh tiến lại gần nó, anh cũng cảm nhận được sự hòa âm, như chạm tay vào những sự kiện thời kỳ đó.
Không thể không nhắc tới một sự kiện xảy ra cách đây không lâu mà tôi trực tiếp tham gia. Đó là lễ đốt ngọn lửa Vĩnh cửu tưởng niệm Chiến sỹ Vô danh trong vườn Alexandrovsky sad sau thời gian tu sửa. Đó là những cảm xúc hoàn toàn riêng, song chúng mạnh đến mức tôi không thể không nói về nó. Như anh biết, đối với tôi, về mặt biểu cảm, đây có lẽ là một trong những ngày xúc động nhất trong đời tôi: trách nhiệm to lớn và trực tiếp chạm tay vào lịch sử đất nước. Tôi không bao giờ quên ngày đó.
V.A.: Cảm ơn Ngài, Dmitry Anatolievich, vì cuộc trả lời phỏng vấn. Xin chúc mừng Ngài nhân ngày chiến Thắng!
D.M.: Cảm ơn anh. Chúc anh và báo “Tin tức” thành tích. Và qua báo tôi muốn chân thành chúc tất cả các cựu chiến binh của chúng ta nhân ngày lễ sắp tới, chúc cả nước Nga, bởi Ngày Chiến thắng ở nước ta được tiếp nhận như ngày hội tuyệt nhiên của toàn dân.
Dinh thự Tổng thống “Gorki”
Người dịch và chú giải: theviewingplatform
Đôi khi tóc phải dựng ngược, khi xem người ta thảo luận điều gì trong quốc hội và các cấu trúc chính trị các nước khác. Còn giữ y nguyên các công cụ “chiến tranh lạnh”, những sự ngu xuẩn, nếu nói thẳng, cả về phần những hạn chế mà vào thời của mình được gán cho Liên Xô, cả về phần khái niệm về cơ cấu xã hội ở nước ta, thậm chí ở cấp đời sống hàng ngày. Đôi khi tôi xem phim Hollywood sản xuất và kinh ngạc cách người ta dựng phim về nước Nga hiện đại. Đây đơn giản là một mớ những khái niệm viễn tưởng nào đấy. Trò viễn tưởng này, nó ăn sâu vào lý trí, người ta nhìn chúng ta qua lăng kính những sản phẩm quảng cáo, phim ảnh, sách báo: nước Nga là nước nơi thường xuyên mưa và tuyết rơi, nơi mọi sự hỗn độn, con người độc ác, uống vodka ừng ực hàng cốc, không có năng lực làm gì khác, hiếu chiến, thích đánh nhau, sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào, không thể chìa lưng cho họ, nếu không họ có thể cho ăn đòn từ phía sau. Đây là điều rất tồi tệ!
Tôi thậm chí hiểu là, có thể, người ta làm như thế không cố ý – nhằm cụng đầu các dân tộc. Song đây là những định kiến làm hại sự hiểu biết lẫn nhau và suy cho cùng đầu độc bầu không khí trên hành tinh. Và điều này không chỉ liên quan tới nước Nga. Những định kiến đó tồn tại trong cả một loạt các nước lớn đang phát triển khác, các nước láng giềng của chúng ta. Theo tôi, phải từ bỏ những định kiến đó. Ở đây chúng ta cũng có việc cần làm. Tôi không muốn ném đá chỉ về phía người Mỹ hay người Âu, chúng ta cũng có đủ loại lầm lẫn. Song tôi nghĩ là dù sao chúng ta cũng đã làm một bước quan trọng hơn nhiều về phía trước.
V.A.: Đến tận giờ giữa Nga và Nhật vẫn không có hiệp định hòa bình. Người Nhật gắn việc ký nó với việc trả đảo Nam-Kuril. Liệu có cơ hội tìm thỏa hiệp và ký hiệp định đó?
D.M.: Chúng ta và Nhật không trong trạng thái chiến tranh từ năm 56, khi ký Tuyên bố nổi tiếng. Mối quan hệ giữa hai nước được bình thường hóa, các tiếp xúc kinh tế và chính trị phát triển. Có những vấn đề, trong đó có vấn đề lãnh thổ ai cũng biết. Vấn đề hiệp định hòa bình mà người Nhật gắn vào việc giải quyết vấn đề lãnh thổ. Đây là vấn đề rất phức tạp, song không có nghĩa là bỏ mặc nó. Chúng ta vẫn cố nghiên cứu đề tài này, ngụ ý rõ những khái niệm của chúng ta về việc nó có thể được giải quyết bằng cách nào, trước hết phải tính tới quyền lợi của Liên bang Nga. Các đối tác Nhật cũng làm như thế.
Tôi nghĩ, nếu tích cực làm việc này, tôi nói thực, nếu từ bỏ cái gọi là các quan điểm cực đoan, thì suy cho cùng về mặt triển vọng lịch sử vấn đề này là giải quyết được.
V.A.: 7 tháng 5, tròn đúng hai năm từ thời điểm Ngài nhậm chức tổng thống Nga. Sự quan tâm về cựu chiến binh và hậu vệ binh, lương hưu và căn hộ cho họ - là một trong những thành tựu của hai năm qua. Theo Ngài, còn có những thành tích hiển nhiên nào trong hai năm này, khi Ngài lãnh đạo đất nước?
D.M.: Sẽ là tuyệt nhiên không khiêm tốn và đúng nếu tôi tự nói về những thành tích nào đó. Cần có thái độ phê phán với hoạt động của mình. Nếu làm được điều gì đó tốt – thì rất tốt. Song riêng về các cựu chiến binh tôi xin nói một điều mà tôi cho là thực sự quan trọng về nguyên tắc – đó là ngày 7 tháng 5 năm 2008, vào ngày nhậm chức, tôi đã ký sắc lệnh về việc giải quyết vấn đề căn hộ cho các cựu chiến binh. Và chúng ta đã làm việc đó. Trong thời gian gần nhất sẽ nhận được căn hộ những ai ghi danh sách sớm hơn, còn tất cả những người đứng tên sau 1 tháng 3 năm 2005 còn lại sẽ nhận được cũng trong tương lai gần nhất.
Các cựu chiến binh quả thật trong tầm quan tâm đặc biệt của chúng ta. Chúng ta cố thực hiện các chương trình khác nhau. Mới đây tôi thăm bệnh viện các cựu chiến binh Vệ quốc Vĩ đại, tôi thấy nó trông rất không tồi. Ở nước ta có hơn 50 bệnh viện như thế, nhà nước chi kinh phí cho chúng, chúng ta mua về dụng cụ y tế mới. Chúng ta thậm chí tổ chức cuộc thi, quyết định trợ giúp các bác sỹ làm việc ở đó bằng tiền.
Chúng ta bằng đôi chút gì đó đã giúp tô điểm số phận phức tạp xảy ra với các cựu chiến binh của chúng ta, cho dù chỉ bằng việc trả ơn họ bằng vật chất. Đây không phải là những món tiền khổng lồ, song việc cựu chiến binh Vệ quốc Vĩ đại, người tham gia chiến tranh hay thương bệnh binh hiện nhận trung bình tổng cộng tất cả các khoản gần 23 ngàn roubles hàng tháng (770USD), theo tôi, đây chỉ là một phần nhỏ trách nhiệm của chúng ta, bổn phận của chúng ta mà chúng ta phải làm trước các cựu chiến binh. Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc đó. Đây là điều cực kỳ quan trọng đối với tương lai của chúng ta. Để các thế hệ trong tương lai cũng đối xử đúng với các cựu chiến binh tương lai. Để không làm đứt sợi chỉ thời gian giữa con người, giữa các thế hệ, giữa thế hệ hiện đại và những người đã mang về cho chúng ta Chiến thắng gian nan như thế.
V.A.: Dmitry Anatolievich, ở Nga, các nước châu Âu khác có nhiều đài tưởng niệm các sự kiện và anh hùng chiến tranh thế giới thứ Hai. Đài tưởng niệm nào gây ấn tượng mạnh nhất cho Ngài?
D.M.: Tôi người Leningrad (St. Peterburg hiện tại), và, tất nhiên, đối với tôi các địa danh Leningrad có ý nghĩa đặc biệt. Thời học sinh và sau đó tôi thường đến nghĩa trang Piskaryovskoye. Một số lượng khổng lồ người được chôn cất ở đó. Chúng ta không chỉ không biết họ tên của họ, chúng ta thậm chí không biết tất cả họ có bao nhiêu người. Ở đó thậm chí không có cả bia mộ, đơn giản chỉ được viết: “Chôn cất năm 1941, 1942”. Điều đó thật đáng buồn và gây ấn tượng rất mạnh. Tiếng phách kế metronom vang nhịp ở đó, mỗi khi tiến lại tượng đài...
Ngoài nghĩa trang Piskaryovskoye ở Leningrad, tôi tất nhiên từng và vẫn đến những nơi khác. Không thể không ghi nhận Đồi mộ Mamaev Kurgan tuyệt nhiên hùng vĩ. Trong những năm gần đây tôi đến đó mấy lần. Đây là một địa danh độc đáo, và không chỉ từ góc độ sự ảnh hưởng của nó tới chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, tới sự phát triển của nó, mà còn về mặt hơi thở sự sống toát ra từ nó. Khi anh tiến lại gần nó, anh cũng cảm nhận được sự hòa âm, như chạm tay vào những sự kiện thời kỳ đó.
Không thể không nhắc tới một sự kiện xảy ra cách đây không lâu mà tôi trực tiếp tham gia. Đó là lễ đốt ngọn lửa Vĩnh cửu tưởng niệm Chiến sỹ Vô danh trong vườn Alexandrovsky sad sau thời gian tu sửa. Đó là những cảm xúc hoàn toàn riêng, song chúng mạnh đến mức tôi không thể không nói về nó. Như anh biết, đối với tôi, về mặt biểu cảm, đây có lẽ là một trong những ngày xúc động nhất trong đời tôi: trách nhiệm to lớn và trực tiếp chạm tay vào lịch sử đất nước. Tôi không bao giờ quên ngày đó.
V.A.: Cảm ơn Ngài, Dmitry Anatolievich, vì cuộc trả lời phỏng vấn. Xin chúc mừng Ngài nhân ngày chiến Thắng!
D.M.: Cảm ơn anh. Chúc anh và báo “Tin tức” thành tích. Và qua báo tôi muốn chân thành chúc tất cả các cựu chiến binh của chúng ta nhân ngày lễ sắp tới, chúc cả nước Nga, bởi Ngày Chiến thắng ở nước ta được tiếp nhận như ngày hội tuyệt nhiên của toàn dân.
Dinh thự Tổng thống “Gorki”
Người dịch và chú giải: theviewingplatform
---------------
Sự "trung thực" của báo giới chống Cộng không chỉ ở đó, mà còn đối với cả người mà họ suy tôn, xin trích:
Bình lựng: "ông Tổng Thống Thiệu thích nói tiếng Anh lắm, tiếng Anh ông nói rất lưu loát" thế mà chỉ có mỗi giới từ “with” và “for” mà khiến ông Thiệu nhắm mắt còn không yên tâm!
Trích:
ÐQAThái: Trong thời điểm thuyền nhân Việt Nam vượt biên lên tới cao điểm, dường như ông Thiệu có nói với một nhà báo người Mỹ hay người Anh là ông không mắc mớ gì tới những người thuyền nhân đó cả. Theo ông nếu quả tình đó là lời của ông Thiệu, tại sao ông Thiệu lại nói ra một câu gây ra sự căm phẫn trong dư luận của đồng bào hải ngoại như thế? T.S Nguyễn Tiến Hưng: Tôi còn nhớ vào mùa Thu năm 1979 khoảng tháng 9, tháng 10 năm 1979 báo Việt Nam (tại Hoa Kỳ) lúc đó có chỉ trích ông Thiệu rất nặng nề vì câu mà anh Thái vừa kể. Tôi cũng giật mình cho rằng không hiểu sao một người như ông Tổng Thống Thiệu lại nói câu đó. Tôi định nhấc phone lên hỏi ông, nhưng cũng ngại vì telephone lúc đó đắt lắm, gọi sang bên Anh rất tốn tiền. May mắn là ngay 2, 3 hôm sau chúng tôi nhận được thư của tổng thống cho biết ông rất đau buồn vì đã bị hiểu lầm. Tổng thống có kể lại rằng chuyện đó từ đầu chí cuối do một ông nhà báo tên là Michael của báo “Now,” một tờ báo lớn ở bên London, đã năn nỉ ông để được phỏng vấn mấy câu thôi, rồi xuyên tạc ra nói câu đó. Câu chuyện đó là như thế này, “Thưa tổng thống, tổng thống có còn làm được gì đối với đồng bào của ông không, đối với vấn đề thuyền nhân không?” Khi trả lời, ý ông Thiệu muốn diễn tả là “hiện nay tôi chẳng còn chính quyền, chẳng còn phương tiện và làm được gì đối với vấn đề thuyền nhân”. Kẹt là tiếng Anh, ông Tổng Thống Thiệu thích nói tiếng Anh lắm, tiếng Anh ông nói rất lưu loát nhưng có những sắc ý nhiều khi cũng khó, chữ kẹt là “for” and “with” đáng nhẽ phải nói rằng “I have nothing to do for them,” tôi không còn gì để mà làm cho họ, theo nhà báo nói thì ông lại nói rằng, “I have nothing to do with them” tiếng Việt dịch ra là tôi không còn làm gì mắc mớ đối với họ nữa. Ông Thiệu rất đau đớn, ông nói chính thằng này, ông gọi thằng... này đã phịa ra, ông bảo rằng ông đã nói for mà nó phịa ra with, báo dịch ra là đối với, cái đó làm cho ông đau đớn lắm. Ông Thiệu yêu cầu chúng tôi tìm dịp hay báo chí nào để cải chính, ông dùng chữ “clear up giùm tôi.” Ðó là chuyện làm cho ông Thiệu đau đớn nhất vì bị hiểu lầm trong lúc phong trào thuyền nhân đang lên cao mà ông tổng thống nói như vậy thì thật là ê chề. ÐQAThái: Thưa tiến sĩ nhưng có bằng chứng nào thật cụ thể cho thấy rằng Tổng Thống Thiệu đã nói như vậy mà báo chí viết sai đi không? T.S Nguyễn Tiến Hưng: Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, ngay lời mở đầu tôi có xin phép tổng thống ở thế giới bên kia cho chúng tôi được in lại bức thư này. Tôi nói rằng xin ông cho tôi được in lại ít nhất một thư này và tự tay chụp hình in lại chính văn thư nguyên bản để đồng bào thấy được sự thật của vấn đề. Nguồn: Cuốn sách sắp ra mắt của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng Đinh Quang Anh Thái/Người Việt (Thực hiện) |
Ôi chao, là báo giới chống Công! Đã không bênh cho Tổng thống của mình, lại còn chửi bới ông thê thảm, để tới tận bây giờ, qua Nguyễn Tiến Hưng, ông mới được "giải oan" (???), nhưng phải chờ đến 30 năm.
Ôi hô, ai tai!
Nhân vụ Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ hung hăng bọ xít trên Bọ Xít Vịt Ngan, bèn tìm hiểu sơ sơ, thật là xấu hổ cho các loại Tiến Sĩ với chả Giáo Sư!
Bản tham luận của ông Vũ Hải Triều phát biểu tại hội nghị toàn quốc triển khai nhiệm vụ của các cơ quan báo chí năm 2010 tại Hà Nội. Có đoạn: “Lực lượng công an đã tăng cường các biện pháp an ninh, xác định gần 300 website, blog trong và ngoài nước có hoạt động tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước…; phát hiện trên 100 website của Văn phòng Chính phủ, các bộ, ban ngành ở trung ương và địa phương có nguy cơ bị cơ quan tình báo thâm nhập, để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn”
Ấy vậy mà các vị 'trí thức' nọ, tiêu biểu là Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ vật ngửa ông Vũ Hải Triều ra để nhét cho được cái từ 'phá sập' thay cho từ 'xác định' vào miệng của ông ấy, để rồi thỏa thích bêu ông Vũ Hải Triều ở trên mạng:
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
24 Điện Biên Phủ, Hà Nội
Email: havulaw@yahoo.com
ĐT: 0904350187
Hà Nội ngày 16/5/2010
Nguồn: Bọ Xít Vịt Ngan.
Quả thực cái trò mèo của các "nhà trí thức" bọ xít còn tồi tệ hơn bất kể trò tinh nghịch khờ dại của những đứa trẻ ranh nào.
Bản tham luận của ông Vũ Hải Triều phát biểu tại hội nghị toàn quốc triển khai nhiệm vụ của các cơ quan báo chí năm 2010 tại Hà Nội. Có đoạn: “Lực lượng công an đã tăng cường các biện pháp an ninh, xác định gần 300 website, blog trong và ngoài nước có hoạt động tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước…; phát hiện trên 100 website của Văn phòng Chính phủ, các bộ, ban ngành ở trung ương và địa phương có nguy cơ bị cơ quan tình báo thâm nhập, để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn”
Ấy vậy mà các vị 'trí thức' nọ, tiêu biểu là Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ vật ngửa ông Vũ Hải Triều ra để nhét cho được cái từ 'phá sập' thay cho từ 'xác định' vào miệng của ông ấy, để rồi thỏa thích bêu ông Vũ Hải Triều ở trên mạng:
Trích:
Hôm nay, Bauxite Việt Nam đã đưa lại tin mà từ nhiều ngày nay rất nhiều trang thông tin điện tử (website và blog) đã đăng tải theo đó tại Hội nghị toàn quốc triển khai nhiệm vụ của các cơ quan báo chí Việt Nam năm 2010, Trung tướng Vũ Hải Triều, Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục An ninh – Bộ Công an tuyên bố đã chỉ đạo bộ phận kỹ thuật phá sập 300 báo mạng và blog cá nhân xấu! Thực tình khi mới đọc tin này, tôi vô cùng kinh tởm ông vì chỉ có loại dã man mới có hành vi phản văn minh đến như thế và hơn thế nữa, tôi coi ông là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vì đã ngang nhiên hủy diệt Quyền Tự do Ngôn luận, Quyền Tự do Báo chí, Quyền được Thông tin của công dân được quy định tại Điều 69 Hiến pháp Việt Nam, thậm chí là tội phạm quốc tế nếu máy chủ của báo mạng và blog cá nhân nằm ở nước ngoài. Tóm lại, quan điểm của tôi là phải trừng trị ông bằng cách lột hàm sĩ quan, sa thải khỏi ngành Công an và đưa ra Tòa án xét xử để bỏ tù chung thân thì mới tương xứng với hành vi phạm tội của ông! ........... Sau một tuần kể từ hôm nay mà tôi không nhận được thư trả lời của ông, điều này đồng nghĩa với việc ông công nhận thông tin “Trung tướng Vũ Hải Triều, Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục An ninh – Bộ Công an tuyên bố đã chỉ đạo bộ phận kỹ thuật phá sập 300 báo mạng và blog cá nhân xấu là đúng sự thật! |
24 Điện Biên Phủ, Hà Nội
Email: havulaw@yahoo.com
ĐT: 0904350187
Hà Nội ngày 16/5/2010
Nguồn: Bọ Xít Vịt Ngan.
Quả thực cái trò mèo của các "nhà trí thức" bọ xít còn tồi tệ hơn bất kể trò tinh nghịch khờ dại của những đứa trẻ ranh nào.
Tài quấn pháo tintuchangngay.org
Kami bịa đặt thông tin:
Về quan hệ VN - TQ
Về quan hệ VN - Campuchia, http://www.rfavietnam.com/node/942
Làm cái loa nối dài cho tên diệt chủng Nuon Chea.
TTHN nhét chữ vào miệng Trầm Bê để lăng xê Quân làm pháo: http://www.tintuchangngay.org/2012/0...n-on-hoan.html
Nguyên văn câu trên ở Vietstock: "Tôi khẳng định là tôi chưa hề bị công an mời, bị hỏi thăm hay gì cả. Tất cả đều là tin thất thiệt."
Về quan hệ VN - TQ
Về quan hệ VN - Campuchia, http://www.rfavietnam.com/node/942
Làm cái loa nối dài cho tên diệt chủng Nuon Chea.
TTHN nhét chữ vào miệng Trầm Bê để lăng xê Quân làm pháo: http://www.tintuchangngay.org/2012/0...n-on-hoan.html
Nguyên văn câu trên ở Vietstock: "Tôi khẳng định là tôi chưa hề bị công an mời, bị hỏi thăm hay gì cả. Tất cả đều là tin thất thiệt."
Kami lấy từ kho nào, tin trời ơi này?http://nguoiduatinkami.wordpress.com...b%E1%BA%AFc-k/
Tài quấn pháo ttxva.org
TTXVA: Sau khi tôi lên thăm chùa phát hiện ra Chủ tịch Hồ Chí Minh đây là vị la hán thứ 19 http://www.ttxva.org/ho-chi-minh-vi-...ua-tay-phuong/
Đố ai tìm thấy bức tượng trong tấm hình này ở chùa Tây Phương!
Thông tấn xà Vàng Anh xạo sự sản xuất "Thông bố Chánh phủ"
Trước hết phải thừa nhận công phu của người sáng chế nội dung cái "Thông bố" này, mhưng nó lộ diện ở chỗ nhiều người để ý nhất là phần đầu và đuôi văn bản.
Ngay từ đầu, bên dưới chữ THÔNG BÁO là lỗi thằng đánh máy: Phó Thủ Thủ tướng... - không thể tin, dù là 1%!
Còn cái con dấu củ khoai TỐI MẬT - dấu chi mà lọa rứa? Hàng xịn đây nà:
Đố ai tìm thấy bức tượng trong tấm hình này ở chùa Tây Phương!
Thông tấn xà Vàng Anh xạo sự sản xuất "Thông bố Chánh phủ"
Trước hết phải thừa nhận công phu của người sáng chế nội dung cái "Thông bố" này, mhưng nó lộ diện ở chỗ nhiều người để ý nhất là phần đầu và đuôi văn bản.
Ngay từ đầu, bên dưới chữ THÔNG BÁO là lỗi thằng đánh máy: Phó Thủ Thủ tướng... - không thể tin, dù là 1%!
Còn cái con dấu củ khoai TỐI MẬT - dấu chi mà lọa rứa? Hàng xịn đây nà:
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)