21 tháng 3 2013

Người sót lại của rừng cười


Người sót lại của rừng cười

Truyện ngắn
Võ Thị Hảo

Một kho quân nhu và bốn cô gái náu mình dưới tán cây rừng Trường Sơn. Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là một dúm xơ xác. Dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc của họ.
Hôm đón Thảo – cô gái thứ năm về, bốn người cũ mừng rỡ khi nhìn thấy mái tóc óng mượt dài chấm gót của cô. Họ cưng Thảo như vàng, nhất trí rằng không thể để rừng cướp mất mái tóc ấy của họ. Nhưng rừng mạnh hơn.
Hai tháng sau, bất chấp đủ loại lá thơm mà đồng đội đã mang về cho gội, tóc Thảo chỉ còn là một túm sợi mỏng mảnh xơ xác.
Cả bố cô gái ôm nhau khóc cay đắng, còn Thảo thì cười: “Các chị khóc làm gì. Đằng nào thì em cũng đã có người yêu. Người yêu em chung thuỷ lắm nhá. Em thế này chứ giá như có bị trọc đầu thì anh ấy vẫn yêu cơ mà.
Và thế là các cô gái nín khóc, tròn xoe mắt nghe Thảo kể về mối tình của cô với chàng sinh viên Văn khoa Hà Nội. Người con trai ấy được khúc xạ qua bao lớp bụi và khói, cuối cùng đến lớp sương mù lung linh huyền ảo của ký ức Thảo, hiện lên như một chàng hoàng tử hoà hiệp thuỷ chung.
Cả bốn cô gái đều đem lòng si mê chàng trai ấy, nhưng không phải cho họ, mà là cho Thảo. Cái sự si mê người khác ấy không hy vọng cắt nghĩa nổi trong thời bình, dưới những ánh đèn màu huy hoàng, mà chỉ những ai đã từng qua chiến tranh, trải qua nỗi cô đơn đặc quánh, qua cảm giác đang cựa quậy giữa chốn giáp ranh, giữa địa ngục và trần gian mới hiểu nổi.
Họ ở đây đã qua ba mùa mưa rầu rĩ và đang ở giữa mùa khô thứ ba bỏng rát. Kho quân nhu im lìm nép trong vòng tay ma quái của rừng sâu. Thỉnh thoảng mới có một đoàn quân tạt qua lĩnh quân trang quân dụng rồi vội vàng đi. Họ đến mang theo những câu bông đùa suồng sã, dăm ba cái cấu véo của những người đàn ông sống xa thế giới người đàn lâu ngày có xu hướng trở nên hoang dã. Thảng hoặc cũng có những người lặng lẽ chiêm ngưỡng họ như những nữ hoàng, chăng vào lòng những cô gái bé nhỏ chút hy vọng mơ màng vương vấn như tơ nhện rồi thoắt biến cho các co gái càng thấm thía nỗi cô đơn.
Mặt trận đã lùi về gần kho. Năm cô gái sống trong lo âu mà rừng thì cứ lầm lì trải đầy thảm lá rụng. ánh đỏ của thảm lá hắt lên cả bầu trời ánh ỏi, khiến cho đêm của họ cũng mang màu đỏ.
Một buổi trưa có ba người lính đến lĩnh quân trang. Cách kho một quãng, họ bỗng chùn chân vì vẳng tiếng cười man dại. Nghe ngóng một chốc, ba người lính bước tiếp, thoáng nhớ lại câu chuyện hoang đường về bữa tiệc của các mụ phù thuỷ trong rừng. Gần đến chòi canh kho, bỗng “soạt”rồi “huỵch” – hình như có con vượn trắng vừa nhảy từ chòi canh xuống và lẩn vào đám lá. Ba người tản ra, một người chui vào bụi đuổi theo con vượn. Anh ta đang ngơ ngác nhìn ngược nhìn xuôi thì “phốc” – một đôi tay từ đâu đã ghì chặt lấy cổ và sau gáy anh vang lên tiếng cười man dại lúc nãy. Vừa cố sức gỡ ra, vừa ngoái lại, anh kinh hoàng thấy con vượn lúc nãy đang ôm chặt lấy anh. Nhưng anh còn bàng hoàng gấp đôi khi nhận ra rằng “con vượn trắng” ấy lại là một người con gái hoàn toàn trần truồng tóc xoã, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh khách.
Anh ta líu cả lưỡi, gọi không ra tiếng: “Hiên ơi! Hiên”. Một người lính cao cao, trông già dặn hơn, chạy vội đến. Thấy anh bạn mình đang đứng như trời trồng trong tay một người con gái loã lồ thì vừa sợ vừa buồn cười. Anh đã từng nghe nói đến chứng bệnh mà các cô gái thường mắc phải trong những trường hợp tương tự. Anh bước tới, ra hiểu cho anh bạn đừng cố sức gỡ tay cô gái ra làm gì mà cứ dịu dàng vỗ về an ủi, một chốc, cô ta sẽ dịu lại. Rồi anh nhảy ba bậc một lên chòi canh kho.
Trên sàn chòi khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc, và xé quần áo. Còn một cô khác trẻ hơn đang chạy tới chạy lui ôm đầu tuyệt vọng. Cô chưa bị lây, nhưng với cung cách này, chẳng bao lâu, cô ta sẽ cũng không thoát khỏi.
Đã dạn dày với cảnh chết chóc, mà giờ đây, khi đứng trước thân thể loã lồ căng đầy sức sống của những người con gái, Hiên run bắn. Người đàn ông đã ngủ quên trong anh giờ đây vùng vằng giẫy đạp. Trong phút chốc, Hiên muốn buông trôi, muốn quên hết.
Phải một lúc sau, Hiên mới trấn tĩnh được. Anh nhớ lại cách chữa bệnh này. Trước đây, hồi còn là một cậu bé, anh đã nghe kể lào phào bên tai. Hiên khoá chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng, đột ngột lao tới đạp mạnh vào cửa chòi, gân cổ quát lớn:
- Mấy con Việt cộng kia! Kho đâu? Chỉ mau, không tao bắn vỡ sọ!
Như có phép lạ, các cô gái đang cười sằng sặc bỗng im bặt, bàng hoàng rồi sực tỉnh, vơ ngay lấy súng, nhảy vội xuống đất chĩa vào Hiễn định bóp cò. May sao, người bạn đứng trong lùm cây vội la lên: “Đừng bắn! Quân mình đó!”. Khi ấy các cô gái mới nhìn rõ ngôi sao trên mũ và bộ quân phục anh đang mặc. Họ từ từ bỏ súng xuống, bất chợt nhìn nhau rồi cúi xuống, thấy mình không một mảnh vải che thân trước mặt ba người đàn ông xa lạ. Các cô kinh hoàng chạy biến vào rừng, chúi vào gốc cây khóc không ra tiếng. Cả Thảo – cô gái duy nhất không mắc bệnh cười, cũng chạy trốn. Cô thấy thương các chị đến quặn ruột. Cô buồn tủi, tiếc cho lòng trinh bạch con gái. Đến tôi, năm chị em mới dám dìu nhau về, nghe ngóng động tĩnh mãi mới lần lên chòi.
Ba người lính đã ra đi. Họ cài lại mảnh giấy xé vội vàng từ một cuốn sổ nhỏ:
“Kính chào các đồng chí! Chúng tôi sẽ lấy quân trang ở kho khác và gọi bác sĩ đến. Các đồng chí thân yêu! Chiến tranh mà. Mong tha lỗi! Vĩnh biệt”.
Vài ngày sau, cô y tá đến, cho các cô gái uống thứ thuốc gì đó màu trăng trắng. Không thuốc thì cũng đã khỏi. Nhưng các cô gái trầm lặng hẳn và già thêm hai mươi tuổi.
Cánh rừng này được mang tên “Rừng cười” từ đó. Từ đây, người ta không gọi tên kho ấy theo ký hiệu quy định nữa, mà bảo: “Hôm nay, tôi về kho Rừng Cười lấy quân trang”.
Vài tháng sau, kho Rừng Cười nhận được lệnh chuyển. Tiếng súng của những trận đánh nghe đã gần lắm. Chưa kịp đi thì địch đã đưa cả một đại đội đến đánh chiếm chòi và năm cô gái nhỏ. Lúc đó, Thảo đang bị sốt mê man – những trận sốt rét nhập môn cho người ở rừng. Bốn chị kia đã dìu Thảo đi giấu ở một hốc cây kín đáo rồi về cầm súng. Chuyện thần thoại của chiến trường không xảy ả ở đây. Bốn cô gái không chống chọi nổi đã dành những viên đạn cuối cùng cho mình để tránh ô nhục. Tên tuổi họ, lẽ ra phải được in bằng chữ đậm trên trang nhất của các báo như những anh hùng. Nhưng cũng chẳng có gì lạ. Họ nằm lặng lẽ dưới nấm mồ chung do bàn tay yếu ớt của Thảo cố sức đắp sau cơn sốt. Khi cô từ hốc cây tỉnh lại thì địch đã rút.
Đầu Thảo như muốn nổ tung. Cô không khóc nổi. Nhớ lại đêm trước trận đánh, cả năm chị em cùng linh cảm thấy một điều gì khác thường. Đêm oi ả, tù đọng. Mấy chị em nói chuyện bâng quơ rồi một chị đòi Thảo kể về người yêu. Và như mọi lần, Thảo vừa kể bằng chuyện thực vừa bằng hoang tưởng, vẽ lân chàng “hoàng tử”. Ba chị kia mắt sáng ngời lắng nghe như nuốt lấy từng lời. Nhưng Thắm – chị tổ trưởng, trước lúc chui vào màn đã đến vuốt tóc Thảo và bảo: “Thảo ơi! Liệu em có quá yêu người ta không đấy, không hiểu sao, chị bỗng thấy sợ cho em. Em là người duy nhất trong chúng ta đang có hạnh phúc. Mai này, có trở về, dù thế nào, em cũng không được để đàn ông người ta phải thương hại mình nghe!”.
Lúc đó Thảo đã thoáng chút hờn giận chị. Thế mà giờ đây, Thắm và ba đồng đội của cô đã chết trong những tư thế rất khác nhau. Một lưỡi lê cay cú đã đâm nát một bên ngực của Thắm. Trước đây mỗi lúc tắm chung dưới khe, Thảo thường thích ngắm trộm ngực chị Thắm và thầm nghĩ: “Ngực thần Vệ nữ cũng có lẽ chỉ đẹp đến thế là cùng” và ước ao phải chi mình có bộ ngực như thế. Giờ đây Thảo chỉ còn mỗi cách vần các đồng đội của mình xuống huyệt, rải lên bốn thi thể con gái một thảm lá thật dày, rồi lấp đất. Cô trồng lên mộ bốn cây bằng lăng nhỏ, rồi dốc nốt chỗ nước trong bi đông xuống tưới cho cây. Mặt đất khô khan kêu “xèo” một tiếng, bốc hơi ngùn ngụt quẩn vào chân Thảo.
Sau này, khi đang nằm điều dưỡng ở quân y viện, Thảo được biết là Hiên – người đã cứu họ trong cơn điên loạn cũng đã chết trong một trận đánh. Nghe rằng cấp trên đã nêu gương hy sinh anh dũng của anh, đang làm giấy định gửi ra Bắc truy tặng danh hiệu anh hùng thì chính trị viên đọc được những dòng này trong cuốn nhật ký nhàu nát nhét dưới túi ba lô:
… “Sẽ không bao giờ mình quên được những người đã nhìn thấy ở Rừng Cười. Có lẽ cảnh chết chóc còn dễ chịu hơn! Ôi! Thế la sau chín năm ở chiến trường, tôi đã nhìn thấy ở Rừng Cười cái cười méo mó man dại của chiến tranh.
Việc chiến tranh lôi những người phụ nữ vào cuộc chiến thật là khủng khiếp. Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi lâm vào cảnh ấy.
Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế, giữa một khu rừng mênh mông nào đó”.
Vì những dòng này , người ta kết luận rằng Hiên có tư tưởng dao động, sặc mùi tiểu tư sản (anh vốn là sinh viên). Hành động anh hùng của anh chỉ là ngẫu nhiên, bột phát. Chính trị viên nói: “Anh ta không bị kiểm thảo là may rồi”.
Đó là chuyện cũ.
Hai năm sau, Thảo- người sót lại của rừng Cười - đang học năm thứ nhất – Khoa Văn.
Thảo vẫn giữ được những đường nét bẩm sinh. Nhưng đôi mắt cô như mắt của người đang đi trong một giấc mộng dài. Làn da xanh tái vì những cơn sốt rừng. Khuôn mặt chỉ sinh động lên mỗi khi cô cười, mà những nụ cười thường hiếm hoi. Cô thường so đôi vai gầy, nép mình trong góc giường tầng để viết nhật ký. Trong những cuộc đối thoại, cô thường lơ đễnh.
Thảo thường qua đêm với hai loại giấc mơ: một loại giấc mơ thời thơ bé, cô thấy may mắn nhất là nhặt được cặp ba lá, khá nữa là nhặt được trứng vịt đẻ rơi. Còn trong giấc mơ tuổi thanh xuân, cô chỉ thấy tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm, và từ trong đám tóc rối ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi không vỡ. Đến đây, cô hét lên và tỉnh dậy, nắm chặt lấy hai thành giường lạnh buốt.
Trong đêm Thảo nhìn suốt lượt – mười một cô gái đang nằm ngủ. Họ cũng đang trong mơ, nhưng môi cười thanh thản, mặt ửng hồng. Trông họ đáng yêu làm sao. Giấc mơ của họ khác xa với giấc mơ của đồng đội cô hồi còn sống. Thảo thở dài, biết rằng mình thật là quỷnh, thật khó nhập cuộc.
Người yêu – chàng hoàng tử của Thảo – của năm cô gái Rừng Cười – giờ cũng đang học năm cuối, cùng trường. Họ cũng hẹn hò, đưa nhau đi chơi mỗi tối thứ bảy trên con đường trồng ngập phi lao ngập đầy ánh trăng. Thành đã giữ lời thề thốt yêu đương ngày trước. Anh săn sóc Thảo chu đáo, ân cần. Nhưng họ ít có chuyện để nói với nhau. Họ thường im lặng đếm bước, nghe rõ cả tiếng của những con chim ăn đêm về tổ muộn hốt hoảng vẫy đôi cánh nhỏ. Thứ bảy này Thành cũng chờ Thảo ở hành lang để đưa Thảo đi chơi và về đúng chín giờ.
Nhưng mỗi lần gặp nhau, cả hai đều ngượng ngập, như cảm thấy có lỗi, như không còn chuyện gì để nói. Mỗi thứ bảy, Thảo lại vừa mong vừa sợ. Cô không còn thấy lại ánh mắt long lanh vụt sáng mỗi lần Thành gặp cô như ngày xưa.
Thảo thường nhăn mặt mỗi khi nhớ đến lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm xa cách. Khi Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, Thành ra đón, anh ngỡ ngàng đến không thốt nổi một lời khi vừa nhìn thấy cô.
Đôi mắt anh lướt qua thân hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lõng, qua làn mỗi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác của cô rồi mới kêu lên: “Ô! Em”. Lúc đó Thảo cảm thấy như vừa có cơn sóng lạnh buốt tràn qua ngực. Thoắt chốc, mắt cô đong đầy nước tủi hờn. Thành giật mình chợt tỉnh. Để chuộc lỗi, anh tỏ ra vồn vã hơi quá đáng. Điều đó càng làm Thảo chạnh buồn. Cô nhìn sâu vào đáy mắt Thành:
“Anh không nghĩ rằng em sẽ như thế này, phải không?”
“Anh không quan tâm đến hình thức. Chỉ cần em trở về”.
“Không đúng. Em biết mình. Hôm nay, anh thật lòng mừng vì em đã trở về, nhưng ngày mai, anh sẽ thấy rằng yêu một người như em là hy sinh quá lớn”. 
“Đừng nói thế em. Anh đã chờ em ròng rã mấy năm!”.
“Đúng thế, nhưng giơ đây em giải thoát cho anh khỏi lòng chung thủy của anh”.
“Đừng ác khẩu thế cô bé. Chưa chi chúng ta đã cãi nhau rồi. Lời đầu tiên em nói với anh sau những năm chờ đợi là như thế nào?”
Thành độ lượng và nắm tay Thảo. Lòng cô dịu hẳn. “Có lẽ mình trở nên cứng nhắc và hiếu chiến sau mấy năm ở chiến trường!…”
Thời gian thấm thoát đã nửa năm với những tối thứ bảy đến đều đặn như máy.
Một hôm, Thảo có việc phải tìm đến tận lớp Thành để gặp anh, tranh thủ mấy phút nghỉ giữa giờ. Đang đứng nói chuyện với Thảo ngoài hành lang, Thành bất giác ngừng bặt, mặt tái đi rồi đỏ ửng. Thảo ngạc nhiên quay lại, nhìn thấy từ phía sau lưng mình một cô gái có đôi môi mòng mọng như nũng nịu, với làn da trắng hồng, tươi mắt, trẻ trung đang đi đến. Cô nhìn thành qua vai Thảo bằng ánh mắt say mê ngưỡng mộ hồn nhiên như trẻ thơ. Cô gái ấy học cùng lớp Thành. Cô đi vào lớp rồi, Thành mới sực nhớ ra, nối lại câu chuyện cũ. Nhưng bàn tay rất đẹp đặt lên lan can của anh thoáng run rẩy. Bực mình vì sự yếu đuối của mình, anh nắm tay đấm nhẹ vào thành lan can. Đôi mắt anh ngước nhìn trộm Thảo, vẻ có lỗi.
Thảo chợt hiểu. Cô nhanh chóng kết thúc câu chuyện ra về. Thảo tủi thân và thấy thương Thành. Rõ ràng là hai người kia thầm yêu nhau. Họ đẹp đôi quá và lại ở gần nhau, làm sao không yêu được!
Thảo la vật cản. Thành gắn bó với cô chỉ bằng nghĩa chứ không có tình. “Vậy mà nhiều lần mình bảo anh ấy đi yêu người khác, anh ấy không chịu. Anh ấy không nỡ. Rồi đây, lấy nhau, cuộc sống sẽ hết sức tẻ nhạt…”. Thảo chợt nhớ lại lời dặn tưởng như vu vơ của Thắm đêm trước khi chị bị giết.
Sau nghỉ học kỳ, Thảo từ quê lên, bảo Thành rằng cô xin nói chuyện nghiêm túc với anh, rằng hai người không hợp nhau, rằng cô đã có người yêu khác, mong anh đừng nghĩ tới cô nữa. Thành nghe những lời Thảo nói vẻ thờ ơ, anh biết cô nói dối. Nhưng vài tháng sau, thấy cứ mỗi chiều thứ bảy, Thảo lại lên văn phòng khoa nhận về một phong thư dày cộm với dòng chữ nắn nót đề ngoài: “Thương yêu gửi em Mạc Thị Thảo”.
Thành dần tin là thật. Anh thầm trách người con gái phụ bạc, nhưng đồng thời thấy nhẹ nhõm như vừa cất được gánh nặng.
Một tháng sau anh chính thức ngỏ lời với cô gái cùng lớp và sau hai tháng, họ cưới vào dịp nghỉ hè, để sắp sửa ra trường.
Đêm tân hôn của Thành, Thảo chong ngọn đèn dầu trên giường nhỏ, không dám bật điện, sợ làm mấy cô gái cùng phòng khó ngủ. Từ khi Thảo nhận được những lá thư vào thứ bảy, các cô gái đã lần lần xa lánh cô. Họ coi Thảo như một ổ dịch.
Thảo tẩn mẩn giở những lá thư ra đếm… Có mười sáu lá tất cả. Cả mười sáu lá đều chưa hề bóc… Bốn tháng trôi qua. Đã bốn tháng, cô bị cả khoa chê trách dè bỉu về tội phụ tình. Mà phụ ai chứ! Nỡ phụ bạc một chàng trai đẹp và chung thủy đến thế!… Thảo tần ngần bóc lá thư đầu tiên.
Thảo nghĩ đến Thành. Chắc giờ đây, lòng thành thản và ngập tràn hạnh phúc, anh đang mê đắm trong vòng tay người vợ mới cưới. Ngày ở Rừng Cười cô đã khao khát đến cháy lòng ngày ấy! Cái ngày ấy là một trong những đốm lửa sáng nhất giục giã cô cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang dã chốn rừng sâu.
Cái ngày ấy…! Thảo thấy ngọn đèn dầu nhoè dần, và đung đưa trước mắt cô một quả cà chua chín đỏ lịm hình trái tim chập chờn, chập chờn. Thảo đưa tay bắt, hình như nước cà chua vỡ ra, chạy dọc theo cánh tay và tận ngực. Thứ nước đỏ nhờn nhợt như máu loãng. Không hiểu sao cô thấy buồn buồn ở nách như bị ai cù, cô bật lên tiếng cười. Trong một trạng thái gần như vô thức, Thảo vung tay, mười sáu phong thư dày cộp vung vãi khắp giường.
Đang ngủ, cô gái nằm cạnh Thảo bỗng mơ thấy ma cười khanh khách. Cô choàng tỉnh, tự giật giật tóc, vẫn nghe tiếng cười và nhìn thấy bóng đèn dầu chập chờn trên tường. Cô sợ hãi chồm dậy, thấy Thảo đang vừa cười vừa khóc. Cả mười một cô gái trong phòng tỉnh dậy. Họ cho rằng Thảo bị điên. “Esteris đó mà” một cô ra vẻ thành thạo giải thích. Họ xúm lại đưa Thảo xuống trạm xá cấp cứu. Thảo không đi “tôi không điên”. Các cô gái càng sợ. Người giữ chân kẻ giữ tay, lại có các bạn trai giúp sức, họ cõng Thảo xuống trạm xá. Ở đó, người ta ép thảo uống những viên gácđênan màu trắng. Cả ký túc xã huyên náo cả lên, đến lúc Thảo thiu thiu ngủ mới thôi.
Mười một cô gái trở về phòng. Họ định thu dọn vài thứ lặt vặt mang lên trạm xá cho Thảo thì thấy những bì thư nằm vung vãi trên giường. Họ tìm được một phong bì thư đã bóc chỉ thấy vỏn vẻn mấy dòng:
“Từ nay, tôi sẽ viết cho tôi, vào mỗi tối thứ năm, để ngày mai, đạp xe ra bưu điện Ngã Tư Sở bỏ thư và rồi chính tôi lại nhận được nó vào mỗi chiều thứ bảy.
Vô duyên quá! Nhưng không thế, Thành sẽ không yên tâm rời bỏ tôi. Thắm ơi! Em là người sót lại của Rừng Cười, nhưng hạnh phúc chẳng sót lại nơi em!
Thắm và các đồng đội của em! Cứ yên nghỉ ở Rừng Cười! Em không làm cho vong hồn con gái của các chị phải tủi hổ. Em cũng sẽ khiến cho Thành mãi mãi vẫn là chàng hoàng từ hào hiệp của chúng ta”.
Các cô gái khoa Văn vốn nhạy cảm, lờ mờ đoán ra sự việc. Họ khóc khi nhớ lại những tháng qua, họ đã xa lánh và dè bỉu chị Thảo đến thế nào. Trời vừa chợt sáng, họ đã chạy lên gác xép - phòng hạnh phúc của Thành ở tầng trên, báo cho Thành biết.
Nghe tiếng gọi cửa, Thành hơi bực mình, càu nhàu ra mở. Các cô gái không nói gì, dắt tay anh đến bên chiếc giường ngổn ngang mười sáu phong thư. Thành đọc lá thư đầu tiên, rồi lập cập bóc tất cả. Hai phần ba số thư chỉ toàn là giấy trắng. Thành choáng váng như người bước hụt.
Thành tức tốc chạy xuống trạm xá, nhưng Thảo đã đi rồi. Cửa phòng bệnh khép hở. Chiếc giường trải ga trắng in vết lõm thân hình bé nhỏ của Thảo nằm đêm qua, khi cô bị ép uống những viên thuốc an thần màu trắng, khi mọi người yên trí cô đã hóa điên, và nhìn cô bằng ánh mắt chế giễu, lúc đó anh đang tận hưởng thú vui của đêm tân hôn với một cô gái khác.
Thành bước ra hành lang, bước xuống đường. Gió bấc từng cơn thổi lạnh. Lá báng súng vàng vung đầy trời tơ tả như đàn bướm bị bão. Anh vừa đi vừa nhìn thấy chao qua chao lại trước mắt mình người con gái đã bị cuộc đời nghiệt ngã tước đi sạch trơn đêm đêm ngồi viết thư tự gửi mình trước ngọn đèn dầu đỏ quạch. Anh chợt nghĩ đến huyền thoại về loài yến huyết ngoài biển khơi đã nhả từng hạt máu để dệt nên chiếc tổ màu hồng quý giá. Rồi khi sức tàn lực kiệt, chim yến bay vút lên không trung, lao mình vào vách đá nhọn hoắt cho ngực vỡ nát.
Đôi chân lang thang dẫn Thành về bến tàu quen thuộc. Ở đây, đã nhiều lần, bằng những đồng học bổng ít ỏi, anh mua tặng Thảo những quả mận chín đỏ đầy nước chua và chát. Thế mà Thảo đã ăn nó một cách nhiệt thành, cố không nhăn mặt, để cho anh yên lòng đến thế.
Thành hỏi bà bán mận đang ngủ gật, tì cái mũi vào lòng bàn tay để ngủ:
- Bà ơi! Bà có thấy cô gái hay mặc bộ quần áo bộ độ cũ đi qua đây không?
Bà bán mận chợt tỉnh. Bà véo véo mũi cho qua cơn buồn ngủ:
- Không, ờ mà có. Cái cô ngày xưa hay qua đây ăn mận cùng anh chứ gì? Cô ấy xuôi tàu rồi!
Thành cũng xuôi tàu, Thành đi tìm Thảo tận quê, tìm khắp nơi, mà không thấy. Anh về sống với người vợ mới cưới, rồi nhận công tác ở ngay Hà Nội. Cuộc sống trôi đều đều. Nhưng trong óc anh vẫn chớp chới đôi cánh bé nhỏ của loài yến huyết.
***
Năm năm sau, hội trường Tổng Hợp. Những cựu sinh viên từ các miền về đây. Họ tìm về một thời lãng mạn.
Trong bữa tiệc của các cựu sinh viên khoa Ngữ Văn, Thành chọn một góc ngồi cạnh cửa sổ, mặc dù trời đang lạnh.
Biết đâu, sẽ có phép lạ, và Thảo của anh sẽ bất ngờ xuất hiện. Nếu phép lạ đến, cô sẽ hiện ra trước mặt anh với hình dáng ra sao đây? Với một thân hình tàn tạ bơ phờ, mắt mộng du tay cầm cành liễu? Hay bộ quần áo nâu sồng, tay chắp trước ngực: “A di đà Phật”? Hay một bà chủ sang trọng, tay đầy xuyến và nhẫn? Hay một phóng viên đầy tài năng từ Sài Gòn vừa bay ra?
Bữa tiệc ồn ào, huyên náo. Gió qua lại như tiếng chân chạy. Thành vẫn đăm đắm ngóng ra cổng trường. “Rừng Cười ơi! Đã no nê máu và nước mắt, lẽ nào ngươi cướp nốt của ta con chim yến nhỏ nhoi!”.

19 tháng 3 2013

MÀU TÍM HOA SIM

Màu tím hoa sim
HỮU LOAN
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

LỜI TỰ THUẬT CỦA HỮU LOAN: VỀ BÀI THƠ MÀU TÍM HOA SIM
“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … Tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Ở Thanh Hoá, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ‘ Em chào thầy ạ’. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết.
Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một ‘bà cụ non’. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn ; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …
Có lần tôi kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành … Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ … Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý : « mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu » Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi :
– Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi : tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ … Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
– Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế !
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì … tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi … Tôi quay đầu nhìn lại … em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa …
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp …
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ, ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm « soạn kịch bản ».
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là :’yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả’. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay … lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại … Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ : vợ tôi qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi …
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh …
… Tôi về không gặp nàng …
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá … Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 hiện tại đang « ở nhà trông vườn » ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ « quê đẻ của tôi đấy » thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi’ hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi’. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng …
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 1 tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào ? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc ?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm !
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần 500 mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no … Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa !
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi « tái xuất giang hồ » sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán…”.
Nhà Thơ HỮU LOAN
Trang đầu bản thảo “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan
Trong thi ca Việt Nam, có lẽ bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan là bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất, và có lẽ thành công nhất và cũng giữ được tính bi tráng của bài thơ nhiều nhất là bản “Áo anh sút chỉ đường tà” của nhạc sỹ Phạm Duy.

Ảnh: hcmutrans.edu.v





Dzũng Chinh và Những Đồi Hoa Sim
Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính (một số tài liệu ghi là Nguyễn Văn Chính). Khi sáng tác bản nhạc Những đồi hoa sim, Dzũng Chinh còn đang là sinh viên Luật khoa Sài Gòn. Sau khi bài này nổi tiếng với tiếng hát của “con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung (1961-1962), Dzũng Chinh đi quân dịch vào năm 1965. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, Dzũng Chinh còn phổ một số bài khác như “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh), “Các anh đi” (tác giả Hoàng Trung Thông), v..v…

Có lẽ chán nản với cấp bực trung sĩ, Dzũng Chinh xin học khóa sĩ quan. Khi được điều động về Trà Vinh, nhạc sĩ Trúc Phương viết bài Để trả lời một câu hỏi tặng Dzũng Chinh. Dzũng Chinh tử trận ngày 1/3/1969 với cấp bậc cuối cùng là Thiếu úy. Người bạn của Dzũng Chinh là nhạc sĩ Thanh Sơn nghe tin bạn mình mất có viết bài hát Đọc tin trên báo, thâu vào đĩa nhựa Thiên Thai 45 do Trúc Ly ca.
Ảnh hcmutrans.edu.vn



ĐÔI CHUYỆN BÊN LỀ
Ngày Dzũng Chinh phổ biến bản nhạc này, lúc đó ông đang còn là sinh viên Luật khoa Saigon, với cái tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Bá Chinh. Sau khi bản nhạc nổi tiếng qua tiếng hát của ca sĩ Phương Dung (khoảng 1961-62), ông phải vào lính, khóa mấy Thủ Đức thì tại hạ không nhớ….Tốt nghiệp, ông được điều xuống miền Tây, và trong một chuyến công tác, xe ông bị trúng mìn trên QL 4, chuẩn úy Nguyễn Bá Chinh chết, được đưa về nghĩa trang quân đội Gò Vấp với bia ký là “Cố Thiếu úy Nguyễn Bá Chinh”. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, ông còn nổi tiếng với bản “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh).
Sau khi tàu hỏa Thống Nhất chạy được vài chuyến (1976), thì Hữu Loan đã vào Nam thăm thân nhân trên chuyến tàu này. Khi xuống ga Saigon, ông tình cờ nghe một giọng hát những lời có phần….quen quen. Tìm, thì thấy một người ăn mày….cụt chân (khiếm cước cái bang) đang ôm cây Ghi-ta cũ mèm ngồi ở góc sân ga, đang dạo và hát rất đúng nhịp bài hát của Dzũng Chinh. Hữu Loan ngồi nghe hết bản nhạc, rồi mới gợi chuyện, hỏi người hát rong ấy về bản nhạc và nguyên nhân nào làm anh cụt chân, người kia trả lời “…bị thương ở trận Bình Long anh dũng….”
Hữu Loan ái ngại, và yêu cầu anh kia hát lại, ông ngồi nghe hết bản nhạc rồi đứng dậy, móc hết tiền còn trong túi đưa cho “người nghệ sĩ nghèo”, kèm theo lời cảm ơn và nói cho anh nghe “…Tôi là tác giả bài thơ đó !”
Ông bỏ đi trong sự ngẩn ngơ của người ăn xin…….
Nguồn: http://my.opera.com/diemxuacafe/blog/dzung-chinh

‘Màu tím hoa sim’ do nhạc sỹ Duy Khánh và Trọng Khương phổ nhạc. Ảnh hcmutrans.edu.vn



Màu Tím Hoa Sim do nhạc sỹ Song Ngọc phổ nhạc. Ảnh hcmutrans.edu.vn




Thủ bút của nhà thơ Hữu Loan, viết lại bài Màu Tím Hoa Sim, “khóc vợ Lê Ðỗ Thị Ninh” (Hình: Viên Linh)
Hữu Loan sống một mình ở hành tinh chết xa xôi?
18 Tháng 3
Phạm Thành
(Viết nhân ngày đưa tang Hữu Loan).
Ngày 4.5.1975 đơn vị vận tải quân đội, Tỉểu đoàn 672 của chúng tôi có mặt tại Sài Gòn sau các đơn vị chiến đấu 4 ngày và trú quân tại Bộ Tổng Tham mưu của chính quyền cũ trên đường Võ Di Nguy, quận Phú Nhuận. Tôi và hai người bạn (Thành, quê Vĩnh Yên và Hùng, quê Hải Dương) vượt rào đi dạo Sài Gòn sau ngày đại thắng. Một thiếu nữ Sài Gòn, tên Nguyễn Kim Hải, sinh viên năm thứ 2 Văn khoa Sài Gòn, mời chúng tôi vào nhà em chơi. Nhà em ở phố Thích Quảng Đức. Tại nhà em, lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe bài hát qua băng cát-xet và cũng là lần đầu tiên nghe bài hát “Màu tím hoa sim” do Khánh Ly hát. Em mở băng thật to và Khánh Ly giọng cũng thật vang. Lời hát đau đớn não nùng đến sợ, đọng lại ngay trong tôi là câu: “Nhưng không chết chàng trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương, hỡi ôi” và một mớ ngôn ngữ lạ lẫm “Tím chiều hoang biền biệt. Đồi hoa sim tím”. Nghe xong, tôi thấy cô sinh viên Kim Hải ngấn lệ trên mắt, tuy nhiên chúng tôi thì chỉ có chút bồi hồi. Có lẽ chúng tôi còn trẻ, vừa ở rừng về, và lại đang phấn khích trong hào khí chiến thắng, nên chưa thể hiểu được những cái đau nội tâm đứt ruột trong cuộc đời, đâm ra thờ ơ vô cảm trước ngôn ngữ sâu thẳm bên trong của bản nhạc.
Sau đó tôi giải ngũ, về làm phóng viên Đài Phát thanh tỉnh Thanh Hóa (hơn 4 năm), rồi đi học Đại học Báo chí tại Trường Tuyên Giáo trung ương (hơn 4 năm). Học xong tôi về làm phóng viên ở Đài TNVN cho đến nay. Khi đang học, “Nhưng không chết chàng trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương và “Tím chiều hoang biền biệt”, được các thầy giáo cho biết, đó là câu trong bài thơ Màu tím hoa sim của tác giả người Thanh Hóa thuộc nhóm phản động, chống đảng: Nhân văn – Giai phẩm. Khi làm báo, lại làm ở cơ quan tuyên truyền trung ương, cứ nghĩ đến chữ phản động, chống đảng là tai như điếc, mồm như câm, mắt như mù… makeno, kẻo vạ đến thân như nhóm Nhân văn – Giai phẩm. Tội này, xét thì không xét, xử không xử, cứ ở trại giam mút mùa, đời như chết rồi mà chưa chôn. Thú thật lúc này, cái sợ đã làm tôi trở nên câm điếc trước những lời mời gọi của bài thơ mà mình không có can đảm tìm đến nó.
Mãi cho đến những năm 1990, nhân việc Nhà nước đổi mới và những nhân vật Nhân văn – Giai phẩm được nới lỏng, tôi mới được dịp đọc toàn bộ bài Màu tím hoa sim và hiểu thêm về tác giả. Hóa ra, ông Hữu Loan là cán bộ tiền khởi nghĩa, và đã có chức vụ rất lớn trong chính quyền cách mạng của Nhà nước Việt Nam – Phó chủ tịch UBHCKC huyện Nga Sơn, “siêu” giám đốc 4 ty của tỉnh Thanh Hóa, chủ bút tờ Chiến sĩ của Sư đoàn 304; sau năm 1954 làm báo Văn nghệ. Từ báo Văn nghệ, ông bỏ về quê làm người xẻ đá, thồ đá, bán đá mưu sinh đằng đẳng, cay cực mấy chục năm trời, hơn hẳn mừơi năm “nếm mật nằm gai” của cụ Lê Lợi thuở xưa. Cuộc sống của ông giống như cuộc sống của một kẻ tội đồ đang mưu sinh một mình ở một hành tinh chết xa xôi nào đó cho đến ngày ông về cõi tiên – ngày 18.3.2010, thọ 95 tuổi.
Một điều thật lạ lùng, ngay từ lần đọc đầu tiên toàn bộ tác phẩm “Màu tim hoa sim”, tôi đã bật khóc. Và từ năm 1990 đến nay, mỗi năm ít nhất tôi đọc lại một lần. Lần nào cũng vậy, lòng tôi đều rung lên, mắt tôi nhòe lệ, bất kể tôi đang ở trạng thái nào, khi rượu ủ mềm bụng, hay khi khí uất ngùn ngụt trên đầu, hay đang buồn phiền đến chân tay cũng trở nên thừa thãi. Có lẽ, với riêng tôi, cái hay của Màu tím hoa sim là ở chỗ “tôi được khóc”. Bài thơ ông khóc vợ ông mà như vắt ra từ chính cõi lòng của tôi vậy. Chi tiết nào trong bài thơ tôi thấy cũng thật, cũng gần gũi như cơm ăn nước uống hàng ngày của tôi. Đời người có cái gì đau đớn hơn khi cái hạnh phúc và cái mất mát bi thương kề cận nhau, quấn quýt nhau như thế. Nó cứ từ từ dâng lên, lớp nọ táp vào lớp kia cho đến khi trái tim không thể cưỡng lại:
“Tôi về thấy má tôi ngồi trong bóng tối / Bình hoa ngày cưới / Thành bình hương tàn lạnh vây quanh…/ Em ơi, anh không còn nghe em nói, không còn nghe em cười…/ Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ Nghe tin em gái mất / Trước tin em lấy chồng”…
Hôm nay, nghe tin ông mất, lang thang trên mạng, hết đọc tin chia buồn, rồi lại vào đọc hồi ký của ông, rồi đọc những bài tán tụng cái tiên ông đạo cốt của ông. Bất chợt lòng buồn lóe lên, tại sao đến tận bây giờ, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về ông, để cho bàn dân thiên hạ hiểu rõ, rằng, tại sao ông lại bỏ về? Phải chăng ông thích bỏ về để đi làm thân cu li xẻ đá, thồ đá, bán đá như một anh hành khất bên lề đường? Phải chăng, ông có “Đèo Cả”, “Màu tím hoa sim”, “Hoa lúa”, “Những làng sư đoàn đi qua”…là ông đã xong cái việc đời của ông rồi? để ông đáng bị nhân Việt bỏ đói, truy ép, đầy đọa? Ông vô trách nhiệm với cái dạ dày của ông, của vợ con ông đến thế sao? Cái xã hội này không xứng để ông đi cùng sao? Tại sao trong cái Hội Nhà văn đông đảo thơ sĩ, văn sĩ, luận sĩ… của Việt Nam chỉ có ông và nhà văn Nguyên Hồng cùng dám bỏ về quê như vậy? Chà chà, nếu ông như mọi người, nhất định ông sẽ thành ông quan lớn, ty tỷ kẻ lạy nhờ, tỷ tỷ kẻ tung hô, tỷ tỷ kẻ bợ đít… Như thế, ông, con ông – mười đứa, chứ có 20, 30 đứa- hẳn cũng sẽ là những đại gia của thời đổi mới này rồi.
Phải chăng ông nhất quyết bỏ về là vì ông cảm thấy mình bị phản bội, bị lừa dối? Phải chăng tao không chơi với chúng mày vì chúng mày toàn những thằng đểu? Nó có giống như những Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Minh Chính; sau này là Trần Độ, là Đào Hiếu, Phạm Đình Trọng… mà mãi mấy chục năm sau mới nhận ra điều mà ông đã nhận ra từ lâu?
Ai biết, vì sao ông lại bỏ về quê như vậy, vì sao ông từ một nhà cách mạng, một nhà thơ lớn lại từ bỏ chính trường như vây? hãy nói cho tôi rõ với? Tôi e rằng, tôi không biết, không hiểu; anh không biết, không hiểu; bạn không biết, không hiểu… sẽ còn có nhiều người như Hữu Loan phải chịu cảnh sống với đồng chí, bè bạn mà như đang sống một mình ở một hành tinh chết xa xôi nào đó.
19 h ngày 19 tháng 3 năm 2010- 16h ngày 9 tháng 3 năm 2012.
Phạm Thành
Di bút của nhà thơ Hữu Loan


14 tháng 3 2013

Máu Của Tuyết - Trần Hoài Văn

Bộ phim truyền hình ‘Hai phía chân trời’ - 36 tập của đạo diễn Trần Quốc Trọng và Vũ Trường Khoa do Trung tâm Sản xuất Phim Truyền hình, Đài Truyền hình Việt Nam (VFC) chuyển thể từ "Máu của tuyết” của nhà văn Trần Hoài Văn.

Với bối cảnh chính là khu chợ người Việt ở Praha - Trung tâm thương mại SAPA của người Việt tại CH Czech, "Hai phía chân trời" là bộ phim truyền hình Việt đầu tiên được thực hiện phần lớn các cảnh quay ở nước ngoài qua 4 năm chuẩn bị từ 2009 đến 2012, đoàn làm phim đã nhiều lần đi khảo sát thực tế, tiếp xúc trực tiếp với cộng đồng người Việt tại một số nước châu Âu như: CHLB Đức, CH Séc, Ba Lan và những lần đi tiền trạm sản xuất, bắt đầu từ cuối tháng 3-2012, đoàn làm phim của VFC với hơn 40 thành viên và toàn bộ thiết bị sản xuất được mang từ Việt Nam đến CH Séc để chính thức khởi quay. 

Với mục tiêu tối đa thời gian quay tại Châu Âu, đoàn làm phim đã chia làm 2 nhóm sản xuất và quay liên tục ở nhiều điểm khác nhau ở CH Séc, từ vùng biên giới, nông thôn đến trung tâm thành phố Praha và một số thành phố khác, nơi có đông đảo người Việt sinh sống và làm việc.

Câu chuyện bắt đầu với mối quan hệ của luật sư Minh, do Xuân Bắc đóng, doanh nhân Lê, do NSƯT Mạnh Cường đóng và những người bạn cùng chung sức xuất bản tờ báo ‘Trái tim Việt” với mục đích cung cấp các thông tin giúp đỡ đồng hương hòa nhập với cuộc sống nơi đất khách quê người và tư vấn những kiến thức về luật pháp để giúp bà con người Việt sống và lao động hợp pháp. 
Trong quá trình làm việc của đội biên tập, nhóm bạn đã phát hiện ra tay bút nghiệp dư Vinh do Lê Vũ Long thủ vai, một người sống rất có nghĩa khí nhưng có số phận long đong.. bằng tấm lòng và sự chia sẻ với những thân phận người Việt sống xa quê hương, nhóm bạn Lê, Minh và sau này có thêm Vinh đã giúp đỡ một người phụ nữ Việt có số phận éo le là Tình do NSƯT Lê Vy thủ vai.

Hàng loạt số phận khác nhau, thậm chí những bi kịch khủng khiếp xảy ra với người Việt sống xa xứ khi họ phải đối mặt với rất nhiều thử thách để lao động kiếm sống và tích cóp gửi về quê nhà. Vượt lên trên tất cả những cay đắng, mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu, đông đảo người Việt đang sống ở nước ngoài luôn biết yêu thương và giúp đỡ nhau, trân trọng gìn giữ những giá trị văn hóa và đạo đức truyền thống của dân tộc.

Cũng chính sự nhân ái, biết chia sẻ lúc khó khăn mà những người Việt luôn coi trọng đã tác động đến những người bản xứ, mở ra nhiều sợi dây tình cảm, những rung động trái tim để tạo nên một bức tranh đa sắc về tình người.

"Hai phía chân trời” quy tụ dàn diễn viên tài sắc và nổi tiếng trên màn ảnh như: NSƯT Mạnh Cường, NSƯT Lê Vy - hiện định cư tại Pháp, các nghệ sỹ Xuân Bắc, Lê Vũ Long, Kiều Thanh, Quỳnh Hoa, Kiều Anh, Vi Cầm. Đặc biệt, lần đầu tiên một bộ phim truyền hình có sự góp mặt của khá đông diễn viên nước ngoài như: Lâm Vissay - một diễn viên điện ảnh chuyên nghiệp tại Đức, Damian Odess-Gillett - Mỹ, Andrea Ayber Camona - Tây Ban Nha, các diễn viên chuyên nghiệp của Nhà hát kịch Praha: Irina Jorgensen, Tatiana Evonuk Hana Abrahamova...
Bên cạnh đó, các cảnh quay trong nước có sự tham gia của NSƯT Minh Châu, NSƯT Quốc Trị, NSƯT Bạch Diện, NSƯT Ngọc Thoa, người mẫu Thúy Hằng…

Thật ra, câu truyện về bố con Vinh - Tomek mà Trần Hoài Văn kể từ năm 2006 có khác biệt so với bộ phim, chuyện xảy ra ở Ba Lan, nhân vật Vinh "nhà thơ" tay trắng trở về với mẹ già để rồi lại vượt biên vào Ba Lan để tìm Tomek sau đó, nhưng thôi, mời quý bạn vừa xem phim vừa đọc "Máu Của Tuyết"!

 … Khi ánh hoàng hôn cuối cùng chìm hẳn sau dãy núi đá sừng sững phía tây, cũng là lúc bóng tối lem nhem chiếm lĩnh toàn bộ khu nghĩa địa rộng mênh mông, hun hút. 

Những con quạ đậu trên các thân cây trơ trụi phủ đầy tuyết trắng xóa trông như những hạt đậu đen chi chít trên đĩa xôi. Tiếng “quà, quà” đồng thanh thê lương của chúng càng ép chặt không khí tĩnh lặng rờn rợn đến ngạt thở. 

Những bầy gió điên cuồng độc diễn vũ điệu tuỳ hứng khi cơn mưa tuyết dầm dề sướt mướt cứ lặng lẽ rơi. Rồi thì đám gió nổi điên. Gió bê tuyết ném tung lên trời. Gió dằn tuyết xuống đất. Gió tãi tuyết chàng hảng, tành banh, tô hô. Gió xoay vặn rồi vun tuyết lại thành từng đống. Chán, nó lại chao đảo, quay cuồng luồn lách qua các khu mộ im lìm rên xiết lên thành những tiếng u ú, hù hù, khào khào như tiếng kêu hoan lạc man rợ… 


Chui ra từ chiếc ô tô lấm lem bùn lầy như một con trâu vừa tắm bùn, hắn co ro, rúm ró trong cái lạnh ẩm ướt của bão tuyết đang tốc thẳng vào mặt. Liêu xiêu, vẹo vọ trượt bám đi trên lớp băng đang bị cái nhoen nhoét của những bông tuyết tan ra dưới đế giầy tạo thành một thứ chất lỏng trơn như mỡ. Sau hai cú trượt dài như một diễn viên trượt băng nghệ thuật loại bét bị ngã giập mông, hắn cũng mò tới được căn phòng bằng đá xám xịt của người trông coi nghĩa địa. Sự xuất hiện bất ngờ của hắn cùng bộ dạng tiều tụy trong quầng ánh sáng vàng vọt chẳng hề làm cho ông già còm nhom hoảng sợ. Ông ta điềm tĩnh nhìn hắn như nhìn một con ma đói vẫn thỉnh thoảng hiện về tranh thủ bầu bạn cùng mình chốc lát bên chai bimber (1) rồi lại vụt biến ngay trước khi ánh mặt trời đầu tiên nhô lên.

- Sao, mới chui từ ngôi mộ nào ra thế?

Ông hỏi bằng thứ giọng thản nhiên của một người quen sống với âm hồn.

Hắn khó nhọc mở cái mồm đang bị đông cứng vì giá rét:

- Tôi tìm mộ một người Việt… Lúc còn sống anh ấy tên là…

Ông già xua tay, giọng không mấy lạc quan:

- Tên tuổi đếch gì. Làm sao mà tôi nhớ được những cái tên trúc trắc của các anh? Vả lại cả khu nghĩa địa này chưa nhiều người Việt đến ở lắm đâu, mới chỉ có hai thôi. Anh ta chết khi nào?

- Hơn bốn năm rồi!

- Thế thì ở kia, tít ngoài cùng khu tường rào phía đông ấy! –Người coi nghĩa địa chỉ tay ra khoảng tối đang vần vũ đầy bão tuyết. – Cứ thấy ngôi mộ nào toen hoen, không xây, không ốp đá chính là nó đấy.

- Vâng! Cám ơn ông! – Hắn ừ hữ đáp vì chả biết nói gì hơn.

- Từng ấy năm chẳng ma nào đến thăm viếng. Tôi cứ ngỡ nó vô chủ. Nhưng sao lại đến muộn thế này? – Ông già nhìn hắn đầy vẻ thắc mắc.

- Tôi từ Vác sa va xuống, bị hỏng xe dọc đường, mãi mới tìm được chỗ chữa. Hôm nay là ngày Lễ người chết (2) , chẳng ma nào chịu làm việc. - Hắn trả lời, giọng buồn rầu và nhoi nhói nơi ngực.

- Ra thế! Còn ở đây thì dân tình nườm nượp kéo đến tảo mộ từ sớm tinh mơ, mãi tới sẩm tối mới vãn. Gớm, người đâu mà lắm thế không biết? – Ông ca cẩm, vớ chai rượu tu một ngụm, rồi đưa cho hắn – Làm một tợp đi cho ấm, người anh run bắn lên như thằng choai con lần đầu nhìn thấy đàn bà cởi truồng rồi kia kìa!

Ông già nháy mắt, cười hóm hỉnh.

Hắn chẳng khách khí, vớ chai bimber làm một tợp lớn. Cái thứ rượu tự nấu mạnh và xóc như đấm vào cổ họng nhưng lập tức làm cho các mạch máu đang chực đông cứng giãn ra. Hắn thấy người ấm lại.

- Cảm ơn ông! Tôi đi đây! – Khoan khoái trả lại chai rượu cho ông già vui tính, hắn quay người, rảo bước ra ngoài. Sau ngụm rượu mạnh, cái lạnh đã tan chảy. Hắn mạnh bạo bước những bước dài, bất chấp nền băng lầy nhầy, trơn trượt.

- Này, anh người Việt, đợi một chút!

Hắn quay người lại, ông già coi nghĩa địa đang lóc cóc đuổi theo. 


- Đợi một chút, tôi sẽ chỉ chỗ cho. Chứ anh lọ mọ tìm cả đêm chưa chắc đã thấy.

Hắn cảm ơn ông già tốt bụng. Họ lầm lũi đi qua những ngôi mộ chất đầy hoa và những bát nến con đã tắt ngóm phủ đầy tuyết. Tới sát bờ tường, ông già chỉ cho hắn một ngôi mộ nhỏ xây trát qua quít nằm khép nép bên cạnh những khu mộ lớn ốp đá đen bóng lộn với dấu thập ngoặc hình thánh giá ngạo nghễ vươn cao.

Dưới ánh sáng của ngọn đèn pin, hắn cúi xuống, hồi hộp gạt lớp tuyết trên tấm bia xiêu vẹo đắp tạm bằng xi măng. Mấy dòng chữ nguệch ngoạc trên đó thầm mách cho hắn biết, người nằm dưới đất chính là thằng bạn nối khố.

Hắn lặng người. 


Mày đấy ư Minh? 

Có phải mày đấy không, thằng bạn kiêu hùng một thuở đã đồng cam cộng khổ chia sẻ với tao từng mẩu bánh mì vụn, từng giọt rượu đắng ngắt? 

Thằng bạn đã thức trắng cùng tao suốt bao đêm dài với những âu lo toan tính cho giấc mơ về một ngày mai. Mà chúng mình có ước muốn gì nhiều lắm đâu, Minh nhỉ?

... Một chút tiền còm để sửa sang lại ngôi nhà lụp xụp. Một chút tiền còm để trang trải nợ nần cho những đứa em ăn học. Một chút tiền còm để tồn tại khi về nước, để nhét vào phong bì đặt trước mặt những gã ngồi tựa ghế bọc da ngửa cổ nhìn trần nhà uể oải lắng nghe lời ấp úng phân trần của những kẻ đi xin việc như chúng mình hòng mong kiếm được một chỗ đứng chật chội để hưởng chút nắng ấm dưới ánh mặt trời... 

Có nhiều quá không hả Minh, những điều chúng mình hằng mơ ước? 

Để rồi mày phải trả giá bằng mạng sống của mình khi hứng trọn cho tao nhát dao của tụi cướp trong một lần làm cửu vạn ôm hàng thuê. Mày ngã xuống một cách oan nghiệt, tức tưởi. Máu phun thành dòng mà cặp mắt vẫn mở trừng trừng. 

Có phải mày vẫn tiếc cuộc đời dài phía trước dù còn bao nhọc nhằn và áy náy về gánh nặng dồn trút lên vai khiến đôi mắt mày không thể khép lại, dù tao đã vuốt mấy lần trước lúc ngất đi? 


Vậy là tao và mày không trở thành thông gia được nữa. Những đứa con của mày chết ngay từ khi chưa được sinh ra trên cõi đời này. Chả biết chúng nó bất hạnh, hay hạnh phúc vì khỏi làm kiếp bị đọa đầy như tao và mày đây? 

Đã bao tháng ngày mùa đông, mày co ro nằm đây giữa đất lạnh quê người, nghe bão tuyết gào thét? 

Tao không có đủ tiền để đưa mày về nằm giữa đồng đất quê hương quanh năm chan hoà ánh nắng. 

Đành vậy nhé, Minh ơi!

Mở ba lô lấy ra một thẻ hương, vài bát nến và mấy bông hoa mua vội ở dọc đường đã héo quắt, hắn khó nhọc đánh vật với chiếc bật lửa cạn xăng. Sau dăm lần “lạch xạch, lạch xạch”, ngọn lửa vàng vọt, leo lét cháy lụi vào tận bấc cũng đã bùng lên như một nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng. Những ngọn nến nhỏ nhoi, trắng muốt run rẩy được chừng vài giây rồi tắt lịm ngay bởi những bông tuyết tròn căng phủ lên, lớp nọ chồng lên lớp kia. Bó hương có khá hơn, từ những đốm sáng đỏ lừ tỏa ra vầng khói nhẹ. Phút chốc mùi hương trầm ngan ngát bao trùm một góc nghĩa địa.

Hắn ngồi lặng đi bên mộ bạn. 


Minh ơi! 

Đã hơn bốn năm nay, không một nén hương, một quả trứng. Mày nằm đây như một con ma lạ nghèo hèn, lạc lõng, tủi hổ bên những con ma bản xứ no đủ tình thương, dư thừa vật chất. Mày có bị chúng nó bắt nạt, hành hạ không? 

Chắc là không đâu, Minh nhỉ? 

Bởi những kẻ cùng đinh chẳng có gì để mất như lũ chúng ta lúc sống đã luôn ngẩng cao đầu, mặc mẹ cái túi rách kinh niên và cái dạ dày luôn réo gào vì đói, thì lúc xuống âm phủ, chắc mày vẫn sẽ là một con ma kiêu hùng luôn mỉm cười ngạo nghễ và sẵn sàng chấp nhận mọi cuộc chơi mạo hiểm với tư thế của một hiệp sĩ. 

Có phải vậy không Minh? 

Mày sống khôn, chết thiêng thì hãy phù hộ cho tao nhé! Hãy phù hộ cho tao về một ngày mai, bởi tao không biết, NGÀY MAI, NGÀY MAI, cái gì sẽ đến? 

Bốn năm dưới này mày làm ma đói. Còn tao, bốn năm khổ ải lê la qua hai trại tù để làm cuộc đời của ma sống mà chả mấy bữa được no. Mỗi lần chuyển trại là một lần lại phải gồng mình lên chiến đấu để tồn tại giữa cái đám giang hồ đâm thuê chém mướn bản địa; chiến đấu để giữ được tư thế của một con người trong đám nửa người nửa thú; chiến đấu để bảo toàn trinh tiết cho cái lỗ đít của mình giữa những con đực luôn trong tư thế phát cuồng hằng đêm vẫn đè nhau ra phóng tinh vào cái nơi vốn được Chúa tạo ra không để làm việc ấy... 

Hỡi thằng bạn võ sĩ có đôi tay vượn, đôi chân mèo của tao! 

Không uổng đâu những bát mồ hôi đổ ra khi xưa trên sàn tập, những cú đá nặng hơn ba trăm cân tựa sấm sét mà chúng ta đã phóng hạ địch thủ đổ gục như chém chuối trong những trận kịch chiến trên võ đài. 

Không uổng đâu! 

Bởi có thể nói, tao là một trong số rất ít thằng tù đem được sự trinh tiết trở về với thần Tự do! 

Không uổng đâu! 

Bởi đấy là niềm tự hào của bọn tù ở cái xứ sở da trắng này. Nếu sao vạch trên ve áo khẳng định đẳng cấp của thằng lính, cặp chân bộ ngực khẳng định đẳng cấp của con đàn bà, thì “sự trinh tiết” của thằng tù khẳng định đẳng cấp của nó, khiến nó được kính nể, trọng vọng, được ngồi chiếu trên… 

Nếu mày thừa đủ bản lĩnh để khuất phục những kẻ khác, nghĩa là mày được quyền chỉ tay vào bất kì một con đực nào vừa mắt và ra một cái lệnh ngắn gọn: “Chổng đít lên!” 

Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc mày được quyền nằm ườn khoan khoái tận hưởng chút nắng hiếm hoi qua cửa tò vò, được hưởng mọi sự cống nộp từ những món quà tắc tế của thân nhân mang lên cho những thằng tù khác. Nhiều, nhiều lắm… 

Bảo toàn sự trinh trắng cho cái lỗ đít của mình, đối với cái án bốn năm tù khốn khổ khốn nạn mà tao phải trả giá vì tội vận chuyển hàng lậu và gây thương tích cho người khác. Ấy là tất cả cuộc sống của tao những tháng ngày qua! 

Ấy là miền kí ức mịt mù tối câm vẫn đang phủ bóng lên cuộc đời hiện tại của tao!...

Những giọt nước mắt tủi hận nối đuôi nhau lăn dài trên má hắn. Tuyết vẫn rơi mỗi lúc một thêm dày. Gió vẫn rú lên bản tình ca hoan lạc và man rợ. Nắm hương kiên cường đã cháy rụi, chỉ còn trơ lại những cọng chân khẳng khiu. 


Bật chai rượu, rưới lên tấm bia xi măng có những dòng chữ nguệch ngoạc ghi tên thằng bạn. Còn sót một ít, hắn ngửa cổ tu một hơi cạn sạch và ngay ngắn đặt cạnh đám cọng chân hương, khom người vái bạn ba cái. 

Minh ơi, tạm biệt! Hẹn mày ngày này năm sau nếu tao còn bảo toàn được mạng sống và cơ hội…

- Về thôi anh bạn, không định ngồi đây cả đêm đấy chứ?

Tiếng nói của ông già coi nghĩa địa kéo hắn ra khỏi dòng hồi ức. Qua cái nhìn nhòe nhoẹt nước mắt, hắn thấy ông đang đứng cạnh một thiếu phụ cùng đứa trẻ.

Ông già hỏi hắn:

- Anh có thể cho mẹ con chị này quá giang một đoạn về thị trấn H. được không? Hơi ngược đường một chút. Nhưng muộn quá rồi. Giờ này chắc chẳng còn ô tô buýt nữa.

Hắn đưa tay lau mắt, gật đầu không một chút do dự:

- Dĩ nhiên là được. Mời chị và cháu ra xe.

Chợt thằng bé chỉ tay vào hắn, reo lên:

- Bố ơi!

Hắn tưởng mình nghe lầm, vì hình như thằng nhỏ gọi hai chữ "bố ơi!" bằng tiếng Việt.

Thiếu phụ luống cuống ghé tai thằng bé nói nhỏ một điều gì đó.

Thằng bé vẫn gào lên, lần này bằng tiếng Ba lan:

- Mẹ nói dối. Bố kia kìa!

Rồi nó nhào về phía hắn. Nhưng thiếu phụ giữ chặt tay con lại. Thằng bé bất lực gục đầu vào váy mẹ nó, khóc tấm tức.

Hắn ngớ người, chẳng hiểu sự thể ra sao.

Họ cùng đi ra phía cổng nghĩa trang. Thằng bé chật vật bám theo, bước chân loạng choạng. Hắn cúi xuống, bế bổng nó lên. Thằng bé mừng rỡ áp chặt đầu vào má hắn, nghẹn ngào thốt lên: "Bố ơi!". 


Nó khóc. Những giọt nước mắt ấm nóng một bên má hắn. Đến lúc này, dưới ánh sáng của ngọn đèn cao áp, hắn mới nhận ra, đó là một chú nhóc châu Á, trạc sáu, bảy tuổi. 

Hắn thấy lạ, vì những đứa trẻ được sinh ra trong các cuộc hợp hôn ít nhiều đều hoà quyện đường nét của hai chủng tộc. Đằng này, chú nhóc không mang một nét nào của bà mẹ da trắng tóc nâu đi bên cạnh. Vẫn cái mũi tẹt, đôi mắt xếch và mái tóc đen, nó giống hệt như những đứa trẻ thuần chủng mà hắn gặp nhan nhản ở Việt Nam. Thằng bé có vẻ mệt, nên mới chỉ được bế bổng trong vòng tay vài phút, nó đã gục đầu vào vai hắn gà gật.

- Làm một ngụm nữa chứ? Giờ này chẳng còn thằng cha cảnh sát nào đủ tỉnh táo để bắt phạt nữa đâu!

Ông già lại sốt sắng dúi cho hắn chai rượu, khi họ đã đến bên chiếc ô tô.

Hắn tợp một ngụm nhỏ cho phải phép, vì khi đã chui vào trong xe thì cái lạnh không còn đáng sợ nữa. Nhưng trước mặt là quãng đường dài dằng dặc hơn năm trăm km trơn trượt băng tuyết. Có tỉnh táo căng mắt ra cầm lái cũng là một thử thách đáng sợ, chứ đừng nói lại dính chút hơn men. 


Họ từ biệt ông già tốt bụng.

- Đi đi, Chúa phù hộ cho các vị!

Ông già vẫy tay từ biệt. Chiếc xe rón rén đề pa trên mặt đường loang loáng như mặt kính.

Ra đến đầu đường, người phụ nữ rụt rè đề nghị:

- Anh làm ơn rẽ trái nhé!

Hắn khẽ cười:

- Vâng, tôi biết rồi, rẽ phải là đường về Vác sa va. Trước đây tôi đã ở thị trấn H. một thời gian.

- Anh bán hàng ở đó à? Lâu chưa?

- Vâng, nhưng cũng đã hơn chục năm rồi.

- Hơn chục năm?... Ngày ấy tôi mới đang là một con nhóc nữ sinh trung học, còn mơ mộng hão huyền lắm. Thế mà bây giờ... - Giọng người phụ nữ xa ngái.

Thấy cô ta có vẻ buồn, hắn chuyển đề tài:

- Từ H. đến nghĩa trang này chưa đầy hai chục km, sao cô không đi ban ngày cho đỡ vất vả?

- Tôi phải về quê thăm bố mẹ, tiện thể cùng các cụ tảo mộ ông bà nội ngoại. Hai mẹ con tôi mới từ quê ra thẳng nghĩa trang lúc sẩm tối.

Hắn buột miệng hỏi:

- Các cụ còn sống cả. Vậy cô ra nghĩa trang thăm viếng ai vậy?

Một thoáng im lặng. Giọng người phụ nữ trầm xuống:

- Chồng tôi!

Hắn thoáng ân hận vì câu hỏi không đúng lúc của mình:

- Xin lỗi vì tôi đã làm cô buồn!

- Không sao, đằng nào tôi cũng phải quen với chuyện đó thôi! - Thiếu phụ đáp, giọng nghèn nghẹn.

Hắn chợt nhớ, hình như ông già bảo vệ nói là ở nghĩa trang có hai ngôi mộ người Việt, song không dám hỏi gì thêm. Chiếc xe vẫn lầm lũi chui lủi trong cơn mưa tuyết mỗi lúc một dày đặc...

Tự nhiên hắn chả muốn nói gì thêm. Thiếu phụ cũng câm lặng.

Xe dừng lại dưới chân một chung cư cũ rích được xây dựng từ những năm sáu mươi. Thiếu phụ nhìn hắn:

- Chắc từ sáng đến giờ anh chưa ăn gì? Mời anh lên nhà dùng bữa tối với mẹ con tôi!

Hắn nhận lời không một chút khách sáo, vì vừa đói, vừa mệt. Vả lại, bây giờ có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng mò ra quán ăn nào trong cái ngày lễ tảo mộ này. Hắn bế thằng nhỏ vẫn đang thiu thiu ngủ, leo lên tầng năm.

- Anh ngồi tạm đây, tôi đặt cháu vào giường rồi sẽ ra ngay!

Thiếu phụ chỉ tay vào chiếc ghế ăn trong bếp, giơ tay đón đứa bé, cởi áo khoác và giày cho nó. Thằng nhóc vẫn gà gật.

- Chúa ơi, sao con tôi nóng thế này?

Thiếu phụ thốt lên, má áp vào trán thằng bé.

Hắn cũng đưa tay đặt khẽ lên trán thằng nhỏ. Đúng là nó đang sốt.

- Có lẽ cháu bị cảm lạnh. Cô có thuốc hạ sốt panadol không?

- Có! Anh bế giúp cháu vào trong phòng, để tôi đi lấy thuốc.

Nhận thằng nhỏ từ tay thiếu phụ, hắn bế vào phòng. Nó ngủ li bì. Ở đầu giường, ngay cạnh cái gối có bức ảnh một người đàn ông châu Á trạc ngoài ba mươi. Hắn thầm đoán đó chính là người Việt nam thứ hai nằm ngoài nghĩa trang. Ngỡ ngàng nhìn bức ảnh giây lát vì cảm thấy có nhiều nét quen quen, có điều hắn chưa nhớ ra là đã gặp anh ta ở đâu, bao giờ?

Thiếu phụ đi vào, trên tay là lọ xiro giảm sốt.

Hắn bảo:

- Phải đợi lúc cháu tỉnh dậy mới uống thuốc được, bây giờ tôi sẽ thử chữa bệnh cho cháu...

Rồi nhìn quanh như tìm kiếm một thứ gì đó.

Thiếu phụ nhìn hắn dò hỏi:

- Có phải anh tìm cái này không?

Cô ta mở chiếc tủ nhỏ trên tường, lôi ra lọ dầu gió màu xanh và đồng xu bằng bạc.

Hắn ngạc nhiên:

- Đúng rồi! Sao cô biết?

Thiếu phụ buồn bã:

- Ngày còn sống, Việt vẫn cạo gió cho hai mẹ con tôi mỗi khi bị cảm lạnh. À quên, tôi chưa nói với anh, chồng tôi cũng là một người Việt... Anh ấy mất hơn hai năm rồi.

Hắn cúi đầu, khẽ nói:

- Ra thế, thảo nào...

Hắn lật áo thằng nhỏ lên, xoa dầu vào lưng và lấy đồng xu bạc chà lên. Những vệt hằn màu đỏ sẫm dưới làn da mỏng manh từ từ hiện mỗi lúc một rõ.

Hắn lẩm bẩm:

- Đúng nó bị cảm rồi.

Thiếu phụ ngồi ở cuối giường, lặng lẽ nhìn hắn cạo gió cho thằng bé, khẽ thở dài, ánh mắt xa xăm.

Khi cả lưng thằng bé đã đỏ bầm lên, hắn xoa thêm một lớp dầu và kéo áo xuống. Đoạn, lật người nó lên xoa dầu vào trán.

Đang ngủ li bì, chợt đôi mắt thằng bé khẽ động đậy rồi từ từ hé mở. Nó chăm chăm nhìn lọ dầu gió hắn đang cầm rồi nghển cổ, vồ lấy đôi bàn tay hắn.

- Bố ơi!

Đang lúng túng chưa biết phải trả lời ra sao, thằng nhỏ đã ngồi bật dậy, ôm ghì đầu hắn, kéo xuống, thì thầm:

- Bố chưa chết à?

Hắn càng lúng túng và im lặng, chưa biết phải lựa cách xưng hô với thằng nhỏ ra sao. Hắn đoán rằng nó đã nhầm hắn với người trong ảnh.

Thằng nhỏ vẫn bám chặt lấy hắn, cà mặt vào bộ râu lởm chởm.

- Đêm nay bố lại "ru à ơi" nhé!

Hắn chợt run lên khi nhận ra, cứ mỗi khi gọi "bố ơi" và ba từ "ru à ơi" thằng nhỏ lại nói bằng tiếng Việt. Đáng lẽ phải an ủi và tìm một lời nói thích hợp nào đó với thằng bé thì hắn vẫn chỉ im lặng, chỉ vụng về vỗ vỗ vào lưng nó.

Dường như cảm nhận được thái độ lảng tránh của người đàn ông mà nó đang ôm, thằng bé buông tay ra, chăm chăm nhìn hắn rồi lại hướng ánh mắt đau đáu vào tấm ảnh hồi lâu, vẻ mặt phân vân, ngơ ngác.

Hắn vẫn lặng nhìn thằng bé. Cái nhìn của nó đưa tụt hắn quay trở lại miền kí ức. Trước đây, hắn cũng đã nhiều lần nhìn tấm ảnh cha trên bàn thờ như vậy. Vụt nhói nỗi đau xé lòng, cảm giác hụt hẫng khi nhận giấy báo tử cha và chuỗi ngày khổ cực của bốn mẹ con suốt những tháng năm dài dằng dặc. 


Lúc ấy, hắn đang học lớp một, trạc tuổi thằng nhóc này. Dù mẹ ở vậy tảo tần thay chồng đùm bọc ba anh em hắn, nhưng kể từ ngày đó hắn đã biết thế nào là vắng cha quạnh nhà… Hắn chặc lưỡi, khẽ lắc đầu. Sự ái ngại pha chút thương hại thằng bé thoắt biến thành cảm giác xót xa cứ dâng lên, lớn dần lên trong hắn.

Vừa đáu đáu nhìn vào tấm ảnh, vừa rón rén, từ từ nâng khuôn mặt người đàn ông trong tấm kính lên ngang tầm mắt, thằng bé thầm thì:

- Bố ru à ơi...!

Gương mặt nó đầy vẻ thành kính, nhẫn nại như chờ đợi câu trả lời của người trong ảnh. Rồi đôi mắt ấy quay sang hắn. Lặng lẽ, da diết, vời vợi và chứa chan hi vọng.

Đến lúc này, hắn cảm thấy sẽ là tội lỗi nếu cứ tiếp tục im lặng và lảng tránh ánh mắt ấy.

- Ừ, bố sẽ ru! - Hắn bỗng nhiên thốt lên bằng cái giọng đã ầng ậc, rồi đưa bàn tay lên khẽ xoa đầu thằng bé. – À… á à ơi…

Hắn chỉ ngân lên được có vậy thì nghẹn lại. Câu hát ru khắc lõm trong tâm tưởng dù lâu lắm rồi chưa được nghe ai hát lại… Nhưng sao hắn lại không thể cất lời đúng lúc này? 

Thằng bé thần người ra chờ đợi. Cặp môi run run. Rồi bật khóc. Tiếng khóc tức tưởi bị ém tận trong cổ họng. Nó xoè bàn tay nóng hầm hập ôm đầu hắn, sờ khắp bên má, vuốt xuống cằm và lùa vào mớ tóc dày cợp, rối bung. Người nó run quằn lên trong tiếng khóc bị kìm nén. Những giọt nước mắt nóng hổi tưới đẫm má hắn.

- Đừng khóc! - Hắn khẽ vỗ về và chỉ biết nói đúng vậy.

Thằng bé vẫn thổn thức, người giật lên theo từng tiếng nấc cụt.

- Không… có bố… các… bạn… ở… lớp… cứ… bắt… nạt…

Hắn nắm tay thằng bé, bóp nhẹ và đưa lên môi lướt nhẹ:

- Ngày mai bố sẽ đi cùng con đến trường.

Thằng bé rúc sâu hơn vào cổ hắn, tiếp tục thổn thức:

- Chú… Daniel… buổi… tối… cứ… đánh… bắt… con… phải… đi… ngủ… sớm… Chú… vào phòng… với mẹ… Mẹ… không yêu… con…!

Một thoáng im lặng ngột ngạt. Hắn và thiếu phụ nhìn nhau bối rối.

Thiếu phụ gượng gạo lên tiếng:

- Anh ngồi đây với cháu, để tôi vào bếp bắc nồi xúp.

Rồi cô ta vội vã đi ra. Thằng bé vẫn nước mắt lưng tròng, cuộn tròn trong lòng hắn như một cục bông mềm mại, ấm áp. Hắn vụng về xiết chặt lấy nó. Bỗng thằng bé vùng vằng, gạt tay hắn ra, ngước mắt nhìn trách móc.

- Không phải thế. Bố quên mất rồi!

Rồi nó tự động nằm vắt ngang qua đùi, đầu gối lên cánh tay phải, cầm cánh tay trái của hắn đặt lên trán nó:

- Bố "ru à ơi" đi!

Bàn tay trái của hắn ngoan ngoãn theo sự chỉ dẫn của thằng bé. Hắn xoa lên mái tóc mềm như tơ của nó và bỗng nhớ câu thơ của một người bạn ngâm nga lúc cả bọn say ngất ngư trong cái đêm mừng hắn vừa ra tù. Hắn khẽ khẽ hát:

- À ơi! Con cò con vạc con nông…Còn bao con nữa sao không thấy về..." (3)

Đôi mắt đỏ ngầu vì sốt đang nhắm nghiền chợt mở to, nhìn hắn. Vẻ phân vân, nghi ngờ. Cái đầu nhỏ ngóc lên rồi lại quật xuống ngay, từ từ thiếp đi… Hắn vẫn ngâm nga mấy câu thơ mà kí ức còn lưu giữ được.

Thoảng từ bếp vào mùi xúp khoai tây nấu với thịt bò pha lẫn mùi lá nguyệt quế khô thơm hăng hắc. Thiếu phụ ló đầu vào, thầm thì:

 - Xong rồi, chúng ta ăn thôi!

Hắn khẽ khàng đặt thằng bé xuống giường rồi đi ra bếp.

Trên bàn ăn, hai đĩa xúp bốc khói nghi ngút, bên cạnh là một chai vang đỏ.

- Chúc sức khoẻ! Tên tôi là Marta!

- Chúc sức khoẻ! Còn tôi là Vinh!

Họ cụng li và uống cạn. Hắn khẽ nhăn mặt vì vị chua loét của thứ vang rẻ tiền và cắm đầu, nghiến ngấu ăn. Marta nhìn vẻ háu đói của hắn, cười mơ hồ. Sau tuần rượu vang thứ ba, Marta nhìn hắn:

- Anh không định hỏi gì tôi sao?

Hắn mỉm cười, lắc đầu:

- Không, vì tôi biết cô sẽ tự kể.

Vừa nói, hắn vừa nheo mắt nhìn Marta. Tuy chẳng phải là tay sành sỏi tâm lí phụ nữ, nhưng hắn biết, trong căn phòng nhỏ lặng lẽ, bên chai rượu đã cạn gần nửa, ngoài trời tuyết lại đang phủ phê dăng mắc cái lạnh tê tái, người ta bỗng cần được chia sẻ… Mấy thằng đực rựa cứng vía như hắn cũng thấy mềm lòng chứ nói gì một thiếu phụ trẻ góa chồng đang chứa chất mọi nỗi niềm…

Marta lại với li vang, làm một hơi. Mắt long lanh vì men rượu trên khuôn mặt ửng hồng, cô châm điếu thuốc rồi khẽ khàng:

- Chắc anh cũng đoán ra, bé Tomek không phải là con đẻ của tôi. Tôi làm vợ Việt khi mới 18 tuổi. Tôi không ân hận vì đã lấy anh ấy, dù khi đó tôi bị cha mẹ và tất cả anh chị em từ mặt, vì họ không ủng hộ cuộc hôn nhân dị chủng này. Sau ba năm sống với nhau vẫn không có con, chúng tôi đi khám. Bác sĩ nói Việt vô sinh. Anh ấy rất buồn và bị trầm cảm một thời gian dài. Việt muốn giải phóng cho tôi, nhưng tôi không chịu vì yêu anh ấy. 


Sau nhiều lần bàn bạc, chúng tôi quyết định về Việt Nam xin con nuôi. Trong số trẻ xanh xao vàng vọt ở trại tế bần, chúng tôi chọn một bé trai, chính là Tuấn. Bé Tuấn bị mẹ bỏ rơi ngay tại bệnh viện và được đưa vào trại. Lúc đó cháu mới được hai tuổi. Sau gần nửa năm trời lo chạy các thủ tục nhiêu khê, phiền hà, chúng tôi cũng đón cháu sang được bên này. Vì tên Việt Nam là Tuấn, nên khi làm thủ tục nhập quốc tịch Ba Lan cho cháu, chúng tôi đổi thành Tomek. 

Từ ngày có Tomek, Việt rất vui và hạnh phúc. Anh chăm bẵm, nâng niu Tomek như con đẻ. Thằng bé yêu bố lắm. Nhưng vì lo việc làm ăn, nên hàng ngày chúng tôi phải gửi cháu ở nhà bà bảo mẫu từ sáng sớm đến tối mịt. Về đến nhà là Việt giành hết phần chăm sóc con. Anh chỉ buồn là thằng bé suốt ngày ở với người Ba Lan nên bao nhiêu công sức bỏ ra để dạy nó nói tiếng Việt nhưng vẫn không thành. Cho đến năm bốn tuổi, Tomek chỉ biết gọi "bố ơi" và bập bẹ câu "bố ru à ơi đi" bằng tiếng Việt mỗi khi nằm cuộn tròn trong lòng để được nghe bố hát ru hàng đêm. Bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “à…ơi”…

Marta cố bắt chước giai địêu mà Việt đã hát ru Tomek nghe ngồ ngộ. Rồi cô ta nhấp thêm ngụm rượu, mắt khép lại như đang tự lắng nghe tiếng ngân còn đang vọng trong lòng mình...

- ... Cuộc sống của chúng tôi chả sung túc gì nhưng vẫn thấy đầy đủ, trọn vẹn… Chúng tôi có nhau, đủ cả ba người thành một gia đình, có bạn bè, cả những người Việt ở quanh đây… Có hội hè, tụ tập để Việt nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương. Tomek có bạn bè giống như nó để nô đùa… Cuộc sống của chúng tôi cứ êm đềm trôi đi mà chả mong ước gì hơn thế… Cho đến một đêm, Việt từ biệt hai mẹ con tôi lên Vác sa va lấy hàng về bán…

Marta nghẹn lời, nước mắt tràn xuống má. Cô cố giữ không bật thành tiếng. Hắn rót cho cô thêm một ly vang nữa. Marta ngửa cổ uống cạn. Rồi lại ngồi im phắc. Hắn đợi một lát rồi rụt rè hỏi:

- Có chuyện gì xảy ra vậy?

Marta lấy tờ giấy ăn trên bàn thấm đôi mắt ướt nhượt:

- Chính tôi cũng không biết. Sáng hôm sau, xe cảnh sát chở tôi tới một cánh rừng gần đường quốc lộ nhận xác chồng. Việt bị giết ngang đường, bao nhiêu tiền nong bị cướp sạch.

Hắn ngậm ngùi:

- Tôi cũng có được nghe qua về vụ này hồi… (Suýt nữa thì hắn bật ra ba chữ “hồi ở tù”)… - Không ngờ, người đó lại là chồng cô... Thế cảnh sát có tìm ra thủ phạm không?

Marta buồn bã lắc đầu, khẽ chua chát:

- Chưa, hơn hai năm trôi qua rồi. Có lẽ họ cũng chẳng thèm tìm nữa. Anh biết đấy, thân phận của người dân nhập cư ở đất này như chiếc lá rụng vào cuối thu ấy mà.

Hắn nhói lòng nhưng miệng lại chợt mỉm cười. Marta nhìn nụ cười của hắn và khẽ cúi thấp đầu xống.

- Những ngày đầu khi Việt mất, Tomek chẳng chịu ăn, cứ khóc ngằn ngặt gọi "bố ơi!" và hỏi bố bao giờ bố về? Tôi biết nói sao với thằng bé hả anh?... Con khóc, mẹ cũng khóc theo… Khổ nhất là ban đêm, nó cứ bắt tôi "ru à ơi". Mà tôi đâu có biết ru bài hát Việt nào? Nó khóc lả đi tới khi kiệt sức. Trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại thổn thức gọi "bố ơi!"… 

 
Kể từ đó, thằng bé thường ngồi lặng hàng giờ bên khung cửa sổ, nhìn xuống đường, nơi ngày xưa Việt hay đỗ xe mỗi lần đi xa về. Nó lặng lẽ như một cái bóng. Ngay cả khi tôi hỏi và dỗ dành nó chỉ gật hay lắc đầu. Đến nỗi, những ngày đầu tới trường, các cô giáo tưởng nó câm. Giờ tan học, trong khi các bạn nô đùa ngoài sân, Tomek vẫn một mình thừ thẫn bên gốc sồi già, nhìn theo những đứa trẻ được bố đến đón… 

Đêm đến, nó ôm ảnh Việt vào lòng, thầm thì gọi: "Bố ơi! Bố ru à ơi đi!" cho tới khi thiếp đi. Mãi đến hôm nay, nó mới lại nói nhiều như vậy, vì ngỡ rằng…

- Tôi là Việt? - Hắn buột miệng và chợt thấy mắt mình cay cay.

- Vâng! – Marta khẽ gật đầu - Bởi anh và Việt có nhiều nét giống nhau tới mức chính tôi cũng ngạc nhiên từ cái nhìn đầu tiên.

Tới giờ, hắn đã hiểu vì sao lại cảm thấy khuôn mặt của người đàn ông ở tấm ảnh đầu giường Tomek trông rất quen.

- Thế bây giờ hai mẹ con sống ra sao?

Marta rít một hơi thuốc, lắc đầu buồn bã:

- Chật vật và mệt mỏi. Tôi không nhận được sự trợ giúp nào của gia đình mình, vì mọi người đã quay lưng lại ngay từ khi tôi lấy Việt.

- Thế còn những người bạn của Việt? Những người vẫn thường tụ tập với gia đình chị khi Việt còn sống? -Hình như hắn chợt cao giọng và gay gắt.

Marta cười mệt mỏi:

- Họ có giúp hai mẹ con tôi. Nhưng chỉ sau khi Việt mất được vài tháng, họ đã phải bỏ đi chỗ khác sinh sống. Vì đây là thị trấn sát biên giới Đức, các nhóm đưa người hay tập kết làm chỗ vượt biên nên cảnh sát và lính biên phòng truy lùng gắt gao lắm. Mà họ lại không có giấy tờ cư trú hợp lệ.

- Tôi hiểu! - Hắn cay đắng nghĩ đến cảnh nháo nhào, tán loạn như ong vỡ tổ của những người đồng bào chạy trốn các đợt bố ráp của cảnh sát hay đám lính biên phòng.

Marta nhìn hắn dò hỏi:

- Còn anh có giấy tờ đấy chứ?

- Có! - Hắn đáp, theo thói quen, khẽ đưa tay sờ vào túi, nơi có quyết định tha trước thời hạn của Viện kiểm sát tỉnh N. và lệnh cấm không được ra khỏi biên giới Ba Lan trong thời hạn sáu tháng để thử thách. Cái lệnh này chính là lá bùa cứu cánh của hắn trước các nhà chức trách, vì họ không thể trục xuất một kẻ bị cấm xuất cảnh.

 - Anh có vợ chưa? – Marta nheo mắt.

- Chưa!

- Thế con cái? - Lại một cái nheo mắt kèm theo nụ cười trêu trọc.

- Điều này thì chính tôi cũng không biết!

Hắn đáp một cách hết sức thành thật rồi nhìn Marta. Cả hai cùng tủm tỉm cười. Nụ cười đầu tiên từ khi hắn có mặt trong căn hộ cũ kĩ này.

Chợt có tiếng kẹt cửa. Cả hai cùng quay lại. Tomek đứng thập thò ở cửa bếp nhìn họ.

- Kìa, con ngủ đi chứ! Đang ốm kia mà? – Marta nói với thằng bé.

Thằng bé vẫn im lặng, trân trân nhìn hai người.

- Con đói à? Mẹ múc xúp cho con nhé?

Vẫn im lặng, chỉ cái đầu khẽ gật gật. Thằng bé tiến vào bàn, kéo ghế ngồi bên cạnh hắn. Marta để đĩa xúp trước mặt Tomek.

Thằng nhỏ thần người nhìn đĩa xúp, rồi lại ngẩng nhìn hắn như chờ đợi. Không thấy hắn phản ứng gì, nó lẳng lặng đứng dậy mở cửa nhà vệ sinh, mắt ngấn nước.

Marta thì thào:

- Nó muốn anh xúc cho, như ngày trước Việt vẫn làm.

Hắn gật đầu, chợt hiểu và đứng dậy. Đứng nép trong góc toilet, thằng bé gục đầu khóc không thành tiếng. Người nó run bần bật, mắt đỏ hoe, môi sưng vều, trên tay cầm chiếc khăn bông dày cộp. Hắn tiến tới, cúi xuống ôm lấy nó:

- Đừng khóc nữa! Quay lại bàn ăn đi, bố sẽ xúc cho con!

Chính hắn cũng ngạc nhiên về những điều vừa nói. Dường như có cái gì lạ lắm, vô cùng ấm áp đang từ góc tối thẳm sâu lan toả khắp cơ thể. Cả người hắn chùng xuống. Đôi cánh tay lực lưỡng mềm mại quấn quanh người thằng bé nhấc bổng nó ra khỏi toilet như nâng một bông hoa tuyết mong manh. 


Hắn lấy thìa bón súp cho Tomek. Thằng bé cố há to mồm nhai trệu trạo những lát bắp cải đã được ninh nhừ. Hắn bẻ mẩu bánh mì đen cho vào mồm nó. Tomek gạt tay, bặm môi, lắc đầu. Đôi mắt nó ngước lên, ngỡ ngàng. Marta đứng cạnh lặng lẽ, căng thẳng theo dõi hai người và đợi lúc thằng bé cúi mặt chờ đợi bèn cuống quít ra hiệu phải xé bánh mì thành những mẩu nhỏ cho vào đĩa xúp. Hắn vụng về làm theo. 

Thấy những mẩu bánh mì vụn lềnh bềnh trong đĩa xúp, thằng bé ngẩng lên nhìn hắn vẻ hài lòng. Nó gắng sức, nhẫn nại ăn bằng hết.

Đêm ấy, khi ôm thằng bé ở trong phòng ngủ, nó cứ chăm chăm nhìn bức ảnh, rồi lại phủ ánh mắt ấy lên gương mặt hắn vẻ phân vân, đắn đo… Nhớ lại lời kể của Marta, hắn tháo bức ảnh Việt đang treo trên tường đưa cho Tomek để nó ôm trong giấc ngủ. Thằng bé nhìn hắn hồi lâu, vẫn cái vẻ phân vân, đắn đo… Rồi đặt bức ảnh lên bàn, ngần ngừ nó vòng tay ôm chặt lưng, đầu đổ gục vào bộ ngực vạm vỡ, khiến những sợi tóc mềm mại thoang thoảng như hơi thở phà vào cái cằm đầy râu của hắn. Hắn đỡ thân thể bé xíu, mềm như một nhúm bông đang cuộn tròn trong lòng hắn và khẽ khàng nằm xuống.

Hắn chạnh lòng nghĩ đến phần đời đã qua của mình. Trước khi sa cơ lỡ vận, hắn đã có những người đàn bà. Họ chiếm đoạt hắn, hay hắn chiếm đoạt họ trong bao đêm cô đơn buồn tủi? 


Cũng vậy cả thôi! Cũng chỉ là những cuộc tình tạm bợ như kiếp sống lang thang được chăng hay chớ, bèo dạt mây trôi. Hắn chẳng nhớ được mấy khuôn mặt của họ, vì đa phần các cuộc tình ấy luôn tắm trong rượu và những nỗi chán chường. Cả tên tuổi, màu da, mái tóc, dáng vẻ… 

Có chăng một chút gì đó trong ánh mắt còn lưu lại khi hắn chạm mặt họ vào giây phút ít tính người nhất. Nếu có cơ sự nào đó gặp lại lần thứ hai chắc gì đã nhận ra nhau? 

Hắn đã yêu ai chưa nhỉ? Hình như chưa. 

Những cuộc tình chớp nhoáng, hối hả chợt đến, chợt đi trên mọi nẻo đường nơi hắn đặt chân. Cũng có lúc, hắn thèm lắm một mái ấm gia đình, nơi có người đàn bà gọi là vợ và những đứa con do nàng đẻ ra. Nhưng chỉ ở tù một thời gian, hắn chả thiết tha gì cái mái ấm ấy nữa, mà chỉ muốn có một hai đứa con của mình và đếch cần quan tâm đến việc người đẻ ra chúng là một con điếm hay nữ hoàng… 
Bốn năm ngồi bóc lịch, hắn đã nhiều lần chứng kiến các cuộc thăm nuôi mà tụi bạn tù được hưởng. Năm thằng cùng phòng với hắn đều đã có gia đình. Nhưng đứa hạnh phúc nhất cũng chỉ được vợ đi thăm nuôi hết năm thứ hai là vác mông chạy theo thằng khác. Để rồi sau đó họ chìm đắm trong nỗi đau của kẻ thất bại bị bỏ rơi, quên lãng. Nó còn kinh khủng hơn nỗi cô đơn của hắn… 

Những lúc ấy, hắn thấy mình còn may chán, bởi cuộc sống tù đày như một con tàu chậm rì rì nhưng lại cần mẫn chạy một mạch mà không tốn thời gian dừng lại ở các ga xép dọc đường... 

À không, nói chính xác, hắn cũng được thăm nuôi một lần bởi một cô gái điếm mà hắn từng là khách ruột. Hắn quen nàng tình cờ trong một “tổ quỉ” ở trung tâm thành phố và thấy thích thú ngay với vẻ chân quê của cô thôn nữ miền hạ lưu sông Đông lưu lạc sang đất này. Nàng chân chất, giản dị, hay nói theo ngôn ngữ của đám quen xài “vợ một đêm” như bọn hắn, là “còn chưa biết vẽ mặt”. 

Nếu phần lớn các cô gái bán hoa đều luôn giữ gìn “ốc đảo” của mình thật nhẵn nhụi, bảnh bao để phòng tránh bệnh tật, thậm chí còn chăm chỉ hơn cả đám đàn ông hàng sáng đứng cạo râu trước gương, thì nàng giống như cánh rừng hoang vu với tất cả những dấu tích nguyên thủy mà thiên nhiên trù phú ban tặng. Đám cỏ miền thảo nguyên mềm mại sau cơn mưa lan tỏa từ miền đồng bằng, lên bình nguyên, xuống thung lũng như níu kéo, như chỉ dẫn cho con chiên tội nghiệp đường đến thiên đàng. 

Đối với những hiệp sĩ mệt mỏi lang thang, đơn thương độc mã một mình một ngựa suốt ngày phải đánh nhau với cối xay gió ở những vùng bình địa, thì cánh đồng lúa mì vàng rực ấy luôn là nỗi khát khao. Chẳng hiểu có phải cũng cám cảnh thân phận cá nước chim trời của kiếp trai tứ chiếng, gái giang hồ hay vì cách đối xử hào hiệp đầy vẻ Đông Ki Sốt của gã khách chơi, mà nàng dành cho hắn một sự ưu ái thật đặc biệt. 

Mỗi lần hắn đến, dù là với vẻ phởn phơ thèm muốn của một con đực đang đói khát, hay với nét mệt mỏi, chán chường của con la già kiệt sức; bao giờ nàng cũng đằm thắm hôn rất lâu vào môi hắn theo cái lối mà chỉ những nữ thần trên đỉnh Ôlimpơ dành cho người tình trong mộng. Những lúc ấy, dường như cả hắn và nàng đều quên đi thân phận lưu lạc của mình, quên đi số kiếp hẩm hiu như mang theo từ tiền kiếp… 

Chỉ còn lại đôi tình nhân đắm đuối chợt nhận ra kẻ kia là món quà quí báu duy nhất trên đời dành cho họ. Có nhiều lần “đi qua đêm”, sau những thời khắc mê mải ân ái, hắn ngủ thiếp đi, nhưng vẫn lờ mờ cảm nhận được mình đang gối đầu vào lòng nàng. Nàng ngồi lặng lẽ vuốt tóc, vuốt mặt hắn, ngắm nhìn cái dáng ngủ còng queo nhăn nhó vừa qua một trận ẩu đả tranh giành trong cuộc mưu sinh. 

Có lần hắn đã bắt gặp những giọt nước mắt âm ấm, mằn mặn rơi ra từ đôi mắt màu hạt dẻ… Nàng khóc cho hắn hay cho chính thân phận bèo bọt của mình? Đến lúc bị bắt, đôi khi hắn vẫn thoảng nghĩ đến nàng như nghĩ về chân trời tự do đang vẫy gọi… 
Nhưng nghĩ là nghĩ vậy thôi...

... Ai ngờ, vào một buổi chiều thu sau nửa năm ngồi ngắm trời xanh qua khung cửa sổ tò vò, người ta gọi hắn lên gặp thân nhân. Lầm lũi đi theo viên quản giáo qua bốn lần cửa sắt, năm dãy hành lang dài hun hút, hắn băn khoăn tự hỏi cái người cất công đến tận nơi heo hút này với hắn là ai? 


Đến lúc thấy nàng ngồi sau tấm kính, hắn ngỡ ngàng choáng váng như đang trong bóng tối bất đồ bước ra ánh nắng… 

Đúng là nàng! 

Đôi mắt màu hạt dẻ buông trùm cái nhìn buồn bã rưng rưng lên hắn. 

Hắn ngồi lặng đi, trân trân nhìn nàng và cố hiểu điều gì đang xảy ra? 

Sau giây phút choáng ngợp, cả người hắn bừng bừng thèm khát được nhoài người qua tấm kính cách li xiết chặt lấy tấm thân rừng rực mà hắn đã quá quen thuộc ngấu nghiến cho xương cốt nàng kêu răng rắc như con trăn núc mồi, và sau đó lại được gục đầu vào lòng nàng như những phút giây hiếm hoi nào đó mãi mãi lùi xa vào quá khứ. 

Đến khi lờ mờ hiểu ra rằng nàng tìm đến để từ biệt, vì có một gã khách làng chơi người Đức đem lòng yêu và đón nàng sang bên đó thì giờ thăm nuôi đã hết. Hắn cuống cuồng, vội vã, chỉ kịp lào khào nói với nàng những lời không đầu không cuối, rằng nàng hãy bảo trọng, rằng hắn còn một khoảng thời gian ngồi tù dài dằng dặc, nếu thấy cuộc sống bên đó không ổn thì hãy quay lại tìm hắn sau ba năm rưỡi nữa… 

Nàng nhìn hắn, lặng lẽ gật đầu, từ đôi mắt u buồn những giọt nước mắt ứa ra. Đôi môi mọng ướt mấp máy câu “vĩnh biệt”. Năm ngón tay gầy guộc trắng muốt huơ huơ sau tấm kính. Viên quản giáo phải giục đến lần thứ hai, hắn mới lê nổi bước chân. Vừa cố tình dùng dằng kéo dài thời gian trước khi rúc đầu vào khung cửa sắt nặng trịch, hắn vừa ngoái đầu nhìn lại bóng dáng mảnh mai của nàng đang đi qua khoảng sân rợp lá vàng. 

Bỗng một cơn gió thốc đến, cuốn những chiếc lá vàng cuối thu xơ xác vướng vít quanh đôi chân nàng đang bước đi liêu xiêu, ngập ngừng… Hắn chợt sợ nàng vấp ngã trong cơn gió nhẹ ấy. Rồi lại chợt nao lòng nhớ về thành phố tuổi thơ bây giờ cũng đang tiết heo may…
Nhưng nghĩ là nghĩ vậy thôi...

Tomek khe khẽ cựa mình, hoảng hốt ngồi nhỏm dậy, mắt vẫn nhắm nghiền, đưa tay quờ quạng… Bàn tay bé xíu lứơt nhẹ trên gương mặt hắn. Rồi nó yên tâm đổ gục xuống, hơi thở nhẹ dần, nhẹ dần… Khẽ nâng đầu thằng bé gối lên bắp tay, hắn áp mặt vào mái tóc ngầy ngậy mùi sữa và vỗ nhè nhẹ vào mông nó. Sao bỗng dưng hắn thấy mình yếu đuối thế này? 


Cứ muốn được nằm mãi như vậy, bên thằng bé, ôm ấp nó, hít hà mùi da thịt con trẻ, mọi nỗi niềm đau đớn tan chảy… Bỗng dưng thấy mắt cay cay. Chả muốn khóc và chả có lý do gì để khóc nhưng nước mắt cứ chờ chực bờ mi. Cả người nhũn ra, không còn bất cứ sự chống chọi nào, cố gắng nào. Muốn buông bỏ tất cả. Mặc xác cuộc mưu sinh bất tận. Mặc kệ cuộc đời chó má. Hắn muốn vứt hết, vứt hết để đổi lại giây phút này. Lạ quá, chưa bao giờ hắn thấy bình yên đến thế.

Ngoài trời gió vẫn điên cuồng gào thét, tuyết vẫn tả tơi bay. Thằng bé lại mơ ngủ, bàn tay vẫn quờ quạng tìm kiếm trên gương mặt hắn. Nâng nhẹ mấy ngón tay bé xíu âm ấm se sẽ cà lên mặt, hắn bất chợt mỉm cười. Những ngón tay nhỏ duỗi dần, duỗi dần, vô lực… Hắn khẽ ngậm từng đầu ngón tay trong miệng, lẩn mẩn như đang thực thi một nghi lễ không biết chán. Mặc kệ ngày mai. Mặc kệ tương lai. Mặc kệ hết…

Chợt có tiếng kẹt cửa rất khẽ. Marta!

Cô ta rón rén đi vào trong phòng, tiến tới chiếc giường, nơi hắn đang ôm Tomek nằm thao thiết, khẽ ngồi xuống thành giường, đưa tay sửa chiếc chăn và xoa đầu Tomek. Bàn tay run run vuốt dọc theo má Tomek và khẽ chạm phải cánh tay hắn. Bàn tay dừng lại. Ngập ngừng… Hắn nằm im thin thít trong bóng tối lờ mờ, cố nén một tiếng thở dốc. Ít giây sau, bàn tay ấy khẽ khàng lần theo cánh tay vạm vỡ tiến lên cổ, lên mặt hắn. Những ngón tay lùa vào mái tóc, lan xuống mặt và mơn man bờ môi kèm theo tiếng thở dài nghèn nghẹt. Hơi thở bị kìm nén nóng hổi phả vào mặt hắn. 


Cái mũi vốn bình thường luôn khụt khịt, thậm chí để thở cũng không xong, lúc này trở nên thính nhạy đến lạ lùng. Một mùi ngai ngái, ngầy ngậy, đặc trưng của giống cái lúc động dục như lan tỏa, thấm đẫm từng tế bào đang căng cứng trong thân thể hắn. Bàn tay đang ở phần ngực, xuống dần phần rốn. Hắn khẽ hóp bụng. Bàn tay chui sâu, khựng lại. Những ngón tay run run vuốt lên, vuốt xuống. Người hắn nhũn ra, đầu óc mụ mị, đờ đẫn. Hắn vờ trở mình, đặt tay lên đùi nàng. 

Lập tức, có một bàn tay khác khẽ nắm lấy nó lôi đến miền ẩm ướt rậm rạp. Những ngón tay hắn trơn tuột, xõng xoài. Hắn đưa tay còn lại vít lên cần cổ mong manh đang cong xuống. Như chỉ chờ có thế, tấm thân mềm nhũn, nóng hổi phủ phục lên người hắn. Trong một sự cố gắng ghê gớm, hắn khẽ khàng tuột xuống giường nhẹ nhàng như một con mèo để khỏi kinh động giấc ngủ của thằng bé và bồng lấy tấm thân mềm oặt nóng rực của thiếu phụ đi sang phòng khác…

- Sao bây giờ anh mới xuất hiện hả Vinh?

Nhấm nháp những giọt mồ hôi đang túa ra ướt đẫm ngực hắn, Marta vừa hỏi, vừa ngước nhìn bằng ánh mắt âu yếm, nuối tiếc và đầy trách móc. Lúc này nàng đã gọi đúng tên hắn, chứ không phải là “Việt” như ít phút trước đó mà nàng đã gào khản cổ trong những cơn khoái cảm liên tiếp.

Hắn nhìn nàng trìu mến, pha lẫn chút mệt mỏi nhưng đầy sảng khoái, thốt nhiên bật ra một câu như từ trong vô thức:

- Cho anh thay thế chỗ của Việt, được không em?

Một cái lắc đầu đầy tuyệt vọng, đôi mắt nàng nhắm nghiền:

- Muộn quá rồi Vinh ạ! Anh chỉ có thể là Việt đối với Tomek thôi!

- Tại sao? - Hắn nhíu mày.

Marta như chực khóc, nàng giơ ngón tay áp út:

- Bởi em đã đính hôn với người khác mất rồi…

- Daniel phải không? - Hắn chợt nhớ đến lời mách của Tomek và khoảng lặng ngượng ngùng giữa hai người lúc ngồi ngoài bếp.

- Vâng! – Nàng khẽ gật đầu xác nhận.

- Bỏ hắn đi. Chẳng lẽ cái nhẫn này lại có thể trói chân em được sao? - Hắn chợt ngừng lời và thấy mình vô lí kinh khủng khi xui một người đàn bà bỏ chồng chưa cưới như xui một đứa trẻ con vứt đi chiếc kẹo đang mút dở.

- Không, muộn mất rồi! – Đôi môi nàng lại run lên – Em đã có thai với Daniel.

Nàng òa khóc.

Hắn lặng đi.

- Lẽ ra chúng em đã sang Ý, bố mẹ Daniel định cư bên đó, nhưng vì vướng bé Tomek nên chưa đi được… - Nàng ngước mắt nhìn hắn, đầy đau khổ rồi ngập ngừng: - Cả Daniel và gia đình anh ấy, không ai muốn có thằng bé… Vì Tomek không phải… là một đứa trẻ da trắng.

Nàng nói những từ cuối một cách chật vật, khó khăn rồi thở hắt ra.

Hắn choáng váng cau mặt, nghiến răng, bàn tay nắm chặt lại. Run run. Nhìn vẻ hung dữ của hắn, Marta tái mặt lắp bắp:

- Không… không… Vinh, em xin lỗi. Em không có ý định xúc phạm anh…

Hắn cười gằn:

- Hừ, không sao. Mười lăm năm nay, tôi đã quá quen rồi với những lời miệt thị ấy mà.

Marta nhẫn nhục cúi đầu.

Hắn hỏi tiếp:

- Thế hóa ra vì thằng bé mà các người chưa đi Ý được à? Các người định làm gì với nó đây?

Marta lắc đầu:

- Chính em cũng chưa biết. Daniel bảo nên cho Tomek vào trại trẻ mồ côi. Anh ấy đã sắp đặt xong việc này…

-T hế thằng bé đã biết là nó sẽ phải nhập trại chưa? - Hắn gần như quát lên. – Sao các người lại nỡ làm thế?

- Chưa, em chưa biết phải nói với cháu thế nào? - Marta bất khóc thút thít – Em có muốn thế đâu? Nhưng anh biết đấy, em là đàn bà…

Hắn nghiến răng, gằn giọng:

- Không được! Các người không được cho thằng bé vào đó!

Hắn hốt hoảng thật sự, vì chợt nhớ tới thằng bạn tù cùng phòng, là trẻ đường phố bị thu gom vào trại trẻ mồ côi. Số phận những kẻ như nó, thằng bạn tù bảo, hoặc là cầm súng sẵn sàng nhả đạn theo lệnh thượng cấp bất kể cái đích nhằm đến là ai, hoặc là cuộc đời trôi dạt ở những nơi tăm tối không ai buồn đặt chân tới. Chính cái thằng bạn tù ấy trước khi “nhập kho” đã từng lăn lộn, ngập ngụa trong những cuộc chiến đẫm máu vô nghĩa ở xứ Macedonia gần hai năm trời... 


Vậy mà giờ đây, người ta định cho Tomek vào trong đó. Hắn không ngăn được sự tức giận bỗng chợt bùng lên như đám cháy. Hắn hất mái đầu có lọn tóc nâu mềm mại ra khỏi cánh tay một cách thô bạo, rít lên:

- Tại sao các người lại đón nó sang đây nếu không đủ dũng cảm để chịu trách nhiệm về nó? Chẳng thà cứ để nó yên ổn với cái trại tế bần tại xứ sở của nó có phải hơn không? Đằng nào thì cũng là một cuộc sống khốn nạn, nhưng ít ra ở nơi ấy, nó không phải là con quạ đen giữa đàn quạ trắng. Và đất nước các người cũng chẳng hề hấn gì nếu thiếu mất một tay súng, một cái máy giết người có nguồn gốc da vàng đâu, hiểu không?

Hắn bật dậy, gầm gừ đi lại quanh căn phòng như một con hổ. Con hổ ấy đang khỏa thân và không còn ý thức đang ở đâu, được phép làm gì, nói gì?

Marta rền rĩ:

- Vâng, em hiểu. Nhưng em đâu có muốn để sự thể xảy ra như vậy. Em đã kể hết với anh rồi cơ mà?

Một quyết định vụt đến nhanh như tia chớp. Hắn nhìn người đàn bà đang ủ rũ thu vai ngồi trên giường nệm tan hoang, tanh bành.

- Được, tôi sẽ nhận Tomek làm con nuôi để giải phóng cho cô. Ngay ngày mai, chúng ta sẽ ra văn phòng luật sư hỏi thủ tục. Đằng nào thì cho tới giờ phút này, tôi vẫn một thân một mình hệt như thằng bé và nó lại cùng chủng tộc với tôi. Tốt cả cho tôi và cả cho nó… Tôi chưa bao giờ làm cha, nhưng nếu Tomek trở thành con tôi, thì cô hãy tin tôi sẽ là một thằng bố có trách nhiệm nhất. Cô cứ yên tâm mà chuẩn bị cho chuyến di cư của mình.

Người đàn bà ngồi ngẩn trên giường, nhìn hắn đang đứng giữa phòng, trần truồng, cơ bắp đang gồng lên trong cơn tức giận như bức tượng thần Hercules:

- Anh… anh nói thật đấy chứ?

- Tôi không có ý định kể chuyện tiếu lâm cho cô nghe đâu! - Bức tượng lạnh lùng trả lời.

Người đàn bà bước xuống đất, đến trước mặt hắn và quì xuống. Nàng ngước nhìn hắn bằng ánh mắt van vỉ.

- Em mang ơn anh, Vinh! Xin hãy cứu giúp hai mẹ con em! Hãy chăm sóc Tomek, vì quả thật, em không thể làm khác được.

Rồi bất ngờ, nàng bò đến bên hắn, úp mặt vào giữa hai đùi. Hơi thở ấm nóng, vành môi mềm mại, hối hả hôn lên đó một cách thành kính và đầy vẻ biết ơn. Hắn thô bạo đẩy đầu nàng ra.

- Cô định trả công cho tôi bằng cách này đấy à?

Marta đau khổ van vỉ:

- Không, đừng hiểu nhầm. Lẽ nào anh lại không thấy là em thèm khát anh thật sao! Chưa bao giờ em được hưởng cảm giác ấy với những người đàn ông khác. Vinh! Hãy yêu em đi!

Hắn nhìn chằm chằm vào mắt nàng, đôi mắt ấy đang dại đi nhưng vẫn lấp lánh một ngọn lửa. Hắn hiểu là nàng thành thật…

Buổi sáng, còn đương lơ mơ với giấc ngủ vùi muộn mằn, chợt hắn cảm thấy có một bàn tay sờ vào má, vào vai, khẽ lay lay.

Tomek đang nhìn hắn bằng đôi mắt trong veo, hun hút buồn. Rồi nó luồn tay qua gáy kéo hắn ngồi dậy, lặng lẽ ấn vào chân hắn đôi kapcia . Hắn đưa mắt nhìn và chợt hiểu đây là đôi dép của Việt. Hơi chật, nhưng để chiều thằng bé, hắn vẫn cố ních chân vào. Tomek nắm tay hắn kéo ra ngoài, không thốt một lời.

Marta đang pha trà, chuẩn bị bữa ăn sáng ngoài bếp. Nàng kể là sáng nay dậy trước, Tomek vạch áo và ngạc nhiên khi thấy vết đánh gió trên ngực. Được Marta giải thích, Tomek nhớ lại mọi chuyện xảy ra tối qua. Nó vội chạy đi tìm đôi kapcia (4) của Việt rồi hí húi mang bàn chải ra cọ sạch những vết mốc.

Sau bữa sáng Tomek đồng ý đến lớp học với lời bảo đảm là sẽ được hắn đưa đón như lũ trẻ khác. Từ bãi để xe, hắn dắt tay Tomek đi vào cổng trường. Thằng bé lầm lũi đi bên cạnh, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn hắn. Khi hắn âu yếm nhìn lại, nó vội quay phắt đi. Marta lững thững đằng sau.

Một đám trẻ đang vốc tuyết thành những nắm to tướng ném vào người nhau. Thấy Tomek đi bên hắn, một đứa hét tướng lên:

- Ê, thằng con hoang! Mày đi với ai đấy?

Tomek ngước lên nhìn rồi bất ngờ tuột khỏi tay hắn, chạy lại húc đầu vào người thằng bé kia. Tất cả còn đang sững sờ ngạc nhiên vì thái độ phản ứng của Tomek thì thằng bé đã thản nhiên quay lại, nắm tay hắn kéo đi. Hắn cảm thấy bàn tay của thằng bé siết chặt những ngón tay hắn.

Hai phụ nữ đang đứng tán gẫu trước cổng trường, một người nhìn Tomek, nháy mắt cười thân thiện:

- Chào Tomek! Hôm nay có khóc nhè đòi bỏ học không đấy?

Thằng bé lắc đầu, dõng dạc:

- Không, cháu sẽ không như thế nữa đâu pani (5) ạ! Đây là bố cháu! - Rồi ngước lên nói với hắn: - Pani này là cô giáo của con!

Hắn nghiêng mình, lịch sự cúi chào. Bà giáo khẽ đáp lễ rồi ngớ người ra nhìn Tomek, lẩm bẩm:

- Lạy Chúa lòng lành! Hi vọng là mọi chuyện đã ổn với thằng bé!

Lúc chia tay trước cửa lớp, hắn cúi xuống ôm chặt Tomek. Thằng bé nhìn hắn, thì thào:

- Chiều nay bố có đến đón con không? Bố sẽ không bỏ con đi nữa chứ?

Hắn nhìn vào đôi mắt trong veo của thằng bé, giọng khàn khàn như mắc nghẹn nơi cổ họng:

- Tất nhiên… Bố sẽ đến đón con!

Tomek buông tay hắn, lững thững sải những bước dài vào trong lớp. Hắn nhìn theo cho tới khi nó đã lẫn vào giữa đám bạn mới quay người đi ra xe. Marta đứng cách một đoạn dưới gốc cây sồi già đã rụng trơ hết lá, chỉ còn lại các cành tua tủa phủ đầy tuyết trắng, nhìn hắn và thằng nhỏ. Ánh mắt nàng xa xăm, trĩu nặng ưu tư...

* * *

- Rất tiếc phải nói với ông những lời này – Viên luật sư gõ nhẹ mấy ngón tay xuống mặt bàn như một thói quen khó bỏ - Nhưng rõ ràng là không ổn.

- Chẳng lẽ không còn cách nào hay sao? Đằng nào mà cháu chả phải sống trong trại tế bần - Hắn cầu khẩn.

- Không! Dù ai cũng biết cuộc sống trong trại tế bần không sung sướng gì, nhưng đó là một nơi được xã hội thừa nhận. Chắc chắn tòa sẽ không đồng ý cho ông nhận nuôi cháu bé, vì bản thân ông không có công ăn việc làm, nghĩa là không đảm bảo nguồn thu nhập để nuôi đứa nhỏ. Thêm một điều nữa… – Viên luật sư nhìn hắn vẻ ái ngại – Ông vừa ở tù ra. Điều này cũng sẽ làm cho quan tòa dễ dàng hơn để nói chữ “Không!”. Mặc dù tôi hiểu, đó chỉ là định kiến, một thứ định kiến chung của xã hội… Nhưng biết làm thế nào được?

- Tôi hiểu! - Hắn cay đắng thú nhận.

- Ông cũng nên thông cảm với các vị quan tòa, vì chẳng có gì bảo đảm khi hạn thử thách sáu tháng kết thúc, người ta sẽ cấp thị thực cư trú cho ông ở lại đất nước này. –Viên luật sư chán nản lắc đầu - Như vậy việc giao đứa trẻ, một công dân Ba Lan cho một người nước ngoài không có công ăn việc làm và không có tư cách pháp nhân là điều không thể xảy ra. Hi vọng ông hiểu những điều tôi muốn nói?

Lại một cái nhìn ái ngại.

- Vâng! - Hắn thở dài và chìa tay ra. – Xin cảm ơn luật sư!

- Rất tiếc là tôi không thể giúp gì được ông bà lần này–Viên luật sư khẽ bắt tay Marta và nắm tay hắn – Nhưng nếu ông sớm ổn định công ăn việc làm và xin được thị thực cư trú, thì tôi hứa sẽ giúp ông thủ tục nhận đón cháu từ trại trẻ tế bần về. Ông có gần năm tháng để xúc tiến việc này. Xin chào ông bà!

Hắn nặng nề đóng sập cánh cửa xe rồi nổ máy. Marta lặng lẽ ngồi bên cạnh.

- Bao giờ Daniel về? - Hắn hỏi, vẻ chán chường.

- Chắc tối nay! – Nàng đáp cũng với vẻ mệt mỏi.

- Vậy anh không ở đây được nữa rồi!

- Vâng, em cũng nghĩ như vậy! – Nàng khẽ gật đầu.

Chiếc xe vẫn lầm lũi lao đi.

- Thế này nhé… - Hắn nói khi đã tới chân khu chung cư - … bây giờ chúng ta chia tay. Anh ra trường gặp Tomek và nói chuyện với nó. Anh sẽ làm tất cả để có thể đón nó về nhanh nhất. Tạm thời sẽ cố gắng khoảng mươi ngày lại lên thăm nó một lần… nhưng có lẽ anh sẽ chỉ đến trường thôi. Còn em… - hắn nhìn vào mắt nàng: - Chúc thượng lộ bình an và hãy giữ gìn sức khỏe!

- Hãy ở lại với mẹ con em vài ngày nữa! Anh có thể thuê motel (6) ở tạm mà! – Marta tha thiết đề nghị, mắt rưng rưng.

- Không, anh phải về Vác thu xếp công việc. Bây giờ thì em đã rõ thân phận thật của anh rồi đấy. Mọi thứ đối với anh còn mờ mịt lắm. Thêm Tomek nữa, chắc chắn hai bố con anh sẽ rất chật vật. Nhưng không sao! - Hắn lặng đi giây lát, nắm chặt tay nàng - Người Việt bọn anh hay nói: “Có duyên thì còn gặp lại”. Chúng mình cũng vậy, hy vọng là chưa cạn duyên…

Marta khẽ siết chặt bàn tay hắn.

- Những gì mình đã có với nhau, xin em hãy giữ như một kỉ niệm! Hãy bảo trọng! Vĩnh biệt em!

- Vĩnh biệt anh!

Nàng thì thào rồi lặng lẽ khóc. Bất chợt, nàng nhoài người, ôm lấy hắn hôn như điên dại. Họ mềm ra trong vòng tay nhau. Sau cái hôn kiệt sức, nàng lập cập mở cửa xe, bước nhanh ra ngoài. Hắn ngoái đầu nhìn lại. Tuyết rơi đầy trời, Marta nước mắt lưng tròng, bàn tay tuyệt vọng vẫy chào, môi run run mấp máy, hình như là câu ” vĩnh biệt!” - hắn đoán thế. Dáng nàng nhỏ nhoi, xiêu vẹo dưới bầu trời đông xám xịt không chút sinh khí. 

Dường như có một nét gì đó giống nhau giữa hai người đàn bà đã đi qua cuộc đời hắn, một ở sân trại giam vào chiều cuối thu tơi tả lá vàng, một dưới cơn mưa tuyết lạnh giá trong ngày đông ảm đạm. Hắn chợt thấy mắt mình cay cay và đau đớn nhấn ga. Chiếc xe hộc lên…

***

- Con ăn đi! Rồi bố mua nữa cho đem về nhà. - Hắn đẩy gói khoai tây chiên ra trước mặt Tomek.

- Con không muốn ăn! - Thằng bé bải hoải lắc đầu.

- Ăn đi! Đừng buồn, bố sẽ thường xuyên lên đây thăm con mà. - Hắn nói và vụng về xoa đầu thằng bé.

- Bố lại bỏ con đi à? - Thằng bé nhìn hắn đau đáu.

- Không! Bố không bỏ con đâu! - Hắn ghì chặt nó vào lòng, đặt một nụ hôn dài lên má. – Con chỉ phải ở trong trại một thời gian, rồi bố sẽ tìm cách đón con về.

- Tại sao phải thế? – Vẫn cái giọng ấm ức, ngột ngạt.

- Bố đã nói với con rồi còn gì… Con hãy cho bố một thời gian để lo xong công việc và bố sẽ về đón con.

Tomek lắng nghe nhưng vẻ mặt dường như không hiểu hắn đang nói gì.

- Chàng trai của bố, can đảm lên nào… Bố yêu con. Bố hứa là sẽ không để con ở đây lâu nữa đâu.

Tomek cắn răng, gật đầu, ôm chặt lấy hắn, khóc lặng lẽ. Lát sau nó ngẩng đầu lên nói trong nước mắt:

- Bố đừng bỏ con đi như bố Việt nữa nhé.

Hắn ôm lấy thằng bé. Hoá ra thằng bé không hề nhầm tưởng hắn và Việt như Marta đã nghĩ.

- Không…Bố sẽ không bỏ con đi đâu cả.

Tomek gục đầu vào lòng hắn, mắt lim dim, bờ mi vẫn ngấn ngấn những giọt nước còn đọng lại. Bất chợt hắn đưa tay vuốt tóc nó và cất tiếng hát ru:

- Cái cò lặn lội bờ sông… Gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non… Nàng về nuôi cái cùng con… Để anh đi trảy nước non Cao Bằng…

Tomek khẽ nhoẻn cười ngẩng đầu lên:

- Bây giờ bố hát mới giống bố Việt.

- Con muốn nghe nữa không?

Tomek không trả lời. Cả hai rơi vào sự im lặng, một sự im lặng ngột ngạt. Rồi thằng bé từ từ ngẩng đầu lên nhìn hắn hồi lâu.

- Bố ơi, tại sao mình lại ở đây?

Hắn ngạc nhiên:

- Sao con lại hỏi thế?

- Cô giáo bảo quê con ở xa lắm…Xa là ở đâu? Thế tại sao con lại ở đây? - Tomek nhìn chờ đợi.

- Bố cũng không biết nữa…- Hắn băn khoăn và hoang mang - Nhưng chắc chắn, bố con mình sẽ về lại quê hương, con ạ! Ở đó bố còn mẹ, các em, nghĩa là con sẽ có bà và các cô của con…

- Nhưng bà và các cô sẽ không ghét con như chú Daniel chứ? – Tomek lo lắng.

- Không! Không bao giờ. Con tin bố chứ? - Hắn đau khổ.

Thằng bé lại gật đầu và nép vào ngực hắn. Hai mắt nhắm nghiền…

Hắn đưa Tomek trở lại trường vì chỉ xin phép bà giáo đi chơi một lúc. Khi chia tay, hắn hỏi:

- Con biết tự mình làm những việc bố dặn rồi chứ?

Tomek ôm ngang lưng hắn, cứng cỏi:

- Bố về đi!

Nó chìa tay cho hắn bắt như hai người lớn rồi quay ngoắt đi vào, nhất định không ngoái đầu lại. Được vài bước, hắn quay lại nhìn. Thằng bé vẫn cắm cúi bước đi, cái dáng so so bé nhỏ. Hắn đứng nhìn theo, ruột gan rối bời, đau đớn…

***

Về Vác, hắn lao vào làm đủ thứ việc để có tiền sinh sống và cứ hai tuần một lần, nhảy tàu lên thăm Tomek. Hắn luôn gọi điện báo trước và xin phép Marta được gặp Tomek, thực ra là để tránh mặt nàng. Đã thành lệ, chiều thứ bảy giữa và cuối tháng, Tomek quần áo chỉnh tề đứng bên cửa sổ nhìn xuống dưới đường ngóng đợi. Khi thấy hắn lếch thếch chui từ ô tô buýt ra, thằng bé hộc tốc chạy xuống. Nhảy hai bước một từ bậc cầu thang, Tomek lao ra đu lên cổ hắn. Hai cha con ôm nhau, cuống cuồng, vội vã như sợ thời khắc hiếm hoi vuột mất. 

Ở cái thị trấn nhỏ bé này, cũng chẳng có mấy chỗ để vui chơi. Thường bố con dẫn nhau đi dạo phố, kể cả những hôm trời xầm xì mưa tuyết. Sau khi tản bộ, bao giờ hắn cũng đưa Tomek vào MacDonald, mua đồ ăn sẵn rồi về trú chân tại một khách sạn rẻ tiền. Sau bữa tối căng bụng toàn khoai tây chiên và bánh hamburger, hai cha con dẫn nhau ra rạp xem phim, những bộ phim dành cho trẻ con.

Nhưng giây phút mà Tomek thích nhất là khi hai cha con nằm ôm nhau lăn lộn giữa đống chăn nhàu nát, xỉn màu của khách sạn nghe hắn kể chuyện. Hắn bịa chuyện không đến nỗi nào. Những châu chấu, đế mèn, con trâu, mái đình, cây đa, chú Cuội…lần đầu bước vào thế giới tuổi thơ của Tomek, để rồi sống cùng nó chờ đợi cho đến tận lần gặp gỡ sau.

Một tối thứ sáu, như thường lệ, hắn bấm máy để báo cho Marta xin gặp Tomek vào chiều hôm sau. Nhưng thay cho câu: “Hallo, em đây, chào Vinh!” như mọi bận, tổng đài tự động thông báo số máy đã bị khóa. Sau dăm lần thử gọi nhưng không kết quả, linh cảm thấy có chuyện không ổn, hắn ra ga đáp ngay tàu đi chuyến sớm nhất.

Đến nơi khi trời vừa mờ sáng, hắn lao lên căn hộ cũ kĩ trên tầng năm, hối hả nhấn chuông. Cánh cửa gỗ ọp ẹp im lìm như vách núi. Hắn vừa nhấn chuông, vừa đạp ầm ầm. Vài phút sau, từ phía sau có tiếng kẹt cửa. Một cái đầu rối bù thò ra từ nhà hàng xóm, giọng khê nồng:

- Đồ thổ tả! Làm gì mà nhặng lên cứ như là ngày tận thế đang đến ấy?

Một bà già lạ hoắc, cau có. Hắn vội vàng xin lỗi, hỏi thăm mẹ con Marta. Hấp háy cặp mắt còn chưa hết ngái ngủ, bà già xua tay ra hiệu:

- Tôi biết, tôi biết! Chờ một chút!

Sau giây lát, cái đầu bù lại thò ra kèm theo tờ giấy gập tư:

- Anh hãy đến ngay địa chỉ này tìm thằng bé. Tuần trước, khi bị người ta mang đi, nó giãy giụa, khóc khản cổ gọi bố và đập đầu vào tường chảy máu be bét. Thấy tôi, nó gào lên: “Bà Walda, xin hãy báo cho bố cháu! Chiều thứ bảy bố cháu sẽ đến đây tìm cháu”… Anh đi ngay đi kẻo nó đợi!

Giật phắt tờ giấy từ tay bà già, hắn lao đi như một cơn lốc.

Mò được đến trại trẻ mồ côi thì đã non trưa. Vừa nhìn thấy hắn, người thường trực đứng phắt dậy, ra hiệu đi theo. Qua dãy nhà ăn, hàng trăm đứa trẻ sàn sàn như trứng gà trứng vịt đang ầm ĩ, nhốn nháo xếp hàng chờ phát xúp. Hắn dừng lại đưa mắt tìm Tomek. Người thường trực kéo tay ra hiệu đi tiếp.

Họ băng qua khoảng sân lầy lội đang mùa băng tan. Tới khu nhà cũ kĩ như trại lính nằm sát tận hàng rào phía trong cùng, hắn nhận ra đây là trạm xá. Người thường trực chỉ tay vào cánh cửa phòng số ba.

Hắn đẩy cửa nhìn. Căn phòng lạnh lẽo vì thiếu hệ thống sưởi. Ba chiếc giường bệnh trống trơn. Ở chiếc giường thứ tư sát cửa sổ, một hình hài co quắp trong chiếc chăn bông cũ kĩ. Hắn tiến đến. Tomek đầu quấn băng trắng, mắt nhắm nghiền. Hắn phủ xuống, ôm lấy con. Thằng bé từ từ mở mắt. Một tia sáng lấp lánh ánh lên từ hốc mắt sâu quầng mệt mỏi, cất giọng khàn khàn:

- Con biết thế nào bố cũng đến đón con mà.

Hai cánh tay khẳng khiu giơ lên choàng lấy cổ hắn. Hắn bế thằng bé lên. Người nó nhẹ bẫng, chỉ gây một cảm giác thoang thoảng dọc cánh tay lực lưỡng của hắn. Hắn đau đớn siết nhẹ Tomek sát ngực mình, nước mắt chảy dài trên mặt không sao kìm giữ được. Tomek nép vào ngực hắn, thỏ thẻ kể chuyện:

- Mẹ đi với chú Daniel rồi bố ạ…Mẹ muốn gọi điện cho bố nhưng chú ấy không cho, ném điện thoại xuống đất.

Hắn khẽ gật đầu và đưa mấy ngón tay đặt lên môi Tomek để nó không nói gì thêm.

***

… Hắn thẫn thờ nhìn quyển hộ chiếu trên tay. Thế là hết! Niềm hi vọng mong manh cuối cùng đã bị đè chết bởi con đại bàng đội vương miện chễm trệ trên khung dấu màu hồng nhợt nhạt của tấm visa trục xuất. Người ta đã từ chối cấp thị thực tạm cư, bất chấp tất cả mọi nỗ lực, cố gắng, khẩn cầu tuyệt vọng. Hắn biết, điều này sẽ xảy ra, bởi từ khi chính phủ phái hữu lên nắm quyền, chính sách đối với dân nhập cư càng bị siết chặt. 

Có nhiều người nước ngoài là giám đốc những công ti làm ăn ổn định, đóng thuế cao ngất từ dăm bảy năm nay còn bị từ chối cấp thẻ tạm cư, thì cái thứ tù tội như hắn xem ra sẽ chỉ là một con dê còi tế thần mà thôi. Dù đã biết trước cái kết cục chua xót ấy, nhưng hắn vẫn chết lặng như bị ai đó cầm dao ngoáy thẳng vào tim. 

Nguồn cơn của sự đau đớn ấy chính là thằng bé. Về phần mình, hắn hiểu rằng cơn mưa vàng hiếm hoi nhờ sự thay đổi thời cuộc đem lại đã không rơi vào chiếc bị cói là hành trang của kẻ hành khất mỏi cổ mơ về một cuộc đổi đời. Và nó sẽ không bao giờ đến nữa. Lẽ ra hắn có thể thanh thản hồi hương phụng dưỡng bà mẹ già ngoại bảy mươi đang ngong ngóng đợi con về từ hơn chục năm nay, kể từ khi hắn tốt nghiệp đại học. 

Nhưng còn Tomek, hắn không thể để thằng bé ở lại đất này…

Vẫn đều đặn hai tuần một lần, hắn lên trại mồ côi thăm con. Bao giờ thằng bé cũng lầm lũi đứng ngóng sẵn ở cổng, bên cạnh thanh barie. Dường như những cuộc gặp gỡ này đã cho nó thêm niềm tin để chống chọi với cuộc sống cực khổ, tủi nhục giữa đám trẻ da trắng bụi đời. Có lần thấy thằng bé bầm tím một bên mắt, hỏi ra mới biết tụi trẻ vào hùa bắt nạt, cướp phần thức ăn ít ỏi của thằng “mọi vàng”. Tomek tuyệt vọng giành lại miếng bánh mì của mình thì bị lĩnh trận đòn hội đồng. Nó ngã quị dưới những cú đấm, đạp. 


Ngồi lặng ôm con bên bãi cỏ trước sân trại, xoa bên má sưng vù của thằng bé, hắn chết lặng mà vẫn phải cười làm ra vẻ không có chuyện gì đáng kể. Rồi giơ tay lột hết áo sống, nhìn thẳng vào mắt con, hắn chỉ cho nó xem những vết sẹo nhằng nhịt ở trước bụng và hai bên mạng sườn mình.

- Con trai! Từ trước đến nay, bố mới chỉ nói với con về tình yêu và lòng nhân ái. Bố quên mất một điều mà lẽ ra phải dạy con từ những ngày đầu tiên khi bước chân vào đây: Con phải biết đương đầu để bảo vệ mình, phải biết chiến đấu với kẻ độc ác… 


Con hãy nhìn những vết sẹo trên người bố và nhớ rằng, bố còn sống được đến giờ phút này là bởi đã không chịu để kẻ khác khuất phục. Con cũng không có bất kì một sự lựa chọn nào khác. Hãy nắm chặt tay vào và xông lên, chàng trai ạ!

Thằng bé nhìn trừng trừng vào những vệt chém ngang dọc trên thân thể của hắn, lặng lẽ không nói gì. Hai tuần lên thăm, hắn thấy Tomek đầu lại quấn băng, mặt xước nhằng nhịt, nhưng cặp mắt vô cùng bình thản, không còn vẻ hoảng hốt trước kia. Ông bảo vệ già mau mồm kể lại những trận kịch chiến nảy lửa giữa Tomek với đám trẻ đầu gấu. 

Quen mui tưởng bở, buổi tối ngay sau hôm hắn về, tụi kia xông đến đòi cướp những phần quà bánh hắn mua cho Tomek, nhưng chúng há mồm không kịp trở tay, bởi thay vì lặng lẽ cống nạp và ấm ức khóc như mọi bận, Tomek lăm lăm hai tay hai hòn đá được mài nhọn hoắt phang túi bụi. Bốn đứa đổ máu, răng rơi lả tả. Bọn còn lại thất kinh, đạp lên nhau mà chạy. 

Tomek bị phạt cách li ba hôm. Nhưng vừa thoát ra, nó lại kiếm một hòn đá khác và tiếp tục lùng sục. Lại bị phạt. Hết án, lại có thằng bị vỡ đầu, sứt tai. Đánh ngày chưa đủ, nó chuyển sang đánh đêm. Sau mươi ngày, thì dù đồ ăn của Tomek có để mốc ra, cũng chẳng đứa nào dám thò tay lấy.

Hắn nghe chuyện và bảo Tomek:

- Thôi, thế đủ rồi! Đừng bao giờ dồn ai vào chân tường cả!

Thằng bé khụt khịt mũi, lặng lẽ gật đầu. Những lần sau, hắn không còn nghe thấy chuyện đấm đá gì nữa…. Mùa xuân đến, mỗi lần lên trại, hai cha con thường dắt tay nhau lững thững đi dạo băng quả cánh rừng. Tomek đã nói được khá sõi tiếng Việt qua nhiều cuộc chuyện trò với hắn. Nó vốn là một đứa trẻ thông minh nên học rất nhanh. Một lần nó nói rành rọt bằng tiếng Việt:

- Bố, bao giờ mình về Việt Nam? Con không muốn ở đây!

- Sao thế? Có chuyện gì vậy? – Hắn tò mò hỏi.

- Đây không phải là quê mình!

Hắn lảng không trả lời vì khi ấy còn đang hồi hộp hy vọng toà án sẽ công nhận hắn là cha của Tomek để có thể nhập lại quốc tịch cho nó.

Thế mà giờ đây, hắn chỉ còn được phép ở lại đất này 48 giờ đồng hồ…

Hắn vẫn nhìn trân trân vào trang visa trục xuất có hình con đại bàng ngạo nghễ. Mấy hôm nay, cộng đồng dân nhập cư thuộc đủ các sắc tộc nhốn nháo vì những đợt lùng bắt của cảnh sát và lính biên phòng. Lại chạy như vịt, lại trốn chui, trốn lủi. Đài báo, tivi liên tục thông báo kết quả các cuộc bố ráp ở thủ đô, những thành phố lớn và các tỉnh miền biên giới để khẳng định chính sách cứng rắn của chính phủ phái hữu với đám dân nhập cư như để ghi điểm trước đám cử tri đã bỏ phiếu cho họ.

Phải rồi…Tại sao hắn không nghĩ ra nhỉ? Bỗng hắn bật dậy, nhảy cẫng lên vui mừng.

Suốt ba ngày, hắn chạy ngược xuôi thu xếp xong công nợ, vun vén tất cả những gì còn lại nhờ người chuyển về Việt Nam và lên trại mồ côi tìm Tomek…

***

Sân bay quốc tế Okecia – Warsaw. Một sáng mùa xuân.

Đám hành khách ngả ngốn khó chịu, bực dọc trong phòng đợi chuyến máy bay của Hãng hàng không Nga Aeroflot bị chậm lại hai tiếng vì lí do kĩ thuật. Tiếng thở dài, ca thán vang lên theo phản ứng dây chuyền.

Trong góc, viên trung sĩ biên phòng ngồi đăm chiêu suy nghĩ. Anh ta thức suốt phiên trực đêm qua, lẽ ra giờ này đã được nằm trong chăn ấm với cô vợ mới cưới căng mọng, núng nính, thơm phức như miếng bánh ga tô. Thế mà cái lão đại úy chết tiệt, tự dưng gọi điện ra lệnh phải ở lại áp tải hai người nước ngoài bị trục xuất lên máy bay. 


Nhận lệnh cấp trên, trung sĩ điên tiết, nhưng cũng chỉ biết lắc đầu chửi đổng. Mẹ khỉ, tại sao người ta cứ nhè phiên trực của mình để trục xuất cái đám nhập cư bất hợp pháp này nhỉ? Lại phải nhìn thấy những hình hài lếch thếch, những khuôn mặt méo mó, đau khổ, đầy vẻ tuyệt vọng vì giấc mộng vàng nửa đường đứt gánh. 

Trong cuộc đời quân ngũ của mình, trung sĩ đã nhiều lần nao lòng trước đám người khốn khổ, tội nghiệp và đáng thương ấy. Kinh Thánh rao giảng, tất cả mọi sinh linh đều được bình đẳng trước Chúa, vậy tại sao đám chính khách máu lạnh chỉ giỏi đấu đá và tham nhũng kia không để cho con người được bình đẳng với nhau? Tại sao không để cho mỗi người được quyền lựa chọn mảnh đất sống thích hợp trong kiếp nhân gian này? 
Sân bay quốc tế Okecia – Warsaw. Một sáng mùa xuân.
Vô cùng chán chường với mệnh lệnh bất đắc dĩ của thượng cấp, nhưng khi xe chở phạm nhân đến, viên trung sĩ thực sự bị bất ngờ. Vì trái với những gì hình dung, trước mặt trung sĩ là hai cha con người Việt. Họ lịch sự, tươi rói, hớn hở như thể chuẩn bị được đi gặp Đức Giáo Hoàng, chứ không phải là cái còng số 8 đang ôm lấy cổ tay người cha. Luật là thế, những người bị trục xuất đã ở tuổi trưởng thành, dù chẳng gây nên tội lỗi gì đe dọa nền an ninh quốc gia hay cộng đồng, xã hội, đều vẫn bị khóa số 8. Thằng bé mặt mũi lanh lợi, kháu khỉnh quấn quít bên cha. Nó xăng xái, tung tăng như một con chim sổ lồng, lúc mở chai nước cầm cho bố uống, lúc đưa tay gãi lưng, gãi cổ cho ông ta. Người cha ngồi một chỗ, nhìn con bằng ánh mắt ấm áp, trìu mến.

Lặng lẽ quan sát hai cha con, viên trung sĩ thấy họ thật đáng mến. Rồi anh chợt áy náy vì những gì mình phải làm. Trung sĩ nhìn quanh, khẽ hỏi người cha:

- Ông có muốn tôi tháo còng ra cho dễ chịu không? Đằng nào thì cũng chả có ai ngoài chúng ta.

Người đàn ông mỉm cười, khẽ nghiêng đầu:

- Cảm ơn trung sĩ. Xin ông đừng bận tâm đến tôi kẻo bị liên lụy. Đằng nào thì cũng chỉ còn ít phút nữa, khi lên máy bay là tôi được tự do rồi mà!

Ngạc nhiên vì lối phát âm rất chuẩn xác, viên trung sĩ hỏi chuyện, mới biết ông ta đã tốt nghiệp đại học ở Ba lan và tổng cộng đã ở đất nước này mười lăm năm. Người đàn ông này thông thạo tình hình chính trị, xã hội, lịch sử, tôn giáo như một trí thức Ba Lan. Thậm chí, có những vấn đề bản thân trung sĩ chỉ nghe loáng thoáng hoặc hiểu một cách mù mờ, thì ông ta nói vanh vách. 

Lạy Chúa! Viên trung sĩ không thể hiểu: tại sao người ta lại trục xuất một người đã sống ở đất nước của anh ta một phần tư quãng đời, đã được hấp thụ nền văn hóa, giáo dục mà không phải công dân Ba lan nào cũng may mắn được hưởng ấy? Còn đứa nhỏ, nó hệt như những đứa trẻ con Ba Lan từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu, cử chỉ, ngoại trừ màu da, màu tóc. Nhưng điều ấy có quan trọng gì? Tất cả chúng ta đều là con người kia mà? Ôi, giá như ta không phải là một tay trung sĩ quèn, thì ta đã thả quách họ ra và cầu chúc cho họ thượng lộ bình an trong nước Chúa mênh mông, thanh bình!

Đám hành khách lại ồ lên, nhốn nháo xếp hàng chờ ra cửa khi nghe loa thông báo máy bay đã chuẩn bị cất cánh. Hai cha con người đàn ông vui mừng đứng dậy. Trung sĩ nhanh chóng bước tới người cha, rút chìa khóa giải phóng cho đôi tay của ông ta khỏi chiếc còng số 8 oan nghiệt. Người đàn ông lịch thiệp cảm ơn rồi khoan khoái cử động hai cổ tay. Thở dài nhẹ nhõm vì đã hoàn thành nhiệm vụ bất đắc dĩ với hai con người đã gây cho anh ta mối thiện cảm, trung sĩ chìa tay:

  -Tạm biệt! Chúc thượng lộ bình an! Mong rằng ông sẽ quên đi những kỉ niệm buồn ở đây và gặp may mắn trên đất Mẹ!

Người đàn ông nắm chặt tay trung sĩ:

- Cảm ơn ông! Rất vui vì người Ba Lan cuối cùng mà tôi được làm quen lại là ông, một người lịch thiệp và tốt bụng. Chúc ông mọi điều tốt lành!

Họ chia tay nhau lưu luyến như những người quen biết từ lâu. Trung sĩ đứng ngẩn nhìn theo hai cha con tung tăng lẫn trong đám hành khách đang tản bộ trên đường băng, nởû một nụ cười và khẽ giơ tay làm dấu thánh.

Trên đường băng, hắn đang kiệu thằng bé trên vai. Tomek thích thú phóng tầm mắt ngắm nghía những chiếc máy bay to như tòa nhà. Chợt nó hỏi:

- Bố ơi, về Việt Nam thì tên con sẽ là Tuấn hay Tomek?

Hắn vỗ vỗ vào chân thằng nhỏ, mỉm cười:

- Con sẽ lấy lại tên cũ là Tuấn. Nhưng với bố, con mãi mãi là Tomek. Con trai ạ!

Thằng bé lẩm bẩm:

-T uấn- Tomek. Tuấn –Tomek…

Và nó bật cười khanh khách. Tiếngï cười mà hắn chưa từng được nghe kể từ khi biết thằng bé.

Hít căng lồng ngực, hắn ngẩng mặt lên bầu trời cao vòi vọi, đưa mắt nhìn xung quanh rồi quì xuống đặt tay lên mặt đất, thì thầm:

- Vĩnh biệt mảnh đất mà ta đã sống những tháng năm tuổi trẻ! Vĩnh biệt một phần đời đẹp đẽ, hạnh phúc nhưng cũng đầy đắng cay! Vĩnh biệt những người đàn bà đã đi qua cuộc đời ta! Vĩnh biệt tất cả!

Đám hành khách lục tục bước lên cầu thang máy bay. Hắn hạ thằng nhỏ xuống đất và dắt tay nó bước lên nấc thang đầu tiên.

Chợt có tiếng huyên náo từ phía sau vọng tới, một tiếng quát:

- Dừng lại!

Hắn thờ ơ quay đầu nhìn. Năm sáu cảnh sát đang hấp tấp chạy tới. Cùng với họ một người đàn bà tay cầm xấp giấy dày cộp. Hắn đờ người sợ hãi khi nhận ra đó là giám đốc trại trẻ. Bà ta chạy đến bên Tomek, hổn hển nói với đám cảnh sát:

- Cháu nhỏ này là công dân của chúng ta, nó không thể bị trục xuất!

Rất nhanh, Tomek hiểu ngay sự tình, gào lên:

- Không, tôi là người Việt nam!

Bà giám đốc giằng tay nó:

- Tomek, cháu là người Ba Lan! Cháu ở lại đây!

Một viên cảnh sát tiến đến, đưa tay bế bổng thằng nhỏ.

Thằng bé giãy dụa, la hét như cố thoát khỏi vòng tay của bà giám đốc và người cảnh sát.

- Thả tôi ra, tôi là người Việt nam!...Bố, cứu con với!

Hàng trăm hành khách của chuyến bay ngây người đứng nhìn. Họ không hiểu điều gì đang xảy ra. Sau một thoáng đờ đẫn, hắn sực tỉnh, lao vào viên cảnh sát đang cố bế Tomek:

- Buông ra. Nó là con tôi! Các người không được cướp con của tôi!

Như được tiếp thêm sức mạnh, Tomek vùng ra khỏi đôi tay viên cảnh sát, chạy đến bên cha. Hai cha con ôm chặt lấy nhau.

Lập tức, ba cảnh sát khỏe mạnh xông đến ghì tay hắn lại. Giằng thằng bé ra. Tomek vừa quẫy, vừa gào:

- Tôi là người Việt Nam! Tôi muốn về nhà!

Như điên dại, hai cha con hắn vẫy vùng, quẫy đạp, cắn xé những bàn tay cứng như sắt đang ghì níu, tách họ xa nhau ra. Hắn gồng người, nhoài bàn tay ra phía thằng bé.

- Tomek, con!

Giọng hắn lạc đi.

- Bố… Đừng bỏ con!

Thằng bé cũng cố nhoài người nắm lấy bàn tay cha, nức nở.

Nhưng hai bàn tay, một lớn, một bé từ từ buông rời nhau ra và bị kéo xa về hai phía. Ba viên cảnh sát lôi hắn xềnh xệch lên cầu thang máy bay. Hắn vật lộn, tru lên như một con vật bị chọc tiết:

- Con tôi! Trả con cho tôi!

Ở dưới đất, Tomek cũng bị giữ chặt. Người ta đang cố lôi nó ra xe trở lại thành phố.

- Bố ơi!

Thằng bé khóc lặng đi không còn hơi trong cơn tuyệt vọng cùng cực. Mái tóc bết lại vì mồ hôi và gương mặt đỏ rực cố ngoái đầu nhìn về cầu thang máy bay nơi bố nó rũ người như tàu lá đang bị lôi đi xềnh xệch.

Bất chợt không hiểu sức mạnh nào khiến hắn vùng thoát khỏi sáu cánh tay đang gìm giữ thân thể mình, chạy xung mấy bậc cầu thang máy bay và gào lên:

- Con… đừng khóc! Bố...  sẽ… quay… lại… tìm… con…!

Lại sáu cánh tay túm lấy hắn ấn ngược vào phía trong thân máy bay. Cánh cửa máy bay đóng sập lại.

- Bố ơi…!

Thằng bé giãy dụa, thét lên lần cuối rồi lịm đi.

* * *

Hắn thẫn thờ đứng trước con kênh nhỏ chảy lờ đờ, đen kịt bốc lên cái mùi khăn khẳn quen thuộc mà người ta vẫn quen miệng gọi là con sông Thối. Ngày trước, khi còn là thằng nhóc thò lò mũi xanh, hằng ngày hắn vẫn theo đám bạn ngâm mình xuống dòng nước mang màu chè đỗ đen này, cắm mặt xuống đám bùn tìm những búi giun vớt về nuôi cá chọi. Trong bước đường lưu lạc của mình, hắn đã đắm mình vẫy vùng như con rái cá trên sóng nước Vonga, bỡn cợt với những con sóng bạc đầu biển Baltich, nhưng thi thoảng, vẫn nhớ về dòng sông tuổi thơ nông choèn, đen kịt và nặng mùi thum thủm. 

Gần ba mươi năm đã trôi qua, dòng sông vẫn thế. Vẫn lờ đờ, thiếu sinh khí, rác rưởi ngập ngụa. Khác chăng, bây giờ người ta đã kè đá hai bên bờ sông, và trồng thêm hàng cây còi cọc mãi chẳng lớn được vì lúc nào cũng ướt sũng nước tiểu của khách bộ hành.

Đã nửa năm nay, suốt ngày, hắn cứ ngẩn ngơ, tha thẩn bên bờ sông Thối như một kẻ vô gia cư. Lúc đầu, những người bán hàng gần đó nhìn hắn bằng cặp mắt đầy cảnh giác. Nhưng dần dần, nhìn vẻ mặt hiền lành, dài dại của hắn, họ lại thấy thương, vì cứ ngỡ rằng đây là một kẻ mắc bệnh tâm thần vì học nhiều quá đâm ngộ chữ. 

Dần dà, hắn còn mua chịu được cả vài chén nước chè và dăm ba điếu thuốc vặt. Thậm chí, thi thoảng, hắn còn kể cho họ nghe về những tháng năm đã sống ở nước ngoài và còn giở cả ảnh của một thằng bé ra khoe là con của hắn. Người ta nghe cho đỡ buồn lúc vắng khách vậy thôi… Có kẻ chép miệng nói vui, thằng này dở người, mắc chứng tâm thần phân liệt hoang tưởng gì đó, chứ nước ngoài, nước trong gì cái ngữ này? Rõ khổ!...

Người đau nát cõi lòng là mẹ hắn. Khi hắn trở về với mái tóc dài cờm cợp, khuôn mặt hốc hác đầy râu ria, bộ dạng xiêu vẹo và cái túi nilon đựng một bộ quần áo hôi rình, như thể hắn vừa từ hang động vùng Tây Tạng trở về chứ không phải thằng con trai khôi ngô đi du học trời tây mà bà hằng hãnh diện… Cớ sao ra nỗng nỗi này? 


Thôi thì cuối cùng đứa con trai duy nhất của dòng họ Trần đã trở về. Bõ công bao năm bà ăn chay, thành tâm cầu xin Phật bà Quan Âm phù hộ... Dù sao nó cũng đã trở về.

Nhưng niềm vui của bà như chớp mắt. Từ ngày về nước thằng con bà thẫn thơ, thờ thẫn như kẻ tâm thần. Ngồi nói chuyện với bà, nhưng tâm trí cứ để tận đẩu đâu. Mắt nhìn về nơi xa lắc nào đó, dài dại, khổ sở… Có lúc nó đi biệt từ sáng đến tối. Hỏi thì ậm ờ, lúng búng nghe mãi chả hiểu nó nói gì? 


Nhiều đêm lại ngồi lặng hàng giờ trước bức ảnh một thằng bé mà nó bảo là con… Hỏi con thế nào thì nó bảo sau này mẹ khắc biết. Khổ quá, biết gì đây? Cứ thế này nó rạc rài, mòn mỏi và sẽ kiệt sức mất thôi. Mà nó làm sao thì bà sống sao nổi. Nhìn con héo hắt, lòng bà xót như xát muối. Những đêm phòng con sáng ánh đèn, nghe tiếng trở mình vật vã, bà cũng thức cùng nó... 

Phải hỏi cho ra nhẽ.

* * *

Hôm nay, bà đi chợ từ sớm, mua hương hoa, lễ vật khấn tổ tiên và ra bờ sông Thối tìm con...

Nghe lời mẹ, hắn cúi đầu đảnh lễ trước ban thờ. Chờ tuần hương tàn, bà pha ấm nước trà và chỉ chỗ chô hắn:

- Anh ngồi xuống đây để mẹ nói chuyện.

Hắn hồi hộp nhìn vẻ mặt nghiêm trang của mẹ. Hắn bỗng thấy sờ sợ… Bà ít khi như thế này. Từ nhỏ đến giờ hắn mới nhìn thấy hai lần mẹ có gương mặt như vậy. Lần này là thứ ba…

Bà rót nước ra chén:

- Anh uống đi.

Hắn nhấp ngụm trà nóng bỏng lưỡi, ngan ngát vị sen ướp.

Bà mẹ ngước nhìn hắn vẻ nghiêm khắc:

- Anh còn đợi gì nữa mà không đi đón thằng bé về đây?

Hắn ớ người nhìn bà. Bà mẹ vẫn nhìn hắn bằng cái nhìn nghiêm nghị.

- Mẹ hiểu cả rồi. Anh đang tìm cách quay lại đón thằng bé phải không?

- Vâng, nhưng… - Hắn ấp úng - Phải có tiền thì mới sang đó đón cháu được, mẹ ạ! Mà số tiền ấy so với gia cảnh nhà mình quá lớn. Những bảy chục triệu…

Giọng hắn nghèn nghẹt và suýt bật khóc như trẻ con nhưng cố kìm lại được.

- Mẹ biết…

Bà thừ người… Bảy chục triệu! Góa chồng từ khi ba đứa con còn đỏ hon hỏn, giật gấu vá vai chạy ăn từng bữa để nuôi chúng. Cho tới tận bây giờ, kể cả trong mơ, chưa bao giờ bà nhìn thấy từng ấy tiền.

- Mẹ biết… đúng là cả cuộc đời, chưa bao giờ mẹ có số tiền ấy. Nhưng mẹ sẽ có cách!

Hắn ngỡ ngàng nhìn bà.

- Mẹ…

Bà từ từ đứng dậy, tiến tới chân ban thờ, khom người lôi ra chiếc hộp gỗ.

Cái hộp ấy, hắn quá biết. Nó là nơi cất giữ những kỉ vật của gia đình. Hắn đã mở ra hàng trăm lần, nhưng ngoài tờ giấy kết hôn của cha mẹ, giấy khai sinh của anh em hắn, những tấm huân chương và tờ giấy báo tử cha, thì vật duy nhất có giá trị chỉ là đôi nhẫn cưới mà mẹ chắt chiu giành dụm đợi khi hắn lấy vợ. Mà đôi nhẫn ấy có bán đi, quá lắm được hơn triệu bạc.

Bàn tay nhăn nheo run run mở nắp rồi thò vào khua khoắng… Lát sau trên tay bà là mấy tờ giấy đã ố vàng.

- Tiền đây, anh cầm lấy!

Hắn nhìn trừng trừng vào đôi tay khẳng khiu, run run của mẹ… Ở trên đó là cuốn sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất của tổ tiên, dòng họ Trần…

* * *

Ba tháng sau…

Vào một đêm mùa hạ mưa như thác đổ, có một toán người vượt biên giới từ Ukraina vào Ba Lan. 

Lẫn trong đám người đó – có hắn!


Hà Nội tháng Hai năm Hai ngàn lẻ Sáu
Trần Hoài Văn

Chú thích:

1/ Bimber: Loại rượu tự nấu của người Ba Lan, giống như quốc lủi ở Việt Nam.

2/ Ngày 01/11 hàng năm - Lễ tảo mộ của người Ba Lan.

3/ Thơ Trực Chấp

4/ Kapcia: Loại dép đi trong nhà

5/ Pani: Bà, cô

6/ Motel: Nhà nghỉ, nhà trọ

Kết Thúc (END)