14 tháng 9 2014

Chuyện chưa kể quanh các vụ thảm sát và những nấm mồ tập thể ở Việt Nam

Chuyện chưa kể quanh các vụ thảm sát
và những nấm mồ tập thể ở Việt Nam
Posted on by  
Bài dài kỳ của Trần Quân
Lời tòa soạn:
Tôi sinh ra ở ven sông Hồng, trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ: làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây. Năm 1954, bấy giờ mẹ tôi đang chập chững bước đi, thì xảy ra sự kiện binh lính Pháp rút khỏi thị xã Sơn Tây để miền Bắc Việt Nam hoàn toàn sạch bóng quân thù. Trước khi cúp đuôi bỏ chạy, trong kho đạn ở rìa thị xã còn khá khá, lũ cú diều xâm lăng bèn nghĩ ra trò tàn độc là bắn vãi đạn cho bõ công… gìn giữ bấy lâu, nhỡ đâu chết được ông du kích nào chăng. Thế là móc-chi-e (pháo 81 ly) nó câu bừa lên làng tôi, cách chừng 4km đường chim bay, ai ngờ làng tôi vẫn cháy rụi, sập nhà, hàng chục người chết. Riêng mảnh vườn (nay là nhà) tôi sinh ra, nơi bố mẹ tôi đã sống hơn nửa thế kỷ qua, nơi tôi vẫn ở đó mỗi cuối tuần, đã có tới 13 người thân của chúng tôi thiệt mạng. Cả làng tháo chạy, lúc trở về thì đại tang khắp các con ngõ, 13 người chết ở nhà tôi thì đã bốc mùi, con chó thời loạn cắp đi nhiều phần thi thể người. Làng phải cho người đi thu gom tất cả nhang thờ của mỗi gia đình lại, để vào cái nong lớn, đốt lên để khử mùi rồi mới nhặt thi thể người đem chôn. Ông nội tôi mất một lúc hai người con trai mà ông coi là “cục vàng yêu quý”, họ đều ở tuổi đôi mươi, bác Trì tôi đã có vợ và đứa con thứ hai đang chuẩn bị chào đời. Suốt tuổi thơ tôi đã chứng kiến nỗi đau của ông, của những người làng xóm.
Làng tôi, gần 60 năm qua, luôn có một ngày “giỗ trận”, giỗ những người chết vì bom đạn của trận bắn pháo kinh hoàng kia. Cả làng nhang khói, cả làng cỗ bàn và nức nở tiếng khóc. Không mấy khi tôi dám về làng trong cái ngày giỗ trận đó.
Từ bấy, suốt những năm tháng bôn tẩu làm báo dọc dải đất Việt Nam, bao giờ tôi cũng tần ngần dừng lại trước những tấm bia căm thù, nơi có các cuộc thảm sát, các nấm mồ tập thể. Lúc đó, tôi thường nghĩ đến cả hàng chục người ngã xuống trong trận pháo kích ơ hờ, ngẫu hứng và thất nhân tâm của lính Pháp. Tôi ví, việc giết 13 người trên mảnh đất nhà tôi, và nhiều người khác ở Đường Lâm quê tôi của bọn “câu móc-chi-e” nó rất giống việc gã thợ săn ngứa tay xiết siết cò giết chết một con thiên nga khi thấy đôi chim đang tự tình bên hồ. Bao thảm sầu sau tiếng súng. Nhưng chàng thợ săn có thù oán gì thiên nga đâu, cũng có ý định thử súng ống hay cụ thể hơn là… bắn chim để nhặt xác giết thịt đâu. Đơn giản là chàng đang lơ mơ đi chơi, đang buồn tình, đang cầm súng và cần phải… bắn cho cái súng nó có vẻ là cái súng nhiều hơn
”.
Tác giả, nhà báo Trần Quân đã gửi cho chúng tôi loạt bài viết và các bộ ảnh liên quan về các vụ thảm sát, các nấm mồ tập thể mà anh đã chụp, ghi chép, sưu tầm rất công phu kèm theo lời tâm sự như trên. Tuổi trẻ và Cuộc Đời sống xin trân trọng khởi đăng loạt bài cho chuyên mục mới của mình “Đi dọc các vụ thảm sát, các nấm mồ tập thể ở Việt Nam”, với góc nhìn rằng: “Trên đời này, không có ai là vô danh cả”.
Chúng tôi cũng thống nhất quan điểm với tác giả Trần Quân rằng: nếu chúng ta không “dựng” lại các câu chuyện lịch sử kia một cách đầy đủ, thì khi các nhân chứng cuối cùng chết đi, khi thời gian làm mờ phai hay biến mất hiện trường cũng như các bức ảnh hiếm hoi còn lại;, khi ấy, chúng ta sẽ không còn cơ hội kể lại một cách tường tận những tư liệu cần phải giữ lại kia. Như thế là có tội.


Khi đứng trước nhân chứng và kho tư liệu hãi hùng về cuộc Khơ Me Đỏ thảm sát gần 4.000 thường dân Việt Nam ở Ba Chúc, người viết muốn nói về những đêm mất ngủ sau đó của mình, về giá trị của những bức ảnh kịp thời và chân thực nhất, về sự tàn ác không thể tưởng tượng được đôi khi vẫn đến với giống người. Khi tìm hiểu về vụ giặc Pháp giết trong chớp mắt 444 phụ nữ và trẻ em (chủ yếu là người Thái) ở lòng chảo Điện Biên Phủ, tác giả thảng thốt, buốt lòng nhận ra, sau sự kiện người ta chỉ dựng vội lên hiện trường một tấm bia “Hận thù” rồi tất cả cứ trôi đi, không một bài viết, không một thước phim tư liệu; đến mức, chính người dân, cán bộ cơ sở, cả nạn nhân sống sót từ vụ thảm sát cũng không biết gì thêm. Chúng ta có nên vô tình với gần nửa nghìn đồng bào đã thiệt mạng trong bom lửa ngay trước giờ khắc “giải phóng Điện Biên” lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu như thế không? Gần 300 người bị tàn quân Pôn Pốt giết cùng lúc ở Hà Tiên (Kiên Giang); 50 cán bộ y tế chết trong trận bom muốn đưa Yên Bái về thời kỳ đồ đá năm 1965; cả trăm người bị xả thây ở Quảng Trị; vụ giết người hàng loạt ở Sơn Mỹ, Quảng Ngãi khiến nhân loại tiến bộ bao năm qua và mãi mãi sau này còn choáng váng khóc than; chừng 300 người chết ở Cao Bằng trong tích tắc hai quả núi ụp vào nhau; rồi lũ quét trôi cả mênh mông Mường Lay, xóa sổ thị tứ Ba Khe; vụ 70 người bị giặc Pháp sát hại trong một ngày ở Hải Phòng; đặc biệt là sự kiện nổi tiếng với 12 nghĩa sỹ bị chặt và bêu đầu ở các cửa ô Hà Nội năm 1908… Nhiều vụ, rầm rĩ cả nước, rầm rĩ dư luận thế giới, nhưng rồi thời gian như vặt lông vịt, cái gì cũng trôi đi, thậm chí không có ai trong số mấy trăm người chết là có được cái tên trên bia mộ, không có một nấm mộ tập thể và một sự tưởng nhớ xứng đáng dành cho họ. Có vụ, hồ sơ còn đủ, cơ quan chức năng lười, nên cứ mặc kệ, và người trong cuộc già nua lẫn cẫn mãi đi, rồi chẳng ai hiểu đầu cua tai nheo ra thế nào nữa. Con cháu có hỏi, các cụ cũng chẳng kể lại được, người sống trong di tích, bên các “nấm mồ tập thể” cũng chỉ láng máng biết câu chuyện nghe kể như thế như thế. Có khi, tính chất vụ việc bị hiểu nhầm hoàn toàn, gây khiếu kiện kéo dài, cả người sống và người chết, chắc là tím tái ruột gan, người có lương tâm thì thấy xấu hổ. Có vụ, khi dựng lại câu chuyện, thì cơ quan chức năng mới vào cuộc, đài tưởng niệm như cần phải có mới được rậm rịch xây, công trạng của người vị quốc vong thân khả kính kia mới được ghi nhận. Có vụ lũ quét chết dăm ba trăm người mới đầu năm 1992, nhưng đến giờ không ai còn nhớ cụ thể một chi tiết, không ai còn giữ được một bức ảnh. Mỗi lần đi qua nấm mồ vĩ đại, xây bê tông uốn quanh, quy tập toàn bộ quả núi chi chít thây người xấu số kia lại (cho nước từ các thi hài đỡ ghỉ ra!) – liệu có ai đó thấy xót xa cho việc những người nằm xuống bị lãng quên, bị người sống đối xử quá vô cảm không? Có vụ, người viết loạt bài này phải kiến nghị lên tận Văn phòng Chính phủ, Bộ LĐTBXH, Ủy ban Các vấn đề xã hộ của Quốc hội và UBND các tỉnh và giới khoa học chân chính… để cùng hướng đến cách nghĩ, cách cảm, cách hành động sao cho không phụ lòng người nằm dưới mộ. Hơn thế, đó còn là trách nhiệm của mỗi chúng ta trước Lịch Sử.
Dĩ nhiên, chúng tôi không phải là người làm sử. Công việc ghi chép, sưu tầm, kiến nghị, chọn một cách hiểu sòng phẳng và nhân ái nhất cho các sự kiện, không chỉ là đơn thuần mô tả lại sự kiện, cái quan trọng hơn, nó còn có tác dụng tránh những thái độ, hành động bất cập không mong muốn có thể có. Bởi, bản thân các cuộc thảm sát, bản thân các nấm mồ tập thể kia đã là một sự bi tráng, một sự thảm sầu quá cỡ rồi. Các phóng sự tư liệu này, chúng tôi coi nó như việc bày tỏ một thái độ sòng phẳng với lịch sử, với những câu chuyện từng thu hút quá nhiều sự quan tâm, nhiều nước mắt của cộng đồng. Không một ai là vô danh cả, ở góc độ nhân văn, không ai to hơn, đẹp hơn, quan trọng hoặc giỏi giang hơn ai cả. Người ta bình đẳng trước cái chết, trước lịch sử. Cái gì của lịch sử, cần trả nó lại cho lịch sử đích thực. Đó là một cách để chúng ta có thể tử tế hơn với người đã khuất, đặc biệt là với thế hệ mai sau…
Tuổi trẻ và Cuộc Đời sống xin giới thiệu chùm bài “Đi dọc các vụ thảm sát, các nấm mồ tập thể ở Việt Nam” cùng bạn đọc. Đụng đến trăm năm lịch sử và một “thế giới” mà hầu hết người trong cuộc đều đã khuất này, thật lòng rất khó tránh được sai sót, chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của quý vị!.
Bài 1:
Ác mộng kinh hoàng quanh nhà mồ của hơn ba nghìn thường dân tại An Giang
Người viết bài này đã từng có mặt, câm lặng tưởng nhớ đồng loại của mình bị thảm sát ở nhiều vùng miền trên thế giới. Không có ai là vô danh cả. Đức Quốc xã giết người cả núi người “lấy mỡ người lau súng” ra sao, Khơ Me Đỏ giết vài triệu người Cam Pu Chia biến nơi đây thành quê hương của những “Cánh đồng chết” theo đúng nghĩa đen thế nào, những tưởng tôi đã ít nhiều được/phải biết. Ở Cam Pu Chia, tôi từng viết và “phong tặng” bức ảnh chụp vài chữ tiếng Anh ở Thủ đô Phnom Pênh của mình là “điều kinh dị nhất tôi từng bấm máy”. Dòng chữ viết trước nhà mồ: “… to many million people who were killed under the genocidal Pol – Pot regime” (nhiều triệu người đã bị giết hại dưới chế độ diệt chủng Pol – Pot). Tôi đã khóc ở tấm biển đá trắng xám viết chữ to màu đen như những dải khăn tang đó, chứ không chỉ bên những núi đầu lâu hay xương ống các loại của nạn nhân. Ba triệu người bị giết, là bao nhiêu xương máu và đau thương, có hố quy tập, có núi xương sông máu nào chứa hết con số hơn ba triệu người tan thây lìa xác đầy oan uổng và oán thán kia không?
Những bức ảnh làm điên đầu cả nhân loại tiến bộ




Khi vào nhà tù “địa ngục trần gian” Toul Sleng, nơi mà hiện nay nước Cam Pu Chia trưng bày, tái hiện mô hình các cảnh tra tấn giết chóc dã man nhất của Khơ Me Đỏ, tôi cũng chỉ một lòng tìm hiểu và so sánh nó với tội ác của chính bọn Khơ Me Đỏ ở tỉnh An Giang, Việt Nam. Quả thật là không có hình ảnh nào kinh hãi bằng “nhà mồ của hơn 3000 thường dân Việt” tại Ba Chúc. Ít ra là những bức ảnh, tư liệu còn lại đều cho thấy điều đó. Trước khi tôi rời Cà Mau đi An Giang thăm lại các nhân chứng và tư liệu vụ thảm sát Ba Chúc, nhà văn nổi tiếng Nguyễn Ngọc Tư – người đã sống và viết, đã gắn bó máu thịt nhiều năm với miền đất cực Nam tổ quốc – thở dài: “Cậu đừng xem kỹ quá những bức ảnh ở đó. Hãy cứ tưởng nhớ họ thành kính trước nhà mồ thôi. Xem các cảnh tàn sát chưa từng có ấy, là cậu sẽ mất ngủ nhiều đêm. Sẽ hoang mang, hoảng hồn với phần dã thú trong con người ta, ở địa cầu này!”. Tôi khoe, tôi từng đi đây đó, từng chứng kiến bao nhiêu đau thương dữ dằn đầu rơi máu chảy nhất, tôi sẽ đi. Mấy trăm cây số nhọc nhằn mới vào đến vùng Bảy Núi huyền thoại của An Giang. Xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn chỉ cách đường biên giới Việt Nam, Cam Pu Chia có 7km. Bạt ngàn cây thốt nốt. Đường, rượu đều làm từ thốt nốt. Bà con chặt quả thốt nốt bán lúc lỉu dọc đường như ngoài Bắc bán dừa cả chùm. Nước thốt nốt để uống thơm tinh khiết, cùi múi của thốt nốt bỏ đường bỏ đá vào ăn mòng mọng ngon lành.
Tuy nhiên, đã có những ngày Khơ Me Đỏ và bè lũ đồ tể hành quyết người như quỷ sứ kia tuyên bố: chỗ nào có cây thốt nốt, đó là đất đai của bọn chúng, chúng phải đòi lại bằng mọi giá. Và chúng cất quân sang tàn sát thường dân Việt Nam theo lối man rợ chưa từng có – man rợ đến mức tôi nghĩ rằng, các bức ảnh khủng bố tinh thần (hay sự miêu tả quá kỹ về các trò tàn độc đó) không nên có trong bài viết này. Trẻ em bị cầm chân đập vào các gốc cây lớn như đập nhái. Sau đó chúng cầm hai chân hai tay xé tan thi thể các cháu. Dùng dao búa, cắt lìa đầu. Sau đó tung lên giời, giơ lưỡi lê tuốt trần ra… hứng. Phụ nữ thì bị bắt xếp hàng cả trăm người ra bãi đất trống, cởi hết quần áo, hãm hiếp tập thể. Xẻo vú. Dùng gậy trâm bầu, cán dao búa, cọc tre gỗ, báng súng chọc nát âm hộ, nhét đất đá vào cho đến chết. Thậm chí, chúng dung dùng những cây gậy lớn, dài, chọc vào chỗ kín của chị em rồi cứ thế xiên ngược, chúng để chị em bị trần truồng bị xiên ở tư thế kinh khủng đó mà dựng cây cọc lên… trời. Cả một cánh đồng người, cánh đồng phụ nữ bị làm nhục rồi hành quyết theo lối không thể tưởng tượng nổi ấy. Họ nằm dài trong các bức ảnh, các khúc gỗ, cây gậy rất dài thọc giữa hai đùi họ, đâm sâu vào âm hộ… Xin nhấn mạnh: có hơn 3.100 người bị tàn sát theo kiểu đó.
Ngẫm kỹ, hiếp, giết là việc của bọn giặc vô đạo, thì từ thượng cổ vẫn thế. Nhưng giết người kiểu kỳ quái kia, nói thật là tôi và rất nhiều người có lẽ mãi mãi không thể lý giải nổi: vì sao và vì sao? Một con gà, khi cắt tiết để hóa kiếp cho nó, người ta cũng quay mặt đi chẳng đặng đừng, cũng nói lời nhân ái “tao hóa kiếp cho mày, để kiếp sau mày làm cái gì sướng hơn chứ không thể là gà nuôi làm thịt”. Có chiến tranh, có xâm lược, là có chết chóc, thì đã đành. Nhưng sao mà Khơ Me Đỏ cất “đại binh” sang một xã Ba Chúc, giết trong vài ngày tới 3.100 (có tư liệu nói 3,1 nghìn; có tư liệu nói 3,5 nghìn) thường dân vô tội, chủ yếu là người già yếu, phụ nữ và trẻ em? Mà lại giết theo lối chưa từng có trên thế giới? Nếu không có các nhà báo ghi lại thảm cảnh bằng hình ảnh, thì chắc là nhân loại tiến bộ sẽ nghĩ là tội ác của Khơ Me Đỏ là thứ bịa ra để nhằm mục đích gì đó! Khi hình ảnh về “nhà mồ Ba Chúc” được báo chí thế giới đăng tải, nhiều nhà báo quốc tế đã đến hiện trường, và cả địa cầu “điên đảo” lên án những con chó điên cuồng sát kia.
Những người buộc phải bóp chết con cháu mình; và cơn ác mộng của tôi
Mọi chuyện bắt đầu từ ngày 15/4/1978, khi Pol – Pot cho quân Khơ Me Đỏ của chúng tràn qua biên giới Việt Nam – Cam Pu Chia bắn pháo dữ dội. Có ngày lên tới 2.000 quả pháo được nã thẳng vào một dúm dân cư ẩn mình ven các dãy núi khổng lồ vùng Bảy Núi (Thất Sơn) huyền thoại. Sau pháo phủ đầu, là các cánh quân thọc sâu vào Ba Chúc, chúng hành binh “ôm cua thành hình vòng cung” nhằm chặn đường chạy thoát của lương dân. Dân Ba Chúc, cả người Khơ Me, người Kinh, người Hoa chung sống, theo thống kê vào thời điểm đó khoảng 16.000 người. Bà con có truyền thống yêu nước, cũng từng kinh qua bao lửa đạn chiến tranh, bấy giờ đất nước cũng mới chỉ thống nhất Nam Bắc được vài năm nên tinh thần cảnh giác còn khá cao. Đúng ngày 30/4/1977, bà con và người dân cả nước đang long trọng kỷ niệm 2 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thì Pol-Pot xua quân vô cớ xâm lấn 8 tỉnh biên giới Tây Nam nước ta. Đỉnh điểm là 11 ngày chiếm đóng từ 18/4 đến 30/4 năm 1978, thảm sát ít nhất 3.157 người của riêng xã này! Với sự khát máu của đoàn quân vô đạo kia, nếu không có sự thiện chiến di dân, chạy trốn, thì con số có thể lên đến cả chục nghìn người.
Trung bình mỗi ngày, ở một xã Ba Chúc, có 278 người bị Khơ Me Đỏ hành quyết bằng những hình thức dã man nhất. Theo lời kể của những người còn sống sót, chỉ riêng ở chùa Tam Bửu nổi tiếng, là tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Khơ Me Đỏ đã bắn pháo sập nhiều hạng mục, khiến 40 người dân hết đường chạy, nằm đè lên nhau mà chết; 20 người khác trọng thương. Chúng tràn vào, bắt 800 người khác đem đi hành quyết. Chỉ có 2 người sau khi bị đập, bị bắn, bị ném lên các núi thi thể đồng loại, chúng tưởng họ đã chết nên bỏ lại… – là may mắn sống sót. Hai người đó là ông Nguyễn Văn Kỉnh và cô Nguyễn Ngọc Sương hiện sống tại Ba Chúc, bấy giờ cô Sương mới chỉ 11 tuổi.
Bà con Ba Chúc, nhất là người Khơ Me sống gắn bó đặt biệt với các ngôi chùa cổ. Khi giặc đến, nhiều người tiếp tục chạy vào chùa Phi Lai ẩn mình. Các cánh quân của Khơ Me Đỏ luồn lỏi, sục khắp các ngõ ngách, phá tượng, giật đổ chùa. Sử sách chép rõ, với tên người, từng diễn tiến sự kiện rất rõ ràng, kèm theo ảnh tư liệu, như sau: giặc nã pháo giết 80 người trong chùa; chúng xông vào tận nơi, đập chết, bắn chết hơn 100 người tại lòng chùa; riêng gầm bàn thờ Phật, có 40 người ẩn náu, chúng dùng lựu đạn ném liên tiếp vào làm 39 người chết, duy nhất 1 phụ nữ sống sót. Bây giờ, chùa Phi Lai được giữ nguyên trạng, từng vệt máu loang trên tường, từng khu bị tàn phá, coi như một bảo tàng chứng tích tội ác của Khơ Me Đỏ. Núi Tượng, Hang Dồ Đá Dựng, Cầu Sắt, Hang Cây Da, Đìa Bụi Tre… đều là những “chứng tích” cho tội ác kinh hoàng của giặc, chỗ nào cũng một hoặc vài trăm người bị xử tử theo lối của đao phủ thời Trung cổ. Đặc biệt đáng đau lòng là chuyện xảy ra ở Hang Dồ Đá Dựng. Hang rất hiếm trở, trước cửa có một dồ (phiến) đá to, dựng đứng, muốn vào hang phải trèo quá đó rất khó khăn. Nghĩ đây là nơi hiểm yếu, kín đáo, bà con kéo vào đó lánh nạn. Có 72 người đói khát, bị thương và 5 trẻ em sống sót trốn lên hang. Bị đói, bị đau, lũ trẻ khóc ầm ĩ. Người ta đã bàn nhau buộc phải bịt mũi trẻ con cho đến chết để cứu chừng 70 người còn lại, nhưng vì thương xót chúng vô tội, nhất là bà con theo Phật, không ai nỡ làm điều đó. Đến lúc có một nữ lính Khơ Me Đỏ đi qua, thấy tiếng trẻ khóc, thị đã hét lên “thận or” (có người trong hang, tiếng của chúng) rồi ù té chạy về báo chỉ huy, sợ quá, bà con đành phải ra tay để tiếp tục lẩn trốn. Trích cuốn “Chứng tích tội ác Pol-Pot” (Sở KHCN-MT tỉnh An Giang chính thức ấn hành) có thể thấy rõ: “Anh Trần Văn Tỏ có đứa con trai 5 tuổi – đứa bé biết mình sắp bị cha giết, nên đã khóc lóc kêu lên “Ba ơi! Đừng giết con, con không khóc nữa đâu”. Anh Tỏ cố nén đau thương bóp mũi con mình cho đến chết. Rồi ông Hai Cây Khế, ông Đức lần lượt giết ba đứa cháu nội của mình”. Gần 70 người sống sót, nhưng nỗi đau của họ thì đến chết vẫn chưa thể nào nguôi ngoai, tất cả là do Khơ Me Đỏ. Gần ba nghìn hai trăm cái chết kinh khủng ở Ba Chúc đã biến nơi này là nhà mồ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, với ảnh, tư liệu, nhân chứng rất rõ ràng. Có nhiều hang ở trên núi Tượng, quá nhiều người lẩn trốn và bị giết dưới hang sâu, không sao tìm thấy và bốc hết các phần thi thể đang phân hủy của họ về được, bà con bảo nhau lấp cửa hang, coi đó như nhà mồ tự nhiên và vĩnh cửu của đồng bào.
Đúng như nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cảnh báo, sau khi chụp lại ảnh và đọc kỹ tư liệu về vụ thảm sát hơn 3.100 người này, tôi đã liên tục mất ngủ và bị ám ảnh kéo dài. Tôi đã hoang mang khi nghĩ về sự độc ác có thể có trong con người ta, nhất là ở một đội quân say máu dưới sự chỉ huy của quỷ sa tăng, với những cái tên kinh khiếp như Pol-Pot, Ieng Sary… Những đêm ở An Giang, thay vì nằm khách sạn, tôi đã phải đến nhà cậu bạn ngủ, vì ám ảnh sợ hãi.
Có khi, nửa đêm, máy Có cái hang giờ “chết danh” là Hang Ba Lê, vì ở đó, ông Ba Lê đã sống sót sau khi chứng kiến kẻ thù giết chết 50 người gồm cha, mẹ, vợ, con, anh em họ hàng của mình. Có dòng họ lớn bị giết không còn một ai! Bà Hà Thị Nga hiện trông coi khu chứng tích. Có tới 100 người trong họ Hà của bà bị giết, riêng nhà bà có 37 người bị hành quyết dã man ngay trước mắt bà: gồm cha mẹ bà, 6 đứa con nhỏ vô tội của bà, cùng chồng, anh em ruột thịt, các cháu ruột… Ông Trần Văn Kỉnh hiện nay còn sống, ông đã chứng kiến Khơ Me Đỏ dẫn 300 người, trong đó có 79 người thân, cả vợ và con ông ra xử tử bằng cuốc, xẻng, gậy, súng, dao. Duy nhất ông Kỉnh sống sót, nhưng việc ông chứng kiến đứa cháu ngoại ôm bầu vú mẹ nó (con gái ông) đã chết mà nhoay tìm sữa bú thì còn đau đớn hơn cả… cái chết. 100 hộ dân Ba Chúc bị giết sạch không còn một ai, nhà cửa vĩnh viễn bỏ hoang. Hơn 20 ngôi chùa với hơn 2.000 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn.
Cuộc thảm sát vô cùng đẫm máu ở Cam Pu Chia cũng do chính Khơ Me Đỏ gây ra, hàng triệu người đã phải chết tức tưởi và kinh hoàng, nhưng liệu có khu trưng bày tố cáo tội ác của chúng nào khủng khiếp như ở Ba Chúc của chúng ta không? Cả một nhà mồ được dựng lên trưng bày di cốt của 1.159 người dân vô tội ngay tại hiện trường vụ thảm sát, cốt được phân rõ: các khu xương, hộp sọ của trẻ em, của thiếu nữ trẻ, của phụ nữ đứng tuổi, của đàn ông theo từng cỡ tuổi, các chuyên gia khả kính như vị tiến sỹ đến từ nước Mỹ, ông Michael Pietrsewsky của Trường Đại học Hawail, Honolulu đã bay sang Việt Nam, đi xe đò về vùng Bảy Núi An Giang, ông vừa khóc vừa lựa nhặt xương cốt rồi đưa công nghệ tiên tiến vào phục vụ bảo quản, trưng bày lâu dài. Tuy nhiên, ám ảnh người ta hơn cả là những bức ảnh kinh hoàng như đã kể. Các nhà báo trong và ngoài nước đã kịp thời có mặt để ghi lại những hình ảnh “trời không dung đất không tha”, những tội ác vô bờ bến của Khơ Me Đỏ, một lũ mặt người dạ thú. ảnh Máy ảnh kỹ thuật số của tôi, sau khi xạc đầy pin nó tự bật chế độ xem ảnh lên (theo cài chương trình cài đặt khá phổ biến). Trong bóng tối, những bức ảnh chụp gần nhất đã hiện lên màn hình. Và, tôi đã hoảng hốt, nghĩ là có một thế lực siêu nhiên nào đó sắp xếp để nửa đêm tôi phải xem lại chính các bức ảnh Khơ Me Đỏ xiên những gậy lớn dọc hai đùi, chọc nát âm hộ của hàng loạt phụ nữ vô tội kia…

Bài 2:
Ba Chúc – cuộc sống khổ hơn cái chết của những người sống sót
Thật khó hình dung cuộc sống của người đàn bà ấy: chị Hà Thị Nga 39 tuổi, bị một bầy lính Khơ Me Đỏ bắt ra bãi đất trống, bắt tự lột hết quần áo… Chúng hãm hiếp tập thể, thọc gậy lớn, nhét đất đá vào chỗ kín cho đến chết nhiều phụ nữ tầm tuổi chị lắm. Chị Nga còn bị bắn thêm một loạt đạn AK xuyên qua cổ. Rồi chúng bắn chết chồng, đập chết 6 đứa con chị, chúng cầm hai chân xé toang xác các cháu nhỏ trước mặt chị… Lũ giặc cuồng dâm và cuồng sát không ngờ được chị Nga đã đội xác chồng và 6 đứa con của mình bò dậy được …
Những người sống sót trở thành… thây ma di động
Chị Hà Thị Nga đã sống sót với cơ thể đầy thương tích, với ký ức hãi hùng vì hãm hiếp, với lối hành hạ phụ nữ tàn độc nhất trong lịch sử loài người mà các con quỷ đực Khơ Me Đỏ gây ra. Thấm thoắt thoi đưa, ngồi trước mặt tôi bây giờ là bà lão Hà Thị Nga, 75 tuổi. Bà bảo, sau cuộc thảm sát đẫm máu kia, xã của bà trở thành xã có số người bị giết cùng lúc, một cách vô cùng dã man, ở mức “giữ kỷ lục Việt Nam”: hơn 3.000 người trong chục ngày giời! Nhiều người nhìn những bức ảnh, nhìn núi đầu lâu ở trước nhà, nhớ lại cảnh hoang tàn chết chóc, đã gạt nước mắt bỏ xứ ra đi. Có người sống sót mà phát điên, mà đang tâm tự tử. Thà chết còn hơn sống sót trong những ký ức, những hình ảnh gợi về địa ngục đó.   
Nhưng bà Nga phải sống. Tháng tư hằng năm, là ngày giỗ của hơn 3000 người, hầu hết là bà con người ruột thịt, thân thích, họ hàng, xóm mạc của bà. Nhà bà có 80 cái mâm để làm giỗ tập thể. Gần bốn chục năm qua, bà Nga trở thành người tình nguyện giữ nhà mồ Ba Chúc. Hằng ngày bà nhang khói, quét tước nhà mồ, gặp gỡ, giúp đỡ người đến thăm viếng rất chân tình. “Chỉ 1 năm sau khi bố, mẹ, chồng, 6 đứa con cùng hơn 3000 người hàng xóm của tôi bị giết, nhà nước đã quy tập, xây dựng nhà mồ Ba Chúc để trưng bày di cốt của hơn 1.151 người. Bấy giờ tôi còn biết rõ xương nào là của cha mẹ, của chồng tôi; sọ nào là của các con tôi. Sau này cán bộ phân loại, cọ rửa, trưng bày lại theo lứa tuổi di cốt (trẻ em, phụ nữ trẻ, đàn ông, người già ở từng khu riêng) thì tôi không còn biết đâu là xương người ruột thịt của tôi nữa. Từ bấy, nhà mồ là mồ chôn chung của bà con tôi, gia đình tôi. Tôi chăm chút, giỗ chạp cho tất cả số họ. Tôi muốn sống bên họ suốt đời như thế này, chứ bỏ đi thì tội cho họ lắm”. Đấy là lý do người ta gọi bà Nga với cái tên vừa thương mến vừa sờ sợ: “Má tư nhà mồ”.
Bà Nga sống cô độc, cay đắng trong một cái quán bán hàng nghèo nàn suốt mấy chục năm qua. Bà bảo: “Cháu cứ hình dung xem, 37 người gồm cả bố mẹ, cả chồng con, ruột thịt của mình bị giết trước mặt mình, họ kêu gào bảo mình lại cứu, mà mình thì… đang bị chúng nó giày vò. Thế rồi đứa con gái út của bà bị một tên lính Pol Pốt cầm hai chân quay vòng tròn, sau đó đập đầu nó vào gốc cây. Con bé khóc van vỉ, gọi mẹ: “Mẹ ơi, cứu con, con đau lắm”. Tên lính tiếp tục đập cháu bé đến nát bươm. Sau đó, thằng khát máu đó tung cháu bé lên cao, gương lưỡi lê nhọn hoắt ra… xiên thẳng”.
Họ đã chết không còn một ai, ngay trước mắt bà Nga. Lúc bà ngất đi, bà thấy tiếng đập người bồm bộp, rồi hàng trăm người chết la liệt. Trước khi bỏ đi, ngoài viên đạn xuyên qua cổ, tên lính Pol Pot còn dùng hòn đá đập vào đầu bà cho chắc… chết. Suốt 12 ngày lẩn trốn, bà bị chúng nó quăng cả chùm lựu đạn xuống kênh hòng giết bà. Đói khát, kiệt sức, nghĩ cảnh mình sống sót làm gì, khi trên đời không còn ruột rà thân thích. Cả nhiều dòng họ ở đây bị xóa sổ, chứ đừng nói gì đến chồng con, cha mẹ bà. Sống để làm gì? Nhưng bản năng bảo bà phải sống, bà ẩy xác cha, xác mẹ, xác chồng, xác 6 đứa con ra và lao xuống mương nước ẩn náu.
Sau khi quân lính Khơ Me Đỏ rút đi, người ta tìm thấy người đàn bà thất thần, rách rưới, đói khát tận cùng và đầy mình thương tích ấy. Thật kỳ lạ. Khi đưa về bệnh viện đa khoa An Giang, bà Nga có thể đứng dậy và đi được ngay, nhiều vết thương tự lành trong quá trình chạy trốn dưới bùn lầy, qua các khu vực hàng trăm xác chết đang phân hủy. Mãi sau này, bà Nga mới hiểu rằng, bà còn phải sống vì một điều không kém phần thiêng liêng khác. “Tôi muốn ở đây, cơ thể đầy thương tích của tôi, câu chuyện của đời tôi, hơn 1.000 di cốt của cha, mẹ, anh, em, chồng, các con, họ hàng, xóm mạc của tôi trưng bày trong nhà mồ này, chúng tôi cùng nói về tội ác của Khơ Me Đỏ. Cùng lên án chiến tranh. Chiến tranh không chỉ giết chết hàng nghìn hàng triệu người, mà nó còn biến người sống sót trở thành những thây ma di động, đau khổ và tuyệt vọng nhất”.
Quả thật, bất kỳ người đến viếng, bất kỳ nhà báo, nhà lịch sử nào đến gặp, bà Nga cũng nhiệt tình cung cấp tư liệu, kể chuyện, với một thông điệp rõ ràng: chiến tranh thật đáng sợ, hãy nói không với chiến tranh, hãy nhìn vào những bức ảnh kinh khủng trưng bày ở đây. Và, gần 40 năm qua bà đã làm người giữ nhà mồ tình nguyện, không đòi thù lao của bất kỳ ai, cũng như của ngân sách nhà nước – như lẽ ra bà được hưởng. Bởi cuộc sống của bà đang đầy khó khăn, mỗi lúc trái gió trở trời, cơ thể đau như đang bị tra tấn lần nữa. Có người đề nghị bà nên dùng một chút tiền người ta “cúng” vào khu nhà mồ để chi tiêu cuộc sống hàng ngày, để tiếp tục chăm sóc khu di tích “cả nước biết tiếng” này, bà Nga gạt lệ: “Làm như vậy tội lắm, ai lại lấy tiền của người… chết”.
Người đàn ông 5 lần trúng độc đắc và sự lạc quan “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây!”
Hàng xóm nhà bà Tư là ông Ba – Bùi Văn Lê. Ở tuổi thất thập, ông Lê hay cầm đàn, uống rượu say và hát những bài sầu thảm. Vợ và 5 người con của ông cũng bị lính Pol Pot xả súng bắn chết trước mặt ông. Ông chạy thoát, ngay cả khi hai quả lựu đạn quăng theo nổ vỡ núi đá. Khi trở lại hệ thống 15 cái hang trên núi Tượng, ông Lê và nhiều người khác đã phải cay đắng ẩy đá lấp cửa một số hang. Bởi thi thể người nhiều quá, chúng đang bị phân hủy ở dưới hang sâu quá, không bới lên nổi. Lấp cửa hang, biến đó thành nấm mồ tập thể khổng lồ và vĩnh cửu của vùng Bảy Núi nhiều huyền thoại. Suốt bao năm, Ba Lê sống lang thang trên núi Tượng và thổi sáo, gảy đàn như người mất trí. Những bài ca của “thầy đàn” Ba Lê nổi tiếng cả vùng, nó làm cho bà con chảy nước mắt khóc than. Đến mức, sau này, cán bộ xã, cả người dân đồng loạt đi tìm Ba Lê, bảo rằng “Anh Ba đừng đàn sáo nữa, cả ấp này đến chết vì buồn đau mất thôi. Anh mất vợ và 5 con, Ba Chúc này cũng mất những hơn 3.000 người anh ơi…”. Một trong những người thảng thốt “đừng đàn nữa anh Ba!”, là cô Võ Thị Châu, một nạn nhân sống sót hiếm hoi trong số hơn 200 người bị giết bởi bàn tay Pol Pốt hầu như cùng lúc trong chùa Phi Lai. Ba Lê và cô Châu từ bấy về ở với nhau, họ sinh con đẻ cái, họ dựng lều để Ba Lê trổ tài bốc thuốc nam trị bệnh cứu người.
Và cuộc sống đã hồi sinh một cách không ngờ. Sau cuộc thảm sát, có đến gần 200 trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, có 3 dòng tộc không còn một ai sống sót. Có khi, gần chục đứa trẻ phải tụ vào nhau dựng một cái lều, hàng ngày khua xoong nồi cho bớt cô quạnh và bớt sợ… ma. Thế rồi các tấm lòng cưu mang xuất hiện, nhất là khi Khu vực Nhà mồ Ba Chúc và các địa danh thảm sát được nhà nước quan tâm công nhận Di tích quốc gia. Anh Nguyễn Văn Nghiệp đang yên ổn trong một gia đình có tới 13 thành viên đầm ấm, thì giặc kéo đến, 11 người bị tàn sát cùng lúc, hai anh em bơ vơ sống sót với cơ thể đầy thương tích máu me. Rồi hàng xóm cưu mang, rồi lao động cật lực để kiếm sống. Và bây giờ họ có cuộc sống mới đầy đủ tiện nghi, đau thương dần vơi đi, con cái học hành tấn tới. Ngoài cổng nhà mồ, bóng nữ sinh tha thướt áo dài trắng, hàng chục đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ đã học hành, thành đạt. Và, ông Tư (Bùi Văn Cừu), ở tuổi ngoại tám chục có những 5 lần trúng vé số độc đắc một cách vô cùng… khó tin. Ông giúp các cháu nhỏ, ông cho người ta vay rồi “xóa nợ”, ông giúp người đau ốm đi chữa bệnh. Ông Tư giữ nguyên những vật dụng còn lại của nếp nhà xưa, để nhớ về vợ và 5 con đã bị lính Khơ Me Đỏ giết chết. Cũng là để hoài niệm và thêm thấm thía cho cuộc sống mới đã biết đến hai chữ lạc quan, đã biết nén đau thương để “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.


Bài 3:
444 thi thể và một niệm khúc cho cuối trời Tây Bắc
Cụ ông, nguyên là Bí thư Đảng ủy, cũng là nguyên Chủ tịch UBND xã Thanh Xương (huyện Điện Biên, thuộc tỉnh Điện Biên) ngồi trong nhà sàn ở bản Noong Nhai, phóng tầm mắt ra bát ngát cánh đồng Mường Thanh rộng lớn nhất miền Tây Bắc, mà rằng: 444 lương dân vô tội, hầu hết là phụ nữ và trẻ em chết cùng lúc. Đạn, pháo, máy bay, bom na pan, chúng nó bắn giết rồi đốt cháy người ta. Dân chạy loạn biệt tăm tích, con chó con cầy ra cắp thi thể người đang phân hủy đi. Người Thái chon rấp từng đống xương thịt người chết mà không bao giờ “cải cát”, không biết xương ai lẫn với xương ai. Suốt 62 năm qua, hầu như không một thước phim, không một tấm ảnh, sách báo chỉ chép vài dòng tóm tắt lạnh lùng. Thật kỳ lạ, 444 con người biến mất cùng lúc thật thê thảm, trong lúc biết bao nhân chứng còn đây, ơ, sao mà họ biến mất vĩnh viễn một cách vô lý nhường ấy nhỉ? Ông lão tuổi bát tuần đưa ra câu hỏi thật nhức nhối, bất giác, người đối diện cảm thấy xấu hổ.
Cựu Bí thư Tỉnh ủy và câu chuyện về “địa ngục” của hơn 3.000 thường dân vô tội
Cách TP tỉnh lỵ Điện Biên Phủ chưa đầy mười cây số, chúng ta đã dựng cả một tấm phù điêu, cả tượng đài lớn ở giữa bản Noong Nhai để tưởng tưởng nhớ hơn bốn trăm nạn nhân xấu số này. Trước những nén tâm nhang, dòng chữ khắc đậm, lời lẽ rất rõ ràng: “Nơi đây, lúc 14giờ ngày 25/4/1954, máy bay của quân đội Pháp ném bom làm chết 444 đồng bào các dân tộc hầu hết là đàn bà và trẻ em”. Bóng ma thảm khốc của vụ tàn sát này vẫn kinh hoàng trong ký ức của những nạn nhân, những nhân chứng sống… Thế nhưng, ngoài một cái cối gỗ cháy nham nhở với một bức ảnh cũ trưng bày trong bảo tàng, thì hầu như thông tin về sự kiện này, suốt nửa thế kỷ nay vẫn cứ mù mờ, mỗi người kể theo một cách. Trong khi, trí nhớ của các nhân chứng cứ từng ngày từng giờ bị rơi rụng dần theo tuổi tác. Mỗi một ngày trôi qua, dường như câu chuyện lại thêm một lần bị vùi sâu hơn dưới chính những lớp đất nâu đã vùi thây 444 đồng bào xấu số của chúng ta…
Đứng trước bức tượng và những bức phù điêu tưởng nhớ các nạn nhân của vụ thảm sát ấy, tôi đã rùng mình. Bức tượng người đàn bà Thái nâu lành màu đất nung đứng cao vổng lên trền nền trời, tay “chị” bế một đứa trẻ nhẽo nhèo đã chết, trông thật thảm thương. Người đàn bà rất đẹp đứng trên một đám cuồn cuộn như Bồ Tát vân du. Có thể “chị” đã biến thành một linh hồn “bách tuế vân du”, chị đã chết và chị bế một đứa con đã chết đi hỏi thiên thần, hỏi cả quỷ sứ nữa, rằng “tại sao lại giết con tôi, tại sao lại giết tôi”! Cái đám cuồn cuộn dưới chân chị là gì? Là đám mây u ám hay là ngùn ngụt ngọn lửa căm hờn, hay ngọn lửa “hoá học” của bom napan vừa thả xuống từ những cỗ máy bay độc địa đang thiêu đốt thịt da người dân vô tội… Đứng trên lửa, đứng trên mây, người đàn bà mắt nhìn vời vợi thất thần, trên tay “chị” là một đứa con nằm xoã xượi, mềm oặt như một dải khoai héo. Nỗi đau khiến chẳng ai còn đầu óc nào để nghĩ rằng người đàn bà rất đẹp, hàng cúc bướm chít lấy hai bầu ngực đầy, đầu “chị” đội khăn piêu chênh vênh.
Hơn 60 năm, đối với lịch sử là quá ngắn, nhưng đối với một đời người thì lại có vẻ như quá dài. Những người tận mắt chứng kiến cảnh khốc hại với lầy nhầy máu thịt của trại tập trung Noong Nhai thuở ấy thì cơ bản là đã chết, đã quá già, hoặc ít ra là lẫn cẫn. Giới chữ nghĩa ở Điện Biên quan sát trong cả một thời gian dài, chỉ có bài báo “Cậu bé sống sót trong hận thù Noong Nhai” viết về cậu bé Lò Văn Puốn hơn 10 tuổi đầu đã không chết trong cái ngày 25/4 định mệnh. Khi bài báo đó ra đời, “cậu bé Puốn” đang làm Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Lai Châu. Về già, hình như ông Puốn muốn làm một cái gì đó cho những người đã nằm vĩnh viễn dưới lòng đất bản Noong Nhai thông qua việc sưu tầm tư liệu về vụ thảm sát này. Có lẽ cũng là bởi, chính chị gái ông Puốn, dù sống sót nhưng đã bỏ lại nhiều máu và các phần thân thể (bị cụt cả hai chân) từ vụ thảm sát ấy.
Cụ Quàng Văn Pánh, hơn 90 tuổi, nhân chứng sống trong vụ việc tàn độc này, là người gần trọn một thế kỷ qua sống và làm cách mạng trong lòng chảo Mường Thanh, giải thích: chiết tự tiếng Thái, Noong Nhai tức là cái ao vỡ! Theo các cụ kể lại, cách đây hai trăm năm, trong một mùa lũ, dòng Nậm Rốm đột ngột bỏ bản Noong Nhai kéo dòng chảy đi, bỏ lại cho bản người Thái xứ Mường Then một cái hồ (ao) tròn vạnh rộng mấy chục tầm chài quăng. Người dân trong vùng mừng lắm. Đúng một trăm năm trôi qua, đến một ngày, dòng sông lại đỏng đảnh quành trở lại ngoạm dần ngoạm dần đất đai, ngoạm đến cái ngày cả bản nghe đánh “bục!”, một tiếng nổ khan trong đêm vắng, sáng dậy hoá ra mặt hồ dậy sóng, hồ và sông thông với nhau làm một! Để kỷ niệm sự kiện này, người Thái Điện Biên đặt tên bản Thái ở chỗ dòng sông hoắm vào ấy là Noong Nhai. Hình như tiếng nổ kỷ niệm sự trở về sông Mẹ của con hồ ấy nó cũng là điềm báo cho một loạt tiếng nổ chết chóc, tiếng nổ của súng ống, bom đạn Thực dân trong cơn giãy chết, chúng đã giết chết 444 thường dân trong cuộc thảm sát ngày 25/4/1954.
Thời kỳ 1948-1952, nghe tin bộ đội cụ Hồ đang chuẩn bị tiến lên giải phóng Tây Bắc, thực dân Pháp càng hoang mang. Chúng bèn củng cố lực lượng, đồng thời mở các cuộc càn quét lớn, thực hiện chiến lược lùa dân vào các trại tập trung quản lý nghiêm ngặt đề phòng sự xâm nhập của Việt Minh. Nhân dân các xã Chiềng Sơ, Núa Ngam, Pú Nhi (trong đó có gia đình ông Puốn) bị giặc kéo đổ nhà cửa, đốt vườn tược bắt buộc phải về các trại tập trung sống tạm bợ khổ sở trong các căn lều mới làm. Hàng trăm người bị chết vì đói, vì đòn tra tấn và bệnh tật, sốt rét. Chính sách của quân xâm lược đối với đồng bào người thiểu số ở Điện Biên bấy giờ rất thâm hiểm và dã man: chúng dồn dân vào trại tập trung, cạnh các đồn bốt cứ điểm của chúng để phòng khi Việt Minh đánh tới thì chúng sẽ đem thường dân vô tội ra làm bia đỡ đạn. Lúc Việt Minh không đánh thì chúng bắt nhân dân phá dỡ nhà cửa, chặt cây cối đào hầm đào hào xây đồn xây bốt. Suốt một dải các cứ điểm từ khu vực Hồng Cúm đến Ta Pô, lính Pháp dồn ép dân phải đến “hầu hạ” mình. Cuộc sống trong 4 khu trại tập trung thật không khác gì địa ngục trần gian. Khu tập trung Noong Nhai trước ngày bị bom tấn dội xuống, thực chất là một khu lều ổ chuột, bẩn thỉu. Trên diện tích gần 10ha, thực dân Pháp đã dồn gần 3.000 người “nhồi nhét” vào những căn lều tạm bợ đó, sự bẩn thỉu nhếch nhác theo như ông Puốn là “không tài nào tả xiết”. Ông Puốn đã viết kiểu “hồi ký” thế này: “Suốt gần 4 tháng chúng tôi sống không khác gì địa ngục. Không có việc gì để làm, nên các “tệ nạn” trong trại phát triển, nam giới thì tổ chức cờ bạc sát phạt nhau, rượu chè bê tha; nữ giới thì bị lính Tây hãm hiếp. Tình trạng mất vệ sinh tồi tệ, bò lợn chết do bom rơi thối um mà nhiều người đói vẫn phải nhặt về đem… nấu ăn. Không có củi để đun, bà con phải lấy nước lã dưới suối về uống. Chật chội, nước thải không có chỗ thoát, phóng uế bừa bãi không ai làm vệ sinh. Hầu như ngày nào cũng có một hai người chết do bệnh tật, do tên rơi đạn lạc”. Trong bối cảnh ấy, không ít đứa hèn hạ đã bỏ đi theo giặc. Bấy giờ kẻ xấu “nhồi sọ” những kẻ phản bội đồng bào mình bằng một quan niệm sống thất nhân tâm như sau: “chúng ta là người dân, thì cứ là: “mỏ đăư tẳng là xú, pú đăư má là lạy” (theo tiếng Thái, nghĩa là chỗ nào mạnh hơn, ai mạnh hơn thì ta theo). Tên Piềng (có nhân chứng kể là tên Iệng), là người Thái đi làm “nguỵ” có con vợ thất đức cũng sống trong trại tập trung với bà con mình. Con vợ nghe thấy người ta rỉ tai nhau “có con trâu con bò đừng mổ tống mổ tháo ăn hết thế, cán bộ sắp vào giải phóng Điện Biên rồi”. Con giặc cái ấy nó mới bắn tin cho thằng chồng phản bội. Thằng chồng bèn “Ưng Khuyển lập công” chạy lên báo tin cho tên quan ba của “nước Mẹ” Pháp; thế là bom đạn mới đổ xuống đầu người vô tội ở Noong Nhai.
“Trong 444 thi thể đó – gia đình ông Lường Văn Pốn có 22 thành viên thì tan thây… 21 người”
Thế là, vào ngày 25.4.1954, trời quá trưa, đông đảo bà con trong khu lán trại dơ dáy này đang tụ tập để đưa tang thêm một người xấu số nữa. Quá trưa, đoàn người bắt đầu lặng lẽ vừa đi vừa thương xót cho một người bà con mới tắt thở lúc sáng sớm do không chịu được sự khắc nghịêt của “chuồng trại”. Bỗng dưng có tiếng âm âm như là thổ thần nổi giận. Tàu bay! Mọi người chưa kịp trấn tĩnh thì tất cả chìm trong khói và lửa của hàng trăm quả bom sát thương và bom napan. Bom đào khoét ở trong vùng đất Ao Vỡ đến mức những người đang tắm ngoài sông Nậm Rốm cũng bị sóng sông dậy lên đánh ngã. Còn khu tập trung Noong Nhai thì bị huỷ diệt hoàn toàn. Hầm bị lấp, rất nhiều người bị chôn sống. Nhà cửa bị xới tung. Bom napan mang cả lửa tới đốt hết, đốt cả người, cả súc vật, cả nhà cửa. Tiếng kêu khóc rầm trời. Ông Puốn kể tiếp: “(khi xảy ra thảm hoạ) tôi và mấy người bạn đang tắm ở sông Nậm Rốm, chạy lên thì thấy chị Lò Thị Phanh (chị gái ông Puốn) người đầy vết thương đang nằm giữa hố bom, tưởng chị đã chết, chúng tôi chạy tiếp lên trại thì gặp cán bộ Khảo và cán bộ Thiêm đi kiểm tra. Nhiều người bị đứt đôi, người mất đầu, cụt chân, cụt tay, người thì bị cháy đen thui; nhiều người bị chết cả nhà. Điển hình như gia đình ông Lường Văn Puốn, ở bản Huổi Cánh, xã Thanh An có 22 người thì tan thây một lúc 21 người, một mình ông Puốn sống; gia đình ông Lù Văn Yêu, ở bản Hồng Cúm xã Thanh An, có 19 người thì chết 14 người; gia đình ông Lường Văn Cu ở bản Huổi Cánh, xã Thanh An có 7 người thì chết cả 7 người…!”.
Cụ Quàng Văn Pánh lụ khụ ở tuổi ngoài chín mươi rồi mà khi nhắc đến nỗi đau thảm sát Noong Nhai, cụ vẫn sôi sục: “Bom cháy xong thì bố (tức ông Pánh) đi xem mà. Con trâu chết bao nhiêu (rất nhiều), con lợn chết bao nhiêu, mà người cả ở trong hầm cũng chết bao nhiêu. Bố sợ cái bom gì biết cháy ấy lắm. Bố vẫn hay mê ngủ thấy những người chết cháy hôm đó. Người ta vẫn đứng lên được, nhưng da thịt thì đen xì, cái tay co co giật giật như là đã bị thui chín. Cứ đứng tựa lưng như thế, cứ co co giật giật như thế một lúc thì họ chết. Bố nhìn cũng không nhận ra người hết cháy đó là ai nữa. Mấy ngày sau nhiều thây người vẫn chưa được chôn cất. Cũng không ai được đắp mồ mả gì đâu, cứ sẵn hố bom đấy, sẵn hầm hào đấy mà vùi người ta xuống, lấp đất lên thôi. Mấy trăm người chết một lúc… Tức lắm, tức lắm!”. Ông Lò Văn Ing, người Thái, 67 tuổi, người gốc ở bản Noong Nhai, người đã chứng kiến từ đầu đến đuôi vụ thảm sát, kể: Bom ngớt, mặc lửa cháy, chúng tôi chạy đi tìm người thân. Tôi tận mắt chứng kiến một cảnh mà đến giờ phút này tôi vẫn chưa một lần dám kể lại cho ai nghe, ấy là cảnh một người phụ nữ Thái bị một mảnh bom tiện toác bụng, ruột lòi ra phập phồng. Tôi nhìn ra thì thấy một con lợn đói của khu tập trung bên cạnh đang thò mõm vào, lôi ruột chị ra để… ăn. Tôi sợ quá chạy, chạy rồi gặp một hố bom sâu, dưới đó có một người đàn bà không bị cháy xém do bom napan, chị bị bom sát thương quật chết. Có lẽ người chị đã lạnh ngắt rồi, nhưng đứa trẻ nằm trong vòng tay chị thì vẫn ngậm miệng vào bầu vú trần của mẹ mà nhoay nhoay mãi để tìm sữa. Sau khi vơi bom đạn, sư đoàn 316 phải huy động các chiến sỹ đến Noong Nhai gom xác người đi chôn trong các hố tập thể. Sẵn hố bom, nhiều người ẩy cả xuống đó mà lấp đi. Bà con lấm lét trở về, bản làng hoang tàn, cán bộ đến cho dầu, cho muối, cho cày cuốc rồi dựng túp lều tranh để tiếp tục sống làm người. Nhiều người quần áo bị bom na pan thiêu cháy hết, trần truồng đói khát trở về, họ nhặt miếng vải dù rơi ra từ tàu bay Pháp mà che thân.
Tôi vẫn nướng cá suối, tước cơm lam rồi giót rượu mời những người đến từ nước Pháp
Không biết nói lấy một câu tiếng Kinh, người đàn bà Thái Lò Thị Én tất nhiên không có tầm mắt nhìn bao quát cả vụ thảm sát này, nhưng bà là người trong cuộc, thịt da bà đã hoà vào thịt da và máu lửa của 444 người nằm lại với Noong Nhai. Và, trong bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ ở TP Điện Biên hôm nay, chỉ có một mình bà én là nạn nhân được trưng bày qua… ảnh. Bức ảnh bà én bấy giờ quãng gần 30 tuổi đang ngồi bên bếp lửa khói um, trước mặt bà là khung cảnh hoang tàn đổ nát với những thân tre gỗ cháy xém còn lại sau trận bom sát thương kết hợp với bom napan ngày 25/4 định mệnh. Bà én ngồi quay bờ vai trần của mình lại phía ống kính. Bờ vai trần tròn lẳn đã bị sần sùi cháy xém do bom Napan! Bà én cầm tấm ảnh, kể bằng tiếng Thái: “Lúc trưa hôm ấy, bom nó ném mẹ (bà Én) đang ở trong hầm, và bị cháy lưng. Cũng chẳng chữa chạy gì nhiều, cứ kệ nó, cứ cuốn khăn vào để che vết bỏng đi cho nó đỡ… xấu thôi mà. Không hiểu tại sao cái vết thương do lửa napan nó lâu lành mến thế! Mẹ cuốn khăn mất đúng một năm trời, đến năm 1955 vết thương mới… không phải cuốn khăn nữa”. Họ hàng anh em nhà bà rất nhiều người đã chết, bà sống sót được là ơn tổ tiên lắm rồi. Đối với nạn nhân Lò Thị Phanh, cuộc sống cõng theo hậu quả của trận bom độ ấy thật nặng nề. Sau khi bị cụt hai chân, cô gái 13 tuổi cũng định cam phận tàn tật ở vậy suốt đời với gia đình. Nhưng rồi thời gian nguôi ngoai đi, khát khao làm mẹ, khát khao được một lần nếm trải tình yêu đã xoa dịu nỗi mặc cảm trong cô. Và, như bà con vẫn nói, chị Phanh đã xin của người đàn ông nhân ái nào đó một đứa con. Cháu trai ấy giờ đã trưởng thành, đã có công ăn việc làm, và lấy vợ đẻ cho bà cụ cụt hai chân những đứa cháu nội. Âu cũng là một cái kết có hậu.
Những dòng tư liệu ngắn ngủi mà chị Vân, Phó Giám đốc bảo tàng tỉnh Điện Biên đưa cho tôi xem, viết: “Sau 3 ngày số người chết (444 người) vẫn không được đem chôn vì… không còn ai sống sót”! Có lẽ, trong lịch sử phát minh ra chữ nghĩa của loài người, khó có dòng chữ nào xót xa hơn thế! Đã một thời, khu mồ chôn tập thể ở Noong Nhai này hiu hắt và ma quái khủng khiếp trong ký ức của cộng đồng cư dân sống trên đất Mường Then cổ. Trên sự ai oán của 444 xác đàn bà, người già, trẻ em ấy, người bản xứ dựng lên một cái lều con con để tưởng nhớ, và cũng là để an ủi nỗi sợ hãi của những người đang sống mỗi khi nghĩ đến cái ngày 25/4 hãi hùng.
Điện Biên thời mới, giữa niềm vui đổi mới, giữa khát vọng hàn gắn vết thương cũ hôm nay, xin hãy nhớ tới họ: 444 con người bị băm, bị đốt vô lý trong một vụ thảm sát có lẽ là dã man nhất với số lượng người chết nhiều nhất trong lịch sử các dân tộc ở vùng đất địa đầu mênh mông của Lai Châu (cũ). Thật lòng, tôi luôn nghĩ, cho ra đời một cuốn sách, một bộ phim, hay ít ra là viết những dòng tư liệu lịch sử, bảo tàng chi tiết, quy mô về vụ thảm sát Noong Nhai này là cực kỳ cần thiết, là một nghĩa cử để ta có một niệm khúc Noong Nhai, để hiểu và cảm thông hơn với số phận của hàng trăm đồng bào xấu số ngày ấy. Cũng là để ta hiểu chính mình hơn: không có ai là vô danh cả.
Đồng chí nguyên Chủ tịch xã Thanh Xương buồn bã vì bao nhiêu lần người ta về điều tra rồi bỏ bẵng với cái dự án ghi chép tư liệu và có hình thức tưởng nhớ xứng tầm với vụ việc 444 đồng bào Thái bị thảm sát… Buồn, giận, tủi; nhưng ông cũng không giấu vẻ tự hào. “Bao năm tôi làm lãnh đạo xã. Có nhiều ông bà người Pháp về đây tìm hiểu. Tôi đau đớn vì những gì tôi tận mắt trông thấy trong vụ thảm sát lắm, song, tôi vẫn nướng cá suối, làm cơm lam và giót rượu đưa tận tay mời họ. Họ chắp tay cảm ơn tôi, nói rằng thực dân Pháp xưa đã gây cảnh đau đớn quá thể cho dân bản, không ngờ bà con bây giờ tốt với người đến từ nước Pháp thế. Tôi bảo, chuyện ấy là quá khứ qua rồi. Nhiều lính Pháp nằm lại trong lòng chảo Điện Biên này, cũng tang thương lắm. Họ có khi cũng chỉ là kẻ bị ép tòng vào lũ lính viễn chinh đi gây hận thù, cha mẹ vợ con họ cũng chân chất như cha mẹ vợ con của chúng tôi, nhiều người đã nằm trong số 444 nạn nhân xấu số của trại tập trung Noong Nhai thôi. Chúng tôi ám ảnh nỗi đau chiến tranh suốt đời, giờ chỉ biết cầu trời giúp cho không còn nơi nào trên hành tinh này có cảnh giết chóc như Noong Nhai này nữa. Cậu người Pháp ấy ôm lấy tôi mà khóc: mẹ tôi cũng dệt vải như người Thái ở Mường Thanh n ày thôi, bố tôi làm ở công ty đào than rồi chuyển sang dạy học. 

Bài 4:
Số phận nổi chìm kỳ lạ của cô bé mà bộ đội nhặt được rồi đem nuôi từ… la liệt xác người
Trong vô số chết chóc, hy sinh, xiết bao bom rơi đạn lạc và các tội ác tày trời do quân viễn chinh máu lạnh gây nên ở lòng chảo Điện Biên Phủ năm xưa, thì vụ thảm sát 444 thường dân ở Noong Nhai chỉ là một ví dụ. Giữa bầy hầy da thịt nhuộm máu, có một sự sống sót kỳ lạ, với số phận kỳ lạ và các cuộc tái ngộ làm nức lòng bất kỳ ai từng nghe qua. Ấy là chuyện về cô bé Lò Thị Phơi. Phơi, theo tiếng Thái là thứ nhặt được. Bộ đội nhặt được bé Phơi khi em đang thoi trong cơn khát sữa sinh tử. Thiên thần bé dầm máu ấy cứ bấu chặt lấy hai bầu vú và cơ thể trần truồng nhuộm máu khô của chính người mẹ đã tắt thở của mình. Các anh lính cụ Hồ của trung đoàn Bế Văn Đàn đã bế em bé ấy theo suốt đường hành quân để nuôi nấng: đặt tên nó là Đứa Trẻ Nhặt Được (Phơi).
Đứa trẻ đã bú chính máu của mẹ mình để sống sót!
Chuyện xảy ra vào năm 1954, trước ngày lịch sử Việt Nam có được chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vài tháng. Bấy giờ, một đại đội quân ta đang đóng giữ ở bờ suối cạn xã Mường Pồn (cách TP tỉnh lỵ Điện Biên hiện nay chừng 20km). Bất ngờ pháo địch bắn cấp tập vào đội hình và khắp thôn bản xung quanh. Trong lúc làng bản cháy rụi, người chết la liệt ấy, một chiến sỹ trẻ tên là Xương, là người của trung đoàn 316 – Bế Văn Đàn (bấy giờ anh Bế Văn Đàn vừa hy sinh anh dũng nên trung đoàn đã vinh dự mang tên con người quả cảm ấy) đã chạy bổ vào bản cứu người và thu dọn chiến trường. Bỗng anh thấy tiếng khóc yếu ớt của phát ra từ sau nách một thi thể phụ nữ bị đạn pháo giết chết… Anh bộ đội tên là Xương, người Tày ở Lạng Sơn ấy đã sững sờ khi trông thấy một đứa trẻ đang nằm ôm bà mẹ trẻ chết trong vũng máu. Đứa bé gái độ 2-3 tháng tuổi cũng bị thương. Cháu bé đã lả đi vì khát sữa, nhưng nó cứ nhẫn nại nhoay bầu vú lạnh ngắt và bê bết máu của bà mẹ xấu số để đòi bú. Cháu bé trở thành con nuôi của trung đoàn, và được đặt tên là Phơi. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, có một trung đoàn bộ đội nọ đã có con nuôi, lại là một bé gái đang tuổi đòi bú mớm. Các anh lính trẻ dành sữa cho Phơi, với biết bao nhiêu bận bịu của một “đàn gà trống nuôi con”.
Họ thường gọi “con nuôi!” thật là âu yếm khi nhắc về Nọng Phơi hoặc Nọng Sáo (em Phơi hoặc em bé xinh đẹp theo tiếng Thái). Những trưa hè, dọc đường hành quân vào chiến trường ác bậc liệt nhất đó, anh Phạm Thanh Tâm (một người họa sỹ đi theo đoàn) đã bắc giá vẽ để phác họa chân dung “Nọng Phơi”. Trước khi vào chiến dịch Điện Biên Phủ hào hùng, lo cho số phận của cô bé tội nghiệp, trung đoàn đã quyết định gửi Phơi cho một gia đình người Thái hiếm muộn ở Mường Pồn (ông Lò Văn Pâng và bà Lò Thị Hưa) chăm muôi. Sau khi đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, vĩnh viễn đuổi thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam, họa sỹ Thanh Tâm đã quay trở lại Mường Pồn tìm Phơi và hoàn thành bức tranh nổi tiếng: “Em bé Mường Pồn”.
Hoạ sỹ Phạm Thanh Tâm (nguyên Giám đốc Xưởng Mỹ thuật Quân đội – Tổng Cục Chính trị, sau này trở thành một người rất nổi tiếng, với cuốn sách “Tranh ký họa Kháng chiến chống Thực dân Pháp”, đặc biệt là bức sơn dầu “Xuân trong hầm pháo Điện Biên Phủ”, đến nay, ông là họa sỹ duy nhất trực tiếp cầm súng cầm cọ đi vẽ ở chiến trường Điện Biên Phủ mà còn sống. Nhiều cuốn sách về ông đã được các nhà báo nước ngoài hoàn thành, xuất bản ở trong và ngoài nước. Cuốn hồi ký “Vẽ dưới hầm lửa đạn” của ông đã được nhà xuất bản danh tiếng Thames and Hudson ấn hành khiến tên tuổi ông càng vượt ra tầm quốc tế ), đã gặp người viết bài này tại TP Hồ Chí Minh và trao tặng những dòng nhật ký đầy nước mắt và thấm đẫm tình nhân ái của mình về bé Phơi. Ông viết: “Kể từ ngày 12-12-1953, sau khi anh Bế Văn Đàn dũng cảm hy sinh trong trận đánh Mường Pồn lịch sử, đơn vị của chúng tôi đã mang tên liệt sỹ Bế Văn Đàn. Lúc mới được cứu sống, tình trạng của em rất thương tâm. Không có sữa cho Phơi bú, mỗi lần Phơi đói khóc là bố mẹ nuôi chỉ biết ngồi và… khóc theo. Phơi khóc suốt 7 ngày bảy đêm liền, có lẽ vì thế mà một ổ rốn thòi ra đến 1/3 gang tay, sau này phải lấy quả trứng gà mà ấn ổ rốn lồi đó vào. Mấy ngày đầu, sau thảm hoạ, Phơi đi ngoài ra độc một thứ gì màu đỏ sậm như… máu khô. Có người bảo, có lẽ vì lúc bom đạn ập đến, ngực mẹ em loang toàn máu, mà em thì quá đói, em tưởng máu mẹ là sữa, em đã bú máu mẹ để sống. Trên đầu em cũng đầy máu, và có vết thương ung mủ ở đầu gối xước xuống cổ chân bên phải, ấn vào đó mủ chảy ra. Và cả mấy mảnh đạn cũng tòi ra. Bố mẹ nuôi phải đi xin lá rừng dịt các vết thương cho Phơi, hai ông bà thương cô con nuôi như con đẻ”.
Sau giải phóng Điện Biên, hình như ông Tâm là người nặng lòng với Noọng Phơi nhất. Cũng trong chuyến trở về Mường Pồn năm 1960 kể trên, ông Tâm đã vẽ cô bé Noọng Phơi của mình với tất cả niềm say mê. Bức vẽ đã ra đời, Phơi 6 tuổi, mặc áo người Thái với khăn đội đầu, cúc bướm, váy Thái ngồi ngơ ngác bên chiếc ghế mây… Bức phác thảo có tên “Em bé Mường Pồn”. Ông Tâm viết tiếp trong nhật ký về sự kiện vẽ tranh này hết sức sinh động: “Bảo noọng (em-tiếng Thái) đứng làm mẫu vẽ, noọng thích lắm. Được một lúc mỏi chân rồi, noọng cứ ngả vào đồng chí Xương đi cùng tôi, nhưng noọng vẫn đứng. Và suốt cả một buổi chiều noọng cũng không bỏ đi chơi, chỉ quanh quẩn để cho hoạ sỹ vẽ. Thấy hoạ sỹ đánh rơi bút xuống gầm sàn là noọng (người mẫu-PV) chạy xuống nhặt ngay”.
Nụ cười của Nọng Phơi bên quả bom khổng lồ trước hiên nhà mình
Dường như món nợ với Mường Pồn quá lớn, vừa qua, hoạ sỹ Thanh Tâm cùng đoàn hoạ sỹ của Hội Mỹ thuật Việt Nam lại có dịp vượt hàng nghìn cây số từ Sài Gòn đến với Điện Biên. Bây giờ Noọng Phơi đã là người thiếu phụ Thái với 7 mặt con, với một cuộc hôn nhân nhiều trắc trở, ông chồng phạm tội và bị bệnh tâm thần, mấy đứa con nghiện ma túy, khiến cuộc sống không ít khi đã nhuộm màu tù tội, với cả máu và chết chóc.
Hàng trăm người, trong đó có bố mẹ Phơi đã chết cùng lúc, trong trận thảm sát của thực dân Pháp. Nhưng, Phơi đã hồi sinh lạ kỳ sau cơn khát sữa kinh hoàng đến mức phải uống máu mẹ mình theo đúng nghĩa đen đó. Bé Phơi sống bằng bầu sữa lớn nhất, ấy là tình nhân ái, ấy là tình quân dân thắm thiết kia. Đứa con nuôi của Trung đoàn về lại cuộc sống êm đềm với những vườn cam trĩu quả cùng các thiếu nữ Mường Pồn vốn “vang danh thiên hạ” bởi nhan sắc không đâu sánh kịp trong toàn miền Tây Bắc. Bố mẹ nuôi chết. Phơi lấy chồng, đẻ được 7 đứa con.
Chồng của bà Phơi sau này làm trưởng bản Lĩnh, xã Mường Pồn, tham gia dân quân xã, được phát súng AK để bảo về bản mường. Thế rồi việc “bình bầu công điểm” gì đó, nghi ngờ nhau tham ô biển thủ gì đó, lại thêm rượu vào, hai nhóm người cãi nhau. Chồng bà Phơi đã điên tiết cầm súng bắn chỉ thiên mấy phát, dọa sẽ “xử bắn” hết bọn bố láo. Rồi thanh kiểm tra, rồi bị kỷ luật, rồi ông bị bắt tạm giam ở ngoài tỉnh Điện Biên. Nghe nói tòa xử, nghe nói chồng chịu án 7 năm tù dưới Thanh Xuân, Hà Nội, nhưng bà Phơi và 7 đứa con cũng chả ai xuống dự. Ông ấy trở về sinh ra bất mãn, rồi nghiện ma túy suốt 10 năm ròng. Con bé Dung, con gái bà Phơi cũng nghiện. Cô con gái nữa thì bỏ sang Trung Quốc làm nghề gì… không ai muốn nói. Bản Lĩnh là miền gái đẹp, nhiều cô đem nhan sắc “đi làm nghề gì không rõ” lắm. Một người con trai tên là Thông thì bị què chân từ nhỏ. Cảnh nhà tan nát, chồng con bê tha rượu chè, ma túy, bán hết đồ đạc cho vào ống tẩu. Rồi ông chồng quẫn trí phát điên, ông quay trở về vác dao chém cả vợ con.
Hôm ấy chắt bóp được tí gỗ dựng lại căn nhà sàn. Chồng bà Phơi cãi nhau, chửi tục đòi đánh chết đứa con trai. Ông chém 3 nhát vào nó, máu chảy lêu lao. Ra bệnh viện, “truyền mất 6 lạng máu mua của nhà nước, anh con nhà bác hiến cho 3 lạng máu nữa, thì em mới sống sót” – con bà Phơi thuật lại. “Chém con xong, ông ấy bỏ vào rừng sống như người mất hồn. Công an, biên phòng, dân quân cùng truy bắt. 3h sáng ấy, ông trở về, xin lỗi mọi người và bảo rằng đang ân hận lắm, ông muốn vào thăm con trai. Vào viện, lập tức ông vác hòn đá lớn đập vỡ mặt con trai, đập vỡ đầu bà Phơi. Hai người bất tỉnh nhân sự. Hòn đá ấy, sau này là tang vật vụ án, công an đem lên bàn cân, nó nặng 2kg cơ mà”, bà Phơi khóc. Ông chồng thì bỏ vào rừng, xé quần áo bện làm dây, treo cổ tự tử. 3 ngày sau người ta mới kỳ công tìm thấy thi thể ông. Ông còn thoi thóp thở. Mang ra đến trạm y tế xã thì chết. Khi khâm liệm, bà Phơi đã kịp hồi tỉnh, bà đem hết giấy tờ, kể bằng khen giấy khen công trạng trong bao năm làm cán bộ xã, làm trưởng bản của chồng bỏ vào quan tài. Bà, cực chẳng đã, muốn chấm dứt quãng đời chồng chất đau khổ bên ông chồng đòn roi đấm đá mình cả một đời ấy.
Bà Phơi năm nay đã ngoại lục tuần, bà hàng ngày cày cấy, quyết liệt giục đàn con chăm chỉ làm ăn. Chúng lớn, có đứa chưa bao giờ được đi học, nhưng dựng vợ gả chồng rồi cũng có của ăn của để. Đứa nghiện biết khóc xin lỗi mẹ và tự đi cai. Đàn cháu nội ngoại xinh tươi cùng lớn lên với những vườn cam trĩu quả của Mường Pồn. Trước nhà bà Phơi, bao năm qua, xã treo một quả bom khổng lồ để làm kẻng. Dường như là định mệnh, bà chìm vào cuộc thảm sát bởi súng ống đạn dược, bố mẹ chết thảm cùng rất hiều người khác chết thảm, bà được cứu sống bởi bộ đội “làm con nuôi của chiến trường đạn bom”, rồi cả đời bà nửa thế kỷ qua có một quả bom khổng lồ treo trước cổng nhà. Bà bảo, tiếng kẻng vang lên mỗi ngày, nó nhắc bà về nỗi buồn, nhưng cũng gọi bà đến với niềm vui và lòng biết ơn vô hạn. Giống như hồi ấy bom đạn vừa giết chết cả làng cả bản xong thì bộ đội đến dứt bà ra khỏi bầu vú nhuộm máu của mẹ bà. Và bà trở thành đứa con nuôi của trung đoàn Bế Văn Đàn. Cuộc chiến dù bi thương, nhưng đã đem cho bà và quê hương một trang sử mới. Lần gặp gần đây nhất, bà Phơi bảo tôi chụp cho bà một tấm ảnh bên trái bom khổng lồ trước cửa nhà, khi ấy, bà và đứa cháu ngoại cùng cười thật tươi. Bé con hơn chục tuổi đầu, rất xinh, xưa kia bà cũng rất xinh.


Bài 5:
Gặp nạn nhân trong vụ bắn giết 93 người rồi quẳng xác xuống sông ở Phù Ninh tỉnh Phú Thọ:
Hai gã lực điền cướp súng, dìm chết giặc Tây rồi đào thoát dưới đáy sông Lô
Ở tuổi 87, cụ Nguyễn Văn Hòa da vẫn đỏ au, râu dài trắng như cước, răng đều tắp và đen nhưng nhức. Xã An Đạo, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ một ngày nắng nỏ. Bia Căm Thù như còn rực lửa đau thương dựng ở rệ sông Lô. Nơi đây, năm 1947, giặc Pháp đã tàn nhẫn dẫn 95 người xã An Đạo ra bờ sông thực hiện những hành động dã thú với phụ nữ, kể cả người đang mang bầu, với người già và trẻ em đang níu vú mẹ. Từng người bị bắn thẳng và trán, ẩy xác xuống sông. Có người sợ hãi chắp tay, quỳ gối van lạy, chúng cũng không thôi xiết cò. Đến lượt mình, hai anh em Nguyễn Văn Nhù và Nguyễn Văn Hòa bèn nháy nhau cướp súng dài, bẻ quặt tay thằng Tây, vật cổ nó xuống sông Lô rồi dìm chết dưới vực nước An Đạo. Hai anh em rồi mất hút dưới làn nước đục ngầu, dần ngoi lên các cánh rừng già bờ sông bên kia, nay thuộc địa giới huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc…
Nỗi ân hận của người hạ sát Thực dân rồi đào thoát khỏi quỷ sứ
Trong hành trình bi thảm đi ghi lại lịch sử những cuộc thảm sát và các nấm mồ tập thể bi thương ở Việt Nam, đây là lần hiếm hoi chúng tôi thấy lòng mình vui nhẹ nhẹ trước chiến thắng bất ngờ và khoan khoái của những lương dân vô tội tay không tấc sắt trước sức mạnh phi nghĩa của bè lũ xâm lăng.
Tuy nhiên, vặt cả một bàn gỗ đầy những nhãn lồng vàng nâu mời khách, ấm chè tươi đặc cắm tăm được giót ra, giọng cụ Nguyễn Văn Hòa lại nghèn nghẹt buồn rầu. “Tôi và anh trai tôi sống sót, nhưng cả mẹ tôi đang mang thai đứa em ruột của tôi đã bị giết ngay sau đó vài phút, rồi cả anh em họ hàng nhà tôi gồm 8 người, cả xóm mạc của tôi nữa – tất thảy 93 người – cùng bị tàn sát. Thoát chết mà lòng buồn vô hạn độ. Là bởi vì cái lẽ này nữa. Lúc nó giết nhiều người quá, tôi nghĩ đằng nào thì tôi cũng chết chắc. Đứng im nó bắn, nó ẩy mình xuống sông thì thảm quá, chẳng thà chiến đấu “được ăn cả ngã về không”. Tôi thấy nó chả trói tay trói chân gì, nước sông Lô thì hung dữ, anh em tôi toàn những loại rái cá “nếu ném ra đại dương thì cũng chỉ có thể chết đói trên mặt sóng biển, chứ chả bao giờ chìm được”. Vậy nên tôi nháy mắt hướng ra vực, bảo anh Nhù, anh trai tôi, ỳ rằng “vù nhé”. Lựa lúc nó giơ súng ngắm bắn người khác, tôi xông ra, quặt tay cướp súng của nó. Quặc nó xuống sông. Tôi xé hết quần áo mình cho dễ bề bơi lượn. Trên bờ đạn bắn rách da cổ tôi, cơ thể bỏng rát, máu loang mặt sóng. Tôi bấy giờ ở độ tuổi mười tám đôi mươi nên khỏe nổi tiếng trong vùng. Tôi chèo đò tay dọc sông về tận Hà Nội, hai tay tôi có thể banh hai con trâu đang húc nhau ra. Tôi dìm thằng Tây to béo đó độ 10 phút thì nó chết. Đạn trên bờ vẫn bắn xuống ào ào, nhưng chúng tôi ở dưới nước nó không trông tỏ, hai nữa là đạn xuống nước vô tác dụng cả”.
“Hai chúng tôi bơi sang bờ bên kia, vào địa bàn huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc bây giờ. Độ nọ, tre pheo, rừng rú khu vực thượng nguồn sông Lô này còn rậm rạp lắm. Thoát, nhưng cháu biết thế nào không. Sau khi cay cú vì anh em tôi không chỉ tẩu mất mà lại còn rong theo một mạng thằng mắt xanh mũi lõ, bọn Pháp và tay sai mới cẩn trọng hơn. Chúng nó trói chân trói tay tất cả những người còn lại, sau mới tra khảo, hành hạ dã man đủ kiểu, mới bắn chết và quẳng xác xuống sông. Tôi ân hận một phần là vì thế. Biết đâu, nếu chúng tôi không bỏ trốn kiểu ấy, thì hơn chín mươi người còn lại sẽ không bị xích trói chân tay. Và sẽ lại sẽ có ai đó tiếp tục thoát thân nhờ phương cách của chúng tôi. Mà ngẫm vậy thôi, chứ toàn phụ nữ, trẻ em, người già, cả người bụng mang dạ chửa, sức mấy mà thoát được” – Giọng cụ Hòa ngậm ngùi, bà vợ răng đen vấn khăn mỏ quạ của cụ ngồi cạnh cũng khóc tấm tức. Cụ Hòa quay ra thắp nhưng cho cụ Nguyễn Văn Nhù, người anh trai cùng lập kỳ tích giống mình vừa mới về trời ở tuổi thượng thọ 93.
Thây người nổi trên sông Lô bập bềnh như cả tram thân cây chuối hột
Bên sông Lô mướt xanh, các vở nước hồng hào cuộn lên màu mỡ, bà con xã An Đạo đã dựng một nhà bia căm thù rất quy mô. Chưa bao giờ nỗi đau của vụ thảm sát vơi đi trong lòng mỗi con dân đất Tổ này, cứ ngày mùng 10/9 hàng năm, làng có ít nhất 93 cái đám giỗ. Họ gọi là “giỗ trận”, tưởng nhớ một trận càn của bè lũ Thực dân khiến 93 người của quê hương Phú Thọ bị thảm sát cùng lúc. 93 người với mấy chục gia đình, mấy mươi dòng họ và lớp lớp thế hệ con cháu cùng rùng mình đau thương và ám ảnh. Nhiều người bảo, các vực nước sông Lô qua khu vực An Đạo rất nhiều chuyện ly kỳ, huyền hoặc. Thuyền bè qua, có khi nghe tiếng khóc của phụ nữ và trẻ em, có khi thấy những hình nhân thất thểu bay lượn não nề. Riêng với bà con, vở sông có vụ thảm sát ấy lại là chốn tưởng nhớ rất thân thương. Họ, bằng cách này hay cách khác, khi là nén nhang, khi là chút gạo muối hoặc vài bông hoa vườn nhà đem rắc xuống rệ nước để vỗ về linh hồn những người đã bị giết một cách bạo tàn và oan uổng nhất.
Tháng 9 năm 1947. Hai năm sau cách mạng tháng Tám, giặc Pháp đã bội ước đem quân tái chiếm Việt Nam. Chúng đánh ngược mãi ra Hà Nội, lên Sơn Tây, qua Hưng Hóa Đồn Vàng ngược Tuyên Quang. Các thành lũy lần lượt thất thủ. Giặc Pháp và tay sai điên cuồng trước sự thoắt ẩn thoắt hiện của du kích quân và bộ đội cụ Hồ. Bà con An Đạo đào hầm trú ẩn trong nhà và ngoài vườn đề phòng giặc giã. Ví như anh em ông Nhù, ông Hòa cũng áo vải nâu, túi rết, chân trần, theo Việt Minh hoạt động cách mạng ở cả một vùng rộng lớn hai bên lưu vực sông Lô đầy rừng rú. Quá sợ chiến tranh, quá hiểu sự đáng sợ của lũ giặc cuồng, bà con An Đạo một lòng theo cách mạng. Liên tiếp tàu chiến của giặc bị bắn chìm trên sông Lô. Giặc Pháp thua trên nhiều chiến dịch. Điên loạn tức tối, bọn chúng đã tổ chức một trận càn quy mô, tàu chiến ca nô rẽ sóng ào ào, ù ập xông vào miền quê thanh bình có cái tên chả trêu ghẹo ai bao giờ: An Đạo. Sục sạo vào từng nhà dân để “tát nước bắt cá”, giết nhầm hơn bỏ sót. Ông Nhù, ông Hòa và 93 người bà con khác bị giặc lôi từ trong hầm trú ẩn ra. Thấy ông Hòa, ông Nhù to khỏe lực lưỡng, chúng tiện thể dí hai cái bộ điện đài to đùng lên vai, bắt hai gã lực điền cõng cho chúng. Tiếng ụ xọe, lịt xịt của máy móc hiện đại làm hai gã trai sông nước chả hiểu gì. Hễ cứ lơ ngơ, hay đi chậm chạp là nó dùng báng súng dài nện vào đầu, thúc vào đít. Cáu lắm, nhưng hai gã to khỏe nổi tiếng của An Đạo cũng đành lũn cũn cõng dụng cụ chiến tranh cho giặc, bởi nhìn lên, thì gã Tây còn to cao hơn mình. Chúng nó rất đông, xách toàn súng lớn. “Giá mà có cái mái chèo gỗ ở đây, thì tao cũng sống chết với mày cho bớt nhục”, gã trai thuyền chài nghĩ bụng.
Ra đến bến sông Lô, giặc bắt mọi người xếp hàng tra khảo. Để đề phòng bị tấn công trả thù, cứ thanh niên trai tráng khỏe mạnh chúng bắn trước cho nó… lành.
Anh Nguyễn Văn Hùng, con trai cụ Nguyễn Văn Nhù kể: “Bao năm qua, bố tôi luôn bị ám ảnh bởi vụ thảm sát ấy. Ông bảo, bà nội tôi và em út của bố tôi bị giết trước mặt ông. Rồi 8 người trong gia tộc cùng chết, 93 người thiệt mạng một lúc, thử hỏi ai mà chịu được? Bố tôi kể, lúc nó giết 93 người là buổi chiều. Chỉ đến sáng hôm sau, bà con ra bến sông khóc lóc rầm trời, đã thấy thây người nổi lên cả loạt, nhiều như những thân chuối. Vì nỗi căm phẫn ấy, các cụ sau này đều trở thành những chiến binh quả cảm trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Chú Hòa tôi đi chiến trường, vinh được gặp và hành quân cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khiến cả họ lấy làm vinh dự lắm. Đúng đến khi tan bóng giặc ở lòng chảo Điện Biên, ông mới trở về”.
Nếu quá mải than khóc mặt trời, anh sẽ mất nốt các vì sao!
Quá nhiều người chết ở một ngôi làng. Mà hồi năm 1947 thì bốn bề rừng rú và sông sâu vực lớn, dân cư cực kỳ thưa thớt. Vì thế, loanh quanh, nhiều người chết vẫn trong một nhà, một họ tộc mà ra. Những người sống sót đau đớn đến ngẩn ngơ, có người phát điên lên vì mất mát. Lúc ấy, họ cưu mang nhau, bù đắp cho nhau để cùng tìm cách chăm sóc phần hồn cho những người chết oan. Ông Hòa và anh Hùng đều kể: Người bị bắn thẳng vào trán và ẩy xác xuống sông đầu tiên là ông Độ. Ông Nhù trốn thoát, rồi giặc cũng giết bà Ủn, vợ ông Nhù nốt. Vợ ông Độ là bà Lựu may mắn sống sót, trở về trong làng trong bơ vơ, hoảng loạn. Ông Độ bị giặt bắn vào cổ, lặn dưới đáy sông tẩu thoát, cũng tìm lối về làng trong hoang mang tột độ. Đoạn tang vợ, đoạn tang chồng, ông Nhù và bà Lựu, hai người vì vụ thảm sát vừa giữa đường đứt gánh hôn nhân ấy về gá nghĩa với nhau. Và những đứa trẻ tiếp tục ra đời, cuộc sống hồi sinh từ đau thương ngày cũ. “Tóm lại, ông Độ bị bắt đầu tiên, rồi đến lượt cụ Hoàng Văn Khuông. Bà vợ ông Độ sau đó đã trở thành mẹ của tôi. Bố tôi được 5 người con, tôi là trai cả. Cụ có sức khỏe hơn người, hưởng thọ những 93 tuổi…”, anh Hùng khóc, kết lại câu chuyện.Anh lại gạt nước mắt, thêm một nén nhang lên bàn thờ bố.
Ông Hòa có lúc khóc, có lúc cười, hàm răng đen nhánh, tóc bạc trắng, da đỏ au. Ông bảo, “tôi đọc sách, rất thấm câu này: nếu anh cứ knải khóc tiếc mặt trời mãi, anh sẽ mất nốt cả các vì sao đang lên. Đau xót của cuộc thảm sát, tôi không thể nào quên, nhất là đám trẻ con bà Huyền, bà Khiêm, đang bú mẹ thì bị giết, khi miệng còn trắng vệt sữa sơ sinh… Nhưng, phải gác nó lại để mà sống tiếp chứ”. Mấy đứa cháu cười tếu, bà Thy (vợ của ông Hòa) cũng cười đen nhánh sau vạt áo cánh nâu: vì lạc quan, vì vạm vỡ, nên cụ Hòa sống sót trở về, đã lấy hai bà vợ. Mỗi bà sinh được 5 người con, bà Thy rồi lại bà Cơ.
Cũng thấy nhẹ lòng hơn, khi đi theo vệt máu của cuộc thảm sát 93 người kinh hoàng này, chúng tôi đã gặp được nụ cười lạc quan với triết lý sống thật thấm thía của nhân chứng sống bi thương, cụ Nguyễn Văn Hòa.


Bài 6:
Hơn 500 người cùng biến mất vĩnh viễn trong lòng núi sập
2h sáng. Hơn 500 “quặng tặc” đang ngủ say trong các khe suối, các hầm quặng giữa đêm đông mưa dầm giá buốt của núi Kép Ky, chợt trời đất rùng rùng chuyển động, những tiếng nổ lụp bụp vang rền từ trong lòng núi rồi “ầm!” một cái như sấm dậy. Ai đó hô to: “Cứu, tôi chết chắc rồi”. “Chết hết cả rồi”. Và tiếng hô hoán rầm trời được ít giây. Cả một ngọn núi khổng lồ bị các “đời chuột chũi” khoét hầm quặng chặt mất “chân”, nay mưa lớn làm đất đá bở ra, hàng triệu tấn đất đá trôi băng băng xuống thung lũng rồi theo đà nó vọt qua cả ngọn đồi bên cạnh. Hai rông núi bị bóc trôi trọn vẹn, hất tung lên giời. Chúng cuốn tất cả đất đá cùng 500 con người đang say giấc nồng… ra đi vĩnh viễn. Chuyện xảy ra ở khu vực núi Kép Ky, xã Quang Trung, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng vào năm 1992.
Nấm mồ tập thể lớn nhất Việt Nam – “người nằm dưới mộ ai ai đó”?
500 con người đã bị cuốn đi, chôn vùi, đập nát cùng lúc bằng cách này, nhà báo hình dung nhé. Các nạn nhân chúng tôi, giống như một bịch một đám châu chấu cào cào bị ném từ trên cao dọc xuống thành của một cái chảo gang trơn mỡ, bay theo rìa bên này, xuống đến đáy chảo, do quán tính còn quá lớn, tất cả tiếp tục trượt qua rìa bên kia rồi vọt ra khỏi chảo. Cùng trôi với đám châu chấu ấy là nhiều nghìn tấn đất đá của cả hai quả núi khổng lồ đứng cạnh nhau. Đã bị cuốn đi như thế, không một ai sống sót, trừ… Tôn Ngộ Không”, anh Trần Văn Quyền, người phường Cam Giá, TP tỉnh lỵ Thái Nguyên, nạn nhân hiếm hoi sống sót sau vụ lở đất đá ở Kép Ky không kìm nổi xúc động khi nhớ lại. “Tôi còn sống, bởi vì hôm đó, trời xui đất khiến thế nào tôi lại ngủ nhờ ở ngọn núi đó, ở cái lán mà ngọn núi không bị trôi”.
Chúng ta từng biết đến nhà mồ Ba Chúc ở bài kỳ trước, với hơn 1.151 di cốt đồng bào ta bị Pol Pot giết hại trong 12 ngày. Nhưng đó là việc các chuyên gia trong và ngoài nước gom hình hài sót lại của bà con, trưng bày trong một Di tích quốc gia nhằm tố cáo tội ác của giặc. Còn ở Kép Ky, đó là một nấm mồ tập thể chiếm hết gần hai quả núi theo đúng nghĩa đen. Tức là thảm họa xảy ra, cả đại diện cao nhất của Chính phủ đã có mặt thăm hỏi, chỉ đạo cứu hộ, song không có ai sống sót và cũng không tài nào bới hàng triệu tấn đất đá lên để tìm được các thi thể nát nhừ đã phân hủy. Thế là người ta khóc rồi thống nhất: tìm được ai thì tìm, chôn ở rông núi luôn hoặc lấp tất cả lại, biến các quả núi vừa ùa ập vào nhau kinh khủng kia thành một nấm mồ lớn. “Người nằm dưới mộ ai ai đó, biết có quê đây hay vùng xa”, câu thơ “Thăm mả cũ bên đường” của Tản Đà sao mà “vận” đúng vào nấm mồ tập thể này thế.
Ước tính 500 người chết, đó là con số đã được công bố. Tuy nhiên, theo nhiều người am hiểu vụ việc, thực tế số nạn nhân bị chon vùi vĩnh viễn còn cao hơn rất nhiều. Hầu hết họ là người đi đào quặng tự do mà chúng ta hay gọi là “quặng tặc” kia đã chết mà trước đó không ai “điểm danh”, không có danh sách nào dành cho họ cả. Khi sự vụ xảy ra, vài người sống sót cũng lặng lẽ biến khỏi hiện trường trong nỗi sượng sùng ái ngại. Có gia đình ở Trà Lĩnh, họ vào hiện trường bán hàng cho thợ quặng, bán từ ngụm nước đến áo quần, đến chăn màn, thuốc thang. Có gái làng chơi đến hành nghề rất đông, có bọn bán lẻ ma túy. Đêm về, đèn sáng như sao sa, có cả quán karaoke dưới chân núi Kép Ky thì đủ biết. Anh T., một cán bộ huyện Trà Lĩnh (nay đã làm đến “đầu ngành” của huyện nhà), hồi ấy ai cũng khó khăn, thấy làm quặng trúng quá, cũng chui vào núi kiếm thêm – kể: có gia đình 9 người đào quặng và bán hàng. Đêm ấy rét lắm, bà cụ già nhớ 9 đứa con cháu mới bất chấp hàng xóm can ngăn, thuê xe ôm vào Kép Ky thăm hỏi “đám trẻ”. Núi ụp xuống, cả 10 người cùng đi trong tích tắc. Hơn 20 năm trôi qua, vừa rồi gặp chúng tôi, ông Vũ Ngọc Đảm ở phường Cam Giá (TP Thái Nguyên) vẫn vật vã đau khổ khi kể về hai người con đã chết trong đám đất đá Kép Ky. Đó là các anh Vũ Văn Hòa, Vũ Văn Khuê, thi thể, xương cốt của họ vĩnh viễn hòa vào nấm mồ tập thể có kè đá kín cả xung quanh chân núi lớn kia. Ông Đảm và những người hàng xóm kể tên từng nạn nhân, trong đó có những chi tiết: “Tôi có 5 đứa con trai, 2 đứa chết ở vụ lở núi Trà Lĩnh, 2 đứa ốm chết, nay chỉ còn lại 1. Đau hơn nữa là nhà ông Đàn, mất một lúc 3 người con trai, thêm 1 người con rể tại đó. Nhà ông Độ mất 2 con và 2 cháu cùng lúc ở đó. Đáng thương nhất là nhà bà Nhường, mất một lúc 6 mạng ở Kép Ky, gồm 3 con trai, 2 con rể và một đứa cháu đang tuổi ăn tuổi nhớn. Phường này, vào ngày cuối tháng 6 âm lịch hàng năm, có tới 52 cái đám giỗ. Có nhà 6 người cùng chết ở đó, làm giỗ 6 người trong 1 ngày. Cả phường không ai đi ăn giỗ nhà ai, vì quá nhiều nhà… cùng có giỗ”.
Tôi chỉ biết đồng hồ trên tay thi thể ấy ngừng chạy lúc 2h sáng
Khi vụ lở núi xảy ra, công an, bộ đội và tổng lực của Cao Bằng đã có mặt thực hiện công tác cứu hộ, nhưng khả năng sống sót của các nạn nhân, ngay từ đầu người ta đều biết là bằng Không (0). Một số thi thể được bới lên. Có người bị kẹp trong đá vẫn còn giãy giãy, chỉ thò hai chân ra như con nhái bị chặn bởi cái… cối đá. Nhiều người nát nhừ không còn nhận ra danh tính.
Anh Ngô Viết Trung – có em trai là Ngô Viết Đoàn (người Cam Giá) chết ở Kép Ky – đã có mặt khá sớm ở hiện trường, kể: “Tôi nghĩ là cả người đào quặng, người Trung Quốc buôn quặng, rồi người bán hàng phục vụ ăn chơi, phải cả nghìn người chết. Quê tôi bấy giờ thanh niên mới “lên mỏ” mới có 1 đợt, vì đang bận làm cỏ sau vụ gặt lúa, chứ họ mà lên hết thì phường này “giỗ tập thể” phải vài trăm người! Khi tôi lên đến nơi, bộ đội đào được khoảng 50 xác, chôn rấp vào bìa núi, vì xác nào cũng trương thối kinh khủng. Tôi tìm một xác người, thấy có cái đồng hồ đeo ở tay. Đồng hồ đã chết nhưng vẫn trông rõ từng cái kim. Đồng hồ ngừng chạy vào lúc 2h đêm, tôi đoán là thảm họa xảy ra lúc đó. Có xác, lúc moi lên, đầu cắm xuống đất, chân chổng lên trời, lưỡi phình to trong miệng, lưỡi to bằng bàn tay, cơ thể nát bươm. Họ bọc túi nilon từng xác, xếp hàng ở đó, tên người nào còn nhận được thì viết vào một cái giấy, thả trong chai nhựa để đánh dấu. Em trai tôi, vĩnh viễn không tìm thấy xác, dù có biết cái lán của các chú ấy nằm ở góc nào. Nhưng đào lên chỉ thấy vài bộ quần áo bay của Nga (bấy giờ đang mốt), chăn chiếu và một cái hòm của bà chủ quán hàng”.
Bấy giờ đi lại khó khăn, đoàn xã Cam Giá phải thuê cả một cái xe Zin hai cầu leo núi như xe thời chiến, mà đến Bắc Kan còn bị sạt đường không đi nổi. Vì thế, quá nhiều gia đình nạn nhân đành bó tay bỏ mặc thi thể người xấu số trong rừng hoang mà họ cũng chỉ biết rừng nó nằm mù mờ phía nào đó ngoài biên giới. Có gia đình ở Cam Giá, mấy thành viên đi đào vàng ở Bắc Kan, Cao Bằng gì đó đã lâu không về, lúc xảy ra lở núi, họ chỉ đoán có thể thân nhân đã chết ở Kép Ky, thế là bèn thắp nhang gọi hồn. Cả làng khóc than vật vã, chạy vạy như thời loạn. Quả nhiên, 22 năm qua các nạn nhân nghi chết ở Kép Ky kia vẫn chưa ai trở về.
Khi cơ quan chức năng xây kè đá ngăn nước từ thi thể năm trăm hay cả nghìn người tử nạn trong lòng núi ra, thì Kép Ky đích thị là một nấm mồ tập thể kỳ lạ. Hệ thống cống dẫn nước thải, hệ thống bể phốt để lọc nước phân hủy núi xác người trước khi thải ra môi trường cũng được tiến hành. Người ta cũng xây xi măng, lợp ngói, xây bệ thờ có bát nhang và đắp hàng chữ nổi để tưởng nhớ các nạn nhân kinh hoàng ấy: “Bia ghi nhớ Nạn nhân lở núi, ngày 24.7.1992”. Chỉ lạnh lùng, kiệm lời, có ngần ấy chữ. Chữ giờ đã bong tróc, khu tưởng nhớ hoang tàn, cây dại phủ kín. Vài gia đình thỉnh thoảng vẫn qua Kép Ky gọi hồn các nạn nhân, khiến quang cảnh càng thê lương ai oán.
Cuộc trò chuyện “chết đi sống lại” với người về từ thung lũng tử thần Kép Ky
Anh Trần Văn Quyền (SN 1970) là 1 trong 3 người của phường Cam Giá còn sống sót trong vụ sạt núi ở Trà Lĩnh năm 1992 đã dành cho PV TTĐ một cuộc trò chuyện.
PV: Vụ lở núi ở Kép Ky, biên giới Trà Lĩnh chắc sẽ ám ảnh anh suốt đời?
Anh Quyền: Hôm đó trời tối, cũng chả ai nhớ gì nhiều, lúc đó là 2-3h sáng, tôi đang ngủ. Nghe tiếng nổ âm âm, rầm rầm, lúc đầu cứ tưởng giặc nó đánh sang (vì gần biên giới, lúc đó cũng chỉ mới thực sự kết thúc chiến tranh biên giới vài năm). Tôi choàng dậy, không nhớ mình đang ngủ ở đâu, vì quá mệt mỏi. Thế là theo bản năng, cứ chạy. Xung quanh toàn đất đá, chạy chán thì nghe thấy tiếng kêu cứu nên quay lại. Quay lại cũng chả biết phải làm gì. Trời thì mưa tầm mưa tã, tối ỏm tối om, vì đang ngủ nằm lăn lóc có biết gì đâu.
Tôi cũng không biết vì sao tôi sống sót. Có thể rông núi bên tôi ngủ nó không sạt hết. Sáng ra thì thấy thật kinh hoàng. Dân mình đào quặng ở cái đồi cao Kép Ky làm sụp chân của núi đi. Lại thêm: trên ngọn quả đồi Kép Ky là cái sái (đất đá thải ra) của công nhân Nhà máy Gang thép bỏ lại trong quá trình khai thác đó. Quả đồi (núi) vốn bị đất đá chưa hoàn thổ đè nặng. Quặng tặc chúng tôi lại đào rỗng chân của nó nữa, nên khi mưa nhiều nó mới sụt tất cả. Hàng nghìn hàng triệu tấn đất đá xuống khe. Xuống chân núi, cơn lốc đất đá bùn nhão đó băng qua khe thì theo quán tính nó bị đẩy ngược lên, nó hót tất cả rông núi bên cạnh lên trời nốt. Cơn lũ bùn đất đã cuốn tất cả những người sống ở hai quả đồi đi và giết chết họ.
Giờ thì anh biết vì sao anh sống sót rồi chứ?
Tôi nói thật, dọc lán của tôi từ đây ra khoảng 100m, chỉ còn mỗi 2 thằng bọn tôi còn sống thôi (hai người đều ở phường Cam Giá). Vì nó quét qua quả đồi chúng tôi, nhưng nó chừa lại một cái góc nhỏ ấy. Chứ hoảng 15, 17 cái lán ở gần tôi, “bão bùn” nó hót hết. Chết cả.
Anh có tham gia tìm kiếm xác các “đồng nghiệp” sau đó chứ?
Lần đấy, lúc sống sót, tôi vẫn nhớ là: chỗ này bạn tao nằm, mai phải đào lên kẻo thương nó lắm, cùng dân nghèo đói khổ chui vào lòng núi kiếm quặng với nhau. Nhưng đào thế nào được, cả “tỷ” mét khối đất đá. Ụp một cái, đảo lộn tất cả. Cái thằng ở trên nó bay xuống dưới khe này, cái thằng ở dưới khe nó bay lên trên đỉnh núi. Tôi tìm đến chỗ lán mấy thằng bạn tôi nằm, khi lực lượng công an quân đội đào, thì không thấy người đâu, thấy đúng cái điếu hút thuốc lào, ít lạc, ít cá khô, gạo…
Nếu hôm đó mà là dịp nông nhàn, người phường này và các xã phường khác ở nhiều tỉnh kéo đến, thì số nạn nhân phải vài nghìn, anh có nghĩ vậy không?
Tôi có nghe. Mọi người vẫn bảo, trong cái rủi có cái may, nếu vài ngày nữa Kép Ky mới sạt thì “bọn nó” kéo lên nhiều – hậu quả là sẽ chết nhiều người hơn nữa. Tôi nghĩ không hẳn thế. Bởi người đào quặng dù có kéo lên nhiều thì họ cũng không được ngủ trong khe suối, trong khu vực chân bãi quặng gần nguồn nước, gần đường đi lại. Bởi hết chỗ rồi, họ là lính mới phải lên đồi cao bên cạnh mà ở. Ở bên đó thì lại không chết.
         Khi xảy ra thảm họa, anh đã lên lán trại được bao nhiêu ngày rồi?
Tôi lên được khoảng 1 tuần. Cũng có chuyện may rủi rủi may rất lạ này nữa: hôm đấy có mấy thằng bạn mình đi hút thuốc phiện, bị công an bắt giữ mãi chả thả, đúng hôm đó công an người ta lại thương tình… thả về. Về đến lán được vài tiếng, thì lở núi chết luôn. Số tôi may, nếu mình nằm trong lán thì cũng chết như mọi người từ 22 năm trước. Thú thật số mình với số thằng bạn sống sót kia là cực đỏ. Thế này nhé, hôm đấy mưa, bọn tôi cũng bán được ít quặng đút túi khá nhiều tiền. Ăn uống, thằng kia còn trêu “ở nhà tao bán hết vợ con rồi, ăn uống tẹt ga đi”. Cả lán có 6 thằng, 2 thằng mới lên nữa là có 8. Bọn thằng Toàn H. (người cùng sống sót) lên sau, có áo mưa, chưa làm lán nên nó nằm tạm ở một phiến đá rồi quây áo mưa tàm tạm đấy, 2 lán cách nhau một đoạn khá xa. Nó quây kín bưng như cái nhà, có độc cửa vào thôi. Lán mình có 8 thằng, vốn đã chật lại không quây che mưa nên nó rủ sang ngủ với nó. Tôi sang đó, chỉ có độc một cái quần đùi với áo lót, còn quần áo vứt hết ở lán bên này rồi. Đêm ngủ, có lúc tỉnh, có lúc chỉ chập chờn do mưa hắt nhiều. Đêm thấy thế nào 2 thằng bị ngã rơi vào một cái hố bùn ở rìa “giường đá”, thế đâm ra không ngủ lại được nữa, hai thằng ngồi tâm sự. Lúc bắt đầu có hiện tượng nổ ầm ĩ trong lòng đất, tôi và nó còn hô nhau ối ối cái gì đấy. Cuối cùng, chỉ “ầm” phát là xong. Tôi chạy ngược lên đồi, chân giẵm vào rất nhiều gai mà vẫn không dám ngừng lại. Chạy được 1 lúc cứ thấy im im, thấy bọn ở dưới hô cứu, trời tối om,vẫn còn lâm thâm mưa, đất đá tổng hợp, bùn chẳng ra bùn, khô chẳng ra khô.
Cơ thể họ bị găm trong núi, chỉ hai cái chân thò ra giãy chết như con nhái
Khi anh quay lại, có nhìn thấy xác ai trong số những người cùng lán với anh suốt 1 tuần kia không?
Tôi quay lại cái đường lán của mình, chỉ còn là đống bùn đất, chỉ dám đoán chắc là lán ấy của mình nằm. Tôi vấp vào 2 cái đùi, 2 cái chân thò ra, sờ vào thấy giật giật như đập con ngóe vừa bị đập. Họ còn đang giãy chết, dù chỉ hai cái chân thò ra, cơ thể họ bị găm trong núi không sao kéo ra được. Tôi bèn chạy lên gọi bọn trên đồi xuống để bới lên. Có 1 thằng quê ở đâu tên là gì tôi không nhớ, khi bới được xong nó sống, quanh đi quẩn lại nó chạy đi đâu mất hút. Một thằng tên là Hùng Thại bị đất đá ngập đến ngang ngực như bị chôn sống mà lúc bới lên nó vẫn còn sống, còn thở được. Nhiều thằng nó tự moi lên, chả cần thằng nào bới cả. Số sống sót ít lắm, những người bị cuốn theo đất đá thì hầu như không ai còn sống.
Sau vụ lở núi ấy, mất bao lâu để anh trở lại được cuộc sống bình thường?
Sau đấy về quê, phải nói thật là cả mấy tháng sau tôi vẫn giật mình sợ hãi, mất ngủ liên miên. Hàng xóm bạn bè cứ hỏi, hỏi tỉ mỉ, mà thần hồn nát thần tính thành ra tôi cuống như lên cơn tâm thần. Tôi cứ lẩm bẩm: “chết hết cả”.
Lúc ở Trà Lĩnh ra thị xã Cao Bằng. Tiền thì thằng kia nó cầm, nó chết rồi biết nó nằm chỗ nào mà bới tìm. Về là cứ dặt dẹo bắt xe, đi ra đến huyện Trà Lĩnh, dân thương quá khoác cho được mảnh áo, dúi cho củ sắn, đi về thị xã Cao Bằng ăn cơm tạm bợ, bắt mấy chuyến xe khách ọp ẹp mới mò được về quê Thái Nguyên. Đợt đấy về còn say chuối gần chết, đói quá, bấy giờ xin được đâu một nải, cứ là nằm bóc ra mà ăn, ăn chuối rừng thay cơm nó mới say. Về đến nhà vẫn chưa dám tin là mình còn sống. Thời gian trôi qua có lâu lắm đâu, cái hồi đó mình đã trưởng thành rồi, nên làm sao mà quên được chi tiết nào. Thi thoảng ở quê, anh em đi ăn cỗ gặp nhau, hay lúc đi uống bia, 3 thằng sống sót vẫn hay nói chuyện về hồi ở Kép Ky kinh khủng ấy. Nói thật đến giờ, tôi đếch hiểu tại sao mình lại sống được sót được!

Chuyện chưa kể quanh các vụ thảm sát và những nấm mồ tập thể ở Việt Nam

10 tháng 7 2014

Giữ gì sự trong sáng của tiếng Việt - Không “đặt tên” Việt cho các danh từ Trung Quốc!

Dù không phải là kẻ chuyên môn trong ngành khoa học xã hội, nhưng vì bực mình với những kiểu phá hoại sự trong sáng của tiếng Việt lên Khoằm có sưu tầm loạt bài "Giữ gì sự trong sáng của tiếng Việt" trong đó có "Giữ gì sự trong sáng của tiếng Việt - TỪ HÁN VIỆT", bữa bay qua nhà bác Giao (nhà chuyên môn trong ngành khoa học xã hội), thấy có bài này, lại bê về đây cất làm "tư liệu" (tài liệu sưu tầm mới đúng ;) )

Từ đây trở xuống là chôm từ nhà bác Giao.


Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách

09/07/2014


Mượn lời bà chúa thơ Nôm, nhắn rằng: đã ngọng, thì đừng làm dáng kiểu "ấy cái uông" nữa !

Hôm trước, giật mình với một trí thức Việt kiều ở nước ngoài trong vấn đề công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, thì hôm nay lại phát hoảng với một trí thức đang ở trong nước lảm nhảm về tiếng Việt (xem bài ở dưới).

Trí thức Việt mình, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài, về căn tính gốc gác, tựa như bị lỗi ngay ở phần gen. Rất lạ. Cứ lấn sân mà gậy múa vườn hoang, hay làm nhà làm nhàm đến rờm cả tai.

Ai đời, ngọng đến thề này mà còn bàn chuyện ngôn ngữ với cả tiếng Việt. Nguyên văn: "Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu tượng hình, tượng thanh, giàu cung bậc tình cảm". Hay lại như, vẫn nguyên văn: "Đã qua rồi thời kỳ chữ Quốc ngữ nước ta phải mượn Hán-Nôm để phiên âm qua tiếng Việt". Chịu, hoàn toàn chịu, không thể hiểu nổi ý tưởng siêu phàm.

Sao không kêu gọi vứt bỏ hết từ Hán Việt trong tiếng Việt đi, để chỉ còn cái "tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu tượng hình, tượng thanh, giàu cung bậc tình cảm". 

Nếu vứt bỏ được, thì ông Lê Duẩn hẳn đã lệnh cho các nhà ngôn ngữ học đưa luôn một câu nào đó với hàm ý như vậy vào thẳng hiến pháp rồi.

Cụ thể hơn đọc ở dưới.


---

LƯU TƯ LIỆU



Không “đặt tên” Việt cho các danh từ Trung Quốc !

TS Trần Đình Bá – Hội Khoa học kinh tế Việt Nam

http://boxitvn.blogspot.jp/2014/07/khong-at-ten-viet-cho-cac-danh-tu-trung.html
Ngày 1/5/2014 đến nay, dàn khoan cướp biển khổng lồ mang tên khai sinh “Haiyang Shiyou 981” mà truyền thông nước ta gọi là “Hải Dương 981” viết tắt là HD 981, còn theo tiếng Anh là CNOOC 981. Như vậy giữa “Haiyang Shiyou 981”, “HD981” và “CNOOC 981” là những số hiệu hoàn toàn khác nhau, vì sao có chuyện đó, và làm sao để quốc tế thấu rõ điều này?!
Đừng thấy người “sang” bắt quàng làm “họ”!
Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu tượng hình, tượng thanh, giàu cung bậc tình cảm. Đã từ lâu tên Nước, tên Thủ đô, thành phố, tỉnh lỵ, tên các địa danh núi, sông, biển, đảo cho đến tên người của Trung Quốc hiện đang được phiên âm theo một quy tắc riêng một cách mỹ miều ưu ái đặc biệt làm cho người nước ngoài ngộ nhận, gây bất lợi cho phía Việt Nam trong quan hệ quốc tế và đấu tranh pháp lý bảo vệ chủ quyền.
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa /中华 ; phiên âm là Zhonghua. Tiếng Anh gọi là China, tiếng Nga gọi là Kytai, tiếng Nhật gọi là Chuka, tiếng Triều Tiên gọi là Junghwa, Chunghwa, tiếng Indonesia gọi là Tionghua, còn VN gọi là “Trung Quốc”. Thực tế với tên gọi “Trung Quốc” đã không phân biệt được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với chính thể tại Đài Loan là Trung Hoa Dân Quốc. Thủ đô là Beijing mà chúng ta lại cứ quen gọi là “Bắc Kinh”, thành phố như Shanghai thì gọi là “Thượng Hải”, tỉnh Guangxi thì gọi là “Quảng Tây”, rồi “Quảng Đông” … cứ như một tỉnh ở xứ “Quảng” miền Trung của VN ta vậy!
Đảo Hainan thì gọi là “Hải Nam”, đảo Taiwan thì gọi là “Đài Loan”, đảo Jinmenn thì gọi là “Kim Môn”, đảo Mazu Liedao thì gọi là “Mã Tổ”Sông Chang Jiang thì gọi là “Trường Giang” trùng với tên của một con sông ở Quảng Nam, nếu họ trâng tráo bịa đặt thì họ nói sông đó là của họ thì sao!?
Với các gọi như thế, “người ta” trịch thượng cho mình là “kẻ cả” để coi thường rằng “Thấy người sang bắt quàng làm họ” thì làm sao!? Điều đáng nói là trong tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo, họ đã lợi dụng cách gọi “hữu nghị” một số địa danh thuộc chủ quyền của VN để vơ vào làm của mình hoặc đánh lừa công luận quốc tế.
Tiếng Việt trong các văn bản, sách vở đều gắn họ tên của nhiều nhân vật lịch sử, nhân vật chính khách của họ với những họ tên mỹ miều có dấu, có họ tên chữ lót hẳn hoi, ví dụ là Tào Tháo, Lưu Bị, Hàn Phức, Trương Như, Tôn Quyền, Vương Nguyên Cơ… hiện nay thì có Dương Khiết Trì, Hoa Xuân Oánh, Hồng Lỗi, Vương Quán Trung, Phó Oánh, La Viện, Bạc Lai Hy, Lưu Chí Quần, Từ Tài Hậu… đều là những cái tên rất VN vì có họ là Dương, Vũ, Lưu, Trần, Hoàng, Lâm, Đặng… Tên, rồi đến cả chữ lót cũng rất giống văn hóa VN ta!
Về khảo cổ học, VN không có ràng buộc họ hàng với nước láng giềng vì nước ta lưng tựa vào Trường Sơn, nằm ven biển Đông với các lưu vực sông Hồng, Sông Mã, Sông Lam, Sông Gianh… đều đánh dấu có nền văn minh lúa nước của người Việt cổ là một trong những chiếc nôi của loài người cách đây hàng ngàn năm. Về nhân chủng học, người VN không có huyết thống hay sắc tộc với những nước láng giềng. Từ thể hình, gương mặt, mi mắt, giọng nói đều khác biệt… Người Việt cổ có tiếng nói và chữ viết riêng biệt, song đã mất đi ký tự, nên trong thời kì ngàn năm Bắc thuộc đã phải dùng ký tự Hán để phiên âm qua chữ Nôm cho tiếng Việt. Qua thời kỳ Pháp, đã có chữ Quốc ngữ với các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, ô, ơ, ê... Tiếng Việt là thứ tiếng lâu đời của người Việt cổ tồn tại cho đến ngày nay khác hẳn với tiếng Hán hoàn toàn. Tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ thuần Việt của “Nam Quốc Sơn Hà” từ thời Vua Hùng dựng nước, Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, tuyên ngôn của Lý Thường Kiệt, Đại cáo bình Ngô, Hịch tướng sỹ, Tuyên ngôn Độc lập 1945 và nay đã trở thành ngôn ngữ chính thống của Việt Nam thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Tiếng Việt vinh dự có tên trong danh mục dịch thuật trực tuyến translate.google của 80 nước, bình đẳng với tiếng UK, France, USA, Rossiya, Germania, Italia…
Phát âm tên, họ người Trung Quốc khác với ta, song khi phiên âm thì chúng ta lại gắn họ tên chữ lót giống như người Việt chúng ta để dễ đọc, để dễ nhớ …
Công bằng mà nói các nước có ký tự tượng hình giống Trung Quốc như Taiwan (ta gọi là Đài Loan), Japan (Nhật Bản), Korea (Triều Tiên)… nhưng khi phiên âm ra tiếng Việt lại khác nhau hoàn toàn, ví dụ về tên người Korea thì Lee Young Ae, Kim Soo Hyun, Taiwan thì Song Hye Kyo, Japan thì Keiko Matsuzaka…., tên thủ đô các nước đó là Tokyo, Seun… đâu có dấu!
Danh từ của các nước ASEAN và các nước Laos, Cambodia cũng được ta theo tập quán quốc tế như Kuala Lumpur, Singapore, Phnom Penh, Vientiane…, họ tên người cũng khác hẵn.
Không thể lấy Tiếng Việt đánh đổi “ hữu nghị” viễn vông!
Đã qua rồi thời kỳ chữ Quốc ngữ nước ta phải mượn Hán-Nôm để phiên âm qua tiếng Việt. Riêng về tên người và tên địa danh của ta là thuần Việt. Tên - Họ của 64 dân tộc ở VN được bảo tồn lưu giữ, các địa danh trong nước đều được viết bằng tiếng Việt với những cái tên rất đẹp. Quần đảo thiêng liêng thuộc máu thịt Tổ quốc mang tên rất đẹp Hoàng Sa có tên là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng với vô số hòn đảo, hòn đá, cồn đụn, bãi cạn lúc nổi lúc chìm. Quần đảo Hoàng Sa được chia làm hai nhóm đảo là nhóm đảo An Vĩnh và nhóm đảo Lưỡi Liềm. Có tài liệu chia quần đảo làm ba phần, trong đó ngoài hai nhóm trên thì còn có một nhóm nữa gọi là nhóm Linh Côn và các địa danh thuần Việt như bãi đá Bắcbãi Ốc Tai Voiđảo Tri Tônbãi Gò Nổi… mà không trộn lẫn được với China trong các tài liệu lịch sử của họ.
Trong cuốn sách De la Cochinchine, Tableau (Taberd) viết: "Beaucoup plus loin de la côte, en face de Hué, est l’archipel des Paracels ou de Kat-vang, rempli d’écueils. Enfin, les redoutables bancs de Macclesfield se trouvent à l’est des Paracels" (Xa hơn kể từ phía bờ biển, ở phía trước của Huế là Paracels hoặc Kat-vang, đầy đá ngầm. Cuối cùng, bãi ngầm Macclesfield đáng sợ nằm ở phía đông của Paracels).
Trên tất cả các bản đồ cổ do các nước châu Âu xuất bản đề có chữ la-tinh “Bai kat vang”, đó chính là Bãi cát vàng – tên của quần đảo Hàng Sa thuộc chủ quyền VN. Phiên âm đó đúng nghĩa, đúng tên gọi của chúng ta. Vì vậy, sử dụng tiếng Việt chuẩn xác trong quan hệ quốc tế cũng là điều rất quan trọng trong đấu tranh bằng biện pháp hòa bình và đấu tranh pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt là biển đảo Tổ quốc.
clip_image001
Bản đồ cổ Châu Âu thể hiện chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam.
“Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viễn vông”, vì vậy cũng không vì tình hữu nghị mà bỏ qua tập quán quốc tế về ngôn ngữ giao tiếp trong cách xưng hô địa danh quốc gia, tên núi tên sông tên đảo, tên người mang trọng trách thiêng liêng phân định rạch ròi chủ quyền quốc gia. Đặc biệt là khi sử dụng ngôn từ trong các văn bản khởi kiện hành vi độc chiếm biển Đông ra các toà Quốc tế!
Vì vậy không nên tuỳ tiện dùng tiếng Việt có dấu khi phiên âm các địa danh, tên người của nước ngoài, dù bất cứ nước nào có thể gây bất lợi cho chúng ta trong đấu tranh pháp lý bảo vệ chủ quyền. Vì vậy trong các văn bản quốc tế về ngoại giao, thương mại, kinh tế, an ninh – quốc phòng hay trong cách thể hiện trên các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng như vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, báo chí, ấn phẩm đều nên có sự thống nhất cách thể hiện danh dự quốc thể. Không để ai lợi dụng tình “hữu nghị” trong để lợi dụng hoặc đánh lừa dư luận quốc tế.
Sự kiện dàn khoan khổng lồ “Haiyang Shiyou 981” mà truyền thông nước ta gọi là “Hải Dương 981” viết tắt là HD 981, còn theo tiếng Anh là CNOOC 981. Như vậy giữa “Haiyang Shiyou 981”, “ HD981” và “CNOOC 981” vào biển Đông trái phép cùng việc công bố đường lưỡi bò 9 đoạn đang phơi bày toàn bộ dã tâm bành trướng, hung hăng, tàn ác bất chấp đạo lý dưới những chiêu bài “hòa bình hữu nghị”, đặc biệt là “16 chữ vàng” và quan hệ “bốn tốt”. Đây cũng là lúc người VN chúng ta cần phải có lòng tự tôn dân tộc trong cách nói, cách viết, dùng đúng tên theo chuẩn mực quốc tế để vạch mặt chỉ tên trước công luận quốc tế đồng thời cảnh giác với những âm mưu lợi dụng ngôn từ hòng xâm phạm chủ quyền của ta.
Đó là cách để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cũng là bảo vệ nền văn hóa Việt Nam!
Tiếng Việt mang giá trị văn hóa phi vật thể vô giá. Đây cũng là trách nhiệm làm trong sáng tiếng Việt và bảo vệ vốn ngôn ngữ độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ với giá trị cao quý của chúng ta!
T.Đ.B.
Tác giả gửi BVN