13 tháng 2 2012

Những người mở lối tìm đường đi mới

Hồ sơ tư liệu

Tìm đường đi mới

QĐND - “Cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hụt trầm trọng cả vật tư đầu vào cho sản xuất lẫn lương thực và hàng tiêu dùng cho nhân dân. Từ thực tiễn ấy, Đảng ta đã tìm tòi, thử nghiệm những giải pháp mới, từng bước đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Những giải pháp ấy đã không ngừng được hoàn thiện trở thành đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Dưới đây là câu chuyện của Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về hoạt động của các doanh nghiệp ở thời điểm “đêm trước” đổi mới...
“Xé rào”
Bà Phạm Chi Lan. Ảnh: Trần Hoàng.
Khi đó, các doanh nghiệp nước ta đứng trước những cơ hội về “cầu” to lớn để mở mang công việc sản xuất, kinh doanh nhưng lại vẫn bị cơ chế cũ trói buộc nặng nề. Khi vào miền Nam, nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có dịp nhìn thấy những hình thái, phương thức hoạt động kinh doanh khác hay hơn, hiệu quả hơn, những cơ hội làm ăn phong phú hơn. Từ đó, những ý tưởng mới, những mong muốn thay đổi thôi thúc họ. Còn với các doanh nghiệp phía Nam, dù cơ chế kinh tế mới có đè nén hoạt động của họ, thì cũng không thể bóp chết tư duy, ý chí kinh doanh và sức sống của cả một xã hội, cả một tầng lớp doanh nhân vốn đã rất quen với quy luật cung cầu của thị trường.
Không thể bó mình trong chiếc áo quản lý chật chội, một số doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công tư hợp doanh và cả DNNN, chủ yếu là DNNN địa phương, đã tìm cách tự vùng vẫy. Họ lặng lẽ mở rộng sản xuất, làm ăn với nhau ngoài khuôn khổ được phép, tăng cường trao đổi hàng hóa “ngoài luồng”, nhất là luồng hàng Bắc-Nam. Hành động “xé rào” này giúp giảm đỡ phần nào những khó khăn do thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung các vật phẩm thiết yếu, nên được một số cơ quan và địa phương đồng tình, nới tay hoặc ngầm ủng hộ cho làm. Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, những vị lãnh đạo cao cấp nhất của Thành ủy và Ủy ban nhân dân thời đó như các ông Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ đã rất sớm ủng hộ hoạt động của các doanh nghiệp theo hướng thị trường. Các ông đã đề xuất việc để cho Thành phố Hồ Chí Minh được áp dụng cơ chế thị trường, và tuy điều đó không được Bộ Chính trị cho phép, các ông vẫn thực hiện một cơ chế kinh tế linh hoạt ở thành phố. Đến đầu thập kỷ 80, dựa trên Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng khóa IV (tháng 9-1979), một số quyết định theo tinh thần cởi trói cho sản xuất, kinh doanh được Chính phủ ban hành, chính thức mở đường cho các DNNN “bung ra”, bước đầu tiếp cận với thị trường. Trên cơ sở đó, hoạt động kinh doanh của DNTN trên thực tế cũng được nới lỏng hơn.
Bước đầu nới “độc quyền ngoại thương”
Trong công việc thực tế của mình rất gắn với hoạt động ngoại thương ngày đó, tôi nhớ mãi không khí phấn chấn khi sau hơn hai thập kỷ, trước sức ép của cuộc sống, “độc quyền ngoại thương”, theo kiểu chỉ hơn 20 công ty xuất nhập khẩu quốc doanh trực thuộc Bộ Ngoại thương được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, bắt đầu được nới ra. Một đất nước thống nhất, vừa ra khỏi chiến tranh, có những nhu cầu và cơ hội cực kỳ to lớn về mở rộng quan hệ thương mại với thế giới bên ngoài, chắc chắn không thể giao toàn bộ quan hệ đó cho chỉ một bộ phụ trách, với chỉ hơn 20 công ty đảm nhận mọi hoạt động ngoại thương như trước.
Trung tâm Thương nghiệp quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thời bao cấp đang bán hàng phân phối cho nhân dân. Ảnh tư liệu.
Từ năm 1976-1977, Nhà nước ta bắt đầu cho phép một số bộ phụ trách các ngành sản xuất và một vài địa phương được thành lập các công ty quốc doanh trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu để phục vụ nhu cầu của ngành, địa phương mình. Công ty xuất nhập khẩu hàng dệt may Textimex (trực thuộc Bộ Công nghiệp), Công ty xuất nhập khẩu than Coalimex (trực thuộc Bộ Điện-Than), ba Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu gọi tắt là Unimex Hà Nội, Unimex Hải Phòng và Imexco Thành phố Hồ Chí Minh (trực thuộc Ủy ban nhân dân ba thành phố)… là những đơn vị đầu tiên ra đời trong những năm đó. Tiếp theo, những công ty xuất nhập khẩu quốc doanh ở một số ngành và các địa phương khác lần lượt hình thành. Khắp nơi đang khát vật tư, thiết bị đầu vào tối cần thiết cho sản xuất công nông nghiệp, thậm chí cả các vật phẩm cho nhu cầu cái ăn, cái mặc của người dân, nên sự cải thiện bước đầu này trong kinh doanh xuất nhập khẩu đã ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp trên cả nước, thực sự mở màn cho những thay đổi lớn về ngoại thương và cả các hoạt động kinh tế gắn kết với nó, tiếp diễn trong những năm sau.
Các doanh nghiệp sản xuất, các công ty tư nhân, với bản năng và sự nhanh nhạy luôn tiềm ẩn, đã mau chóng chủ động bám sát các công ty xuất nhập khẩu, tham gia các cuộc giao dịch, đàm phán với các công ty nước ngoài nhiều hơn để phục vụ cho yêu cầu xuất nhập khẩu của mình. Các công ty được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu, cũ cũng như mới, mau chóng mở rộng và thắt chặt quan hệ với các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, tăng cường liên kết với nhau, tìm tòi các cách để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các đơn vị trong nước. Dù trong cơ chế quản lý vĩ mô vẫn còn “cấm chợ ngăn sông”, nhưng dòng chảy của hàng hóa lưu thông giữa các tỉnh, các ngành trong nước vẫn mạnh dần lên, một phần lớn phục vụ cho nhu cầu trong nước, một phần khác tạo nên nguồn hàng ngày càng khá hơn cho xuất khẩu để trao đổi lấy hàng nhập từ nước ngoài về.
Các công ty xuất nhập khẩu cũng chủ động khai phá thêm quan hệ thương mại với nhiều bạn hàng ở các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa, trước hết là các bạn hàng Nhật Bản, Hồng Công (Trung Quốc), Xin-ga-po… Phần thương mại với các nước ngoài khối XHCN lúc đó tuy chưa nhiều, nhưng rất quan trọng để có thể nhập được một số thiết bị, phụ tùng, vật tư giúp cho các nhà máy ở miền Nam tiếp tục hoạt động. Bộ Ngoại thương và các cơ quan ngoại giao, thương vụ của ta ở các nước xung quanh cũng rất tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của chúng ta trong những công việc này.
Một số công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty đã có quan hệ thương mại với miền Bắc hoặc miền Nam Việt Nam trong chiến tranh, cũng lần lượt tìm đường trở lại buôn bán với chúng ta, bất chấp cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam tồn tại rất nặng nề trong thời kỳ đó. Trong số này có hai nhóm công ty tôi ấn tượng nhất, là các công ty Nhật Bản và các công ty Hàn Quốc. Doanh nghiệp Nhật có mặt rất sớm ở Việt Nam, thông qua các công ty con do chính họ lập ra để buôn bán với ta, thậm chí như Nissho Iwai còn trực tiếp vào nước ta làm ăn từ trước khi ta đổi mới. Các công ty Hàn Quốc bắt đầu vào nước ta từ năm 1982, mở đầu là Samsung, tiếp theo là Sunkyong, Daewoo, Lucky Goldstar (nay là LG), Hyundai…, đều là đại gia - “chaebol” theo tiếng Hàn. Các công ty này, cùng nhiều công ty khác đến từ một số nước ngoài khối XHCN, đã góp phần làm cho thị trường nước ta sống động lên với những hoạt động kinh doanh sôi nổi, thiết thực, khác hẳn cách làm “truyền thống” trong quan hệ gọi là “thương mại” nhưng hoàn toàn không có tính chất kinh doanh giữa ta với các nước XHCN thời đó.
Chắc hẳn phải có “đèn xanh” từ chính phủ họ, các công ty Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước khác mới có gan làm như vậy, nhưng rõ ràng sự có mặt khá sớm của các công ty này ở Việt Nam trong bối cảnh môi trường kinh doanh của nước ta còn đầy khó khăn trước đổi mới đã góp phần giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm kênh làm ăn với các nước ngoài khối XHCN, vừa đáp ứng những nhu cầu trao đổi hàng hóa trước mắt, vừa làm quen dần với kinh doanh ở các thị trường tư bản bên ngoài. Cũng nhờ những mối quan hệ sớm hình thành đó, nên khi Liên Xô và các nước khối XHCN Đông Âu sụp đổ, phần thương mại của Việt Nam với khối đó-vốn chiếm tới 70-80% xuất nhập khẩu của nước ta-đã được nhanh chóng bù đắp bằng quan hệ với các nước trong khu vực.
Cuối năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức phát động công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết là về kinh tế, ở nước ta. Đó cũng là cột mốc quan trọng nhất đánh dấu chặng đường mới đi tới hình thành môi trường kinh doanh theo thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam. Ba trong những nội dung cốt lõi của đổi mới là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế theo hướng thị trường; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, và mở cửa trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Trên tinh thần đổi mới, các chính sách, biện pháp cải cách kinh tế mạnh bạo được hình thành dần trong những năm cuối cùng của thập kỷ 80. Chỉ trong vài năm, công cuộc đổi mới đã mang lại những kết quả tốt đẹp, giúp Việt Nam chặn được đà của cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài nhiều năm trước đó, dần dần ổn định lại và đứng vững được trước sự sụp đổ đột ngột vào đầu thập kỷ 90 của các nước trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế mà Việt Nam là một thành viên…
Hoàng Tiến (Ghi theo lời kể của bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam).

Những người mở lối (Bài 1)

QĐND - Sau những hân hoan của ngày đại thắng 30-4-1975, đất nước phải đối mặt với thử thách mới: Đói nghèo và khủng hoảng. Những khuyết tật của phương thức quản lý kinh tế theo mô hình cũ ngày càng bộc lộ rõ nét và nghiêm trọng. Suốt 10 năm, hàng chục cuộc “phá rào” với những tìm tòi, thử nghiệm hướng đi mới đã diễn ra, được ví như quá trình “thai nghén”, tập dượt để đi đến những quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Tuy nhiên, vai trò và những đóng góp của nhiều cá nhân tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này đến nay vẫn chưa được minh định, thậm chí còn có các ý kiến khác nhau. Loạt bài dưới đây hy vọng góp phần khắc họa một số chân dung và như một lời tri ân tới những người mở lối, đã lát những viên gạch đầu tiên trên con đường đổi mới của đất nước...
Bài 1: Ngọn cờ đổi mới
Trong các tên tuổi lớn của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1975-1986, Tổng bí thư Lê Duẩn và Tổng bí thư Trường Chinh là những người có ảnh hưởng và để lại dấu ấn cá nhân sâu sắc nhất đến nhiều quyết định lớn của Đảng vào “đêm trước đổi mới”...
Tầm nhìn của “ngọn đèn 200 nến”
“Ngọn đèn 200 nến” là từ mà đồng bào, đồng chí dành cho anh Ba-Tổng bí thư Lê Duẩn. Bộ óc sáng láng ấy không chỉ có đóng góp to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước mà còn là nhà lãnh đạo luôn đầy ắp những ý tưởng sáng tạo và đổi mới trong một thập kỷ sau giải phóng. TS Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư, thời kỳ đầu những năm 80 của thế kỷ trước là Phó chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước cho rằng, Tổng bí thư Lê Duẩn là người có tư duy “vượt trước”, sớm nhận ra những hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế cũ. Ngay từ những năm 1979, 1980 ông đã có nhiều cuộc làm việc với các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế. Ông chịu khó lắng nghe, nhất là những ý kiến phản biện. Vấn đề ông đặt ra thường xoay quanh hai câu hỏi: “Phải làm gì để tránh cuộc khủng hoảng sắp tới” và “Bắt đầu từ đâu?”. Đó là một tầm nhìn xa của người đứng đầu đất nước khi đó.
Luôn sáng tạo và khuyến khích các cách làm mới là điều được nhiều người nhắc tới khi nói về “ngọn đèn 200 nến” Lê Duẩn. Còn nhớ sau khi Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc bị phê phán nặng nề vì cho nông dân sớm làm “khoán chui”, Tổng bí thư Lê Duẩn đã đến Vĩnh Phúc để thăm và chia sẻ với đồng chí Kim Ngọc. Trò chuyện với Bí thư Kim Ngọc về kinh tế hợp tác xã nông nghiệp, ông nói: “Về hoạt động kinh tế của hợp tác xã tôi có điều rất phân vân. Bởi vì, 5% ruộng đất giao cho gia đình thì người ta làm ra 45% thu nhập, còn 95% ruộng đất giao cho hợp tác xã thì chỉ làm ra khoảng 50% thu nhập, dù 50% này là lương thực rất cần cho xã hội. Tôi phân vân đã lâu, nhưng thật sự chưa nghĩ ra được cách gì giải quyết. Nay anh đề ra “khoán hộ” thì có lẽ đó cũng là một cách. Nhưng vì quá mới, ngược với suy nghĩ và cách làm lâu nay, cho nên đa số anh em không đồng tình với anh. Anh yên tâm, một sáng kiến làm ăn mới chưa được mọi người chấp nhận ngay thì cũng là chuyện bình thường”.
Tháng 10-1981, Tổng bí thư Lê Duẩn về thăm đồng lúa của HTX nông nghiệp Trường Sơn (huyện Kiến An, thành phố Hải Phòng) - đơn vị đạt năng suất cao về khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Ảnh tư liệu.
Cũng với tư duy luôn đổi mới, luôn vận động, có lẽ đồng chí Lê Duẩn là một trong số ít các nhà lãnh đạo cấp cao sớm chấp nhận kinh tế nhiều thành phần. Nguyên Phó thủ tướng Trần Phương kể: “Năm 1981, với vai trò Bộ trưởng Bộ Nội thương, trong một cuộc họp, tôi đưa ra ý kiến đề nghị cải cách chuyển sang cơ chế quản lý thương mại theo cơ chế tự do. Rất nhiều ý kiến phản đối. Họ nói: Tiền đâu mà in đủ để trả lương, để mua lương thực, thực phẩm? Làm sao cân đối được ngân sách? Tôi nói: Phải tôn trọng quy luật cung cầu. Cuối cùng, anh Ba “tóm lại” là đồng ý với tôi về tư tưởng. Nhưng anh nói: Tôn trọng quy luật cung cầu nhưng căn cứ vào thực tế thì chưa thể bỏ hết kế hoạch hóa mà phải có lộ trình. Cụ thể là từ việc Nhà nước khống chế 42 mặt hàng thì giảm xuống còn 8. Tiếp theo đó, anh Ba đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan ra lệnh bãi bỏ ngăn sông cấm chợ, ban hành Chỉ thị khoán 100 của Ban Bí thư, chỉ thị 3 kế hoạch trong công nghiệp. Những bước “cởi trói” đầu tiên này đã tạo tiền đề cho đổi mới và luồng sinh khí mới cho tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Năm 1985, anh là người ghi vào nghị quyết của Bộ Chính trị: “Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI”.
Những năm cuối đời, do hạn chế về sức khỏe, tuổi tác và hoàn cảnh lịch sử cụ thể nên Tổng bí thư Lê Duẩn chưa có điều kiện để hệ thống hóa các quan điểm đổi mới và hiện thực hóa trong thực tiễn đất nước. Trong ông vẫn không nguôi khát vọng cháy bỏng và lớn lao về một đất nước hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bầu nhiệt huyết và tư tưởng đổi mới của ông đã được thế hệ kế nhiệm tiếp nối và phát triển.
Tổng bí thư của đổi mới
Đồng chí Trường Chinh nhận trọng trách là Tổng bí thư của Đảng ở hai thời điểm đặc biệt của cách mạng Việt Nam: Lần 1 vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX, chuẩn bị và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc và lần 2 vào tháng 7-1986 khi Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời ngay trước Đại hội VI 5 tháng. Anh Năm-Trường Chinh là một nhà lãnh đạo nghiêm cẩn, rất coi trọng lý luận và hết sức nguyên tắc nhưng lại được coi là “Tổng bí thư của đổi mới”. Ông đã để lại dấu ấn đậm nét trong các quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng lần thứ VI. Ông là vị Tổng bí thư đưa ra quyết định đầy bản lĩnh và chưa từng có: Viết lại toàn bộ Báo cáo chính trị ngay sát ngày đại hội theo quan điểm: Quyết tâm đưa đất nước phát triển theo đường lối đổi mới. Và với quyết định này đã mở ra một bước ngoặt mới cho đất nước.
Để nắm chắc tình hình, Tổng bí thư Trường Chinh là người rất chịu khó đi thực tế ở các địa phương. Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, đầu thập kỷ 80 là một trong những nhà lãnh đạo của Thành phố Hồ Chí Minh kể lại: “Chỉ tính riêng trong hai năm 1982, 1985 đồng chí Trường Chinh từng nhiều lần đến Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí viết: “Việc đi thăm thành phố… cũng như các chuyến đi thăm các địa phương khác trong thời gian qua đã giúp tôi hiểu rõ thêm tình hình thực tế của đất nước, từ đó mà suy nghĩ về một số vấn đề chung có ích trong việc đóng góp vào sự lãnh đạo của Trung ương”. Trong những năm đó, ông đã khảo sát gần 20 tỉnh, thành phố từ miền Nam, ra miền Trung và về miền Bắc. Với tác phong sâu sát, cầu thị, tôn trọng thực tiễn, ông đã thực sự làm một cuộc cách mạng từ trong tư duy của chính mình. Ban đầu, khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 về: “Mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”, ông chưa nhiệt tình ủng hộ, có vẻ vẫn còn phân vân, hoài nghi. Nhưng bằng hàng loạt các chuyến đi thực tế đến các hợp tác xã ở Kim Thi, Tứ Lộc (Hải Hưng trước đây), Hải Phòng, về quê hương Hà Nam Ninh (trước đây)…, ông đã thấy sự khác biệt giữa cơ chế quản lý cũ với mô hình khoán trong các hợp tác xã nông nghiệp và công khai tán thành, cổ vũ Chỉ thị 100.
Nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành nhớ lại kỷ niệm những lần đồng chí Trường Chinh về thăm Hải Phòng vào đầu những năm 80: “Anh Năm rất chú ý lắng nghe và thường nhắc đi, nhắc lại hai từ: “Hay nhỉ!” với nụ cười rất tươi. Anh chỉ hỏi những điều chưa rõ. Không thấy anh tranh luận, hoặc nêu vấn đề cho anh em thảo luận. Nhưng tôi thấy anh suy nghĩ nhiều. Trưa về ăn cơm tôi cũng thấy anh suy nghĩ... Ngay cả trong câu chuyện lúc nghỉ, anh vẫn hỏi tôi chi tiết về cuộc sống của nông dân, của công nhân, của bộ đội, của cán bộ viên chức. Những lúc ấy tôi cung cấp cho anh những số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống của nhân dân, của cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn thành phố...”.
Trước những bức bách và đòi hỏi gay gắt phải giải bài toán hóc búa từ cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất nước, đồng chí Trường Chinh đã tập hợp một tổ nghiên cứu (còn gọi là nhóm cố vấn Tổng bí thư) gồm những trí thức, cán bộ có tư tưởng đổi mới để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nước ta, làm căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường và bước đi của cách mạng. Khi giao nhiệm vụ cho tổ nghiên cứu này ông khẳng định: “Tình thế lúc này không thể kéo dài được nữa, không thể duy trì cách nghĩ, cách làm cũ cũng như những chủ trương chính sách và cơ chế quản lý như trước được nữa”. Nhóm cố vấn Tổng bí thư được thảo luận nhiều vấn đề trọng đại và nóng bỏng của đất nước khi đó như: Vấn đề một giá hay hai giá, kinh tế nhiều thành phần, quan điểm cơ cấu đầu tư… một cách dân chủ và thoải mái nhất. Chủ đề được Tổng bí thư nêu và anh em tranh luận. Nhóm có thể đưa ra những nhận định, đánh giá quan điểm trái ngược chủ trương mà không sợ “phạm húy”. Tổng bí thư chỉ ngồi lắng nghe và chăm chú ghi chép từng chi tiết…
Gần đến ngày Đại hội VI, trong Đảng và xã hội vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau. Với vai trò “thuyền trưởng”, ông đã có những nỗ lực rất lớn trong việc đấu tranh bảo vệ cho các quan điểm đổi mới. Tại một hội nghị cán bộ của Hà Nội, ông trình bày phương hướng, nội dung công cuộc đổi mới và quả quyết: “Trong lúc này, chúng ta chỉ có hai khả năng lựa chọn: Đổi mới để tiến lên hay đi theo con đường cũ để chết. Chúng ta phải dứt khoát đổi mới”. Tổng bí thư Trường Chinh đã chủ trì hội nghị trung ương để bàn về những ý kiến khác biệt xung quanh dự thảo văn kiện đại hội. Sau này được gọi là hội nghị ba quan điểm, kết luận những luận điểm quan trọng, trái ngược với đường lối cũ. Đó là: Phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý. Những nội dung này đã thay đổi cơ bản nội dung của dự thảo Báo cáo chính trị lần 1 và được coi là “linh hồn” của văn kiện Đại hội VI. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng chia sẻ: “Điều tôi thấy hết sức thú vị là “tác giả”- nói chính xác hơn là chủ biên của đổi mới - lại là một người được coi là hết sức “cứng” như đồng chí Trường Chinh. Tôi hiểu rằng, đồng chí đã chú ý nghe từ nhiều phía và đặc biệt là đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình. Đồng chí là người rất kiên trì đấu tranh với mọi ý tưởng, mọi sự việc và theo đồng chí là không đúng và cũng rất quyết đoán đối với những điều mà đồng chí cho là đúng đắn, đủ cơ sở”.
------------


Những người mở lối (Bài 2)

Bài 2: “Ông Kim Ngọc” ở Hải Phòng
QĐND - Bí thư “khoán hộ” Kim Ngọc ở Vĩnh Phúc (từ năm 1968-1978, ông là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú) thì nhiều người đã biết. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, còn nổi lên mô hình khoán trong nông nghiệp ở thành phố Cảng với vai trò đầu tàu của Chủ tịch UBND Đoàn Duy Thành (tiếp đó, ông giữ cương vị Bí thư Thành ủy, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Sau thành công của mô hình này, Đoàn Duy Thành - “ông Kim Ngọc” ở Hải Phòng còn được Trung ương giao tham gia chắp bút soạn thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động...
“Giải mã” Kim Ngọc
Cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70, ông Đoàn Duy Thành đọc các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về kinh tế, đối chiếu với mô hình và thực tế tình hình đất nước và địa phương mình, ông rất băn khoăn. Ông đặc biệt chú ý tới mô hình khoán của Vĩnh Phúc áp dụng vào những năm 1966, 1967. Các câu hỏi: Bí thư Kim Ngọc là người thế nào? Động cơ nào khiến ông ký ban hành nghị quyết và chỉ đạo làm khoán? Tại sao ông bị chỉ trích và phản ứng dữ dội khi triển khai mô hình này đến vậy?... cứ lởn vởn trong đầu Đoàn Duy Thành. Ông quyết định phải “thực mục sở thị”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người mặc quân phục đứng giữa) và Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Đoàn Duy Thành (người ngoài cùng bên trái, hàng trước) về thăm huyện Kiến An và nghe báo cáo về khâu khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Ảnh chụp lại.
Đầu năm 1973, Đoàn Duy Thành lúc đó là Trưởng ban Công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học kỹ thuật của thành phố Hải Phòng đã tham mưu với Bí thư Thành ủy Trần Kiên tổ chức một đoàn đi tham quan Thác Bà và qua thăm tỉnh Vĩnh Phú. Sau bữa cơm trưa do Tỉnh ủy Vĩnh Phú mời tại khu sơ tán, cách Đền Hùng khoảng 20km, ông Thành tách đoàn nói nhỏ với Bí thư Kim Ngọc: “Tôi xin gặp riêng anh hỏi một số chuyện”. Kim Ngọc dẫn ông Thành về lán ở của mình.
- Có việc gì mà anh cần gặp riêng? Bí thư Ngọc tay vẫn cầm tăm xỉa răng, bình thản như một ông đồ nho hỏi.
- Thưa anh, tôi muốn xem Nghị quyết về khoán của Tỉnh ủy các anh mấy năm trước? Đoàn Duy Thành đặt vấn đề.
- Hàng “quốc cấm” xem làm gì… ông Ngọc khẽ cười cười.
Nói vậy, nhưng ông vẫn đến tủ, lôi tập nghị quyết và đưa cho Đoàn Duy Thành, không quên dặn: “Đọc tại chỗ thôi đấy nhé”. Ông Thành đón tập tài liệu đã gây ồn ã một thời và đọc ngay tức khắc.
- Anh thấy thế nào? Bí thư Ngọc hỏi như thăm dò.
- Hay đấy! Đoàn Duy Thành đáp luôn.
Gương mặt Kim Ngọc như bừng sáng, ông mủm mỉm cười:
- Cũng dám khen cơ à.
Rồi, câu chuyện của hai ông rổn rang quanh chủ đề nông dân và khoán trong nông nghiệp. Sau cùng, Bí thư Kim Ngọc rưng rưng:
- Nông dân mình đói và khổ quá, Thành ơi!
Câu nói đó ám ảnh ông Đoàn Duy Thành mãi đến sau này.
Chia sẻ với chúng tôi về cuộc gặp với Bí thư Kim Ngọc gần 30 năm trước, ông Đoàn Duy Thành cho rằng, tư tưởng hành động của ông Bí thư “khoán hộ” là anh hùng. Ông đồng cảm với cảnh đói nghèo của dân, dũng cảm “phá rào”, mở lối, đi trước để lo cho đời sống của dân. Nghị quyết khoán của Vĩnh Phúc về tinh thần là đúng nhưng do quá mới mẻ, lại vào thời điểm chưa phù hợp nên đã bị công kích, phê phán. Tuy nhiên, nội dung của nghị quyết này vẫn còn những hạn chế, đơn giản, như thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ khi áp dụng khoán, thiếu hướng dẫn trong triển khai thực hiện…
Ngoại giao Ba Đình và Nghị quyết 24
Năm 1979, ông Đoàn Duy Thành được bầu làm Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng. Trên cương vị mới, Chủ tịch Đoàn Duy Thành dành thời gian xuống với nông dân, giải đáp câu hỏi thường trực trong ông bấy nay: Trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ màu mà sao cứ đói triền miên. Ban đầu ông nghĩ nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới… chắc năng suất sẽ tăng. Nhưng rồi cày bừa máy, khoa học kỹ thuật, giống mới, phân bón thuốc trừ sâu… được đầu tư mà năng suất vẫn đi xuống. Ông lại nhớ hồi nhỏ, nhà ông ở Hải Dương cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào, vậy mà giờ đây không còn nổi 40kg/sào. Nguyên nhân cốt tử nào ở đây?
Ông Đoàn Duy Thành. Ảnh: Hoàng Tiến.
Ông đến kiểm tra tất cả huyện ngoại thành. Một xã tiêu biểu như Phục Lễ của huyện Thủy Nguyên, họp hợp tác xã, xã viên thường xuyên đến đủ 100%, đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên có mặt. Thế nhưng, năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá. Xã viên cũng chỉ làm nhanh cho xong công việc của hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển hoặc đi buôn bán lặt vặt. Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp 20% cho cuộc sống gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính. Nhiều xã khi đó thiếu đói trầm trọng…
Vậy thì, vấn đề mấu chốt ở đây là do khâu quản lý. Ông nhớ tới Bí thư Kim Ngọc và nghị quyết khoán của Vĩnh Phúc…
Chỉ có thay đổi cách quản lý nông nghiệp thì mới có thể làm chuyển biến tình hình. Ông đem vấn đề bức xúc này bàn với Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo và được ông Tạo đồng tình, ủng hộ. Hai cán bộ chủ chốt trao đổi nhiều lần và dự thảo nghị quyết về “khoán sản” trong nông nghiệp. Tuy nhiên, “khoán” vẫn là vấn đề “tối kỵ” khi đó. Bài học “khoán” ở Vĩnh Phúc bị “đánh” tơi tả 15 năm trước vẫn được nhắc đến như là tấm gương “tày liếp” để nhắc nhở, răn đe. Thành ủy nhiều lần họp nhưng vẫn chưa nhận được sự thống nhất cao. Bí thư Bùi Quang Tạo và Chủ tịch Đoàn Duy Thành chủ trương cùng với công tác vận động để tạo sự đồng thuận trong nội bộ, phải tranh thủ sự đồng tình của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Đoàn Duy Thành nhận “sự mệnh”: “Ngoại giao Ba Đình”.
Ông nhớ lại: “Tôi đến nhà Tổng bí thư Lê Duẩn và báo cáo suốt 3 giờ về thực trạng nông nghiệp, nông dân và chủ trương “khoán” của Hải Phòng. Tổng bí thư nghe rất kỹ và đồng tình. Ông còn bảo: “Cứ về làm, tôi sẽ về xem các đồng chí làm thế nào”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng coi như đồng ý rồi. Khó nhất lúc này là phải thuyết phục được Chủ tịch Trường Chinh. Tôi báo cáo anh Trường Chinh 2-3 lần, anh tỏ vẻ không phản đối. Một lần khác, trong bữa ăn trưa chỉ có tôi và anh, tôi lại đem vấn đề khoán ra để xin ý kiến anh. Tôi cảm giác anh không vui, nhưng anh không nói vào khoán. Anh kể chuyện huyện Xuân Trường, quê anh với thái độ gay gắt, phê bình huyện này buông lỏng quản lý, để hợp tác xã khoán lung tung, không có kỷ cương gì… Tôi biết là anh phê bình tôi. Tôi chuyển sang báo cáo công việc khác, về làm kinh tế, về Cảng. Sau đó, để có thực tế thuyết phục, tôi đã bố trí để anh xuống cơ sở, cung cấp các số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống nhân dân, công chức. Cuối cùng đến lần thứ 5 xin ý kiến về khoán sản phẩm trong nông nghiệp ở Hải Phòng, anh đã đồng tình”.
Chủ tịch Đoàn Duy Thành về bàn với Bí thư Bùi Quang Tạo, là việc khoán đã chín muồi lắm rồi, bây giờ phải cho một huyện ra nghị quyết trước, để lấy ý kiến từ cơ sở, sau đó Thành ủy sẽ ra nghị quyết chính thức. Hai ông quyết định chọn huyện Đồ Sơn để làm trước. Huyện này ra nghị quyết được 32 ngày thì Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng ra Nghị quyết 24 nổi tiếng về khoán trong nông nghiệp vào tháng 8-1980. Ý Đảng hợp với lòng dân đã nhanh chóng được hiện thực hóa trong đời sống. Nhân dân hồ hởi đón nhận và lao động hăng say trên “mảnh ruộng của mình”. Khi đi cơ sở vào 30, Mồng Một Tết, Chủ tịch Thành vẫn còn thấy bà con lao động trên cánh đồng. Một điều trước đây chưa từng xảy ra. Năng suất vì thế cũng tăng cao, trước đây cả năm cũng chỉ được 3,5 đến 3,8 tấn/ha; ngay trong năm khoán đầu tiên đã tăng lên 4,5 đến 5 tấn thóc. Những năm sau đó, nông nghiệp Hải Phòng phát triển rất nhanh. Lương thực coi như đã tự túc được cho cả phi nông nghiệp. Không còn tình trạng hằng năm phải lên Trung ương xin gạo, xin mì. Hàng trăm đoàn của Trung ương và các địa phương trong cả nước kéo nhau về Hải Phòng để tham quan, học hỏi. Hải Phòng trở thành mô hình phát triển kinh tế năng động của cả nước…
Từ thực tế sinh động và thành công của thành phố Cảng, Trung ương giao cho ông Đoàn Duy Thành tham gia soạn thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cho nhóm lao động và lao động xã viên, góp phần tháo gỡ khó khăn, từng bước thúc đẩy sản xuất phát triển…
“Khoán sản phẩm trong nông nghiệp của Hải Phòng đã làm cơ sở cho Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương vào tháng 1-1981 và Nghị quyết Khoán 10 tháng 4-1988 của Bộ Chính trị khóa VI, lúc này sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất được bung ra, lương thực bung ra. Nếu như trước đó anh Lê Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực nhiều người hoài nghi thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực, đảm bảo về an ninh lương thực mà còn có gạo xuất khẩu, một sự kiện như mơ giữa ban ngày”. (Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh)
-----------------


Những người mở lối (Bài 3)

Bài 3: Nữ Anh hùng bán gạo
QĐND - Tên tuổi bà Nguyễn Thị Ráo, tên thường gọi là bà Ba Thi nổi lên như cồn khi bà là Giám đốc Công ty Kinh doanh lương thực TP Hồ Chí Minh vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Bà được coi là người nổ phát súng đầu tiên vào chế độ bao cấp gạo, thực hiện có kết quả bán gạo một giá đầu tiên trong cả nước, góp phần quyết định lo đủ gạo ăn cho 4 triệu dân của thành phố mang tên Bác. Bà cũng là một trong những người phụ nữ đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng Lao động vào thời kỳ đó.
Bà Ba Thi nổi tiếng là vậy nhưng hành trình tìm nhân chứng và tư liệu để dựng lại chân dung về bà thật khó khăn. Bà Ba mất đã gần 6 năm. Tôi tìm đến nhà con gái bà là bác sĩ Nguyễn Hồng Thảo ở 65 Trương Định, quận 3, TP Hồ Chí Minh nhiều lần vẫn không gặp. Đến Công ty Lương thực thành phố ở số 57 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, rủi cho tôi là cả ban giám đốc đều đi vắng. Anh Võ Việt Triều, Trưởng phòng Tổ chức hành chính của Công ty cũng không biết nhiều về vị nữ giám đốc anh hùng nổi tiếng một thời của mình. Lục tìm sổ sách và danh bạ điện thoại một hồi, anh Triều chợt nói như reo lên: “Đây rồi! Hai người này có thể giúp anh tìm hiểu về cô Ba nhiều đấy. Chị Kim Anh, phụ trách hành chính của Công ty thời đó và chị Út Hiền, cùng Tổ Thu mua lúa gạo với cô Ba từ những ngày đầu…”.
“Phá rào” đi thu mua gạo
Theo hẹn với chị Kim Anh và Út Hiền, ngay tối hôm ấy tôi có mặt tại nhà số 3 Phùng Khắc Khoan, quận 1, TP Hồ Chí Minh. Cũng khá bất ngờ vì đây là địa chỉ mà tôi cũng dự kiến tìm đến trong chuyến công tác này để viết về Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Bùi Thị Mè, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - Xã hội – Thương binh trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, người mẹ có 3 con là liệt sĩ và đến đây tôi mới biết bà chính là mẹ chồng của chị Kim Anh.
Câu chuyện về nữ giám đốc anh hùng Ba Thi như thước phim chầm chậm hiện về trong ký ức những người cộng sự thân thiết một thời của bà…
Bà Ba Thi. Ảnh chụp lại.
Sau giải phóng, Sài Gòn là thành phố đông dân nhất nước, với khoảng 4 triệu người nên nhu cầu lương thực rất lớn. Ngoài phần lúa gạo do các huyện nông thôn ngoại thành tự sản xuất, hằng tháng thành phố phải cần có tối thiểu 4 vạn tấn lương thực, trong đó lượng gạo ăn cho đối tượng phi nông nghiệp là 3 vạn tấn, còn 1 vạn tấn để cung cấp cho công nghiệp chế biến, cho các cơ sở ăn uống công cộng, khách vãng lai và hàng trăm hội nghị của các ngành, các cấp. Khi thành phố áp dụng chế độ bao cấp lương thực, tình hình cung cấp lương thực luôn luôn gặp khó khăn. Những năm 1977, 1978, mùa màng thất bát, thành phố phải dùng hàng vạn tấn khoai lang, khoai mì (sắn), bo bo thay cho lượng gạo tiêu chuẩn. Khoai lại được giao ồ ạt trong mùa mưa, các cửa hàng gạo “ép” dân mua một lần cho hết tiêu chuẩn, đem về tiêu thụ không hết, lại phải bỏ đi. Vậy là thiếu gạo và khoai cũng hết.
Tình hình lương thực thành phố căng thẳng quá, thành ủy, UBND họp ngày đêm để tìm cách giải quyết mà chưa có phương án khả thi. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt chỉ thị dứt khoát: “Không để một người dân chết đói”. Sau nhiều trăn trở, bà Ba Thi, khi đó là Phó giám đốc Sở Lương thực thành phố dũng cảm đề xuất: “Đi về Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thu mua gạo đem về phục vụ cho đồng bào thành phố”. Chị lập luận: Thành phố đang thiếu gạo trầm trọng, trong khi đó, ở một số địa phương khác lại dư lúa, thừa gạo, thậm chí lúa để ẩm mục, làm phân, gạo đen cho gà ăn không hết… Tại sao không cho nông dân đem lúa gạo dư thừa đó đến những nơi đang thiếu, đang rất cần cho cuộc sống hằng ngày? Ý kiến này được lãnh đạo thành phố chấp thuận và từ đó “Tổ Thu mua lúa gạo” ra đời. Với ý tưởng này, bà đã góp phần giúp thành phố “phá rào”, phá thế cô lập và tuyên chiến với tệ ngăn sông cấm chợ khi ấy.
Chị Út Hiền nhớ lại: “Lúc đầu, tổ chỉ có 8 người do chị Ba Thi làm tổ trưởng. Tổ có 1 lái xe, 2 kế toán viên, còn lại thì làm nhiệm vụ đi thu mua. Đến Hậu Giang, chị cùng cán bộ hội phụ nữ tỉnh xuống huyện Phụng Hiệp, địa phương có nhiều lúa trong tỉnh và được chị em nhiệt tình hưởng ứng. Cán bộ hội còn điều được 2 chiếc ghe có trọng tải 100 tấn đến chợ để thu mua lúa gạo, rồi đưa lên xe vận tải chở về thành phố. Tổ thu mua về tận các xã ấp, chèo xuồng ghe luồn lách qua các kênh rạch chằng chịt, vận động bà con bán lúa gạo cho thành phố. Cũng với phương thức này, tổ đến tỉnh Minh Hải và cũng đã mua được lúa gạo với số lượng cao”.
Quá trình đi thu mua, bà Ba Thi còn phát hiện ra một điều, cũng do bị cô lập, do tệ ngăn sông cấm chợ mà hàng hóa không lưu thông được. Ở nông thôn, nông dân cần dầu lửa thắp đèn, cần vải đen may quần áo đi làm ruộng, cần thuốc chữa trị bệnh lúc ốm đau… mà không có để mua, dù trong tay có tiền. Lý do thật đơn giản, nền công nghiệp của ta sản xuất theo kế hoạch kiểu cũ, chỉ đủ phân phối theo định lượng cho cán bộ công nhân viên, không có dư để bán cho dân, trong khi nguồn hàng dự trữ từ trước giải phóng nay đã cạn. Trước thực trạng đó, bà Ba Thi kiến nghị phải có hàng hóa để đổi ra lúa gạo, nói nôm na là hàng hai chiều.
Được trên nhất trí, tổ thu mua đã đưa 200 nghìn lít dầu lửa đến chợ Cà Mau. Thành phố xuất 1 triệu mét vải bông và vải đen, hàng xe thuốc tây mang đến Minh Hải… Các chị rao với bà con nông dân là sẽ đổi các hàng hóa đó lấy lúa. Bà con ở các xã từ Bạc Liêu đến Cà Mau nườm nượp mang lúa đến đổi lấy phiếu dầu, phiếu vải, phiếu thuốc… Với hoạt động của tổ thu mua của bà Ba Thi, tình trạng thiếu gạo của TP Hồ Chí Minh và khan hiếm hàng tiêu dùng thiết yếu của bà con nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long được giải quyết một bước.
Cuộc chiến chống gian thương
Với những hoạt động hiệu quả của tổ thu mua lúa gạo, cuối năm 1980, TP Hồ Chí Minh quyết định thành lập Công ty Kinh doanh lương thực thành phố do bà Ba Thi làm giám đốc. Như vậy, lúc này ngành lương thực TP Hồ Chí Minh bên cạnh hệ cung cấp có thêm một bộ phận nữa là hệ kinh doanh, nhằm mục tiêu xóa bỏ tình trạng bao cấp tràn lan.
Để nắm vững nguồn cung cấp gạo và nhu cầu thiết yếu của nông dân, giám đốc Ba Thi đã cho lập các “cán bộ chốt” ở khắp các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Thông qua lực lượng này, bà ký hợp đồng thu mua với sở lương thực các tỉnh, thậm chí ký thẳng với huyện để mua lúa gạo. Phương thức trao đổi hàng hai chiều giữa Công ty với các địa phương diễn ra rất hiệu quả. Vụ đầu tiên, Công ty liên hệ mua được 4 nghìn tấn phân bón đưa về Cửu Long, Tiền Giang để năm tới lấy lúa; tổ chức mượn xăng của tỉnh này đem về giúp tỉnh kia; mua cả xi măng, sắt thép để giúp địa phương xây dựng cầu đường… Vì thế các địa phương làm nghĩa vụ xong đều tự nguyện chở thuyền ghe lúa đem bán cho bà Ba Thi. Sau hai năm, tổng số lương thực mà công ty của bà Ba Thi bán ra theo giá bảo đảm kinh doanh đạt 127 nghìn tấn. Bình quân mỗi tháng, mỗi người mua được 9kg gạo với giá rẻ hơn và chất lượng không thua kém gạo tư thương bán trên thị trường tự do, góp phần ổn định thị trường, tạo niềm tin trong nhân dân. Đây là một thắng lợi rất có ý nghĩa.
Giám đốc Ba Thi (đeo kính, đứng giữa hàng đầu) và các cán bộ phụ trách các cửa hàng lương thực của TP Hồ Chí Minh trong buổi lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động của bà vào tháng 10-1985. Ảnh chụp lại.
Hoạt động của Công ty càng hiệu quả thì đây đó xuất hiện dư luận công kích, phê phán, mỉa mai nhằm vào giám đốc Ba Thi. Có người nói, bà làm việc là đi “mua gian bán lận”, “Bà Ba bây giờ thành tiểu thương rồi. Công ty của bà tranh mua, tranh bán, phá rối thị trường”… Bọn gian thương thì tìm cách để phá hoạt động của Công ty và làm rối loạn thị trường để thừa cơ “đục nước béo cò”. Chị Kim Anh nhớ lại: “Vào khoảng tháng 6-1983, giữa lúc tại các cửa hàng bán lẻ và các đại lý chưa kịp nhận đủ gạo về bán tại phường, bọn gian thương tung tin đồn nhảm: “Nhà nước hết gạo”, “Nhà nước sắp đổi tiền”. Những đòn chiến tranh tâm lý đó tác động rất xấu. Ở hầu hết các chợ, giá gạo bắt đầu nhích lên từ 50 xu đến một đồng, rồi tăng 5 đến 7 đồng một ki-lô-gam. Bọn đầu cơ tích trữ tìm mọi cách tung tiền, kể cả sử dụng trẻ em ra mua vét gạo ở các đại lý và các cửa hàng bán lẻ, đồng thời chúng tuồn gạo đi các tỉnh khác, gây nên những cơn sốt gạo. Trong tình hình nhốn nháo đó, nhiều gia đình sợ gạo lên giá đổ xô đi mua về dự trữ. Thị trường gạo thành phố đột nhiên căng thẳng một cách giả tạo. Ý đồ của gian thương là nhằm rút lực lượng gạo của Công ty, làm suy yếu, tê liệt Công ty của bà Ba Thi, từ đó thao túng thị trường lương thực thành phố. Cùng với hành động đầu cơ tích trữ, nâng giá gạo, chúng còn uy hiếp tinh thần một số đại lý, gọi điện thoại với nội dung tuyên truyền phản động, hăm dọa cán bộ nhân viên Công ty, nhiều lần đích danh đe dọa giám đốc Ba Thi. Nhờ nắm được hàng hóa trao đổi với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, bà Ba Thi đã tung lượng gạo dự trữ ra thị trường đúng lúc, rót gạo ngay cho đại lý. Hàng ngàn đại lý bản lẻ trải rộng trên khắp các phường đã chủ động giành thế chủ động trên thị trường. Bọn gian thương và phá hoại trên lĩnh vững kinh doanh lương thực bị khoanh lại ở một số chợ và bị dập tắt nhanh chóng”.
Hạt gạo nữ anh hùng nhiều chất chứa
Ngày 3-10-1985, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Ba Thi. Cán bộ, nhân viên Công ty và bà con thành phố đều phấn khởi vì vị nữ giám đốc, mà họ gọi vui là “người buôn gạo” đã được vinh danh. Điều đó chứng tỏ Nhà nước đã đánh giá đúng mức, công bằng sự đóng góp của bà Ba Thi trong việc góp phần quan trọng thủ tiêu tệ ngăn sông, cấm chợ để lương thực có thể lưu thông dễ dàng từ vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long lên thành phố.
Nhớ tới đóng góp của bà Ba Thi, người ta không thể quên những hình ảnh day dứt một thời: Từng đoàn người, rồng rắn xếp hàng cả ngày trước các cửa hàng lương thực quốc doanh, với những vẻ mặt khinh khỉnh của các mậu dịch viên gạo; cảnh từng nhà phải rải gạo lên mâm hoặc tờ giấy trắng để lượm thóc, trấu, bông cỏ; nhớ những bữa ăn độn của nhiều gia đình thành phố trong khi biết bao hộ nông dân ở nhiều tỉnh miền Tây lúa chất đống trong nhà, ngoài sân mà không biết làm sao tiêu thụ được… Giám đốc Ba Thi đã đi tiên phong để giải quyết những sự vô lý và bất cập đó.
Ngày bà Ba Thi nhận danh hiệu Anh hùng Lao động đã có hàng trăm bức thư, điện, bài báo mừng cho Công ty và người nữ giám đốc Anh hùng. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã có bài viết đăng trên Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 3-10-1985 ca ngợi Giám đốc Ba Thi. Trong đó có đoạn: “Hạt gạo chị Ba Thi thật nhiều chất chứa. Rất khó phân tích tỷ lệ các phần cấu thành trong danh hiệu anh hùng của chị Ba, bao nhiêu phần trăm thuộc suy tính đến bạc tóc, bao nhiêu phần trăm thuộc những đêm thức trắng vì khắc khoải sự đói no của thành phố, bao nhiêu phần trăm thuộc kinh nghiệm của một cán bộ từng lăn lộn với quần chúng tại một thành phố lớn, kinh nghiệm dẫn đến cách tổ chức làm ăn thoát hẳn lối mòn bao cấp… Thôi thì ta đành bằng lòng với nhận định: Danh hiệu anh hùng của chị tổng hợp tất cả những cái mà chúng ta gọi là phẩm chất của chị”…
---------------


Những người mở lối (Bài 4)

Bài 4: Cơn “địa chấn” ở Long An
QĐND - Những năm 1979, 1980, tỉnh Long An triển khai chủ trương cải tiến phân phối lưu thông - bù giá vào lương gây chấn động dư luận. Đây là một quyết định “tày đình” vì đi ngược lại với nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa chính thống. Nhiều nơi tung tin về chủ trương “phá rào” của Long An là hiện tượng: “Làm loạn giá”, “Mới vào đến sân bay Tân Sơn Nhất đã ngửi thấy mùi Nam Tư” (ý nói kinh tế thị trường). Tuy nhiên, bước đột phá đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, mang lại những thay đổi lớn cho tỉnh và đã lan truyền trong cả nước. “Người mở lối” cho hướng đi mới này là Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính, tức Chín Cần…
Cựu Bí thư Chín Cần (sau này ông là Bộ trưởng Bộ Lương thực và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) năm nay đã cận kề tuổi 90. Trong ngôi nhà nằm khuất trong ngõ của đường Sư Vạn Hạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, ông lặng lẽ nhìn tôi, không nói được gì. Đại tá Nguyễn Minh Hùng, Phó giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, con trai ông nói với tôi: “Sau đợt vào viện hồi đầu năm 2011, giờ ông đã yếu nhiều và không đủ tỉnh táo để tiếp chuyện được ai”. Tôi bắt xe ngược sang Long An, mảnh đất mà vị Bí thư này đã gây nên những cơn “địa chấn” 30 năm trước. Ông Mai Văn Chính, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Long An nhiệt tình cung cấp tư liệu và giới thiệu nhân chứng cho tôi. Ông còn tiết lộ: “Tỉnh đã đề nghị cấp có thẩm quyền xét tặng danh hiệu Anh hùng cho bác Chín”…
Đột phá “bù giá vào lương”
Ông Chín Cần có hai lần nhận cương vị Bí thư Tỉnh ủy Long An. Mỗi lần đều là những thử thách ngặt nghèo đối với ông. Lần trước, vào đầu thập niên 50 và lần sau ngay sau giải phóng. Tái nhận chức người đứng đầu tỉnh, trong ông ngổn ngang những mối lo. Lúc này, sau những hân hoan của ngày đại thắng, Long An cũng như cả nước phải đối mặt với những khó khăn chồng chất về kinh tế xã hội khi những khuyết tật của mô hình kế hoạch hóa chỉ huy tập trung, hành chính cung cấp và bao cấp ngày càng bộc lộ gay gắt. Rõ nét nhất là cơ chế giá cả. Sự áp đặt chủ quan, tùy tiện trong định giá đã tạo ra sự chênh lệch lớn giữa giá thị trường tự do với giá chỉ đạo của nhà nước. Khoản chênh lệch ấy chính là miếng mồi béo bở cho các hoạt động bòn rút hàng từ tay nhà nước sang túi các cá nhân. Đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang ngày càng khó khăn. Ông Mai Văn Chính đưa ra tài liệu mới được Tỉnh ủy tổng kết, trong đó có thống kê tiền lương của công nhân viên chức khi đó. Chỉ lấy ví dụ như năm 1979, lương của đối tượng này chỉ là 51,95 đ/tháng. Trong khi đó, thu nhập bình quân của một lao động trong nông nghiệp là 105 đ/tháng, của một tiểu thương kinh doanh nhỏ là 573 đ/tháng, kinh doanh vừa 702 đ/tháng và kinh doanh lớn là 877đ/tháng. Lương quá thấp nên công nhân viên chức tìm mọi cách để lo toan cuộc sống gia đình. Hàng ngàn công nhân, viên chức, giáo viên xin nghỉ hoặc tự bỏ việc để đi buôn, làm ruộng hoặc làm thuê kiếm sống.
Tổng bí thư Lê Duẩn đến nói chuyện với cán bộ tỉnh trong lần về thăm Long An tháng 3-1978 (Bí thư Tỉnh ủy Chín Cần đi sau Tổng bí thư). Ảnh tư liệu.
Là người đứng đầu tỉnh, Bí thư Chín Cần rất đau lòng. Ông trăn trở và tìm cách để thay đổi cơ chế giá cả, tiền lương, khâu nóng bỏng nhất lúc bấy giờ. Người được ông chọn để tham gia xây dựng đề án này là Phó giám đốc Sở Thương nghiệp Hồ Đắc Hi. Ông Hi băn khoăn: Thay đổi là đụng chạm đến nguyên tắc, cơ chế đang hiện hành. Cơ sở nào để làm đề án?
- Cơ sở là từ thực tiễn. Giá cả, tiền lương phải dựa trên quy luật giá trị và cung cầu, cũng như các quy luật kinh tế hàng hóa khác, chứ không thể duy ý chí - Bí thư Chín Cần chỉ đạo.
- Nhưng phải bắt đầu từ đâu?
- Bắt đầu từ tôi. Anh hãy lấy thu nhập của Bí thư Tỉnh ủy để tính toán.
Ông Hi tính toán từ chính trường hợp của Bí thư và đề xuất phương án với ông Chín. Theo đó, tổng tiền lương và 16 mặt hàng phân phối theo định lượng, tất cả quy ra giá thị trường thì lương Bí thư Tỉnh ủy xấp xỉ 600 đồng. Tuy nhiên, do chất lượng hàng hóa thấp, tiêu chuẩn bị cắt xén, hàng được cấp không phù hợp nhu cầu… thì hiệu quả sử dụng của mức lương này chỉ đạt 50-70%. Tốt nhất là đem hết số hàng phân phối của Bí thư ra chợ bán theo giá thị trường rồi về trả cho ông 600 đ/tháng. Bí thư cần gì ra đó mà mua. Nếu theo phương án này thì tỉnh nắm được hàng hóa, giá cả; còn người hưởng lương thoải mái lựa chọn hàng mua. Vì thế, dân buôn, đầu cơ, nhân viên thương nghiệp… không còn cơ hội tiêu cực; Nhà nước còn tiết kiệm được khoản bù lỗ cho thương nghiệp, tem phiếu, thời gian…
Bí thư Chín Cần vỗ đùi cái đét, reo lên: “Đúng, trúng rồi đó!”. Ông trao đổi thêm với các cán bộ chủ chốt tỉnh và cho làm thử nghiệm. Sau khi lĩnh toàn bộ định mức hiện vật trong tháng về, mặt hàng xà bông được chọn để bán ra thị trường. Để tránh đầu cơ và đề phòng tình huống xấu bất ngờ, xà bông được chia để bán làm ba lần. Giá bán cao gấp 10 lần giá phân phối và tương đương giá chợ. Lương của viên chức tháng đó đã được cộng thêm định mức của mặt hàng xà bông theo giá thị trường. Ai muốn mua xà bông thì ra chợ, thoải mái lựa chọn, không phải lo mua dự trữ. Vì thế, giá xà bông đã giảm rất nhiều. Lần đầu tiên một mặt hàng không phân phối nhưng cũng không thiếu ngoài chợ hay cửa hàng quốc doanh. Bước thử nghiệm đã thành công. Tiếp theo đó, trong 3 tháng cuối năm 1979, tất cả các mặt hàng phân phối (trừ gạo) đều được Long An bán ra thị trường. Toàn bộ số hiện vật của cán bộ viên chức được quy ra tiền theo giá thị trường và cộng vào lương hằng tháng. Giải pháp “bù giá vào lương” đã gây một hiệu ứng tích cực. Thị trường sôi động, chỉ số giá tiêu dùng giảm mạnh, quỹ lương của tỉnh tăng lên gấp 7 lần…
Cơn “địa chấn” rung chuyển
Sau “bù giá vào lương”, Bí thư Chín Cần tập trung vào tìm phương án cải tiến khâu phân phối, lưu thông một cách căn cơ, toàn diện. Có nhiều buổi ông giả dạng thường dân đi qua các trạm kiểm tra lưu thông trên Quốc lộ 1A. Những bất hợp lý hiển hiện trước mắt người bí thư. Có người mẹ mang vài cân gạo cho con đang học trên Thành phố Hồ Chí Minh cũng bị kiểm tra, tịch thu và ngâm gạo vào nước.
Trong mớ bòng bong của khâu phân phối lưu thông lúc ấy, Bí thư Chín Cần quyết định cải tiến phương thức về thu mua, phân phối lương thực, nông sản, thực phẩm ở địa phương. Trong cuộc họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy vào ngày 26-6-1980, ông khuyến khích một số ý kiến đề xuất phương thức mới theo hướng: Mua và bán hàng theo giá thỏa thuận. Đây là ý tưởng rất mới, táo bạo. Và cũng dễ hiểu khi ý kiến này nêu ra đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của không ít người. Họ cho rằng, làm theo phương thức đó là không thực hiện được giá chỉ đạo của Nhà nước quy định, ta làm thế nào để tranh mua, tranh bán được với tư thương. Như vậy sẽ đẩy giá lên cao, gây căng thẳng thị trường… Số phản đối còn đề nghị xem lại quan điểm, lập trường của những người đề xuất. Phải chăng phương thức này chỉ quan tâm đến người có tiền, những người giàu có? Cuộc sống của những người nghèo, người có công với cách mạng đã bị bỏ qua?... Bí thư Chín Cần đứng bật dậy, khảng khái: “Chúng ta bàn và tìm phương thức mới là để tháo gỡ khó khăn, là vì cuộc sống và niềm tin của dân. Cho nên tôi đề nghị không được quy chụp động cơ đó với vấn đề quan điểm, tư tưởng chính trị. Cá nhân tôi ủng hộ phương thức mới là thu mua theo giá thỏa thuận. Vì đó là biện pháp hợp với thực tế, hợp với quy luật khách quan”.
Sau cuộc họp này, ông Chín chỉ đạo tiến hành làm thử việc mua hàng theo giá thỏa thuận đối với hàng nông sản, thực phẩm và bán hàng theo giá thỏa thuận đối với hàng tiêu dùng. Cung cách làm ăn mới này đã được người dân hồ hởi đón nhận, công nhân viên chức yên tâm, phấn khởi làm việc.
Những bước thử nghiệm ban đầu đã cho kết quả rất tích cực, Bí thư Chín Cần cùng ông Tư Giao, Giám đốc Thương nghiệp tỉnh hoàn chỉnh Đề án cải tiến phân phối lưu thông và thông qua Tỉnh ủy vào tháng 8-1980. Đề án đặt vấn đề phải chủ động, sáng tạo, phải “dám nghĩ, dám làm, dám nói” trong lãnh đạo và quản lý kinh tế. Triển khai áp dụng với mua bán theo giá thỏa thuận, bù chênh lệch giá trên cơ sở tiêu chuẩn hàng thiết yếu được phân phối. Với phương thức mới, người sản xuất trở lại làm chủ trong sản xuất, kinh doanh; người tiêu dùng trở lại làm chủ thu nhập của mình. Người sản xuất có thể mua được vật tư, nguyên liệu cần thiết, người tiêu dùng có thể mua được các loại hàng thiết yếu mà không phải trông chờ vào mạng lưới phân phối của nhà nước. Việc cung ứng hàng hóa ngày càng sát hợp hơn với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Hàng hóa được lưu chuyển nhanh hơn với con đường ngắn nhất từ sản xuất đến tiêu dùng. Như vậy, cả ba mặt sản xuất, tiêu dùng và lưu thông đều được cải tiến, với những đột phá mới.
Đề án cải tiến phân phối lưu thông mà người chủ biên là Bí thư Tỉnh ủy Chín Cần khi được triển khai đã mang lại luồng sinh khí mới tràn ngập niềm tin và phấn khởi trong cán bộ và nhân dân. Chỉ sau 2 tháng, hơn 300 công nhân, viên chức, giáo viên đã nghỉ, xin trở lại làm việc. Nông dân phấn khởi lao vào sản xuất… Kết quả thực tế là phương thức ấy, việc lưu thông hàng hóa đã trở lại bình thường, kinh tế xã hội được phục hồi nhanh chóng, sản xuất tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện. Năm năm liền (1980-1985) mặc dù có những năm gặp thiên tai nhưng nhìn chung sản xuất vẫn liên tục phát triển. Sản lượng lương thực từ 436 nghìn tấn năm 1980 lên 580 nghìn tấn năm 1985. Sản lượng vải từ 2,3 triệu mét năm 1980 lên 6,5 triệu mét năm 1985. Trước năm 1980, chưa có năm nào tỉnh hoàn thành được kế hoạch thu mua, xuất khẩu hàng hóa. Nhưng từ năm 1980, hàng xuất khẩu liên tục tăng lên, hoàn thành kế hoạch trung ương giao, đạt và vượt cả kế hoạch của địa phương. Long An là một trong chưa đến 10 tỉnh, thành phố trong cả nước có dư ngân sách để nộp cho Trung ương.
Những cải tiến trong phân phối, lưu thông ở Long An thực sự đã gây lên cơn “địa chấn” trong cả nước. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, hàng chục đoàn của các tỉnh, thành phố đã về Long An nghiên cứu, tìm hiểu. Một số phái đoàn quốc tế như đoàn giáo sư Liên Xô, đoàn của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Nhật Bản… cũng về Long An để tìm hiểu. Một Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nhật Bản đánh giá việc làm của Long An “không những là cách làm mới đối với Việt Nam mà còn là mới đối với cả phe xã hội chủ nghĩa”. Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính được gọi ra Hà Nội để giải thích tại sao việc “tày đình” như thế mà không báo cáo xin ý kiến trung ương? Ông Chín Cần thẳng thắn đáp: “Nếu chúng tôi xin ý kiến thì bằng lý luận các anh sẽ bác. Chi bằng chúng tôi làm có kết quả rõ ràng, rồi báo cáo”. Và kết quả thực tế đã thay mọi lời giải thích. Trung ương chấp nhận và cho Long An tiếp tục thực hiện. Không lâu sau, các cải tiến này đã được áp dụng trong cả nước với những quyết định lịch sử tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI…
Rời Long An, tôi vẫn vấn vương lời Bí thư Tỉnh ủy đương nhiệm Mai Văn Chính nói lúc chia tay: “Bác Chín Cần không có điều kiện để học cao vì toàn bộ những năm tháng tuổi trẻ bác phải lăn lộn với các phong trào cách mạng ở địa phương và kháng chiến giải phóng dân tộc. Bù lại, bác luôn sâu sát thực tiễn, gần dân, thương dân và luôn có đầu óc đổi mới. Bác tin tưởng và trọng dụng nhiều trí thức và chuyên gia giỏi như ông Hồ Đắc Hi, ông Tư Giao… Bởi vậy, Long An mới có những đột phá thành công, gây xôn xao dư luận cả nước vào “đêm trước đổi mới” như thế”…
------------

Những người mở lối (Tiếp theo và hết)

Bài 5: Tượng đài trong lòng dân
QĐND - Với mong muốn tiếp cận thêm thông tin về giai đoạn trước đổi mới, cũng như những đánh giá về các nhân vật lịch sử, sau khi thực hiện xong 4 bài viết (đã đăng từ ngày 9 đến 12-2), phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi nhanh với các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế: PGS. TS Hà Huy Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam; TSKH Nguyễn Thị Hiền, nguyên Vụ trưởng Ban vật giá Chính phủ, nguyên chuyên viên cao cấp Văn phòng Chủ tịch nước… Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Tư tưởng, hành động anh hùng
PV: Thưa PGS. TS Hà Huy Thành và TSKH Nguyễn Thị Hiền! Có không ít người thắc mắc là tại sao trước những khuyết tật của cơ chế cũ đã bộc lộ ngày càng rõ nét sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn duy trì và phải đến Đại hội VI năm 1986 mới quyết định đổi mới. Tại sao chúng ta không đổi mới sớm hơn, như Trung Quốc chẳng hạn, họ đã bắt đầu cải cách từ năm 1978?
PGS. TS Hà Huy Thành: Để đi đến quyết định đổi mới tại Đại hội VI, nước ta đã phải trải qua một giai đoạn vật lộn, đấu tranh gian khổ, từng bước tạo nên những thay đổi về nhận thức, về tư duy. Quá trình ấy diễn ra ngay trong những quyết sách ở tầm “vĩ mô”. Từ Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) tháng 9-1979, Đảng đã chủ trương “bung ra”, “cởi trói cho sản xuất”, tháo gỡ được nhiều khó khăn, hé mở những hướng đi mới nhưng sau đó lại xuất hiện tình trạng vô tổ chức trong các quan hệ kinh tế như tranh mua, tranh bán, chụp giật trên thị trường… Điều đó làm cho những ý tưởng đột phá cải cách bắt đầu bị đặt những câu hỏi về hướng đi. Những quan điểm bảo thủ, cũ kỹ lại có căn cứ để thực hiện việc “siết lại” bằng những kỷ cương kinh tế truyền thống trong những năm 1982, 1983. Đến năm 1985, tình hình diễn biến ngày càng xấu hơn, đòi hỏi khách quan là phải dứt khoát lựa chọn một lối ra cho nền kinh tế. Đặc biệt, sau kết quả cuộc cải cách giá lương tiền năm 1985 đã đẩy tình thế tới chỗ không thể chắp vá mô hình cũ mà phải thay đổi hoàn toàn…
PGS. TS Hà Huy Thành. Ảnh: Vĩnh Thăng.
TSKH Nguyễn Thị Hiền: Ở đây, tôi muốn nói cho rõ là năm 1978, Trung Quốc tiến hành cải cách nhưng mới tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp. Đổi mới ở Việt Nam tuy sau cải cách của Trung Quốc nhưng ở những giai đoạn đầu chúng ta làm đầy đủ, toàn diện và nhất thể hơn. Ví dụ như vấn đề xóa 2 giá, Việt Nam làm trước Trung Quốc hàng chục năm. Năm 1990, nước ta đã gần như xóa chế độ 2 giá với những sản phẩm cơ bản, trong khi Trung Quốc gần đến năm 2000 vẫn còn 2 giá với một số sản phẩm.
Đúng như PGS, TS Hà Huy Thành đã nói, để đi đến quyết định đổi mới toàn diện tại Đại hội VI, chúng ta phải qua một quá trình. Nhưng cũng xin nói thêm là những quyết định của Đại hội VI là lịch sử, tuy nhiên không phải ngay sau đó, chúng ta đã đổi mới toàn diện được ngay đâu. Hàng loạt những vấn đề về cơ chế thị trường, quan điểm và đường lối kinh tế… vẫn chưa được khẳng định dứt khoát. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và mới vẫn tiếp tục diễn ra…
PV: Có thể nhìn nhận như thế nào về đóng góp của các cá nhân đã dũng cảm đi tiên phong trong đổi mới tư duy, xây dựng các mô hình và góp phần hoạch định đường lối đổi mới?
TSKH Nguyễn Thị Hiền: Trước hết tôi cho rằng, công cuộc đổi mới là tác phẩm của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có đóng góp của nhiều người, mỗi người có đóng góp ở tầm mức của riêng mình. Chúng ta cần ghi danh phong trào đổi mới của quần chúng, đặc biệt là ở phía Nam và các cá nhân tiêu biểu đã dám tháo bỏ những tư duy và quy định cũ, có nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả để thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Hiệu quả thực tiễn của các mô hình mới từ cơ sở đã có tác động lớn và thuyết phục đối với những quyết định “vĩ mô”, góp phần từng bước hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
PGS. TS Hà Huy Thành: Cái mới khi bắt đầu xuất hiện không phải dễ dàng được chấp nhận ngay. Tôi nói ví dụ như trường hợp của Tổng bí thư Trường Chinh mà trong vệt bài các anh đã đề cập. Là một nhà lãnh đạo cấp cao có uy tín rất lớn nhưng khi ông nỗ lực trong việc đấu tranh để bảo vệ cho quan điểm đổi mới trước Đại hội VI, ông vẫn phải chịu đựng búa rìu của sự phê phán. Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Đoàn Duy Thành khi áp dụng khoán trong nông nghiệp cũng bị không ít người phản đối gay gắt. Giám đốc Ba Thi bị gán cho tội “tranh mua, tranh bán, phá thị trường”. Bí thư Chín Cần của Long An từng bị quy chụp là “thành phần xét lại”… Nếu không dũng cảm, đặc biệt là tấm lòng vì dân, thương dân thì làm sao họ dám thay đổi tư duy và “phá rào” như thế được… Tôi cho rằng, tư tưởng và hành động của những người như vậy xứng đáng vinh danh như những người anh hùng. Lịch sử bao giờ cũng vậy, nếu hy sinh và cống hiến hết mình vì dân thì sẽ sống mãi trong lòng dân, là tượng đài vững bền trong lòng nhân dân…
PV: Ngoài các chân dung đã được nhắc đến trong vệt bài trên Báo Quân đội nhân dân, dưới góc nhìn của các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế, ông, bà có thể nêu một số cá nhân và mô hình tiêu biểu khác trong giai đoạn trước đổi mới?
TSKH Nguyễn Thị Hiền. Ảnh: Tuấn Tú.
TSKH Nguyễn Thị Hiền: Với các nhà lãnh đạo thời đó, ngoài những nhà lãnh đạo cấp cao như Lê Duẩn, Trường Chinh, tôi nghĩ không thể không nhắc đến những gương mặt khác như ông Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh… Các ông là những người đã từng công tác lâu ở cơ sở nên rất hiểu thực tiễn và luôn có tư tưởng, hành động đổi mới, ủng hộ cái mới. Tôi có thời gian làm việc với ông Kiệt khi ông từ TP Hồ Chí Minh ra nhận nhiệm vụ ở trung ương nên biết được những trăn trở của ông. Nhất là khi ông được giao chỉ đạo các tổ triển khai nghị quyết trung ương về cải cách giá lương tiền. Ông sâu sát, cụ thể trong chỉ đạo mọi việc, nhất là rất quyết liệt và nhất quán trong triển khai vấn đề một giá, trăn trở với việc xóa giá nghĩa vụ đối với nông dân… Ở dưới cơ sở, còn có một cá nhân mà lâu nay ít được nhắc đến. Đó là ông Năm Ve, Giám đốc Xí nghiệp đánh cá Côn Đảo. Ông là người thay đổi cơ chế quản lý: Thay vì quản lý theo chế độ kinh tế quốc doanh, ông chuyển sang quản lý theo chế độ nậu vựa của các chủ đánh cá thuở trước giải phóng. Mô hình này đã mang lại thay đổi rõ rệt: Xí nghiệp làm ăn có lãi, đời sống công nhân được nâng cao…
PGS. TS Hà Huy Thành: Tôi nghĩ rằng, các cá nhân và mô hình nêu trong vệt bài của Báo Quân đội nhân dân là rất tiêu biểu trong thời kỳ đó. Còn một số mô hình cụ thể khác nhưng ảnh hưởng ra toàn quốc còn ở mức độ nào đó, ví như những cải tiến của Nhà máy Công cụ số 1 chẳng hạn…
Quyết tâm và dũng cảm chính trị
PV: Câu chuyện về “Những người mở lối” và các mô hình “phá rào” trước đổi mới đã để lại bài học và kinh nghiệm gì trong giai đoạn hiện nay, thưa PGS. TS Hà Huy Thành và TSKH Nguyễn Thị Hiền?
“Từ năm 1979 đã có một số mũi đột phá táo bạo trong kinh tế, mà thời đó thường gọi là “phá rào”. Kết quả của những cuộc phá rào đó đã dội vào tư duy kinh tế của nhiều nhà lãnh đạo, làm cho họ từng bước nhận thấy cần và có thể chọn một hướng đi khác trước… Tiêu biểu là những trường hợp sau: Khoán ở Hải Phòng năm 1980, khoán ở Xí nghiệp đánh cá Côn Đảo, Vũng Tàu, khoán ở Công ty xe khách miền Đông Nam Bộ, thu mua lương thực ở Công ty Kinh doanh Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh, phá giá thu mua lúa ở An Giang, áp dụng cơ chế giá thị trường ở Long An,…”.
(Cố GS lịch sử kinh tế Đặng Phong)
TSKH Nguyễn Thị Hiền: Bài học không bao giờ cũ với người lãnh đạo, đó là khi đưa ra những quyết định, nhất là các quyết sách lớn, quan trọng phải được tính toán kỹ lưỡng và không được duy ý chí. Đặc biệt, người lãnh đạo phải có quyết tâm và dũng cảm chính trị. Phản ứng của dư luận trước các quyết sách bao giờ cũng có, trong đó có phản ứng không hài lòng của những người là đối tượng của cuộc cải cách. Nhưng nếu quá cân nhắc mà không tính đến sự cần thiết và hiệu quả của cải cách đó đem lại thì tiến trình cải cách sẽ bị chậm.
Một điều rất quan trọng mà trong nhận thức, chúng ta đã thống nhất đó là phải thực sự tôn trọng các quy luật của cơ chế thị trường. Không nên “chính trị hóa” các quyết sách kinh tế, giảm bớt những cân nhắc về chính trị khi đưa ra các quyết sách thuần túy là kinh tế. Từng bước hoàn thiện các cơ chế, chính sách, luật pháp phù hợp với thực tiễn cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân, để khỏi phải “phá rào” như đã từng xảy ra…
PGS. TS Hà Huy Thành: Ở đây, tôi muốn nhắc lại câu “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái “bất biến” là độc lập, chủ quyền dân tộc, là mục tiêu và con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn… Nhưng trong thực tế cuộc sống, ứng với mỗi thời điểm, giai đoạn cụ thể thì luôn có “vạn biến”. Phải luôn sáng tạo và đổi mới cách nghĩ, cách làm. Tôi cũng đồng ý với ý kiến TSKH Nguyễn Thị Hiền là phải tôn trọng thị trường, thị trường phải ra thị trường, không nên can thiệp quá sâu và “hành chính hóa” thị trường.
Một bài học nữa, đó là đội ngũ cán bộ các cấp phải luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Sở dĩ trước đây, một số nhà quản lý, doanh nghiệp dám “phá rào”, vì họ luôn sâu sát thực tiễn, hiểu những nỗi khổ và khát vọng của nhân dân. Họ dũng cảm cải cách chứ không lo “giữ ghế”, dù biết có thể bị kỷ luật, thậm chí đi tù…
PV: Xin trân trọng cảm ơn!
----------------
Hoàng Tiến-Bích Trang (thực hiện)

Dân có quyền đuổi những công bộc hư hỏng - Sự kiện - Dân trí

http://dantri.com.vn/c728/s728-563415/dan-co-quyen-duoi-nhung-cong-boc-hu-hong.htm
Dân có quyền đuổi những công bộc hư hỏng <

Giáo sư Tương Lai: Lập trường của các công bộc của dân trong “sự kiện Tiên Lãng” nên hiểu là lập trường của ai?

Còn nhớ “Sự kiện Thái Bình” năm 1997, sau khi nghe tác giả viết bài này trình bày: “Ở đây không hề có chuyện “địch ta”, ở đây chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ thẳng ra: “Đây là mâu thuẫn giữa một bên là những người cầm quyền hư hỏng, thoái hóa biến chất đè nén, áp bức để dân không còn chịu được nữa và bên kia là người dân phải vùng dậy đấu tranh. Có phân tích như vậy mới tìm ra được giải pháp đúng”!

11 tháng 2 2012

Ở Tiên Lãng không chỉ có chuyện nhà ông Vươn

http://baodatviet.vn/Home/chinhtrixahoi/O-Tien-Lang-khong-chi-co-chuyen-nha-ong-Vuon/20122/191144.datviet
Ở Tiên Lãng (Hải Phòng), ngoài câu chuyện về vụ cưỡng chế khu đầm của Đoàn Văn Vươn, còn nhiều chuyện mắt thấy tai nghe mà không ít người sẽ giật mình khi biết.

Đây không phải là vụ cưỡng chế huy động lực lượng lớn duy nhất từng diễn ra ở địa bàn xã Vinh Quang từ trước đến nay. Ông Nguyễn Minh Võ, đảng viên thôn Chùa Trên, cho biết: “Trước vụ cưỡng chế đầm tôm của anh Vươn, giữa tháng 7/2011, tại xã Vinh Quang còn có các vụ cưỡng chế đất đai của các ông Lê Hữu Vững, Mai Công Chứng với sự tham gia của hàng trăm người”.

Sau khi Thủ tướng kết luận vụ Tiên Lãng

http://dinhphdc.multiply.com/notes/item/160

(Dân Việt)

- Ngay trong lúc xem chương trình thời sự của VTV1 tối 10.2, chị Nguyễn Thị Thương - vợ anh Đoàn Văn Vươn và chị Phạm Thị Báu (vợ anh Đoàn Văn Quý) đã ôm nhau òa khóc nức nở. Những giọt nước mắt mừng vui thật khó tả.

“Cảm ơn Chính phủ, cảm ơn các bác ở Trung ương, cảm ơn các cơ quan báo chí đã cứu sống gia đình tôi” - chị Thương nghẹn ngào nói.

Khi chương trình thời sự vừa kết thúc, chị Thương và chị Báu chạy ào ra chợ để mua đồ ăn về ăn mừng. Đi đến đâu, hai chị cũng nhận được lời chúc mừng của bà con làng xóm. Họ chia vui với gia đình chị.

Gia đình chị Thương vui mừng trước kết luận của Thủ tướng (ảnh chụp tối 10.2).

Nhiều người, trong đó có các chủ đầm tự vui với chính mình vì tới đây họ lại được làm chủ, yên tâm sản xuất trên mảnh đất thấm đẫm mồ hôi của chính mình. Không khí ở Vinh Quang, không khí ở Hải Phòng khi nghe thông tin thời sự tối 10.2 vui như ngày hội.

Họ chúc mừng gia đình anh Vươn, họ chúc mừng nhau. Họ chúc mừng cho công lý đã được thực thi. Hoan hô Chính phủ. Hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng… là những lời nói mà chúng tôi ghi nhận được không chỉ từ người dân Tiên Lãng mà ở rất nhiều người dân TP.Hải Phòng.

Giờ phút này chị nghĩ đến điều gì? – Chúng tôi hỏi chị Thương - “Tôi đang nghĩ đến chồng tôi và chú Quý. Không biết anh em họ đã được biết tin vui này chưa! Nhà tôi đã được bảo vệ tài sản, sẽ lấy lại được đầm nhưng còn anh em họ sẽ bị xử lý như thế nào vẫn là mối lo lớn nhất của tôi.

Vẫn biết là Thủ tướng đã chỉ đạo cơ quan chức năng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho anh ấy vì lý do anh ấy phạm tội là do các việc làm sai của huyện nhưng dù sao chắc anh ấy vẫn phải đi tù. Mà ở tù ngày nào là khổ ngày ấy. Gia đình tôi mong các luật sư, các nhà báo tiếp tục bên cạnh chúng tôi để bảo vệ anh ấy”.

09 tháng 2 2012

Truyền hình đưa tin như thế nào về vụ cưỡng chế ở Hải Phòng? | Báo Giáo dục Việt Nam

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Truyen-hinh-dua-tin-nhu-the-nao-ve-vu-cuong-che-o-Hai-Phong/107342.gd

Thứ năm 09/02/2012 10:37

(GDVN) -Có những bản tin tập chung vào việc cung cấp thông tin cho khán giả, nhưng cũng có những bản tin được cho là "dắt mũi" công chúng của mình.

Trí phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ

Chúng ta thường nghe giới chóng cọng rêu rao rằng:

"Phú Trí Địa Hào
Đào tận gốc trốc tận rể"

Và "Phong trào “Xô Viết Nghệ Tỉnh” là cuộc nổi dậy đầu tiên do Đảng Cộng Sản lãnh đạo với khẩu hiệu “Trí, phú , địa , hào, phải đào tận gốc trốc tận rễ” tức là cứ theo thứ tự bất lợi cho cách mạng thì tầng lớp trí, được “ưu tiên” rồi đến ,phú địa, hào đều phải được giết sạch thì thành phần vô sản mới có thể đẩy mạnh phong trào Cộng Sản trên khắp cả nước"

Hà Sỹ Phu còn làm bài vè:
"Bốn anh Trí Phú Địa Hào
Chỉ riêng anh Trí lao đao đến giờ
Đảng ta thương Trí ngu ngơ
Cho Công – Nông - Trí chung cờ liên minh
Trông lên Liềm - Búa hai hình
Trí ta vẫn chẳng thấy mình ở đâu
Quay sang tìm Phú, Địa, Hào
Thấy ba bụng phệ… đã vào… Đảng ta!"

Thế nhưng, có thật như thế?

Liền sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra rầm rộ trên quy mô cả nước mà đỉnh điểm là Xô viết Nghệ Tĩnh. 

Nhiều công trình nhỏ, to của các học giả trong và ngoài đã đề cập đến sự kiện này dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với độ lùi trên 80 năm, chúng ta bình tĩnh, khách quan nhìn lại sự kiện trọng đại đó.

Nhìn lên bản đồ nước Việt chúng ta, Nghệ Tĩnh là giải đất hẹp nằm kẹp giữa một bên là dãy Trường Sơn và một bên là biển Đông. 

Đây là mãnh đất không được thiên nhiên ưu đãi, nắng lắm, bão tố, lụt lội nhiều. 

Yếu tố địa quy định tính cách con người quần tụ nơi đây. 

Họ muốn trụ được và tồn tại trên mãnh đất này trước hết là họ phải cố kết thành những cộng đồng người để chinh phục thiên nhiên. 

Dần dà trong cộng đồng người đó hình thành một tính cách căn bản – bất khuất trước thiên nhiên khắc nghiệt. 

Nét đặc trưng đó của người xứ Nghệ trở thành một tài sản tinh thần vô giá - bất khuất trước cường quyền, bất công trong xã hội. 

Xem trong lịch sử xứ Nghệ, chỉ thời kỳ lịch sử cận hiện đại thôi, cũng đầy những bằng chứng về sự bất khuất trước sự xâm lược của ngoại bang và trước cường quyền. 

Khi ở đây chưa có thực dân Pháp, Trần Tấn và Đặng Như Mại đã dựng cờ nghĩa với lời thề chém đá: “Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”. 

Và khi kẻ thù xuất hiện, người Nghệ Tĩnh đã hội tụ, chiến đấu dưới lá cờ nghĩa của Phan Đình Phùng trong phong trào Cần Vương từ đầu chí cuối. 

Trong phong trào chống thuế Trung Kỳ 1908, phong trào chống thuế khi vượt qua Đèo Ngang đã nhuốm màu bạo động. 

Rồi người xứ Nghệ xốc tới cao trào cách mạng năm 1930 như ta đã thấy. 

Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh diễn ra trong bầu không khí cách mạng đã được hâm nóng từ phong trào chống thuế Trung Kỳ năm 1908 và cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học tháng 2 năm 1930. 

Có lẽ, con người trên mãnh đất này không thích thỏa hiệp, chỉ thích quyết đấu. Nó là sản phẩm của lịch sử hàng nghìn năm. 

Nó như con dao hai lưỡi, tốt ở hoàn cảnh này, nhưng không tốt trong trạng huống kia. 

Những biểu hiện hướng tả trong cải cách ruộng đất, trong duy ý chí thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội qua câu nói nổi tiếng gần xa của Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu Nguyễn Văn Đợi: “Mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản

Nếu như phong trào chống thuế diễn ra ở các tỉnh miền Trung, hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng diễn ra rời rạc với thời gian tồn tại vài ba tháng ở các tỉnh châu thổ sông Hồng và trung du Bắc Kỳ, thì cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên một năm với cường độ mạnh ở 25 tỉnh thành khắp trên cả nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh bằng việc thiết lập chính quyền của những người bị áp bức, bóc lột, khác xa với các loại chính quyền hiện thời và trước đó, để lại những ký ức khó phai mờ trong lòng người dân đất Việt và hơn thế nữa để lại một hình mẫu chính quyền mà dân ta muốn hướng tới.

Một vấn đề đặt ra là một mô hình chính quyền hợp lòng dân đó sao lại chỉ có thể đứng vững trong một thời gian ngắn? 

Đó là một câu hỏi khó mà xưa nay các nhà khảo cứu đã tìm cách giải mã, nhưng đều chưa thỏa đáng, chỉ có thể làm thỏa mãn câu hỏi đặt ra đó khi ta tiếp cận từ nhiều khía cạnh, đặc biệt từ hai khía cạnh quan trọng nhất: lực lượng nào dẫn dắt nó và môi trường sinh ra nó.

Các cương lĩnh chính trị của Đảng như "Chánh cương vắn tắt" và "Luận cương chánh trị" của Đảng năm 1930 và cả trong "Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng" của Nguyễn Ai Quốc đều cho rằng chính thể cách mạng của giai đoạn đầu là Chính phủ công nông binh. 

Đó là chủ trương không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. 

Có ý kiến cho rằng mô hình nhà nước công nông binh, chính quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh, các công hội đỏ, nông hội đỏ, tự vệ đỏ và khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” là sản phẩm của "Luận cương chánh trị". 

Ý kiến ấy là không đúng, không khách quan. 

Vì "Luận cương chánh trị" đến tháng cuối tháng 10-1930 mới được thông qua, trong khi đó, cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đến tháng 10-1930 đã tới đỉnh cao và chuyển sang sang thoái trào. 

Chủ trương thành lập chính phủ công nông binh nếu là giáo điều, “tả” khuynh thì đó điều đã ghi ở "Chánh cương vắn tắt" và trong "Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng" của Nguyễn Ái Quốc rồi.

"Chánh cương vắn tắt" cho rằng “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến”. “Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thỉ phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v...) thì phải đánh đổ”. “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp...”(1). “Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”(2). 

Đoạn trích đó thể hiện "Chánh cương vắn tắt" có quan điểm giai cấp rất “rạch ròi”, có sự phân biệt và “dè dặt” trong tập hợp lực lượng cách mạng.

"Luận cương chánh trị" ghi: “bọn tư bổn thương mại… đứng về một phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công nghệ…vì sức lực yếu kém, có dính dáng với địa chủ, sợ phong trào vô sản ... cho nên chúng nó không thể đứng về quốc gia cách mạng mà chỉ đứng về mặt quốc gia cải lương”. “Bọn thủ công nghiệp thì thái độ của chúng nó đối với cách mạng rất do dự”. Bọn tiểu thương thì không tán thành cách mạng, bọn trí thức, tiểu tư sản, học sanh,v.v “hăng hái cách mạng nhưng chỉ lúc đầu”(3).

Những điều đó chứng tỏ "Luận cương chánh trị" chưa thực sự coi trọng vai trò và khả năng cách mạng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, trung và tiểu địa chủ ở một nước thuộc địa. 

Chưa thực sự coi trong, song không hẳn là “tả” khuynh. 

Vì nếu “tả” khuynh như một số người hiểu thì làm sao Trung ương Đảng lại có sự phê phán Xứ ủy Trung kỳ là: “Xứ ủy Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rẽ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”(4).

 Chân dung đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng (Nguồn: Internet)

Đồng chí Trần Phú sinh năm 1904, con một nhà quan nho học có lòng yêu nước, thương dân, lên 4 tuổi đã mồ côi cha, lên 6 tuổi mồ côi mẹ,  9 tuổi mới được đi học nhưng học rất giỏi. 18 tuổi (1922), đỗ thủ khoa kỳ thi Thành chung Trường Quốc học Huế và đi vào nghề dạy học, đó cũng là thời kỳ bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước.

Trần Phú lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan. Vào những năm đầu thế kỷ XX, nhất là những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp ngày càng gia tăng áp bức, bóc lột thuộc địa. Sưu cao, thuế nặng và lao dịch hà khắc đổ lên đầu dân bản xứ. Các phong trào yêu nước bị đàn áp dã man. 

Ngay từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường, Trần Phú đã cảm nhận được những gì đã xảy ra. Cha của anh - cụ Trần Văn Phổ - một đương kim tri huyện của chính phủ Nam triều đã tự vẫn trước công đường để phản đối sưu dịch nặng nề và lệnh đàn áp của chính quyền thực dân phong kiến, cũng là để bày tỏ thái độ không cam chịu thân phận làm nô lệ ở chốn quan trường. 

Bản thân Trần Phú, lúc bước vào nghề dạy học, đã từng được một thầy giáo cũ của mình, gửi tặng hai câu thơ của một nhà chí sĩ thời đó:

"Sinh ư nô lệ sinh do tử
Tử yếu tự do tử nhược sinh"

Có nghĩa:

"Sống mà nô lệ, sống như chết
Chết vì tự do, chết là sống"


Truyền thống gia đình và quê hương đã nung nấu trong Trần Phú tinh thần yêu nước, chí hướng làm cách mạng. Không theo con đường học để làm quan, Trần Phú chọn nghề dạy học, rồi làm cách mạng chuyên nghiệp. 

Năm 1925, cùng một số đồng chí khác, thành lập Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam). 

Năm 1926, bước ngoặt lớn đã diễn ra sau khi Trần Phú được cử sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc giảng dạy, được bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp vào Cộng sản Đoàn - hạt nhân của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên. 

Năm 1927, được cử sang Liên Xô, học ở Trường đại học Phương Đông. Cuối năm 1929, được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động. 

Thế là, giống như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú đã từ chủ nghĩa yêu nước tiến tới bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và suốt đời trung thành với lý tưởng đó. Tinh thần yêu nước và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hòa quyện vào nhau tạo nên một động lực tinh thần to lớn của cách mạng Việt Nam.

Tháng 10/1929, cùng với Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú bị tòa án Nam triều kết án tử hình vắng mặt vì “tội” làm cộng sản. Cộng sản lúc bấy giờ không còn là bóng ma ám ảnh mà đã trở thành nỗi sợ hãi thật sự của chính quyền thực dân, phong kiến.

Bất chấp sự săn lùng của kẻ thù, từ Mátxcơva, Trần Phú vẫn tìm đường về nước, hoạt động ngay giữa lòng địch ở Hà Nội và Sài Gòn, tham gia lãnh đạo xây dựng Đảng và có nhiều công lao suốt cả năm 1930 và những tháng đầu năm 1931.

Năm 1930, ngay sau khi về nước, được bổ sung vào Ban Chấp ủy lâm thời và được giao dự thảo "Luận cương chánh trị" của Đảng, đồng chí Trần Phú khẩn trương xúc tiến tổ chức các cuộc trao đổi với các đồng chí lãnh đạo trên các lĩnh vực, các vùng và nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai (Quảng Ninh), Thái Bình… 

Chỉ trong vòng 3 tháng, Trần Phú đã hoàn thành bản dự thảo  "Luận cương chánh trị" để Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10/1930) thông qua, được Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương bầu làm Tổng bí thư.

"Luận cương chánh trị" của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí được Đảng giao soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-1930), chỉ rõ: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”(5). 

"Luận cương chánh trị" chỉ rõ tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, do giai cấp công nhân lãnh đạo. 

Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. 

"Luận cương chánh trị" cũng chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Đông Dương là sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên hệ với quần chúng…

"Luận cương chánh trị" đã vận dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trong "Chánh cương vắn tắt" và "Sách lược vắn tắt" do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua Hội nghị thành lập Đảng. 

"Luận cương chánh trị" cùng với "Chánh cương vắn tắt" và "Sách lược vắn tắt" thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta thời dựng Đảng.

Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương, tầm quan trọng của kỷ luật Đảng đã được khẳng định: “Cái trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách rất nghiêm khắc. Tất cả đảng viên phải chấp hành các nghị quyết của Q.T (Quốc tế Cộng sản) của Đảng Đại hội, của Trung ương, của các thượng cấp cơ quan. Trước khi chưa nghị quyết thì tất cả các vấn đề ở trong Đảng đều được tự do thảo luận”(6). 

Để kịp thời đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù và uốn nắn những lệch lạc “tả khuynh” cũng như “hữu khuynh”, tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1931), đồng chí Trần Phú đã phê phán chủ trương “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” là sai lầm và kiên quyết chỉ đạo khắc phục, góp phần xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, kỷ luật của Đảng, lấy lại lòng tin trong nhân dân để tiếp tục tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng. 

Trong giai đoạn đó, tổ chức, kỷ luật của Đảng được chú trọng củng cố, vai trò lãnh đạo của hệ thống tổ chức Đảng ngày càng được khẳng định trong đấu tranh cách mạng. 

Vì vậy, ngày 11-4-1931, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.

Ngày 18/4/1931, Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt, tra tấn dã man, đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6/9 năm ấy.

Từ khi nhận nhiệm vụ Tổng bí thư cho đến khi bị địch bắt, thời gian không đầy 6 tháng nhưng Trần Phú đã làm rất nhiều việc trong chỉ đạo thực tiễn. 

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3/1931) đã phân tích, đánh giá sâu sắc phong trào cách mạng sôi nổi đang diễn ra khắp nơi, cả những ưu điểm và thiếu sót, đặc biệt là các phong trào nông dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Mỹ Tho, Bến Tre…

Về Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Tổng bí thư một mặt đánh giá cao phong trào, mặt khác phê phán nghiêm khắc sai lầm của khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, coi đó là sai lầm “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi, tước bỏ bạn đồng minh, gây thêm khó khăn cho cách mạng. 

Có thể coi đó là sự phê phán có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong buổi đầu cách mạng.

Các hội nghị Thường vụ Trung ương do Trần Phú chủ trì còn ra nhiều quyết định cụ thể khác: Xuất bản báo Cờ vô sản và báo Cộng sản, làm cơ quan tuyên truyền và lý luận của Trung ương; tổ chức công tác giao thông liên lạc từ Trung ương đến các xứ ủy, tỉnh ủy và từ Trung ương đến Quốc tế Cộng sản; tiến hành công tác vận động công nhân và thành lập Ban Công vận Trung ương do chính Trần Phú làm Trưởng ban…

Do Ngô Đức Trí phản bội khai báo (xem Về những phần tử phản bội, chỉ điểm trong Cộng sản Đảng), Trần Phú đã bị bắt tại Sài Gòn ngay sau Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Bằng những thủ đoạn tra tấn cực kỳ dã man, thậm chí rạch da thịt, rồi nhét bông tẩm dầu mà đốt, kẻ thù hòng khai thác từ người đứng đầu Đảng ta nhiều điều bí mật, Trần Phú vẫn một mực không khai: “Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các người nghe” (7). 

Tại phiên tòa xét xử, mặc dù đã thừa biết tên thật người bị bắt, tên quan tòa vẫn gặng hỏi mãi. Trần Phú thản nhiên: “Ông đã tha thiết muốn biết tên tôi quá như thế, thì đây, tên tôi là Trần Phú” (8). Rồi im bặt, không thêm một lời nào nữa.

Gần 5 tháng bị giam cầm tại nhà lao, trước những đòn tra tấn dã man và chế độ nhà tù khắc nghiệt, cộng thêm bệnh lao tái phát, Trần Phú đã kiệt sức.

Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Trần Phú còn gửi tới các đồng chí, đồng bào lời nhắn nhủ: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
 Tổng Bí thư Trần Phú.

Nghiên cứu tiến trình phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ta có một nhận xét khái quát: những biểu hiện căn bệnh ấu trĩ tả khuynh chỉ xuất hiện vào lúc phong trào đang đứng trước sự tấn công điên cuồng của thực dân Pháp và bề lũ tay sai. 

Trong sự quyết đấu đó, để tiếp tục đưa phong trào tiến lên, những người cộng sản cần phải tỉnh táo đề ra những giải pháp uyển chuyển, thì trái lại, đưa ra giải pháp quá cứng rắn, không phải đối với kẻ thù, mà đối với chính những người lãnh đạo phong trào: “Trí, Phú, Địa, Hào; Đào tận gốc, trốc tận rễ”, từ đó dẫn tới Chỉ thị “ Thanh Đảng”, tức làm trong sạch nội bộ Đảng trước bước ngoặt của phong trào. 

Năm 1930 - 1931, Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao nhất của phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. 

Mặc dù có rất nhiều thành tích, nhưng vẫn còn những biểu hiện tả khuynh, đặc biệt là vấn đề thanh Đảng, năm 1931, trước âm mưu khủng bố trắng của thực dân Pháp và phong kiến, đáng tiếc thay Xứ ủy Trung Kỳ đã phạm một số sai lầm tả khuynh. 

Dù thời gian xảy ra yếu điểm đó rất ngắn ngủi (khoảng một tháng) nhưng nó đã gây ra tổn thất cho phong trào bấy giờ: 

Chỉ thị thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ ra đời đầu tháng 4-1931. 

Trong chỉ thị này có câu “Trí phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, “Đuổi sạch sành sanh ra ngoài hết thảy những bọn trí phú địa hào. Nếu đồng chí nào muốn làm cách mạng, tự nguyện đứng về phía giai cấp vô sản mà phấn đấu cũng không cho đứng trong Đảng.” 

Sau khi nhận được chỉ thị thanh Đảng, các đảng viên thuộc thành phần lớp trên không tránh khỏi đột ngột, đã gây tổn thất trong nội bộ Đảng.

Ta bắt gặp những trang hồi ký đẫm nước mắt của những người trong cuộc như bà Tôn Thị Quế khi đón nhận Chỉ thị đó. 

Bà Tôn Thị Quế, nguyên là Tỉnh ủy viên Nghệ An, người có công lớn trong công tác xây dựng cơ sở Đảng ở huyện Thanh Chương, Nam Đàn đã kể lại: “Khi nhận được quyết nghị hạ tầng công tác của Tỉnh ủy, tôi bàng hoàng cả người. Trở lại công tác ở Ngọc Lâm, lòng tôi vô cùng đau xót. Ngày đêm tôi không ăn, không ngủ được. Biết tôi là một cán bộ bị hạ tầng, quần chúng đối đãi khác hẳn.” (9)

Hoặc lời khai của Phan Sĩ Liêm: “ Vào cuối năm 1930, thiếu úy Trưởng đồn Thanh Quả đến nhà bắt tôi…Tôi trốn trong núi trước Võ Liệt…Tôi ở đấy đến đầu năm…thì Bí thư Chi bộ Yên Trường đến nói với tôi rằng có lệnh của Đảng cấm những người giàu và trí thức không được hoạt động và do đó tôi không còn thuộc chi bộ anh ta nữa” (10) 

Sự thái quá trong lý luận và thực tiễn thời Xô viết Nghệ Tĩnh không phải xa lạ, mà thuộc một căn bệnh thường gặp trong phong trào cộng sản quốc tế, căn bệnh “tổ tông”, đã được V.I. Lênin cảnh báo trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản xuất bản vào tháng 6 năm 1920. 

Trong tác phẩm đó, Lênin đã từng căn dặn những người cộng sản: “Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỷ mỷ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù…cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù nhỏ bé nhất để có được một bạn đồng minh tạm thời bấp bênh, có điều kiện, ít chắc chắn và đáng tin cậy” (11) 

Căn bệnh đó xuất phát từ sự nhận thức không đến nơi đến chốn lý luận mác xít về chuyên chính vô sản và việc vận dụng máy móc nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước. 

Sự nhận thức không thấu đáo đó đã dẫn tới hai dạng tả khuynh khác nhau trên hai vùng của thế giới. 

Ở các nước phát triển lúc đầu xuất hiện khuynh hướng “tả”, rồi dần dần tới “cực tả”, được biểu hiện trọn vẹn trong chủ nghĩa Trốt xki, đề cao thái quá vai trò của giai cấp vô sản trong tiến trình cách mạng vô sản, điều đó dẫn tới chủ nghĩa biệt lập. 

Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, như chúng ta, xuất hiện một khuynh hướng quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp, hạ thấp yếu tố dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Ở nước ta căn bệnh đó được biểu hiện sớm nhất trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. 

Vậy phong trào này về tư tưởng chịu ảnh hưởng của lực lượng chính trị nào, của chính đảng nào? 

Từ trước tới nay trong các công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng 1930-1931 chỉ thấy nói một cách chung chung là Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Nói như thế có lẽ không hoàn toàn chính xác. 

Cao trào cách mạng này trước tiên chịu ảnh hưởng tư tưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ. 

Cao trào này khởi phát từ cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân ở đồn điền Phú Riềng dưới sự lãnh đạo của Trần Tử Bình, một trong những đảng viên thuộc chi bộ cộng sản đầu tiên ở Nam Kỳ, được Ngô Gia Tự, phái viên của Đông Dương Công sản Đảng , tổ chức. 

Tiếp đó là cuộc đấu tranh cuả công nhân Nam Định và Vinh - Bến Thủy là hai trung tâm công nghiệp ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, địa bàn hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng. 

Những phái viên của Đông Dương Cộng sản Đảng có mặt đầu tiên ở Vinh - Bến Thủy là Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, tiếp đó là Nguyễn Đức Cảnh. 

Họ chính là những người sáng lập Chi bộ cộng sản đầu tiên trong nước và là trụ cột của Đông Dương Cộng sản Đảng. 

Như vậy, cao trào cách mạng 1930-1931- quy mô toàn quốc và phong trào Xô viết- quy mô địa phương, đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đông Dương Cộng sản Đảng. 

Như chúng ta điều biết, thời Việt Nam cách mạng Thanh niên, Kỳ bộ thanh niên Bắc Kỳ là mạnh nhất, không chỉ đông hội viên hơn, mà mạnh về chất lượng và hoạt động thực tiễn. 

Đây là nơi sản sinh ra phong trào “vô sản hóa” góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân. 

Vì thế, trên mảnh đất này những người lãnh đạo sau khi tiếp nhận các Nghị quyết của Đại hội VI Quốc tế Cộng sảng năm 1928, đã sớm nhận ra sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản. 

Họ đã thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên làm hạt nhân cho cuộc vận động đó. 

Khi vấn đề thành lập ĐCS mà họ nêu lên tại Đại hội I Thanh niên không được chấp nhận, họ bỏ đại hội ra về và công bố Tuyên ngôn giải thích cho hội viên lý do không tiếp tục dự đại hội. 

Nửa tháng sau, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập và thông qua những văn kiện nền tảng như Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ. 

Tuyên ngôn xác định tính chất của Đảng là: “Đảng cách mệnh đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức là thợ thuyền) ở Đông Dương…Đảng CS là Đảng bênh vực cho toàn giới vô sản giai cấp, dân cày nghèo và tất cả những người làm lụng bi bóc lột và đè nén”.

Những vấn đề lý luận nêu lên trong các văn kiện có tính cương lĩnh của Đông Dương Cộng sản Đảng về căn bản là đúng, nhưng có nhiều điểm quá đơn giản và chưa chính xác, đặc biệt không nhận thức được yếu tố dân tộc, mà quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp theo nhận thức không thấu đáo loại hình cách mạng ở các nước thuộc địa như chúng ta. 

Sự thiên lệch đó đã dẫn tới những biểu hiện tả khuynh và biệt lập trong đường lối và hành động thực tiễn. 

Điều này được biểu hiện rõ trong thái độ của Đảng đối với các giai cấp khác ngoài công nông. 

Chẳng hạn, đối với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản không có sự phân biệt rạch ròi giữa địa chủ yêu nước và địa chủ phản động, giữa tư sản dân tộc và tư sản mại bản để có thái độ đúng nhằm phân hóa, lôi kéo họ về phia cách mạng hoặc đối với trí thức có những nhận định không đúng khi cho rằng “cách mạng càng tiến lên, thì tụi đó cứ dần dần lui về”. 

Với những tư tưởng chỉ đạo đó, Đông Dương Cộng sản Đảng giỏi lắm chỉ xây dựng được khối liên minh công nông, chứ không thể xây dựng được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn. 

Chúng ta hoàn toàn hiểu và thông cảm với họ, bởi lẽ Đông Dương Cộng sản Đảng vừa mới thoát thai từ Thanh niên cần phải tỏ ra là cộng sản, lấy tính giai cấp làm tiêu chí phân biệt, mà không thấy được vấn đề cốt tử là những người cộng sản ở các nước thuộc địa đang lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì thế yêu tố dân tộc ở đây là trên hết, trước hết, lợi ích dân tộc phải được đặt trên lợi ích giai cấp. 

Sự thiên lệch đó hay nói cách khác mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đã được giải quyết thỏa đáng khi Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. 

Từ đó chúng ta mới có Mặt trận Việt Minh và dẫn tới thắng lợi trong cách mạng tháng Tám. 

Nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi chúng ta lại phạm phải tả khuynh trong cải cách ruộng đất, cải tạo tư bản tư doanh và chống nhóm Nhân văn giai phẩm. 

Những sai lầm tả khuynh đó tạo ra một sự sinh hoạt chính trị mới chưa từng có trước đó, theo nghĩa xấu, đặc biệt ở khu vực nông thôn. 

Chẳng hạn, trong cải cách ruộng đất, những người cố nông, bần nông là những người không biết chữ lên nắm chính quyền làng xã. 

Và chúng ta biết xã hội vận động như thế nào khi những người không biết chữ nắm giử chính quyền. 

Vấn đề ở đây là chính quyền đứng trên lập trường của giai cấp nào chứ không phải là giai cấp nào nắm chính quyền. 

Sự đảo lộn các giá trị xã hội bắt đầu từ sự nhận thức thô thiển đó. 

Từ đó, theo thời gian, trên bình diện tư tưởng, lại xuất hiện một biến thái khác của khuynh hướng tả – duy ý chí, đề cao quá đáng yếu tố con người. 

Duy ý chí xuất hiện trong bối cảnh khi ta đang đứng trên “ đỉnh cao muôn trượng” sau thắng Mỹ, tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội và hâu quả như thế nào chúng ta đã từng nếm trải.

Khía cạnh quan trọng thứ hai là môi trường sinh ra tư tưởng tả khuynh và duy ý chí, đó là xứ Nghệ. 

Như trên đã viết, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả nước, nhưng đến xứ Nghệ nó đâm hoa kết trái bằng sự thành lập chính quyền Xô viết. 

Đó là điều chúng ta phải suy ngẫm, xem xét, trước hết là hai yếu tố: Địa và Nhân.

Nghiên cứu đặc điểm Đảng ta và tìm hiểu thành phần xuất thân của lớp đảng viên đầu tiên ở Nghệ Tĩnh như Trần Phú, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sỹ Sách, Nguyễn Tiềm v.v… phần lớn họ là trí thức tiểu tư sản thuộc các gia đình khá giả. 

Chính họ đã tiếp thu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Nguyễn Ái Quốc vào phong trào yêu nước. 

Phần đông trong số họ giữ cương vị chủ chốt trong các cấp bộ Đảng. 

Vì vậy chỉ thị thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ đánh vào lực lượng nòng cốt của Đảng. “Tuy các địa phương không khai trừ đảng viên song việc chuyển vị trí và hạ tầng công tác nhất loạt hầu hết đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra khỏi các cương vị chủ chốt trong cấp ủy và thay thế bằng những đảng viên thành phần bần cố nông trình độ quá thấp. Trong tình hình địch khủng bố trắng lúc bấy giờ đã gây trở ngại và tổn thất không nhỏ.” (12)

Có thể nói chỉ thị thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ trong thời kì cuối của Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sai lầm lớn về công tác xây dựng Đảng. 

Chỉ thị đó bộc lộ tư tưởng cô độc, hẹp hòi nghiêm trọng và sự ấu trĩ về nguyên lý xây dựng Đảng, về nhận thức đặc điểm của Đảng ta.

Trong hoàn cảnh đó, Trung ương Đảng đã kịp thời ra chỉ thị uốn nắn phong trào. 

Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ ngày 20/5/1931 của Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, như vậy thì lấy gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”. 

Các địa phương đã báo cáo về Xứ ủy có hiện tượng một số đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra đầu thú với địch, hoặc chuẩn bị ra đầu thú. Xứ uỷ Trung Kỳ phải tuyền lệnh thu hồi chỉ thị đó.

Trên thực tế ở hầu khắp các địa phương có cơ sở Đảng tại Nghệ An, không có hiện tượng khai trừ Đảng viên: “Theo điều tra của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh uỷ Nghệ An, cả Đảng bộ Thanh Chương - Đảng bộ có số lượng đảng viên đông nhất tỉnh, không có trường hợp nào khai trừ đảng viên theo chỉ thị thanh Đảng” và sáng suốt thay “đã không xảy ra một cuộc thanh trừng, sát phạt trong các Đảng bộ” (13)

Sau khi đi dự Hội nghị Trung ương Đảng trở về, đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung kỳ đã triệu tập hội nghị cán bộ chủ trì để báo cáo tình hình. 

Đồng chí Nguyễn Thị Duệ đã đi dự hội nghị từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 4 năm 1931 để tiếp thu ý kiến chỉ đạo, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng trong giai đoạn mới.

Sau cuộc Hội nghị của Xứ ủy Trung kỳ, các đồng chí lãnh đạo chủ trì của Xứ ủy, Tỉnh ủy như Lê Mao, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Trần Thâm và nhiều đồng chí khác đều bị sa lưới, người bị bắt, người bị bắn lén. 

Đồng chí Lê Viết Thuật làm Bí thư Xứ ủy Trung kỳ thay đồng chí Nguyễn Phong Sắc, làm việc trong chiếc lán tại cánh đồng Trẽn. 

Đồng chí Nguyễn Thị Duệ mang bí danh là Sửu, làm Bí thư Khu ủy Bến Thủy, thường xuyên qua lại báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Bí thư Xứ ủy. 

Nguyễn Thị Duệ hoạt động trong điều kiện cực kỳ gian khổ, thiếu thốn và nguy hiểm. 

Bọn mật thám luôn rình mò, lùng sục quyết bắt cho bằng được các đồng chí lãnh đạo phong trào để được thăng chức và nhận thưởng. 

Ngày 7/12/1931, hai đồng chí Lê Viết Thuật và Nguyễn Thị Duệ đã bị bắt đem về giam tại nhà lao Vinh.

Lần thứ hai phải trở lại nhà lao Vinh, thực dân Pháp đã có đủ bằng chứng để buộc tội chị. 

Sau những lần Nguyễn Thị Duệ bị lôi đi hỏi cung, bị tra tấn hết sức dã man, nhưng cuối cùng chúng đều bắt lực trước tấm lòng thuỷ chung son sắt với Đảng, tinh thần kiên cường bất khuất của đồng chí. 

Ngày 8/1/1932, toà án phong kiến Nam triều tỉnh Nghệ An đã kết án Nguyễn Thị Duệ khổ sai chung thân (theo hồ sơ của Bản án số 28).

Tháng 3/1934, nhân dịp Vua Bảo Đại cưới vợ, đã có lệnh giảm án cho tù chính trị, nhiều đồng chí bị bắt trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã được tha, trong đó có Nguyễn Thị Duệ. 

Được ra tù, như chim sổ lồng, chị vội đi bắt liên lạc ngay với các chị Hoàng Thị Ái, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Nhuận, Nguyễn Thị Nhã để vận động, khôi phục lại phong trào ở các huyện Nghi Lộc, Thanh Chương, phủ Anh Sơn và thành phố Vinh.

Từ những điều sau nhiều năm suy ngẫm đã được trình bày ở trên có thể rút ra một nhận định khái quát là:  Những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh thuộc một căn bệnh thường gặp ở thời kỳ đầu của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới, nhưng đồng thời phản ánh một cá tính đặc thù của cư dân bản địa. 

Những người lãnh đạo ở địa phương này cần phải tính đến cái đặc sản tinh thần đó khi phát động một phong trào.

---
Ghi chú: 
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, 1930, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 4.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 6.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 96-97 
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 3, 1931, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 157
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 110.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang  127.
(7), (8) Dẫn theo Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Trần Phú - Tiểu sử, Sđd, trang 144, 161-162.
(9) Chỉ một con đường - Hồi kí của Tôn Thị Quế. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Nghệ An, xuất bản năm 1972, trang 54.
(10) Dẫn theo, Lê Thị Hạnh Phúc, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học 65 năm Xô việt Nghệ Tĩnh, Vinh, 1996, trang 304.
(11) V.I. Lênin. Toàn Tập, tập 41. Nxb Tiến bộ, M,1977, trang 69.
(13) Trích bài “Nhìn lại một số sự kiện về Xô Viết Nghệ Tĩnh trong thời kỳ chống khủng bố trắng” của Bùi Ngọc Tam, Ban sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An trong tập kỉ yếu 65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh, trang. 262.
(14) Bài của Bùi Ngọc Tam trong tập Kỷ yếu 65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh, sách đã dẫn, trang 260.

Mục lục tham khảo: