Chúng ta thường nghe giới chóng cọng rêu rao rằng:
"Phú Trí Địa Hào
Đào tận gốc trốc tận rể"
Và "Phong trào “Xô Viết Nghệ Tỉnh” là cuộc nổi dậy đầu tiên do Đảng Cộng Sản lãnh đạo với khẩu hiệu “Trí, phú , địa , hào, phải đào tận gốc trốc tận rễ” tức là cứ theo thứ tự bất lợi cho cách mạng thì tầng lớp trí, được “ưu tiên” rồi đến ,phú địa, hào đều phải được giết sạch thì thành phần vô sản mới có thể đẩy mạnh phong trào Cộng Sản trên khắp cả nước"
Hà Sỹ Phu còn làm bài vè:
"Bốn anh Trí Phú Địa Hào
Chỉ riêng anh Trí lao đao đến giờ
Đảng ta thương Trí ngu ngơ
Cho Công – Nông - Trí chung cờ liên minh
Trông lên Liềm - Búa hai hình
Trí ta vẫn chẳng thấy mình ở đâu
Quay sang tìm Phú, Địa, Hào
Thấy ba bụng phệ… đã vào… Đảng ta!"
Thế nhưng, có thật như thế?
Liền sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra rầm rộ trên quy mô cả nước mà đỉnh điểm là Xô viết Nghệ Tĩnh.
Nhiều công trình nhỏ, to của các học giả trong và ngoài đã đề cập đến sự kiện này dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với độ lùi trên 80 năm, chúng ta bình tĩnh, khách quan nhìn lại sự kiện trọng đại đó.
Nhìn lên bản đồ nước Việt chúng ta, Nghệ Tĩnh là giải đất hẹp nằm kẹp giữa một bên là dãy Trường Sơn và một bên là biển Đông.
Đây là mãnh đất không được thiên nhiên ưu đãi, nắng lắm, bão tố, lụt lội nhiều.
Yếu tố địa quy định tính cách con người quần tụ nơi đây.
Họ muốn trụ được và tồn tại trên mãnh đất này trước hết là họ phải cố kết thành những cộng đồng người để chinh phục thiên nhiên.
Dần dà trong cộng đồng người đó hình thành một tính cách căn bản – bất khuất trước thiên nhiên khắc nghiệt.
Nét đặc trưng đó của người xứ Nghệ trở thành một tài sản tinh thần vô giá - bất khuất trước cường quyền, bất công trong xã hội.
Xem trong lịch sử xứ Nghệ, chỉ thời kỳ lịch sử cận hiện đại thôi, cũng đầy những bằng chứng về sự bất khuất trước sự xâm lược của ngoại bang và trước cường quyền.
Khi ở đây chưa có thực dân Pháp, Trần Tấn và Đặng Như Mại đã dựng cờ nghĩa với lời thề chém đá: “Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”.
Và khi kẻ thù xuất hiện, người Nghệ Tĩnh đã hội tụ, chiến đấu dưới lá cờ nghĩa của Phan Đình Phùng trong phong trào Cần Vương từ đầu chí cuối.
Trong phong trào chống thuế Trung Kỳ 1908, phong trào chống thuế khi vượt qua Đèo Ngang đã nhuốm màu bạo động.
Rồi người xứ Nghệ xốc tới cao trào cách mạng năm 1930 như ta đã thấy.
Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh diễn ra trong bầu không khí cách mạng đã được hâm nóng từ phong trào chống thuế Trung Kỳ năm 1908 và cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học tháng 2 năm 1930.
Có lẽ, con người trên mãnh đất này không thích thỏa hiệp, chỉ thích quyết đấu. Nó là sản phẩm của lịch sử hàng nghìn năm.
Nó như con dao hai lưỡi, tốt ở hoàn cảnh này, nhưng không tốt trong trạng huống kia.
Những biểu hiện hướng tả trong cải cách ruộng đất, trong duy ý chí thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội qua câu nói nổi tiếng gần xa của Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu Nguyễn Văn Đợi: “Mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản”
Nếu như phong trào chống thuế diễn ra ở các tỉnh miền Trung, hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng diễn ra rời rạc với thời gian tồn tại vài ba tháng ở các tỉnh châu thổ sông Hồng và trung du Bắc Kỳ, thì cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên một năm với cường độ mạnh ở 25 tỉnh thành khắp trên cả nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh bằng việc thiết lập chính quyền của những người bị áp bức, bóc lột, khác xa với các loại chính quyền hiện thời và trước đó, để lại những ký ức khó phai mờ trong lòng người dân đất Việt và hơn thế nữa để lại một hình mẫu chính quyền mà dân ta muốn hướng tới.
Một vấn đề đặt ra là một mô hình chính quyền hợp lòng dân đó sao lại chỉ có thể đứng vững trong một thời gian ngắn?
Đó là một câu hỏi khó mà xưa nay các nhà khảo cứu đã tìm cách giải mã, nhưng đều chưa thỏa đáng, chỉ có thể làm thỏa mãn câu hỏi đặt ra đó khi ta tiếp cận từ nhiều khía cạnh, đặc biệt từ hai khía cạnh quan trọng nhất: lực lượng nào dẫn dắt nó và môi trường sinh ra nó.
Các cương lĩnh chính trị của Đảng như "Chánh cương vắn tắt" và "Luận cương chánh trị" của Đảng năm 1930 và cả trong "Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng" của Nguyễn Ai Quốc đều cho rằng chính thể cách mạng của giai đoạn đầu là Chính phủ công nông binh.
Đó là chủ trương không phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng mô hình nhà nước công nông binh, chính quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh, các công hội đỏ, nông hội đỏ, tự vệ đỏ và khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” là sản phẩm của "Luận cương chánh trị".
Ý kiến ấy là không đúng, không khách quan.
Vì "Luận cương chánh trị" đến tháng cuối tháng 10-1930 mới được thông qua, trong khi đó, cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đến tháng 10-1930 đã tới đỉnh cao và chuyển sang sang thoái trào.
Chủ trương thành lập chính phủ công nông binh nếu là giáo điều, “tả” khuynh thì đó điều đã ghi ở "Chánh cương vắn tắt" và trong "Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng" của Nguyễn Ái Quốc rồi.
"Chánh cương vắn tắt" cho rằng “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến”. “Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thỉ phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v...) thì phải đánh đổ”. “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp...”(1). “Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”(2).
Đoạn trích đó thể hiện "Chánh cương vắn tắt" có quan điểm giai cấp rất “rạch ròi”, có sự phân biệt và “dè dặt” trong tập hợp lực lượng cách mạng.
"Luận cương chánh trị" ghi: “bọn tư bổn thương mại… đứng về một phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công nghệ…vì sức lực yếu kém, có dính dáng với địa chủ, sợ phong trào vô sản ... cho nên chúng nó không thể đứng về quốc gia cách mạng mà chỉ đứng về mặt quốc gia cải lương”. “Bọn thủ công nghiệp thì thái độ của chúng nó đối với cách mạng rất do dự”. Bọn tiểu thương thì không tán thành cách mạng, bọn trí thức, tiểu tư sản, học sanh,v.v “hăng hái cách mạng nhưng chỉ lúc đầu”(3).
Những điều đó chứng tỏ "Luận cương chánh trị" chưa thực sự coi trọng vai trò và khả năng cách mạng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, trung và tiểu địa chủ ở một nước thuộc địa.
Chưa thực sự coi trong, song không hẳn là “tả” khuynh.
Vì nếu “tả” khuynh như một số người hiểu thì làm sao Trung ương Đảng lại có sự phê phán Xứ ủy Trung kỳ là: “Xứ ủy Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rẽ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”(4).
Chân dung đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng (Nguồn: Internet)
Đồng chí Trần Phú sinh năm 1904, con một nhà quan nho học có lòng yêu nước, thương dân, lên 4 tuổi đã mồ côi cha, lên 6 tuổi mồ côi mẹ, 9 tuổi mới được đi học nhưng học rất giỏi. 18 tuổi (1922), đỗ thủ khoa kỳ thi Thành chung Trường Quốc học Huế và đi vào nghề dạy học, đó cũng là thời kỳ bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước.
Trần Phú lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan. Vào những năm đầu thế kỷ XX, nhất là những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp ngày càng gia tăng áp bức, bóc lột thuộc địa. Sưu cao, thuế nặng và lao dịch hà khắc đổ lên đầu dân bản xứ. Các phong trào yêu nước bị đàn áp dã man.
Ngay từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường, Trần Phú đã cảm nhận được những gì đã xảy ra. Cha của anh - cụ Trần Văn Phổ - một đương kim tri huyện của chính phủ Nam triều đã tự vẫn trước công đường để phản đối sưu dịch nặng nề và lệnh đàn áp của chính quyền thực dân phong kiến, cũng là để bày tỏ thái độ không cam chịu thân phận làm nô lệ ở chốn quan trường.
Bản thân Trần Phú, lúc bước vào nghề dạy học, đã từng được một thầy giáo cũ của mình, gửi tặng hai câu thơ của một nhà chí sĩ thời đó:
"Sinh ư nô lệ sinh do tử
Tử yếu tự do tử nhược sinh"
Có nghĩa:
"Sống mà nô lệ, sống như chết
Chết vì tự do, chết là sống"
Truyền thống gia đình và quê hương đã nung nấu trong Trần Phú tinh thần yêu nước, chí hướng làm cách mạng. Không theo con đường học để làm quan, Trần Phú chọn nghề dạy học, rồi làm cách mạng chuyên nghiệp.
Năm 1925, cùng một số đồng chí khác, thành lập Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam).
Năm 1926, bước ngoặt lớn đã diễn ra sau khi Trần Phú được cử sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc giảng dạy, được bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp vào Cộng sản Đoàn - hạt nhân của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên.
Năm 1927, được cử sang Liên Xô, học ở Trường đại học Phương Đông. Cuối năm 1929, được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động.
Thế là, giống như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú đã từ chủ nghĩa yêu nước tiến tới bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và suốt đời trung thành với lý tưởng đó. Tinh thần yêu nước và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hòa quyện vào nhau tạo nên một động lực tinh thần to lớn của cách mạng Việt Nam.
Tháng 10/1929, cùng với Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú bị tòa án Nam triều kết án tử hình vắng mặt vì “tội” làm cộng sản. Cộng sản lúc bấy giờ không còn là bóng ma ám ảnh mà đã trở thành nỗi sợ hãi thật sự của chính quyền thực dân, phong kiến.
Bất chấp sự săn lùng của kẻ thù, từ Mátxcơva, Trần Phú vẫn tìm đường về nước, hoạt động ngay giữa lòng địch ở Hà Nội và Sài Gòn, tham gia lãnh đạo xây dựng Đảng và có nhiều công lao suốt cả năm 1930 và những tháng đầu năm 1931.
Năm 1930, ngay sau khi về nước, được bổ sung vào Ban Chấp ủy lâm thời và được giao dự thảo "Luận cương chánh trị" của Đảng, đồng chí Trần Phú khẩn trương xúc tiến tổ chức các cuộc trao đổi với các đồng chí lãnh đạo trên các lĩnh vực, các vùng và nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai (Quảng Ninh), Thái Bình…
Chỉ trong vòng 3 tháng, Trần Phú đã hoàn thành bản dự thảo "Luận cương chánh trị" để Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10/1930) thông qua, được Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương bầu làm Tổng bí thư.
"Luận cương chánh trị" của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí được Đảng giao soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-1930), chỉ rõ: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”(5).
"Luận cương chánh trị" chỉ rõ tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
"Luận cương chánh trị" cũng chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Đông Dương là sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên hệ với quần chúng…
"Luận cương chánh trị" đã vận dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trong "Chánh cương vắn tắt" và "Sách lược vắn tắt" do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua Hội nghị thành lập Đảng.
"Luận cương chánh trị" cùng với "Chánh cương vắn tắt" và "Sách lược vắn tắt" thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta thời dựng Đảng.
Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương, tầm quan trọng của kỷ luật Đảng đã được khẳng định: “Cái trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách rất nghiêm khắc. Tất cả đảng viên phải chấp hành các nghị quyết của Q.T (Quốc tế Cộng sản) của Đảng Đại hội, của Trung ương, của các thượng cấp cơ quan. Trước khi chưa nghị quyết thì tất cả các vấn đề ở trong Đảng đều được tự do thảo luận”(6).
Để kịp thời đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù và uốn nắn những lệch lạc “tả khuynh” cũng như “hữu khuynh”, tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1931), đồng chí Trần Phú đã phê phán chủ trương “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” là sai lầm và kiên quyết chỉ đạo khắc phục, góp phần xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, kỷ luật của Đảng, lấy lại lòng tin trong nhân dân để tiếp tục tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng.
Trong giai đoạn đó, tổ chức, kỷ luật của Đảng được chú trọng củng cố, vai trò lãnh đạo của hệ thống tổ chức Đảng ngày càng được khẳng định trong đấu tranh cách mạng.
Vì vậy, ngày 11-4-1931, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Ngày 18/4/1931, Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt, tra tấn dã man, đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6/9 năm ấy.
Từ khi nhận nhiệm vụ Tổng bí thư cho đến khi bị địch bắt, thời gian không đầy 6 tháng nhưng Trần Phú đã làm rất nhiều việc trong chỉ đạo thực tiễn.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3/1931) đã phân tích, đánh giá sâu sắc phong trào cách mạng sôi nổi đang diễn ra khắp nơi, cả những ưu điểm và thiếu sót, đặc biệt là các phong trào nông dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Mỹ Tho, Bến Tre…
Về Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Tổng bí thư một mặt đánh giá cao phong trào, mặt khác phê phán nghiêm khắc sai lầm của khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, coi đó là sai lầm “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi, tước bỏ bạn đồng minh, gây thêm khó khăn cho cách mạng.
Có thể coi đó là sự phê phán có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong buổi đầu cách mạng.
Các hội nghị Thường vụ Trung ương do Trần Phú chủ trì còn ra nhiều quyết định cụ thể khác: Xuất bản báo Cờ vô sản và báo Cộng sản, làm cơ quan tuyên truyền và lý luận của Trung ương; tổ chức công tác giao thông liên lạc từ Trung ương đến các xứ ủy, tỉnh ủy và từ Trung ương đến Quốc tế Cộng sản; tiến hành công tác vận động công nhân và thành lập Ban Công vận Trung ương do chính Trần Phú làm Trưởng ban…
Bằng những thủ đoạn tra tấn cực kỳ dã man, thậm chí rạch da thịt, rồi nhét bông tẩm dầu mà đốt, kẻ thù hòng khai thác từ người đứng đầu Đảng ta nhiều điều bí mật, Trần Phú vẫn một mực không khai: “Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các người nghe” (7).
Tại phiên tòa xét xử, mặc dù đã thừa biết tên thật người bị bắt, tên quan tòa vẫn gặng hỏi mãi. Trần Phú thản nhiên: “Ông đã tha thiết muốn biết tên tôi quá như thế, thì đây, tên tôi là Trần Phú” (8). Rồi im bặt, không thêm một lời nào nữa.
Gần 5 tháng bị giam cầm tại nhà lao, trước những đòn tra tấn dã man và chế độ nhà tù khắc nghiệt, cộng thêm bệnh lao tái phát, Trần Phú đã kiệt sức.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Trần Phú còn gửi tới các đồng chí, đồng bào lời nhắn nhủ: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
Tổng Bí thư Trần Phú.
Nghiên cứu tiến trình phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ta có một nhận xét khái quát: những biểu hiện căn bệnh ấu trĩ tả khuynh chỉ xuất hiện vào lúc phong trào đang đứng trước sự tấn công điên cuồng của thực dân Pháp và bề lũ tay sai.
Trong sự quyết đấu đó, để tiếp tục đưa phong trào tiến lên, những người cộng sản cần phải tỉnh táo đề ra những giải pháp uyển chuyển, thì trái lại, đưa ra giải pháp quá cứng rắn, không phải đối với kẻ thù, mà đối với chính những người lãnh đạo phong trào: “Trí, Phú, Địa, Hào; Đào tận gốc, trốc tận rễ”, từ đó dẫn tới Chỉ thị “ Thanh Đảng”, tức làm trong sạch nội bộ Đảng trước bước ngoặt của phong trào.
Năm 1930 - 1931, Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao nhất của phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặc dù có rất nhiều thành tích, nhưng vẫn còn những biểu hiện tả khuynh, đặc biệt là vấn đề thanh Đảng, năm 1931, trước âm mưu khủng bố trắng của thực dân Pháp và phong kiến, đáng tiếc thay Xứ ủy Trung Kỳ đã phạm một số sai lầm tả khuynh.
Dù thời gian xảy ra yếu điểm đó rất ngắn ngủi (khoảng một tháng) nhưng nó đã gây ra tổn thất cho phong trào bấy giờ:
Chỉ thị thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ ra đời đầu tháng 4-1931.
Trong chỉ thị này có câu “Trí phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, “Đuổi sạch sành sanh ra ngoài hết thảy những bọn trí phú địa hào. Nếu đồng chí nào muốn làm cách mạng, tự nguyện đứng về phía giai cấp vô sản mà phấn đấu cũng không cho đứng trong Đảng.”
Sau khi nhận được chỉ thị thanh Đảng, các đảng viên thuộc thành phần lớp trên không tránh khỏi đột ngột, đã gây tổn thất trong nội bộ Đảng.
Ta bắt gặp những trang hồi ký đẫm nước mắt của những người trong cuộc như bà Tôn Thị Quế khi đón nhận Chỉ thị đó.
Bà Tôn Thị Quế, nguyên là Tỉnh ủy viên Nghệ An, người có công lớn trong công tác xây dựng cơ sở Đảng ở huyện Thanh Chương, Nam Đàn đã kể lại: “Khi nhận được quyết nghị hạ tầng công tác của Tỉnh ủy, tôi bàng hoàng cả người. Trở lại công tác ở Ngọc Lâm, lòng tôi vô cùng đau xót. Ngày đêm tôi không ăn, không ngủ được. Biết tôi là một cán bộ bị hạ tầng, quần chúng đối đãi khác hẳn.” (9)
Hoặc lời khai của Phan Sĩ Liêm: “ Vào cuối năm 1930, thiếu úy Trưởng đồn Thanh Quả đến nhà bắt tôi…Tôi trốn trong núi trước Võ Liệt…Tôi ở đấy đến đầu năm…thì Bí thư Chi bộ Yên Trường đến nói với tôi rằng có lệnh của Đảng cấm những người giàu và trí thức không được hoạt động và do đó tôi không còn thuộc chi bộ anh ta nữa” (10)
Sự thái quá trong lý luận và thực tiễn thời Xô viết Nghệ Tĩnh không phải xa lạ, mà thuộc một căn bệnh thường gặp trong phong trào cộng sản quốc tế, căn bệnh “tổ tông”, đã được V.I. Lênin cảnh báo trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản xuất bản vào tháng 6 năm 1920.
Trong tác phẩm đó, Lênin đã từng căn dặn những người cộng sản: “Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỷ mỷ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù…cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù nhỏ bé nhất để có được một bạn đồng minh tạm thời bấp bênh, có điều kiện, ít chắc chắn và đáng tin cậy” (11)
Căn bệnh đó xuất phát từ sự nhận thức không đến nơi đến chốn lý luận mác xít về chuyên chính vô sản và việc vận dụng máy móc nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước.
Sự nhận thức không thấu đáo đó đã dẫn tới hai dạng tả khuynh khác nhau trên hai vùng của thế giới.
Ở các nước phát triển lúc đầu xuất hiện khuynh hướng “tả”, rồi dần dần tới “cực tả”, được biểu hiện trọn vẹn trong chủ nghĩa Trốt xki, đề cao thái quá vai trò của giai cấp vô sản trong tiến trình cách mạng vô sản, điều đó dẫn tới chủ nghĩa biệt lập.
Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, như chúng ta, xuất hiện một khuynh hướng quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp, hạ thấp yếu tố dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta căn bệnh đó được biểu hiện sớm nhất trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Vậy phong trào này về tư tưởng chịu ảnh hưởng của lực lượng chính trị nào, của chính đảng nào?
Từ trước tới nay trong các công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng 1930-1931 chỉ thấy nói một cách chung chung là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nói như thế có lẽ không hoàn toàn chính xác.
Cao trào cách mạng này trước tiên chịu ảnh hưởng tư tưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ.
Cao trào này khởi phát từ cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân ở đồn điền Phú Riềng dưới sự lãnh đạo của Trần Tử Bình, một trong những đảng viên thuộc chi bộ cộng sản đầu tiên ở Nam Kỳ, được Ngô Gia Tự, phái viên của Đông Dương Công sản Đảng , tổ chức.
Tiếp đó là cuộc đấu tranh cuả công nhân Nam Định và Vinh - Bến Thủy là hai trung tâm công nghiệp ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, địa bàn hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng.
Những phái viên của Đông Dương Cộng sản Đảng có mặt đầu tiên ở Vinh - Bến Thủy là Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, tiếp đó là Nguyễn Đức Cảnh.
Họ chính là những người sáng lập Chi bộ cộng sản đầu tiên trong nước và là trụ cột của Đông Dương Cộng sản Đảng.
Như vậy, cao trào cách mạng 1930-1931- quy mô toàn quốc và phong trào Xô viết- quy mô địa phương, đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đông Dương Cộng sản Đảng.
Như chúng ta điều biết, thời Việt Nam cách mạng Thanh niên, Kỳ bộ thanh niên Bắc Kỳ là mạnh nhất, không chỉ đông hội viên hơn, mà mạnh về chất lượng và hoạt động thực tiễn.
Đây là nơi sản sinh ra phong trào “vô sản hóa” góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân.
Vì thế, trên mảnh đất này những người lãnh đạo sau khi tiếp nhận các Nghị quyết của Đại hội VI Quốc tế Cộng sảng năm 1928, đã sớm nhận ra sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản.
Họ đã thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên làm hạt nhân cho cuộc vận động đó.
Khi vấn đề thành lập ĐCS mà họ nêu lên tại Đại hội I Thanh niên không được chấp nhận, họ bỏ đại hội ra về và công bố Tuyên ngôn giải thích cho hội viên lý do không tiếp tục dự đại hội.
Nửa tháng sau, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập và thông qua những văn kiện nền tảng như Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ.
Tuyên ngôn xác định tính chất của Đảng là: “Đảng cách mệnh đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức là thợ thuyền) ở Đông Dương…Đảng CS là Đảng bênh vực cho toàn giới vô sản giai cấp, dân cày nghèo và tất cả những người làm lụng bi bóc lột và đè nén”.
Những vấn đề lý luận nêu lên trong các văn kiện có tính cương lĩnh của Đông Dương Cộng sản Đảng về căn bản là đúng, nhưng có nhiều điểm quá đơn giản và chưa chính xác, đặc biệt không nhận thức được yếu tố dân tộc, mà quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp theo nhận thức không thấu đáo loại hình cách mạng ở các nước thuộc địa như chúng ta.
Sự thiên lệch đó đã dẫn tới những biểu hiện tả khuynh và biệt lập trong đường lối và hành động thực tiễn.
Điều này được biểu hiện rõ trong thái độ của Đảng đối với các giai cấp khác ngoài công nông.
Chẳng hạn, đối với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản không có sự phân biệt rạch ròi giữa địa chủ yêu nước và địa chủ phản động, giữa tư sản dân tộc và tư sản mại bản để có thái độ đúng nhằm phân hóa, lôi kéo họ về phia cách mạng hoặc đối với trí thức có những nhận định không đúng khi cho rằng “cách mạng càng tiến lên, thì tụi đó cứ dần dần lui về”.
Với những tư tưởng chỉ đạo đó, Đông Dương Cộng sản Đảng giỏi lắm chỉ xây dựng được khối liên minh công nông, chứ không thể xây dựng được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn.
Chúng ta hoàn toàn hiểu và thông cảm với họ, bởi lẽ Đông Dương Cộng sản Đảng vừa mới thoát thai từ Thanh niên cần phải tỏ ra là cộng sản, lấy tính giai cấp làm tiêu chí phân biệt, mà không thấy được vấn đề cốt tử là những người cộng sản ở các nước thuộc địa đang lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì thế yêu tố dân tộc ở đây là trên hết, trước hết, lợi ích dân tộc phải được đặt trên lợi ích giai cấp.
Sự thiên lệch đó hay nói cách khác mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đã được giải quyết thỏa đáng khi Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.
Từ đó chúng ta mới có Mặt trận Việt Minh và dẫn tới thắng lợi trong cách mạng tháng Tám.
Nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi chúng ta lại phạm phải tả khuynh trong cải cách ruộng đất, cải tạo tư bản tư doanh và chống nhóm Nhân văn giai phẩm.
Những sai lầm tả khuynh đó tạo ra một sự sinh hoạt chính trị mới chưa từng có trước đó, theo nghĩa xấu, đặc biệt ở khu vực nông thôn.
Chẳng hạn, trong cải cách ruộng đất, những người cố nông, bần nông là những người không biết chữ lên nắm chính quyền làng xã.
Và chúng ta biết xã hội vận động như thế nào khi những người không biết chữ nắm giử chính quyền.
Vấn đề ở đây là chính quyền đứng trên lập trường của giai cấp nào chứ không phải là giai cấp nào nắm chính quyền.
Sự đảo lộn các giá trị xã hội bắt đầu từ sự nhận thức thô thiển đó.
Từ đó, theo thời gian, trên bình diện tư tưởng, lại xuất hiện một biến thái khác của khuynh hướng tả – duy ý chí, đề cao quá đáng yếu tố con người.
Duy ý chí xuất hiện trong bối cảnh khi ta đang đứng trên “ đỉnh cao muôn trượng” sau thắng Mỹ, tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội và hâu quả như thế nào chúng ta đã từng nếm trải.
Khía cạnh quan trọng thứ hai là môi trường sinh ra tư tưởng tả khuynh và duy ý chí, đó là xứ Nghệ.
Như trên đã viết, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả nước, nhưng đến xứ Nghệ nó đâm hoa kết trái bằng sự thành lập chính quyền Xô viết.
Đó là điều chúng ta phải suy ngẫm, xem xét, trước hết là hai yếu tố: Địa và Nhân.
Nghiên cứu đặc điểm Đảng ta và tìm hiểu thành phần xuất thân của lớp đảng viên đầu tiên ở Nghệ Tĩnh như Trần Phú, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sỹ Sách, Nguyễn Tiềm v.v… phần lớn họ là trí thức tiểu tư sản thuộc các gia đình khá giả.
Chính họ đã tiếp thu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Nguyễn Ái Quốc vào phong trào yêu nước.
Phần đông trong số họ giữ cương vị chủ chốt trong các cấp bộ Đảng.
Vì vậy chỉ thị thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ đánh vào lực lượng nòng cốt của Đảng. “Tuy các địa phương không khai trừ đảng viên song việc chuyển vị trí và hạ tầng công tác nhất loạt hầu hết đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra khỏi các cương vị chủ chốt trong cấp ủy và thay thế bằng những đảng viên thành phần bần cố nông trình độ quá thấp. Trong tình hình địch khủng bố trắng lúc bấy giờ đã gây trở ngại và tổn thất không nhỏ.” (12)
Có thể nói chỉ thị thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ trong thời kì cuối của Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sai lầm lớn về công tác xây dựng Đảng.
Chỉ thị đó bộc lộ tư tưởng cô độc, hẹp hòi nghiêm trọng và sự ấu trĩ về nguyên lý xây dựng Đảng, về nhận thức đặc điểm của Đảng ta.
Trong hoàn cảnh đó, Trung ương Đảng đã kịp thời ra chỉ thị uốn nắn phong trào.
Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ ngày 20/5/1931 của Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, như vậy thì lấy gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”.
Các địa phương đã báo cáo về Xứ ủy có hiện tượng một số đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra đầu thú với địch, hoặc chuẩn bị ra đầu thú. Xứ uỷ Trung Kỳ phải tuyền lệnh thu hồi chỉ thị đó.
Trên thực tế ở hầu khắp các địa phương có cơ sở Đảng tại Nghệ An, không có hiện tượng khai trừ Đảng viên: “Theo điều tra của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh uỷ Nghệ An, cả Đảng bộ Thanh Chương - Đảng bộ có số lượng đảng viên đông nhất tỉnh, không có trường hợp nào khai trừ đảng viên theo chỉ thị thanh Đảng” và sáng suốt thay “đã không xảy ra một cuộc thanh trừng, sát phạt trong các Đảng bộ” (13)
Sau khi đi dự Hội nghị Trung ương Đảng trở về, đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung kỳ đã triệu tập hội nghị cán bộ chủ trì để báo cáo tình hình.
Đồng chí Nguyễn Thị Duệ đã đi dự hội nghị từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 4 năm 1931 để tiếp thu ý kiến chỉ đạo, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng trong giai đoạn mới.
Sau cuộc Hội nghị của Xứ ủy Trung kỳ, các đồng chí lãnh đạo chủ trì của Xứ ủy, Tỉnh ủy như Lê Mao, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Trần Thâm và nhiều đồng chí khác đều bị sa lưới, người bị bắt, người bị bắn lén.
Đồng chí Lê Viết Thuật làm Bí thư Xứ ủy Trung kỳ thay đồng chí Nguyễn Phong Sắc, làm việc trong chiếc lán tại cánh đồng Trẽn.
Đồng chí Nguyễn Thị Duệ mang bí danh là Sửu, làm Bí thư Khu ủy Bến Thủy, thường xuyên qua lại báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Bí thư Xứ ủy.
Nguyễn Thị Duệ hoạt động trong điều kiện cực kỳ gian khổ, thiếu thốn và nguy hiểm.
Bọn mật thám luôn rình mò, lùng sục quyết bắt cho bằng được các đồng chí lãnh đạo phong trào để được thăng chức và nhận thưởng.
Ngày 7/12/1931, hai đồng chí Lê Viết Thuật và Nguyễn Thị Duệ đã bị bắt đem về giam tại nhà lao Vinh.
Lần thứ hai phải trở lại nhà lao Vinh, thực dân Pháp đã có đủ bằng chứng để buộc tội chị.
Sau những lần Nguyễn Thị Duệ bị lôi đi hỏi cung, bị tra tấn hết sức dã man, nhưng cuối cùng chúng đều bắt lực trước tấm lòng thuỷ chung son sắt với Đảng, tinh thần kiên cường bất khuất của đồng chí.
Ngày 8/1/1932, toà án phong kiến Nam triều tỉnh Nghệ An đã kết án Nguyễn Thị Duệ khổ sai chung thân (theo hồ sơ của Bản án số 28).
Tháng 3/1934, nhân dịp Vua Bảo Đại cưới vợ, đã có lệnh giảm án cho tù chính trị, nhiều đồng chí bị bắt trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã được tha, trong đó có Nguyễn Thị Duệ.
Được ra tù, như chim sổ lồng, chị vội đi bắt liên lạc ngay với các chị Hoàng Thị Ái, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Nhuận, Nguyễn Thị Nhã để vận động, khôi phục lại phong trào ở các huyện Nghi Lộc, Thanh Chương, phủ Anh Sơn và thành phố Vinh.
Từ những điều sau nhiều năm suy ngẫm đã được trình bày ở trên có thể rút ra một nhận định khái quát là: Những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh thuộc một căn bệnh thường gặp ở thời kỳ đầu của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới, nhưng đồng thời phản ánh một cá tính đặc thù của cư dân bản địa.
Những người lãnh đạo ở địa phương này cần phải tính đến cái đặc sản tinh thần đó khi phát động một phong trào.
---
Ghi chú:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, 1930, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 4.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 6.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 96-97
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 3, 1931, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 157
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 110.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 127.
(7), (8) Dẫn theo Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Trần Phú - Tiểu sử, Sđd, trang 144, 161-162.
(9) Chỉ một con đường - Hồi kí của Tôn Thị Quế. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Nghệ An, xuất bản năm 1972, trang 54.
(10) Dẫn theo, Lê Thị Hạnh Phúc, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học 65 năm Xô việt Nghệ Tĩnh, Vinh, 1996, trang 304.
(11) V.I. Lênin. Toàn Tập, tập 41. Nxb Tiến bộ, M,1977, trang 69.
(13) Trích bài “Nhìn lại một số sự kiện về Xô Viết Nghệ Tĩnh trong thời kỳ chống khủng bố trắng” của Bùi Ngọc Tam, Ban sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An trong tập kỉ yếu 65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh, trang. 262.
(14) Bài của Bùi Ngọc Tam trong tập Kỷ yếu 65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh, sách đã dẫn, trang 260.
Mục lục tham khảo: