Tiếp tục về địa giới nước Xích Quỷ và nói chuyện con số chín trong văn hiến Việt.
Về sông Dài, như đã nói trong "Ngày xửa ngày xưa", là con sông Cái, sông Mẹ của người Việt cổ, đoạn hạ lưu có một hồ lớn, nông kích thước thay đổi theo mùa đóng vai trò là hồ điều hòa của sông Dài, gọi là hồ Động Đình, nằm giữa hai tỉnh được đặt tên căn cứ theo vị trí hồ: Hồ Nam và Hồ Bắc (湖北, "phía bắc hồ", tên gọi tắt chính thức là Ngạc [鄂, lấy theo tên nước Ngạc {鄂國, ~1200 - 863 TTL} chư hầu của nhà Thương, nay là thành phố Ngạc Châu 鄂州市 ở phía đông của tỉnh], tên gọi tắt không chính thức là Sở [楚 theo tên nước Sở {楚國, còn gọi là nước Kinh 荆國 hay Kinh Sở 荆楚; Phạn: श्रीक्रुंग / Srikrung, 1030 - 223 TTL}]). Chính xác thì hồ Động Đình nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam. Cư dân ban đầu ở khu vực Ngạc Châu vốn là người Việt cổ, đã canh tác lúa nước trên quy mô rộng tạo nên nền Văn hóa Đại Khê (大溪文化, 4500 - 3000 TTL) trải dài từ miền tây Hồ Bắc đến miền đông Tứ Xuyên và đồng bằng sông Châu (珠江, con sông dài thứ ba TQ, chảy qua Lưỡng Quảng, Vân Nam 雲南, Quý Châu 貴州, một phần các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây [江西, "phía tây Giang Nam"]), di chỉ Văn hóa Đại Khê có dấu tích về hào và tường thành quanh khu định cư, niên đại sớm nhất Viễn Đông.
Về Ba Thục, như đã nói trong "Ngày xửa ngày xưa", là hai nước Ba và Thục (hay Cổ Thục 古蜀國, Thục Sơn 蜀山國). Nước Ba khởi thủy là một liên minh lỏng lẻo hoặc là một tập hợp các tù trưởng, bao gồm một số thị tộc của người Ba độc lập cùng công nhận một vị quân chủ, theo huyền sử TQ, là Hàm Điểu con thứ Bào Hy, hình thành quốc gia liên minh bộ lạc cùng thời với Xích Quỷ và Cổ Thục. Trong “Sơn Hải kinh” có ghi:
Như vậy, lãnh thổ Xích Quỷ trải từ Đồng bằng sông Dài (長江三角洲: "Trường giang Tam giác châu", tạo thành từ trầm tích của sông Dài) qua Cao nguyên Vân - Quý (雲貴高原: Vân Quý cao nguyên) Đồng bằng sông Châu (珠江流域, "Châu giang Tam giác châu" hay Đồng bằng sông Việt [tức "sông Quảng Đông"], 粵江三角洲: "Việt giang Tam giác châu", tạo thành từ trầm tích của sông Châu) đến Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Mã với địa hình đồi núi sông ngòi đầm lầy xem kẽ. Thời bấy giờ khí hậu Hoa Nam vẫn còn là khí hậu nhiệt đới gió mùa, cư dân Xích Quỷ là hậu duệ những người Hòa Bình (Hoabinhiens, 17 - 7 NN) ăn ốc sò điệp, đánh bắt cá, săn thú nhỏ, hái lượm củ quả đã thuần hóa lúa nước, các loại khoai, thuần hóa trâu, chó, lợn, gà, gác tre gỗ làm nhà sàn để ở, điều kiện thiên nhiên thuận lợi tạo cho cư dân bản tính thuần hậu, chất phác.
Trong đó Đồng bằng sông Dài, Cao nguyên Vân - Quý, Đồng bằng sông Châu quen gọi là Hoa Nam (華南: miền Nam 南 Trung Hoa). Đường đẳng nhiệt 0 độ trong tháng 1 và đường đẳng giáng thủy 800 mm tại TQ tạo thành một đường gần trùng với Hoài Hà - rặng Tần Lĩnh được coi như là đường phân chia tự nhiên giữa Hoa Nam và Hoa Bắc (華北: miền Bắc 北 Trung Hoa, địa bàn phát tích của tộc Hoa Hạ, ven Hoàng Hà. Hoài Hà (淮河, hay Hoài Thủy 淮水) là con sông lớn thứ ba ở TQ, bắt nguồn từ Đồng Bách Sơn tỉnh Hà Nam, chảy qua miền nam tỉnh Hà Nam, miền bắc các tỉnh An Huy (安徽, tên gọi tắt là Hoàn 皖) và Giang Tô (江蘇, tên gọi tắt là Tô 苏, theo tên Cô Tô 姑苏, nay là Tô Châu 蘇州, cái nôi của văn hóa Ngô [吴, Câu Ngô 句吴, hay Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴, 攻吾…]) đổ vào sông Dài tại khu vực Tam Giang Doanh (thuộc thị xã Giang Đô 江都 thành phố Dương Châu tỉnh Giang Tô). Rặng Tần Lĩnh (秦嶺) là dãy núi chính chạy theo hướng đông - tây ở phía nam tỉnh Thiểm Tây (陝西, tên gọi tắt là Thiểm 陝 hoặc Tần 晋, theo tên nước Tần [晉國, 900 - 221 TTL]). Thiểm Tây cũng được gọi là Tam Tần (三秦, ba trong số 18 nước 十八国 hình thành từ các bộ phận của đế quốc Tần sau sự sụp đổ của nhà Tần), gồm Ung (雍, trung tâm Thiểm Tây và phía đông Cam Túc [甘肅, ghép tên hai châu 州 Cam, Túc thời Hán, tên gọi tắt là Cam hay Lũng 陇 / 隴, cũng còn gọi theo tên cũ là Lũng Tây hay Lũng Hữu vì có núi Lũng ở phía đông Cam Túc]; Tắc [塞, phía đông bắc Cam Túc] và Địch [翟, phía bắc Cam Túc].
Khu vực Tam Tần nằm ở khu vực trung tâm của đế chế Tần, còn gọi là Quan Trung (關中, tức Bình nguyên Quan Trung 關中平原 hay Bình nguyên Vị Hà 渭河平原, tương ứng với thung lũng hạ du Vị Hà 渭河, chi lưu lớn nhất của Hoàng Hà), gọi là "Quan Trung" để phân biệt với "Quan Đông", tức Bình nguyên Hoàng thổ (華北平原, tức Bình nguyên Hoa Bắc 華北平原, đồng bằng phù sa lớn nhất Đông Á tạo thành từ trầm tích của đất vàng Hoàng Hà). Trầm tích đất vàng của Hoàng Hà tạo thành Cao nguyên Hoàng Thổ (黃土高原, tại thượng và trung lưu Hoàng Hà), đất tơi xốp như bụi bay, nổi tiếng là trồng cao lương và Bình nguyên Hoàng Thổ tại trung và hạ lưu Hoàng Hà, một trong các vùng nông nghiệp quan trọng nhất của TQ với các loại cây trồng như ngô, lúa miến, lúa mì vụ đông, rau, và bông.
Cao nguyên Hoàng Thổ chiếm phần lớn các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây cũng như nhiều phần của Cam Túc, Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ (寧夏回族自治區) và Khu tự trị Nội Mông Cổ (Övör Mongolyn Öörtöö Zasakh Oron / 内蒙古自治区). Cư dân ở đây sống trong các diêu động (窰洞, tạo nên bằng cách đục khoét vào lớp đất hoàng thổ, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè). Bình nguyên Hoàng Thổ trải rộng trên phần lớn các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Đông, cư dân sống trong căn lều tạo nên bằng cách đào xuống đất hoàng thổ đầm kỹ, bên trên gác cây que lợp da thú tạo thành mái. Sau này khi đã có rơm rạ từ lúa kê, lúa miến thì trộn bùn rơm mà đắp mái. Thủ đô Bắc Kinh (北京, "Kinh đô phía Bắc", tên gọi tắt Kinh 京) nằm ở rìa đông bắc của bình nguyên, Thiên Tân (天津, thành phố công nghiệp và cảng biển quan trọng) nằm ở bờ biển phía đông bắc bình nguyên.
Địa lý của vùng Bình nguyên Hoàng Thổ có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và chính trị TQ. Không giống như các khu vực ở Hoa Nam, Bình nguyên Hoàng Thổ không bị chia cắt nhiều bởi các dãy núi, lại có khá ít sông, do vậy việc thông tin liên lạc khá nhanh chóng dẫn đến, ngôn ngữ tương đối đồng nhất, tương phản với tình trạng có nhiều ngôn ngữ hay phương ngữ ở Hoa Nam nên trung tâm chính trị của TQ thường được đặt ở đây. Do đất đai màu mỡ của vùng Bình nguyên Hoàng Thổ tiếp đến Cao nguyên Hoàng Thổ dần dần chuyển sang vùng thảo nguyên và sa mạc ở Trung Á mà không có ranh giới tự nhiên giữa các vùng, nên Bình nguyên Hoàng Thổ dễ dàng bị xâm nhập từ Trung Á, Bắc Á và Mãn Châu, điều này đã thúc đẩy việc xây dựng thành quách để chống xâm nhập mà Vạn Lý Trường Thành (萬里長城: "Thành dài vạn lý", gọi tắt là Trường Thành) là tiêu biểu.
Mặc dù đất đai của Bình nguyên Hoàng Thổ màu mỡ song là nơi giao nhau của luồng khí ẩm từ Thái Bình Dương và luồng khí khô từ vùng nội địa châu Á khiến dễ bị lũ lụt cũng như hạn hán, lại khó tiên định khí hậu. Hơn nữa, sự bằng phẳng khiến nó phải hứng chịu các trận lụt lớn khi các công trình thủy lợi bị hư hỏng cũng như dễ dàng triển khai nhiều quân lính để xâm lược hoặc chống xâm lược. Tình trạng lụt lội của Hoàng Hà tồi tệ hơn rất nhiều so với khu vực dọc sông Dài về hướng nam. Cư dân sống gần Hoàng Hà phải chống chịu với thiên nhiên khắc nghiệt hơn để chế ngự lũ lụt và tưới tắm mùa màng.
Ở bất kỳ mức độ nào, Bình nguyên Hoàng Thổ là vùng lớn nhất với số dân cư tập trung đông đảo nhất. Ở những nơi con người sản xuất ra được nhiều lương thực hơn nhu cầu của họ, các chiến binh đã được thúc đẩy phát triển, không chỉ chống lại các bộ lạc du mục từ thảo nguyên mà còn để đi cướp đoạt tài sản, chinh phục đất đai các bộ lạc xung quanh. Do đó các vị thủ lĩnh chinh phục bắt đầu nổi lên ở Bình nguyên Hoàng Thổ cũng như tình trạng ở phía tây châu Á. Những điều này đã kích thích một nỗ lực tổ chức tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển của một nhà nước tập trung hóa nhằm quản lý các kho lương thảo, bảo trì các công trình thủy lợi và chống lại cũng như tiến hành các cuộc chinh phạt.
Trở lại với Vua Kinh Dương, Mẫu (Mẹ) Thoải (母水, chữ "thoải" là đọc chệch từ chữ "thủy", vị nữ thần dân gian chịu trách nhiệm quản lý các miền sông nước, tức Thủy cung Thánh Mẫu 水宮聖母 còn gọi là Mẫu Đệ Tam) trong một lần du ngoạn biển Đông đã bắt gặp một con rắn có bốn chân và một cặp sừng trên đầu. Thích thú trước hình dạng lạ kì của nó, bà liền thu phục và biến nó thành thú cưỡi của mình, đặt tên là Thần Long. Sau này Thần Long lập được nhiều công lớn, được đích thân Ông Giời cho hóa thành hình người, phong làm Động Đình Quân, cho ở hồ Động Đình phụ giúp Mẫu Thoải cai quản sông hồ đầm phá. Người Việt cổ đã sử dụng thần thoại Thần Trụ Giời để giải thích về nguồn gốc thế giới cũng như khái niệm Ông Giời:
Trong đạo Mẫu, Ông Giời được gọi là Vua cha, là cha của Lâm Cung Thánh Mẫu (林宮聖母, Công chúa Thượng Ngàn, Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Thượng Ngàn, hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Liễu Hạnh Công chúa 柳杏公主, một trong bốn vị Thánh quan trọng nhất [tứ bất tử] của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt, Bà được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn Gia Long cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", dân gian gọi là Bà Chúa Liễu), là đấng thần chủ tối cao, ở và làm việc tại một cung điện trên giời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác. Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ông Giời thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ.
Truyện dân gian kể con cóc lên cầu Ông Giời làm mưa. Ông Giời nhận lời rằng mỗi khi cóc gọi làm mưa xuống trần gian, giải thích một hiện tượng thiên nhiên là sau khi cóc nghiến răng thì trời mưa, cao sự đoàn kết, chính nghĩa và cũng khuyên người ta nên bảo vệ cóc là loài động vật tuy xấu xí nhưng có ích:
Trong truyền thuyết hiếm của người Choang (hậu duệ Âu Việt, một trong hai chủng Việt cổ lớn trong Bách Việt, tạo thành Âu Lạc) có một vị thần cai quản bầu trời tên là bố Lạc Đà (駱駝: LuoTuo, đọc giống như Lộc Tục) vốn là chim thần sống trên trời. Sải cánh của bố Lạc Đà đủ che lấp toàn bộ mặt đất, mỗi lần bố Lạc Đà đập cánh là giông bão lại nổi lên. Bằng đôi cánh của mình, bố Lạc Đà đã kéo bầu trời bay lên cao tách khỏi mặt đất, nhờ thế vạn vật mới có thể sinh trưởng được. Vì lẽ đó ngày tận thế chính là ngày mà "Trời Sập". Hình con chim Lạc trên Trống Đồng của người Việt chính là biểu tượng của bố Lạc Đà, có lẽ những hậu duệ Bách Việt từ Giang Nam không chịu bị Hoa Hạ đồng hóa lùi dần về Lĩnh Nam rồi Văn Lang - Đại Việt, sau này trở thành các quý tộc trong thời đại Lý - Trần đã mang theo và dùng hình ảnh của bố Lạc Đà để đặt tên cho giai đoạn huyền sử của mình là Hồng Bàng (Hồng chỉ loài chim trong bộ Hạc [Ciconiiformes, gồm những loài chim lội nước lớn có cổ cao, chân dài], còn lại trong câu nói truyền đến ngày nay: "chim Hồng chim Hộc"), Bàng cũng mang nghĩa là chim) cũng như tên gọi "Lạc" trong Lạc Việt, Lạc Long Quân.
Bố Lạc Đà có vợ là mẹ Hoa, sinh tám người con trai và một người con gái (lại chín), đều là thần Mặt Trời. Nhưng bảy người con trai đã bị nữ thần Đà Giang dùng cung tên bắn chết, người con trai cuối cùng nhờ bôi tro lên mặt trở thành Mặt Trăng nên mới được tha chết, để rồi chỉ còn lại một nữ thần Mặt Trời của thế gian. Bố Lạc Đà cũng có quan hệ với Vua Kinh Dương. Nguyên Thần Long Động Đình Quân có một người con gái xinh đẹp tên là Long Nữ. Vua Kinh Dương có tài đi dưới Thủy phủ, gặp được Long Nữ, được Động Đình Quân gả con gái cho làm vợ, hai người đã sinh ra tám người con. Một lần bố Lạc Đà đến thăm Vua Kinh Dương và tặng quà cho những đứa con trai của Vua Kinh Dương. Con trai cả nhận được quả trứng tiên, ở bên trong chính là con gái của bố Lạc Đà. Chim thần không quên dặn rằng khi quả trứng nở ra thì người đầu tiên mà con gái ông nhìn thấy sẽ chính là chồng của cô. Sau đó bố Lạc Đà chia tay mọi người ra về, nào ngờ đúng lúc đó đứa con trai út Sùng Lãm (崇纜) của Vua Kinh Dương ra đời (năm 2825 TTL, cả thảy chín người con, lại chín), vì chỉ chuẩn bị tám món quà nên bố Lạc Đà không còn cách nào khác bèn lấy tên của mình đặt cho Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân.
Khi Lạc Long Quân trưởng thành, Vua Kinh Dương chia nước Xích Quỷ thành chín (cũng chín) phần đem giao cho chín người con cai quản, dự định chọn ra người giỏi nhất làm Vua đời tiếp theo, người con cả cai quản một phần, lấy hiệu Âu Long Quân. Lạc Long Quân được giao cai quản vùng phía Nam. Theo sách ta cũng như sách TQ mà ta chép, Lạc Long Quân lên ngôi năm 2792 TTL, mốc thời gian này như đã nói trong "Thời đại Hồng Bàng", được “Sử lược” xác định là thời điểm các Vua Hùng lập nước Văn Lang, trong những bài sau sẽ đề cập việc khoa học xác minh thế nào về mốc thời gian này.
Tong một lần đi săn Vua Kinh Dương bị hổ cắn chết, các con không ai nhường ai đều xưng là Vua Kinh Dương, cho mình là người xứng đáng thừa kế ngôi báu của cha. Nước Xích Quỷ từ đó bị chia thành chín nước nhỏ không bao giờ hợp nhất lại được nữa. Từ chín nước nhỏ lại tiếp tục bị chia cắt nhiều hơn tạo thành các nước nhỏ hơn nữa tạo thành Bách Việt. Chỉ có Lạc Long Quân không tham gia tranh giành, lặng lẽ lui về sống ở vùng đất được cha giao cai quản, diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh, dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Về phần Âu Long Quân, dù chiến tranh loạn lạc liên miên nhưng vẫn không quên lời dặn của bố Lạc Đà, luôn mang theo quả trứng bên mình mọi lúc mọi nơi không bao giờ rời xa dù chỉ nửa bước và đặt tên nó là Âu Cơ. Âu Long Quân một lần kéo quân đến quấy nhiễu vùng đất của Lạc Long Quân bị đánh bại, trên đường tháo chạy thì quả trứng rơi xuống đất vỡ nát, để lộ bên trong là một người con gái tí hon. Và rồi người đầu tiên cô gái thấy chính là Lạc Long Quân. Âu Long Quân đau lòng vì bại trận và mất đi người mình yêu quý nên mất sớm, vùng đất Âu Long Quân cai quản cũng rơi vào hỗn loạn. Âu Cơ quả nhiên càng lớn càng xinh đẹp, nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật thường xuyên theo Lạc Long Quân đi tứ phương chữa bệnh giúp người. Về sau Lạc Long Quân và Âu Cơ trở thành vợ chồng.
Theo sách ta và TQ thì là Âu Cơ khác. Trên Hoàng Hà khi đó là thời kỳ cai trị của Đế Lai (帝哀, hoặc Đế Ai, con Đế Nghi tức là anh em con chú con bác với Lạc Long Quân), Âu Cơ là con (có thuyết chép là thiếp) Đế Lai. Lúc bấy giờ Đế Lai có quần thần là Chiyou ("Trí Zờ" có nghĩa là "ông - cha", tước hiệu tương đương và quyền lực không ít hơn hoàng đế, trong tiếng Hán là Xi Vưu hay Xuy Vưu, 蚩尤: "chiến tranh") thủ lĩnh bộ lạc Cửu Di (九夷, lại chín, tượng hình hiện đại của chữ "Di" 夷 là chữ "đại" 大 "lớn" và bộ "cung" 弓 hợp lại, ý chỉ cung tên do người Cửu Di phát minh sớm nhất, có tài bắn tên cho nên mới nói Đông Di [東夷, "giống man di mọi rợ phía Đông", thuật ngữ miệt thị của tộc Hoa Hạ chỉ các bộ lạc ở phía Đông Bắc Trung Nguyên cổ đại, Đông Di là hậu duệ Cửu Di sau này phiêu tán ra phía Đông] là những người bắn tên ở miền Đông. Nhưng nguyên thủy "Di" trong chữ giáp cốt và kế thừa là chữ được khắc hoặc đúc trên đồ đồng thực tế gồm bộ "thi" 尸 hoặc bộ "nhân" 人, không có bộ "cung", thể hiện một người cong lưng đứng trên hai chân. Chữ "Di" bộ "cung" có thể là từ thời Hán thêm bớt mà thành, do người Cửu Di còn ở lục địa đã dung hợp với người Hoa Hạ từ thời Tần - Hán).
Cửu Di có nguồn gốc từ đâu không rõ, có khả năng từng thần thuộc Đế Xích hoặc từng gia nhập vào liên minh bộ lạc mà Đế Xích làm thủ lĩnh, nhưng có thể biết chắc rằng khi đó đã hùng mạnh dưới sự thống lĩnh của thủ lĩnh cuối cùng, Chiyou, người đã đổi tên bộ lạc thành Cửu Lê (九黎, vẫn chín). Cửu Lê được cho là có quyền lực đối với chín (lại chín) bộ tộc và (chín lần chín) 81 thị tộc, địa bàn cư trú ở đâu đó tại trung lưu Hoàng Hà, một trong các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc; Hồ Nam và Giang Tô. Người Cửu Lê chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ và Chiyou thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác. Ngày nọ Đế Lai sai Chiyou thay mình trông coi quốc sự rồi mang quân đánh xuống phía Nam. Sách "Toàn thư" phần "Ngoại kỷ" dẫn nguồn từ "Tư trị thông giám", đoạn chép về Hồng Bàng còn ghi lại chi tiết, đại khái:
Bây giờ nói về con số chín, con số của sự viên mãn, tròn đầy, đồng nghĩa với việc sẽ tiếp tục sinh sôi, phát triển. Trong số học, đây là số có một chữ số lớn nhất, và khi nhân số chín với bất kì số nào cho ra kết quả là một con số có hai chữ số trở lên thì những chữ số đó cộng lại với nhau đều cho ra kết quả là chín, ví dụ: 9 x 3 = 27 (2+7 = 9); 9 x 4 = 36 (3+6 = 9). Với tính chất đặc biệt đó, số chín mặc nhiên là đại diện cho sự trường tồn, vững chắc, lâu bền, vĩnh cửu, vì thế trong tiếng Hán, số chín đọc là cửu (九) đồng âm với chữ cửu (久: "vĩnh cửu", "trường cửu") tượng trưng cho đỉnh cao ở mọi phương diện. Theo quan niệm xưa, số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm, số chín là con số lớn nhất trong dãy số dương, nên được gọi là số cực dương, chứa đựng ý nghĩa tốt lành. Trong hệ Thái Dương chúng ta đang sống, trừ Mặt Trời thì có chín hành tinh bao gồm Trái Đất. Số chín tượng trưng cho Ông Giời, ngày vía Ông Giời là ngày Chín tháng Giêng.
Số chín do đó được lấy làm tượng trưng cho quyền lực chí cao vô thượng của bậc đế vương trong xã hội quân chủ phong kiến xưa. Quan lại toàn bộ triều đình chia làm chín phẩm, tức Cửu Phẩm Quan Giai. Hoàng cung nơi Thiên tử ở có chín cửa (cửu môn, 九門) ngăn cách với ngoại giới, trong sân rồng bày chín cái đỉnh (cửu đỉnh, 九鼎), ngai vàng của bậc Thiên tử đặt trên chín bậc (cửu trùng 九重), và luôn được đặt làm sao cho khi Thiên tử ngồi thì mặt lúc nào cũng nhìn về hướng Ngọ Môn, tức hướng chính Nam, ứng với con số chín. Mà tại sao lại nhìn về hướng chính Nam? Hướng chính Nam lại ứng với con số chín? Đó lại bắt nguồn từ phương Nam, các cụ ta xưa có câu:
“Lấy vợ hiền hòa” ai cũng mong muốn, vậy còn “làm nhà hướng Nam” là vì sao? Trước hết, do vị trí địa lý và đặc thù khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa của phương Nam nên đối với hầu hết vùng, miền, hướng Nam là hướng thuận lợi nhất để xây dựng nhà cửa, đón được đầy đủ ánh sáng và gió mát hơn hẳn các hướng khác. Đặc biệt, nhà xây hướng Nam sẽ tránh được ánh nắng chói phía Đông vào buổi sáng, buổi chiều không bị nắng chiếu gay gắt từ phía Tây, đồng thời tránh được gió nóng (gió Lào) từ phía Tây thổi tới và không bị ảnh hưởng bởi gió lạnh từ phương Bắc tràn về. Mùa Hè đón được những ngọn gió mát từ hướng Đông Nam và hướng Nam. Dân gian có câu:
Trong Kinh Dịch, số chín thuộc quẻ thứ 30 là quẻ Ly 離, đồ hình |:||:|, Nội quái Ngoại quái đều là ☲, hành Hỏa 火, hướng chính Nam, biểu tượng của lửa, ánh sáng, như mặt trời trên cao, sáng láng, rực rỡ. Trong "Tiên thiên Bát quái" (先天八卦, còn gọi là Phục Hy bát quái 伏羲八卦, tộc Hoa Hạ nói là do Bào Hy vẽ ra, vận động về mặt hình học là ngược chiều kim đồng hồ), phía Nam có tượng là quẻ Càn (乾: Trời [天], quẻ số một trong Kinh Dịch,, đồ hình ||| Nội quái Ngoại quái đều là ☰), nên được coi là hướng của bậc Thiên tử. Trung thiên Bát quái 中天八卦 thất truyền nên không biết ra sao, một số nhà nghiên cứu đang cố tạo dựng lại lý thuyết, còn trong "Hậu thiên Bát quái" (后天八卦, còn gọi là Văn vương Bát quái 文王八卦, tộc Hoa Hạ nói là do Văn vương [文王, Cơ Xương 姬昌, 1152 - 1046 TTL] nhà Chu vẽ ra, vận động thuận chiều kim đồng hồ, Trên - Nam, Dưới - Bắc, Phải - Tây, Trái - Đông), hướng Nam có tượng là quẻ Ly, đã nói trên. Trong bộ môn Tử vi lý số, tốt nhất với cách "Tử vi cư Ngọ", là ngôi Thiên tử (sao Tử vi) đóng ở cung Ngọ (tức Thiên tử thiết triều luôn ngồi mặt nhìn về hướng chính Nam) cùng các ngôi sao tốt đẹp, sáng sủa khác cùng nhau chiếu về, tượng trưng cho quần thần, quan lại; tạo thành "Quân Thần Khánh Hội", làm nên lá số tử vi được xem là hoàn hảo, tuyệt vời nhất.
Do vậy, khi cướp văn hiến của người Việt cổ về, tộc Hoa Hạ ứng dụng ngay vào điều kiện Hoa Bắc dù không được chính xác cho lắm, tuy nhiên ít nhất thì các bậc Thiên tử Hoa Hạ cũng còn biết tọa Bắc hướng Nam, hướng về cái gốc của triết lý Việt cổ, hướng về lẽ sáng mà xử lý công việc, cai trị thiên hạ; cung điện, thành quách được xây theo hướng này nhằm bảo vệ vị trí chí cao vô thượng. Khi tế lễ các bậc Thiên tử Hoa Hạ cũng ở đàn Nam Giao hướng về phương Nam mà hành lễ, trong khi đó tại phương Nam người Việt chổng phao câu vào mặt Thiên tử Hoa Hạ mà hành lễ. Và như đã nói trong "Thời đại Hồng Bàng", Tư Mã Thiên cố gắng "thoát Việt" bằng cách chép về Tam Hoàng khác trong "Sử ký" - "Tam Hoàng bản kỷ" với đờ Hoàng thứ Tam là
Nhân tình hình rối ren lúc đó Chiyou đem quân đến đánh, yêu cầu Du Võng phải thoái vị nhường ngôi thủ lĩnh liên minh bộ lạc cho mình. Du Võng không có cách gì chống lại nổi Chiyou, bèn ra lời kêu gọi các bộ lạc chư hầu giúp dẹp Chiyou. Các chư hầu không ai dám đương đầu với quân Cửu Lê vì họ rất thiện chiến, vả lại họ còn chế tạo ra nhiều loại vũ khí đặc biệt sát thương hàng loạt. Du Võng đành chạy đến Trác Lộc (涿鹿县, nay là huyện thuộc thành phố Trương Gia Khẩu 張家口, tỉnh Hà Bắc) xin thủ lĩnh bộ lạc Thiểu Điển (tức là con cháu Đế Xích, theo sự bổ sung của Tư Mã Trinh vào "Sử ký"), một trong những chư hầu có kinh tế phồn thịnh nhất của triều đại Thần Nông, giúp đỡ.
Lúc đó thủ lĩnh Thiểu Điển là người thị tộc Công Tôn 公孙氏, do sống ở gò nên gọi Hiên Viên 轩辕, tức Công Tôn Hiên Viên (公孙轩辕, 2719 - 2599 TTL), về sau được biết tới là Đế Hoàng. Hiên Viên là con Thiếu Điển, cũng là thủ lĩnh bộ tộc Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiệu là Phù Bửu 附宝, sinh ra ở đất Thọ Khâu (寿丘, tỉnh Sơn Đông). "Sử ký" chép:
Khi con người bắt đầu đặt ra họ tên thì có hai dạng họ, "tính" 姓 và "thị" 氏, dù cùng nghĩa là "họ" nhưng theo truyền thống lịch sử TQ, "tính" và "thị" (thị tộc) có nhiều khác biệt. Các "tính" có bộ thủ "nữ" (女: "con gái", tượng hình giống cô gái đang quỳ xuống, hai tay khoanh trước ngực để chờ nghe theo mệnh lệnh sai khiến), là chứng tích của xã hội mẫu hệ, khi ấy đứa con sinh ra chỉ biết mặt người mẹ nhưng không chắc chắn về nhân thân người cha, nên "tính" biểu đạt ý nghĩa "được mẹ sinh ra", truyền theo dòng mẹ. Cơ "tính" về sau trở thành họ của các vương tử nhà Chu, tuy chỉ xếp thứ 213 trong danh sách "Bách gia tính" (百家姓, ghi lại các họ phổ biến của TQ, soạn vào đầu thời Bắc Tống [北宋, 960 - 1127]) nhưng "Cơ" là một trong các "tính" có nguồn gốc cổ nhất, theo truyền thống thì chỉ có Chu vương mới được mang Cơ "tính" vì vậy có rất ít người mang họ Cơ, cho đến nay "Cơ" là một họ hiếm ở TQ.
Theo nghiên cứu sự thay đổi tự dạng trong chữ giáp cốt từ thời nhà Thương tới thời nhà Chu của nhà Hán học người Pháp, Léon Vandermeersch, có vẻ như bộ thủ nữ xuất hiện trong các chữ Hán tạo thành trong giai đoạn nhà Thương sang nhà Chu, ít nhất là ở thời kỳ đầu nhà Tây Chu 西周 (1046 - 771 TTL), để chỉ tới các nhóm sắc dân hoặc bộ lạc, và chỉ có ở nữ giới, tức là những người phụ nữ từ các bộ lạc khác nhau được gả vào họ nhà Chu, được gọi bằng tên bộ lạc mà họ sinh ra, tức là "tính". Trong khi nam giới được gọi bằng danh xưng hoặc thái ấp của họ, tức là "thị". Nhà Chu sau khi thành lập đề ra chế độ phong kiến (封建: phong tước, kiến địa), "phong tước" là hình thức ban tặng danh hiệu cho hoàng thân quốc thích hoặc công thần các tước vị: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男 (hoặc Khanh 卿), thường được "cha truyền con nối". Đi kèm với phong tước là việc ban tặng đất đai làm thực ấp tức là "kiến địa", để kiến lập các nước chư hầu, gọi là "phong kiến thân thích", tạo nên các giai cấp địa chủ và nông dân.
Cho đến giữa thời Đông Chu (東周 770 - 249 TTL), "tính" chỉ có các bộ lạc quyền quý được sở hữu. Khi cấu trúc xã hội trở nên phức tạp hơn, với sự hình thành xã hội phụ hệ thì "thị" được dùng để đáp ứng nhu cầu phân biệt giữa những người chung một "tính". Cùng một "tính" sẽ có nhiều "thị" khác nhau, khi này một người xuất thân quyền quý sẽ vừa mang "thị" vừa mang "tính". Các vương tử một số nước chư hầu nhà Chu, vốn là hoàng thân quốc thích nhà Chu nên đều mang "tính" "Cơ", lấy tên đất được phong làm tên nước và "thị" của mình để phân biệt với những người cũng có "tính" là "Cơ" khác, ví dụ: nước Trịnh (鄭國, 806 - 375 TTL) một chi của vương tộc nhà Chu, ban đầu được phong tước Bá ở đất Trịnh Yển làm phụ dung nên gọi là Trịnh bá (鄭伯, đóng đô tại Hoa huyện 华县, tỉnh Sơn Tây), sau hậu duệ Trịnh bá được thăng lên tước Công thì thiên đô sang đất Tân Trịnh, lấy Trịnh 鄭 làm "thị" của mình. Cuối thời Chu, các tầng lớp thấp hơn trong xã hội cũng từ từ được mang họ, do đó sự khác biệt giữa "tính" và "thị" dần mờ nhạt đi, dẫn đến thuật ngữ bá tính (百姓, nghĩa đen "trăm họ"), "lão bá tính" (老百姓, nghĩa đen "người trăm họ") được dùng để chỉ "thường dân", "nhân dân", hoặc "bình dân", đến ngày nay ở TQ vẫn còn nhiều họ dạng "thị", trong đó có "Cơ".
Tại Thiểu Điển, Hiên Viên lại có thêm các vợ bé Phong Luy (封嫘), Đồng Ngư (彤魚), sau Hiên Viên dời bộ lạc Thiểu Điển tới vùng Trác Lộc, bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi, trồng trọt, lấy thêm vợ bé. Truyền thuyết kể rằng Rồng xuất hiện từ thời này, ngày đó mỗi bộ lạc đều lấy hình một con vật là Tộc huy cho bộ lạc của mình, bộ lạc của Hiên Viên chọn con rắn. Sau mỗi lần thu phục 1 bộ lạc, Hiên Viên sẽ trích 1 phần Tộc huy của bộ lạc đó để thêm vào Tộc huy của bộ lạc mình như một cách tượng trưng cho chiến thắng và uy danh. Vì vậy nên Tộc huy của Hiên Viên có thêm Sừng Nai, Mặt Ngựa, Vẩy Cá, Móng Chim Ưng... Lâu dần biến đổi thành Rồng.
Đáp ứng yêu cầu của Du Võng, Hiên Viên liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Chiyou trên cánh đồng Trác Lộc. Liên quân đánh với quân Cửu Lê nhiều trận kịch liệt bất phân thắng bại. Nước Thục cũng tham gia trong nhiều trận đánh kịch liệt, Xương Ý mấy lần được cử sang sứ nước Thục đã gặp người con gái của thủ lĩnh thị tộc Thục Sơn nước Thục là Xương Phó (hay Cảnh Bộc), đem lòng yêu mến, thủ lĩnh Thục Sơn thấy thế gả Xương Phó cho Xương Ý để thắt chặt tình hữu nghị đồng minh. Cuộc chiến kéo dài ròng rã nhiều năm trời khiến quân sĩ 2 bên đều thương vong vô số, sau cùng Liên quân Hiên Viên với nhiều cơ mưu túc trí đã đánh bại được Chiyou.
Trong trận chiến Trác Lộc, Chiyou đã thể hiện được uy lực trong chiến tranh, khiến cái tên Chiyou trở nên đồng nghĩa với từ "chiến tranh" trong tiếng Hán, những người tôn trọng thì xem Chiyou như là "chiến thần", còn những người bài xích thì xem như là "họa thủ". Chiyou sau này bị Nho gia Hoa Hạ xem là xấu xa, thần hóa thành nhân vật có hình tượng "đầu đồng trán sắt", "tám tay tám chân", "thân người móng trâu", "bốn mắt sáu đầu", "ăn cát sỏi", và thiện chiến, "chế tạo năm loại binh khí", "biến đổi mây mù", "làm ra sương mù dày đặc, trọn ba ngày", khiến cho Hiên Viên "chín lần chiến thì chín lần không thắng", "ba năm không hạ được thành". Sau khi Chiyou bại trận, người trong bộ tộc Cửu Lê lưu tán, một bộ phận quy phục Hiên Viên, dung hợp vào tập đoàn Viêm Hoàng, trở thành đồng tổ tiên tộc Hoa Hạ, còn lại di cư đến nơi khác.
Đến nay nguồn gốc Chiyou cũng như Cửu Lê vẫn rất phức tạp và gây tranh luận, có thể là tổ tiên tập đoàn Đông Di hoặc Tam Miêu (三苗, một nhóm dân tộc thuộc Bách Việt, theo các nhà dân tộc học, họ có thể là tổ tiên của các dân tộc H'Mông: TQ: Miêu / 苗; Lào: Lào Sủng / ລາວສູງ / Mèo; Thái Lan: แม้ว / Maew hay ม้ง / H'Mông ở VN, TQ, Lào, Miến, Thái… ngày nay) hay thậm chí là Nam Man (南蠻, "giống man di mọi rợ phía Nam"). Đông Di bao gồm cả Triều Tiên, Nhật Bản, người Nhật ngày xưa thường lùn nên còn gọi là Oa Di (夷倭, hay Uy Di, "oa" 倭 hay "nụy" là "lùn"). Cửu Di có thể là tổ tiên phân chi Đông Bắc Di của tập đoàn Đông Di, quan hệ tới Phù Dư (부여: Buyeo / Puyŏ; 夫餘, 238 TTL - 494), có thể cả Cao Câu Ly (고구려: Goguryeo / Koguryŏ; 高句麗, 37 TTL - 668), các quốc gia cổ trên bán đảo Triều Tiên. Năm 1979, tại Nam Triều Tiên xuất hiện cuốn sách lịch sử "Hoàn Đàn cổ ký" (환단고기, 桓檀古記), trong sách Chiyou được xem là Từ Ô Chi Hoàn Hùng (자오지 환웅, 慈烏支桓雄), đại quân chủ thứ 14 của Bột Đạt Quốc (배달국, 倍達國) trên bán đảo Triều Tiên. Cũng tại Nam Triều Tiên, năm 2007 xuất bản tiểu thuyết "Chiyou Thiên hoàng" (치우천왕기, 蚩尤天皇) viết rằng Chiyou là tổ tiên của dân tộc Triều Tiên và đã đánh thắng Hiên Viên, người TQ đương nhiên cho rằng đó là bóp méo lịch sử.
Căn cứ theo "Thượng thư" và "Quốc ngữ" cùng nhiều loại thư tịch cổ, Cửu Di chiến bại, tộc nhân lưu tán, phát triển thành Tam Miêu. Sách "Hậu Hán thư" - "Tây Khương truyện" cho biết một bộ phận Tam Miêu đã di chuyển về hướng tây, do vậy nếu Chiyou và Tam Miêu có quan hệ thì Chiyou có khả năng là tổ tiên của người Khương nước Cổ Thục. Căn cứ theo một số sử thi, ca dao, truyền thuyết của người H'Mông thi Chiyou là đại tổ thần của họ, có địa vị hết sức cao quý, Chiyou trong tiếng H'Mông là "Txiv Yawg", vị vua thần thoại có tính khôn ngoan của người H'Mông. Một số học giả, đặc biệt là học giả người H'Mông đề xuất rằng, tổ tiên của người H'Mông vào thời thượng cổ ban đầu cư trú tại lưu vực Hoàng Hà, do bị tộc Hoa Hạ đánh bại, buộc phải thiên di đến khu vực Quý Châu, phía tây tỉnh Hồ Nam và tây nam tỉnh Hồ Bắc.
Sau trận Trác Lộc, sự hiện diện của tộc Cửu Lê trên vũ đài lịch sử coi như kết liễu. Hiên Viên được nhiều bộ lạc ủng hộ, di bộ lạc Thiểu Điển về phía tây, được xem là mở đầu sự hình thành tộc Hoa Hạ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hiên Viên và Du Võng lại nảy ra xung đột, hai bên giao binh ở Phản Tuyền, đánh ba trận Du Võng đều bại, kéo theo sự cáo chung của triều đại Thần Nông. Đế Du Võng bị giáng phong ở một ấp bên bờ Lạc Hà (洛河, chi lưu Hoàng Hà), gọi là Lạc Ấp (洛邑, nay thuộc quận Tây Công 西工区, thành phố Lạc Dương 洛陽市 phía tây tỉnh Hà Nam) rồi chết ở đó. Hiên Viên thay thế Du Võng trở thành thủ lĩnh liên minh các bộ lạc vùng Hoàng Hà, mở đầu thời Ngũ Đế, chấm dứt thời Tam Hoàng và cũng tạm ngắt con số chín.
Ngũ Đế và con số chín là nội dung bài tiếp theo.
¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong các bài trước và:
¤ Viện Khảo cổ học:
• Văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, Hoàng Xuân Chinh (chủ biên),Viện Khảo cổ học, Hà Nội, 1989
¤ Khảo cổ:
- Khảo cổ học Tiền sử và Sơ sử Việt Nam, Phạm Huy Thông
- Theo dấu các văn hóa cổ, Hà Văn Tấn, Nxb. Xã hội, 1998
- Thời đại nguyên thủy trên đất nước Việt Nam, Nguyễn Cảnh Minh, 2007
¤ Văn hóa:
- Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt - Mường, Phan Ngọc - Phan Đăng Nhật, Tạp chí Văn hóa dân gian,số 33 - 34, 1991
- Chu Dịch với Dự Đoán học, Thiệu Vĩ Hoa, Mạnh Hà dịch, Nxb. Văn hóa. Hà Nội, 1995
- Bí ẩn của Bát Quái, Vương Ngọc Đức, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội,1996
- Văn hóa học đại cương và cơ sở VHVN, Phạm Đức Dương, Nxb. Khoa học Xã hội, 1996
- Mai Hoa Dịch tân biên, Vưu Sùng Hoa, Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1997
- Chu Dịch tường giải, Nguyễn Quốc Đoan, Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1998
- Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc, Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,1999
- Tìm về bản sắc VHVN, Trần Ngọc Thêm, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
- Dịch học toàn tập, Chu Bá Côn, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội,2003
- Hán Việt từ điển giảng yếu, Đào Duy Anh, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005
- Người cổ Đông Nam Á. Nguyễn Đức Hiệp, Khoa Văn hóa học, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2012
¤ Tạp chí:
+ Tạp chí Khảo cổ học, Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Khảo cổ họcxuất bản:
• Số 1 & 2, 1984:
- Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình, Phạm Huy Thông
- Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á, Ngô Thế Phong
Về sông Dài, như đã nói trong "Ngày xửa ngày xưa", là con sông Cái, sông Mẹ của người Việt cổ, đoạn hạ lưu có một hồ lớn, nông kích thước thay đổi theo mùa đóng vai trò là hồ điều hòa của sông Dài, gọi là hồ Động Đình, nằm giữa hai tỉnh được đặt tên căn cứ theo vị trí hồ: Hồ Nam và Hồ Bắc (湖北, "phía bắc hồ", tên gọi tắt chính thức là Ngạc [鄂, lấy theo tên nước Ngạc {鄂國, ~1200 - 863 TTL} chư hầu của nhà Thương, nay là thành phố Ngạc Châu 鄂州市 ở phía đông của tỉnh], tên gọi tắt không chính thức là Sở [楚 theo tên nước Sở {楚國, còn gọi là nước Kinh 荆國 hay Kinh Sở 荆楚; Phạn: श्रीक्रुंग / Srikrung, 1030 - 223 TTL}]). Chính xác thì hồ Động Đình nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam. Cư dân ban đầu ở khu vực Ngạc Châu vốn là người Việt cổ, đã canh tác lúa nước trên quy mô rộng tạo nên nền Văn hóa Đại Khê (大溪文化, 4500 - 3000 TTL) trải dài từ miền tây Hồ Bắc đến miền đông Tứ Xuyên và đồng bằng sông Châu (珠江, con sông dài thứ ba TQ, chảy qua Lưỡng Quảng, Vân Nam 雲南, Quý Châu 貴州, một phần các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây [江西, "phía tây Giang Nam"]), di chỉ Văn hóa Đại Khê có dấu tích về hào và tường thành quanh khu định cư, niên đại sớm nhất Viễn Đông.
Về Ba Thục, như đã nói trong "Ngày xửa ngày xưa", là hai nước Ba và Thục (hay Cổ Thục 古蜀國, Thục Sơn 蜀山國). Nước Ba khởi thủy là một liên minh lỏng lẻo hoặc là một tập hợp các tù trưởng, bao gồm một số thị tộc của người Ba độc lập cùng công nhận một vị quân chủ, theo huyền sử TQ, là Hàm Điểu con thứ Bào Hy, hình thành quốc gia liên minh bộ lạc cùng thời với Xích Quỷ và Cổ Thục. Trong “Sơn Hải kinh” có ghi:
Tây Nam có Ba quốc, Thái Hạo sinh Hàm Điểu, Hàm Điểu sinh Thừa Ly, Thừa Ly sinh Hậu Chiếu, Hậu Chiếu thị thủy vi Ba nhân (Hậu Chiếu được xem là thủy tổ của người Ba)cho rằng Bào Hy là tổ tiên xa xôi của người Ba và nguồn gốc nước Ba là từ phía tây Hồ Bắc ở các khu vực tại vùng trung lưu lưu vực sông Hán (漢江, còn gọi là Hán Thủy 漢水, sông nhánh dài nhất của sông Dài, bên tả ngạn), đến đời Hậu Chiếu mới di cư đến khu vực miền Đông Tứ Xuyên, sau này là Ba quận. Các thị tộc người Ba rất đa dạng, bao gồm nhiều sắc tộc. Nước Thục cũng khai quốc từ thời kỳ Tam Hoàng tại đồng bằng Thành Đô (成都), do thị tộc Thục Sơn (蜀山氏, bộ lạc Nhiễm) làm quân chủ. Dân cư chủ yếu ở Thục là người Khương (羌族, sách cổ TQ gọi là Tây Khương 西羌, Tây Nhung [西戎, "giống man di mọi rợ phía Tây", thuật ngữ miệt thị của tộc Hoa Hạ, chữ "Nhung" 戎 trong chữ Hán cổ vốn có bộ thủ "khuyển" 犭nay đã lược bỏ], Khương Nhung 羌戎 - rợ Khương), số ít Việt cổ, và tiền thân Hoa Hạ.
Như vậy, lãnh thổ Xích Quỷ trải từ Đồng bằng sông Dài (長江三角洲: "Trường giang Tam giác châu", tạo thành từ trầm tích của sông Dài) qua Cao nguyên Vân - Quý (雲貴高原: Vân Quý cao nguyên) Đồng bằng sông Châu (珠江流域, "Châu giang Tam giác châu" hay Đồng bằng sông Việt [tức "sông Quảng Đông"], 粵江三角洲: "Việt giang Tam giác châu", tạo thành từ trầm tích của sông Châu) đến Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Mã với địa hình đồi núi sông ngòi đầm lầy xem kẽ. Thời bấy giờ khí hậu Hoa Nam vẫn còn là khí hậu nhiệt đới gió mùa, cư dân Xích Quỷ là hậu duệ những người Hòa Bình (Hoabinhiens, 17 - 7 NN) ăn ốc sò điệp, đánh bắt cá, săn thú nhỏ, hái lượm củ quả đã thuần hóa lúa nước, các loại khoai, thuần hóa trâu, chó, lợn, gà, gác tre gỗ làm nhà sàn để ở, điều kiện thiên nhiên thuận lợi tạo cho cư dân bản tính thuần hậu, chất phác.
Trong đó Đồng bằng sông Dài, Cao nguyên Vân - Quý, Đồng bằng sông Châu quen gọi là Hoa Nam (華南: miền Nam 南 Trung Hoa). Đường đẳng nhiệt 0 độ trong tháng 1 và đường đẳng giáng thủy 800 mm tại TQ tạo thành một đường gần trùng với Hoài Hà - rặng Tần Lĩnh được coi như là đường phân chia tự nhiên giữa Hoa Nam và Hoa Bắc (華北: miền Bắc 北 Trung Hoa, địa bàn phát tích của tộc Hoa Hạ, ven Hoàng Hà. Hoài Hà (淮河, hay Hoài Thủy 淮水) là con sông lớn thứ ba ở TQ, bắt nguồn từ Đồng Bách Sơn tỉnh Hà Nam, chảy qua miền nam tỉnh Hà Nam, miền bắc các tỉnh An Huy (安徽, tên gọi tắt là Hoàn 皖) và Giang Tô (江蘇, tên gọi tắt là Tô 苏, theo tên Cô Tô 姑苏, nay là Tô Châu 蘇州, cái nôi của văn hóa Ngô [吴, Câu Ngô 句吴, hay Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴, 攻吾…]) đổ vào sông Dài tại khu vực Tam Giang Doanh (thuộc thị xã Giang Đô 江都 thành phố Dương Châu tỉnh Giang Tô). Rặng Tần Lĩnh (秦嶺) là dãy núi chính chạy theo hướng đông - tây ở phía nam tỉnh Thiểm Tây (陝西, tên gọi tắt là Thiểm 陝 hoặc Tần 晋, theo tên nước Tần [晉國, 900 - 221 TTL]). Thiểm Tây cũng được gọi là Tam Tần (三秦, ba trong số 18 nước 十八国 hình thành từ các bộ phận của đế quốc Tần sau sự sụp đổ của nhà Tần), gồm Ung (雍, trung tâm Thiểm Tây và phía đông Cam Túc [甘肅, ghép tên hai châu 州 Cam, Túc thời Hán, tên gọi tắt là Cam hay Lũng 陇 / 隴, cũng còn gọi theo tên cũ là Lũng Tây hay Lũng Hữu vì có núi Lũng ở phía đông Cam Túc]; Tắc [塞, phía đông bắc Cam Túc] và Địch [翟, phía bắc Cam Túc].
Khu vực Tam Tần nằm ở khu vực trung tâm của đế chế Tần, còn gọi là Quan Trung (關中, tức Bình nguyên Quan Trung 關中平原 hay Bình nguyên Vị Hà 渭河平原, tương ứng với thung lũng hạ du Vị Hà 渭河, chi lưu lớn nhất của Hoàng Hà), gọi là "Quan Trung" để phân biệt với "Quan Đông", tức Bình nguyên Hoàng thổ (華北平原, tức Bình nguyên Hoa Bắc 華北平原, đồng bằng phù sa lớn nhất Đông Á tạo thành từ trầm tích của đất vàng Hoàng Hà). Trầm tích đất vàng của Hoàng Hà tạo thành Cao nguyên Hoàng Thổ (黃土高原, tại thượng và trung lưu Hoàng Hà), đất tơi xốp như bụi bay, nổi tiếng là trồng cao lương và Bình nguyên Hoàng Thổ tại trung và hạ lưu Hoàng Hà, một trong các vùng nông nghiệp quan trọng nhất của TQ với các loại cây trồng như ngô, lúa miến, lúa mì vụ đông, rau, và bông.
Cao nguyên Hoàng Thổ chiếm phần lớn các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây cũng như nhiều phần của Cam Túc, Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ (寧夏回族自治區) và Khu tự trị Nội Mông Cổ (Övör Mongolyn Öörtöö Zasakh Oron / 内蒙古自治区). Cư dân ở đây sống trong các diêu động (窰洞, tạo nên bằng cách đục khoét vào lớp đất hoàng thổ, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè). Bình nguyên Hoàng Thổ trải rộng trên phần lớn các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Đông, cư dân sống trong căn lều tạo nên bằng cách đào xuống đất hoàng thổ đầm kỹ, bên trên gác cây que lợp da thú tạo thành mái. Sau này khi đã có rơm rạ từ lúa kê, lúa miến thì trộn bùn rơm mà đắp mái. Thủ đô Bắc Kinh (北京, "Kinh đô phía Bắc", tên gọi tắt Kinh 京) nằm ở rìa đông bắc của bình nguyên, Thiên Tân (天津, thành phố công nghiệp và cảng biển quan trọng) nằm ở bờ biển phía đông bắc bình nguyên.
Địa lý của vùng Bình nguyên Hoàng Thổ có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và chính trị TQ. Không giống như các khu vực ở Hoa Nam, Bình nguyên Hoàng Thổ không bị chia cắt nhiều bởi các dãy núi, lại có khá ít sông, do vậy việc thông tin liên lạc khá nhanh chóng dẫn đến, ngôn ngữ tương đối đồng nhất, tương phản với tình trạng có nhiều ngôn ngữ hay phương ngữ ở Hoa Nam nên trung tâm chính trị của TQ thường được đặt ở đây. Do đất đai màu mỡ của vùng Bình nguyên Hoàng Thổ tiếp đến Cao nguyên Hoàng Thổ dần dần chuyển sang vùng thảo nguyên và sa mạc ở Trung Á mà không có ranh giới tự nhiên giữa các vùng, nên Bình nguyên Hoàng Thổ dễ dàng bị xâm nhập từ Trung Á, Bắc Á và Mãn Châu, điều này đã thúc đẩy việc xây dựng thành quách để chống xâm nhập mà Vạn Lý Trường Thành (萬里長城: "Thành dài vạn lý", gọi tắt là Trường Thành) là tiêu biểu.
Mặc dù đất đai của Bình nguyên Hoàng Thổ màu mỡ song là nơi giao nhau của luồng khí ẩm từ Thái Bình Dương và luồng khí khô từ vùng nội địa châu Á khiến dễ bị lũ lụt cũng như hạn hán, lại khó tiên định khí hậu. Hơn nữa, sự bằng phẳng khiến nó phải hứng chịu các trận lụt lớn khi các công trình thủy lợi bị hư hỏng cũng như dễ dàng triển khai nhiều quân lính để xâm lược hoặc chống xâm lược. Tình trạng lụt lội của Hoàng Hà tồi tệ hơn rất nhiều so với khu vực dọc sông Dài về hướng nam. Cư dân sống gần Hoàng Hà phải chống chịu với thiên nhiên khắc nghiệt hơn để chế ngự lũ lụt và tưới tắm mùa màng.
Ở bất kỳ mức độ nào, Bình nguyên Hoàng Thổ là vùng lớn nhất với số dân cư tập trung đông đảo nhất. Ở những nơi con người sản xuất ra được nhiều lương thực hơn nhu cầu của họ, các chiến binh đã được thúc đẩy phát triển, không chỉ chống lại các bộ lạc du mục từ thảo nguyên mà còn để đi cướp đoạt tài sản, chinh phục đất đai các bộ lạc xung quanh. Do đó các vị thủ lĩnh chinh phục bắt đầu nổi lên ở Bình nguyên Hoàng Thổ cũng như tình trạng ở phía tây châu Á. Những điều này đã kích thích một nỗ lực tổ chức tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển của một nhà nước tập trung hóa nhằm quản lý các kho lương thảo, bảo trì các công trình thủy lợi và chống lại cũng như tiến hành các cuộc chinh phạt.
Trở lại với Vua Kinh Dương, Mẫu (Mẹ) Thoải (母水, chữ "thoải" là đọc chệch từ chữ "thủy", vị nữ thần dân gian chịu trách nhiệm quản lý các miền sông nước, tức Thủy cung Thánh Mẫu 水宮聖母 còn gọi là Mẫu Đệ Tam) trong một lần du ngoạn biển Đông đã bắt gặp một con rắn có bốn chân và một cặp sừng trên đầu. Thích thú trước hình dạng lạ kì của nó, bà liền thu phục và biến nó thành thú cưỡi của mình, đặt tên là Thần Long. Sau này Thần Long lập được nhiều công lớn, được đích thân Ông Giời cho hóa thành hình người, phong làm Động Đình Quân, cho ở hồ Động Đình phụ giúp Mẫu Thoải cai quản sông hồ đầm phá. Người Việt cổ đã sử dụng thần thoại Thần Trụ Giời để giải thích về nguồn gốc thế giới cũng như khái niệm Ông Giời:
Thuở ấy, chưa có thế gian, chưa có muôn vật. Giời đất chỉ là một vùng hỗn độn, tối tăm. Bỗng một vị thần khổng lồ xuất hiện. Thần dùng đầu đội giời lên cao. Rồi thần đắp đất đá thành một cái cột để chống giời. Cột càng được đắp lên cao bao nhiêu thì bầu giời càng cao rộng ra bấy nhiêu. Thần hì hục đào đắp để nâng vòm giời lên mãi lên mãi...
Từ đó, giời đất mới phân đôi. Đất phẳng như cái mâm vuông, giời tròn như chiếc bát úp (gốc của thuyết "Thiên viên địa phương" 天圜墬方: "trời tròn đất vuông", nói sau). Nơi giời đất giáp nhau gọi là chân giời. Khi giời đất đã ổn định, rạch ròi, thần phá đi cái cột, hất tung đất đá khắp nơi. Vì thế, cột trụ giời bây giờ không còn nữa, nhưng vết tích của cột vẫn còn ở núi Yên Phụ (Kim Môn, Hải Dương, Yên Phụ là núi cha, Yên Tử là núi con).
Còn những nơi đất đá văng đến, thì thành núi đồi, gò đống; những chỗ bị đào thì thành biển sâu hồ rộng. Rồi những thần khác xuất hiện nối tiếp công việc xây dựng nên cõi thế gian này. Các vị thần đó rất nhiều, như thần Sao, thần Sông, thần Núi, thần Biển... Dân gian đã ghi công của các vị thần này trong câu hát được lưu truyền từ đời này sang đời khác:
Ông đếm cát, Ông tát bể, Ông kể sao, Ông đào sông, Ông trồng cây, Ông xây ru (núi rừng), Ông trụ giời, Ông cời cua, Ông lùa chim, Ông tìm sâu, Ông xâu cá ... Ông ... Ông (nhiều lắm)Ông Giời là vị Vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu giời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ, đứng đầu tất cả các Thần, Tiên, Thánh, Nhân, có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ông Giời có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ông Giời cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên và thánh nhân. Dân gian Việt Nam có rất nhiều bài thơ có chữ giời. Thường nhất là những câu mà giời dùng để chỉ toàn bộ cảnh vật thiên nhiên tồn tại quanh con người, trước hết là không gian và cảnh vật trên không. Bên cạnh đó giời như một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng quyền uy quyết định tất cả. Giời còn làm ra vạn vật, thậm chí cả cái sướng khổ của con người. Trong ca dao Việt có nhiều câu nhắc đến đạo giời, vì là đạo nên đạo giời cũng có vị trí, giá trị trong tâm linh người Việt như những đạo khác nên Giời và Bụt (Phật) thường được đặt gần nhau, được xem như những đấng thiêng liêng như nhau, những đạo giống nhau.
Trong đạo Mẫu, Ông Giời được gọi là Vua cha, là cha của Lâm Cung Thánh Mẫu (林宮聖母, Công chúa Thượng Ngàn, Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Thượng Ngàn, hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Liễu Hạnh Công chúa 柳杏公主, một trong bốn vị Thánh quan trọng nhất [tứ bất tử] của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt, Bà được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn Gia Long cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", dân gian gọi là Bà Chúa Liễu), là đấng thần chủ tối cao, ở và làm việc tại một cung điện trên giời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác. Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ông Giời thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ.
Truyện dân gian kể con cóc lên cầu Ông Giời làm mưa. Ông Giời nhận lời rằng mỗi khi cóc gọi làm mưa xuống trần gian, giải thích một hiện tượng thiên nhiên là sau khi cóc nghiến răng thì trời mưa, cao sự đoàn kết, chính nghĩa và cũng khuyên người ta nên bảo vệ cóc là loài động vật tuy xấu xí nhưng có ích:
Con cóc là cậu ông trời,Câu chuyện nổi tiếng khác là "Ông Giời và người học trò nghèo" ca ngợi quyền năng và sự công bằng của Ông Giời. Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên nhận xét:
Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho
Ông Giời đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng. Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu. Người ta xem ông như một con người, vua của các vua. Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất. Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốtKhi Ông Giời đi sang Hoa Kỳ, (á lộn, bàn phím BlackBerry nó cứ thấy "Hoa" thì móc thêm "Kỳ"), Hoa Hạ, được vẽ vời muôn hình vạn trạng, lại vốn người trần, tên Trương Hữu Nhân, trang chủ Trương Gia Loan, quận Thông Châu, Thủ đô Bắc Kinh. Vì có tính khiêm nhường và kiên nhẫn, được gọi là Trương Bách Nhẫn, do hay giúp đỡ người khác, tu luyện thành tiên nên được gọi là Đại Quý Nhân, còn có những danh xưng Đế Tể, Thượng Đế, Thiên Đế, hoàn toàn chỉ là một vị quân chủ cai quản cõi tiên giới, không có quyền năng sáng thế, sống trong cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc. Đế Tể có một vợ họ Vương, tức Tây Vương Mẫu (西王母) và bảy cô con gái (七女 / Tua Rua / Pleiades, nói sau). Thuyết khác, nói vợ của Trương Hữu Nhân có hiệu là Thiên Hậu, có chín (lại chín) con trai. Ban đầu, theo bản chất tộc du mục, Tây Vương Mẫu có diện mạo là một vị nữ thần già hung dữ ngự trị ở phía Tây, chuyên gây tai vạ không khác gì một quái vật, được đề cập lần đầu tiên trong chữ giáp cốt thời nhà Thương, gọi là Tây mẫu (西母). Sách "Sơn hải kinh" (山海经, thời nhà Chu [周朝, 1046 - 249 TTL]), mô tả Tây mẫu là một nữ thần nửa người nửa thú, hình thù kỳ quái đuôi báo, răng hổ, tính khí dữ tợn, thường gây bệnh dịch, gọi là Yêu mẫu (妖母):
《山海经·大漠西经》:“西海之南,流沙之滨,赤水之后,黑水之前,有大山,名曰昆仑之丘。有神人面虎身,有文有尾,皆白,处之。其下有弱水之渊环之,其外有炎火之山,投物辄燃。有人戴胜,虎齿,有豹尾,穴处,名曰西王母。《Sơn Hải kinh - Đại Mạc Tây kinh》: "Phía nam Tây hải, bên cạnh bãi lưu sa, đằng sau xích thủy, phía trước hắc thủy, có một ngọn núi lớn. Có thần nhân mình hổ, có vằn và đuôi, tất cả đều trắng, ngự tại núi ấy. Bên dưới có một vực xoáy sâu, bên ngoài lại có một ngọn núi rực lửa, có một người đeo đầu chim đái thắng, răng hổ, đuôi báo, ở trong hang, gọi là Tây Vương Mẫu."Khi Tên đạo ra đời Đế Tể mới có những tước vị tôn xưng cho vị quân chủ tối cao của bầu trời, là chủ của vạn vật trong quan niệm tín ngưỡng Tiên giáo, tức là Ngọc Hoàng Thượng đế (玉皇上帝 hay Ngọc Hoàng Đại đế 玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇 hay Ngọc Đế 玉帝). Trong Tiên giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh (三清), do Nguyên Thuỷ Thiên tôn (元始天尊, "Thiên tôn" được hiểu như là cách cung chúc đối với vị tối cao, tương tự tung xưng "vạn tuế" trong "Hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế") chỉ định làm quân chủ thiên đình, ngự trên tòa điện ở trên mây mà cai quản chúng thần thánh của Tam giới. Đến thời nhà Tống, tôn hiệu đầy đủ của Ngọc Hoàng là Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng đế (昊天玉皇上帝). Trong tiểu thuyết "Tây du ký" (西遊記) Ngọc Hoàng được mô tả như một vị quân chủ nhân từ nhưng không có tài năng, không có chính kiến, chỉ biết trông chờ sự giúp đỡ của các thần tiên khác. Chính vì vậy mà Tôn Ngộ Không (孫悟空) đòi phế bỏ Ngọc Hoàng để mình lên thay. Tiên đạo cũng dần biến Tây Vương Mẫu thành một nữ thần hiền từ, trở thành một trong những nữ thần tối cao và tiêu biểu, thông thường được hình dung là một bà già hiền lành, sống ở tại núi Côn Lôn thuộc phía Tây, trong vườn trồng bàn đào là giống đào tiên, ăn vào trẻ mãi không già. Hình tượng về Tây Vương Mẫu nổi lên trong thế kỉ II khi hình thành "Con đường tơ lụa" (絲綢之路, hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu). Rồi Ông Giời quay về Việt với những danh xưng Hoa Hạ đó và tín ngưỡng tín ngưỡng bản địa thờ Mẫu cũng chịu những ảnh hưởng ngoại lai từ Tiên giáo.
《山海经·西山经》:“赢母之山又西三百五十里,曰玉山,是西王母所居也。西王母其状如人,豹尾虎齿而善啸,蓬发戴胜,是司天之厉及五残。《Sơn Hải kinh - Tây Sơn kinh》: "Doanh mẫu chi sơn cách phía tây 350 dặm, gọi là Ngọc Sơn, tương truyền là nơi ở của Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu kì trạng như người, nhưng có đuôi báo, răng hổ, có đeo trăng sức trên bồng tóc. Bà có tính nghiêm khắc và tàn ác."
璞注:主知灾厉五刑残杀之气也。Quách Phác chú: "Chủ quản nghiêm trang trên trời và năm hình phạt tàn hại"
《山海经·海内北经》:“西王母梯几而戴胜。有三青鸟为取食。《Sơn Hải kinh - Hải Nội Bắc kinh》: "Tây Vương Mẫu lấy đầu chim đái thắng cài lên tóc, ăn Tam Thanh điểu để sống"
Trong truyền thuyết hiếm của người Choang (hậu duệ Âu Việt, một trong hai chủng Việt cổ lớn trong Bách Việt, tạo thành Âu Lạc) có một vị thần cai quản bầu trời tên là bố Lạc Đà (駱駝: LuoTuo, đọc giống như Lộc Tục) vốn là chim thần sống trên trời. Sải cánh của bố Lạc Đà đủ che lấp toàn bộ mặt đất, mỗi lần bố Lạc Đà đập cánh là giông bão lại nổi lên. Bằng đôi cánh của mình, bố Lạc Đà đã kéo bầu trời bay lên cao tách khỏi mặt đất, nhờ thế vạn vật mới có thể sinh trưởng được. Vì lẽ đó ngày tận thế chính là ngày mà "Trời Sập". Hình con chim Lạc trên Trống Đồng của người Việt chính là biểu tượng của bố Lạc Đà, có lẽ những hậu duệ Bách Việt từ Giang Nam không chịu bị Hoa Hạ đồng hóa lùi dần về Lĩnh Nam rồi Văn Lang - Đại Việt, sau này trở thành các quý tộc trong thời đại Lý - Trần đã mang theo và dùng hình ảnh của bố Lạc Đà để đặt tên cho giai đoạn huyền sử của mình là Hồng Bàng (Hồng chỉ loài chim trong bộ Hạc [Ciconiiformes, gồm những loài chim lội nước lớn có cổ cao, chân dài], còn lại trong câu nói truyền đến ngày nay: "chim Hồng chim Hộc"), Bàng cũng mang nghĩa là chim) cũng như tên gọi "Lạc" trong Lạc Việt, Lạc Long Quân.
Bố Lạc Đà có vợ là mẹ Hoa, sinh tám người con trai và một người con gái (lại chín), đều là thần Mặt Trời. Nhưng bảy người con trai đã bị nữ thần Đà Giang dùng cung tên bắn chết, người con trai cuối cùng nhờ bôi tro lên mặt trở thành Mặt Trăng nên mới được tha chết, để rồi chỉ còn lại một nữ thần Mặt Trời của thế gian. Bố Lạc Đà cũng có quan hệ với Vua Kinh Dương. Nguyên Thần Long Động Đình Quân có một người con gái xinh đẹp tên là Long Nữ. Vua Kinh Dương có tài đi dưới Thủy phủ, gặp được Long Nữ, được Động Đình Quân gả con gái cho làm vợ, hai người đã sinh ra tám người con. Một lần bố Lạc Đà đến thăm Vua Kinh Dương và tặng quà cho những đứa con trai của Vua Kinh Dương. Con trai cả nhận được quả trứng tiên, ở bên trong chính là con gái của bố Lạc Đà. Chim thần không quên dặn rằng khi quả trứng nở ra thì người đầu tiên mà con gái ông nhìn thấy sẽ chính là chồng của cô. Sau đó bố Lạc Đà chia tay mọi người ra về, nào ngờ đúng lúc đó đứa con trai út Sùng Lãm (崇纜) của Vua Kinh Dương ra đời (năm 2825 TTL, cả thảy chín người con, lại chín), vì chỉ chuẩn bị tám món quà nên bố Lạc Đà không còn cách nào khác bèn lấy tên của mình đặt cho Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân.
Khi Lạc Long Quân trưởng thành, Vua Kinh Dương chia nước Xích Quỷ thành chín (cũng chín) phần đem giao cho chín người con cai quản, dự định chọn ra người giỏi nhất làm Vua đời tiếp theo, người con cả cai quản một phần, lấy hiệu Âu Long Quân. Lạc Long Quân được giao cai quản vùng phía Nam. Theo sách ta cũng như sách TQ mà ta chép, Lạc Long Quân lên ngôi năm 2792 TTL, mốc thời gian này như đã nói trong "Thời đại Hồng Bàng", được “Sử lược” xác định là thời điểm các Vua Hùng lập nước Văn Lang, trong những bài sau sẽ đề cập việc khoa học xác minh thế nào về mốc thời gian này.
Tong một lần đi săn Vua Kinh Dương bị hổ cắn chết, các con không ai nhường ai đều xưng là Vua Kinh Dương, cho mình là người xứng đáng thừa kế ngôi báu của cha. Nước Xích Quỷ từ đó bị chia thành chín nước nhỏ không bao giờ hợp nhất lại được nữa. Từ chín nước nhỏ lại tiếp tục bị chia cắt nhiều hơn tạo thành các nước nhỏ hơn nữa tạo thành Bách Việt. Chỉ có Lạc Long Quân không tham gia tranh giành, lặng lẽ lui về sống ở vùng đất được cha giao cai quản, diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh, dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Về phần Âu Long Quân, dù chiến tranh loạn lạc liên miên nhưng vẫn không quên lời dặn của bố Lạc Đà, luôn mang theo quả trứng bên mình mọi lúc mọi nơi không bao giờ rời xa dù chỉ nửa bước và đặt tên nó là Âu Cơ. Âu Long Quân một lần kéo quân đến quấy nhiễu vùng đất của Lạc Long Quân bị đánh bại, trên đường tháo chạy thì quả trứng rơi xuống đất vỡ nát, để lộ bên trong là một người con gái tí hon. Và rồi người đầu tiên cô gái thấy chính là Lạc Long Quân. Âu Long Quân đau lòng vì bại trận và mất đi người mình yêu quý nên mất sớm, vùng đất Âu Long Quân cai quản cũng rơi vào hỗn loạn. Âu Cơ quả nhiên càng lớn càng xinh đẹp, nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật thường xuyên theo Lạc Long Quân đi tứ phương chữa bệnh giúp người. Về sau Lạc Long Quân và Âu Cơ trở thành vợ chồng.
Theo sách ta và TQ thì là Âu Cơ khác. Trên Hoàng Hà khi đó là thời kỳ cai trị của Đế Lai (帝哀, hoặc Đế Ai, con Đế Nghi tức là anh em con chú con bác với Lạc Long Quân), Âu Cơ là con (có thuyết chép là thiếp) Đế Lai. Lúc bấy giờ Đế Lai có quần thần là Chiyou ("Trí Zờ" có nghĩa là "ông - cha", tước hiệu tương đương và quyền lực không ít hơn hoàng đế, trong tiếng Hán là Xi Vưu hay Xuy Vưu, 蚩尤: "chiến tranh") thủ lĩnh bộ lạc Cửu Di (九夷, lại chín, tượng hình hiện đại của chữ "Di" 夷 là chữ "đại" 大 "lớn" và bộ "cung" 弓 hợp lại, ý chỉ cung tên do người Cửu Di phát minh sớm nhất, có tài bắn tên cho nên mới nói Đông Di [東夷, "giống man di mọi rợ phía Đông", thuật ngữ miệt thị của tộc Hoa Hạ chỉ các bộ lạc ở phía Đông Bắc Trung Nguyên cổ đại, Đông Di là hậu duệ Cửu Di sau này phiêu tán ra phía Đông] là những người bắn tên ở miền Đông. Nhưng nguyên thủy "Di" trong chữ giáp cốt và kế thừa là chữ được khắc hoặc đúc trên đồ đồng thực tế gồm bộ "thi" 尸 hoặc bộ "nhân" 人, không có bộ "cung", thể hiện một người cong lưng đứng trên hai chân. Chữ "Di" bộ "cung" có thể là từ thời Hán thêm bớt mà thành, do người Cửu Di còn ở lục địa đã dung hợp với người Hoa Hạ từ thời Tần - Hán).
Cửu Di có nguồn gốc từ đâu không rõ, có khả năng từng thần thuộc Đế Xích hoặc từng gia nhập vào liên minh bộ lạc mà Đế Xích làm thủ lĩnh, nhưng có thể biết chắc rằng khi đó đã hùng mạnh dưới sự thống lĩnh của thủ lĩnh cuối cùng, Chiyou, người đã đổi tên bộ lạc thành Cửu Lê (九黎, vẫn chín). Cửu Lê được cho là có quyền lực đối với chín (lại chín) bộ tộc và (chín lần chín) 81 thị tộc, địa bàn cư trú ở đâu đó tại trung lưu Hoàng Hà, một trong các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc; Hồ Nam và Giang Tô. Người Cửu Lê chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ và Chiyou thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác. Ngày nọ Đế Lai sai Chiyou thay mình trông coi quốc sự rồi mang quân đánh xuống phía Nam. Sách "Toàn thư" phần "Ngoại kỷ" dẫn nguồn từ "Tư trị thông giám", đoạn chép về Hồng Bàng còn ghi lại chi tiết, đại khái:
... thuở ấy phương bắc có đế Lai là người hiếu chiến chuyên xua quân xâm lấn các bộ lạc láng giềng, tuy nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân là em con chú ruột nhưng ông ta vẫn cất binh tiến đánh. Hai bên gặp nhau ngoài mặt trận coi như chẳng còn bà con thân thích gì lập tức cho quân đánh giáp lá cà ngay tức khắc, quân của đế Lai không hợp với thủy thổ phía nam nên chỉ chiến đấu vài trận đã bị ngã nước đau ốm la liệt không có sức tiếp tục nữa. Lạc Long Quân thấy vậy thúc quân đánh thật mạnh khiến đế lai thua to phải rút chạy về phương bắc, không rõ nguyên nhân gì mà khi đi đánh trận đế Lai lại mang cả con gái là nàng Âu Cơ đi theo. Lạc Long Quân thấy nàng xinh đẹp nết na hiền thục khác hẳn tính cách của cha liền lấy nàng làm vợ. Nếu phân tích dòng máu thì Âu Cơ phải gọi Lạc Long Quân bằng chú xưng cháu. Tuy nhiên hồi đó xã hội còn hoang sơ chưa có lễ giáo gì nên việc lấy nhau như vậy cũng đâu có phải chuyện lạ, Còn về phần đế Lai sau khi chạy lên phương bắc vẫn tiếp tục cai trị ở xứ ấy nhưng bớt hiếu chiến hơn trước...Đến đây thì "bọc trăm trứng" trở lại trong sách "Lĩnh Nam", Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con, là gốc Bách Việt, còn "Toàn thư" ăn bớt yếu tố trăm trứng trong bọc, chỉ nói Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra trăm người con. Tuy nhiên ngay từ Ngô Sĩ Liên trong "Toàn thư" đã nêu nghi vấn về Động Đình Quân và con gái:
Xét 'Đường kỷ' chép: Thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồiNgô Thì Sĩ trong "Tiền biên" viết Vua Kinh Dương, Động Đình Quân và Long Nữ có nguồn gốc từ "Liễu Nghị truyền thư" (柳毅傳書):
Nay xét phần Ngoại kỷ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy lại tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua, nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy."Liễu Nghị truyền thư" hay "Liễu Nghị truyện" (柳毅傳, hoặc "Động Đình linh nhân truyện" 洞庭靈姻傳, "Động Đình tình ký" 洞庭情記) là tiểu thuyết truyền kỳ của tác giả Lý Triều Uy, sáng tác khoảng triều Đường Cao Tông (唐高宗, 628 - 683), tóm tắt như sau:
Liễu Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường về gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về, được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ, lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên.Đến đời Nguyễn Gia Long, sách "Khâm định" viết:
Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong ‘Kỷ họ Hồng Bàng, vốn từ thời Thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với Liễu Nghị truyện của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứChuẩn tâu những lời của sử quan, Tự Đức đã nhận định đây là những
câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắcvà cho loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Vua Hùng, để
cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghiNhư đã nói từ trước, sách của ta kể cả chính sử ra đời muộn hơn nhiều so với các sách của TQ cho nên có sự chép lại từ sách TQ cũng không phải lạ gì. Vua Kinh Dương là thủy tổ, được dân ta thờ cúng, tuy không phổ biến bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Vua Hùng đồng thời là vị thần rất được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam, được các triều đại phong kiến lập Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm. Di tích đình Thượng Lãng ở xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là di tích cổ nhất thờ Vua Kinh Dương, tương truyền có từ thời nhà Đinh. Lăng và Đền thờ Vua Kinh Dương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại phong kiến Việt xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, mỗi lần Quốc lễ đều cho quan quân đến tế lễ, dân thờ phụng trang trọng.
Bây giờ nói về con số chín, con số của sự viên mãn, tròn đầy, đồng nghĩa với việc sẽ tiếp tục sinh sôi, phát triển. Trong số học, đây là số có một chữ số lớn nhất, và khi nhân số chín với bất kì số nào cho ra kết quả là một con số có hai chữ số trở lên thì những chữ số đó cộng lại với nhau đều cho ra kết quả là chín, ví dụ: 9 x 3 = 27 (2+7 = 9); 9 x 4 = 36 (3+6 = 9). Với tính chất đặc biệt đó, số chín mặc nhiên là đại diện cho sự trường tồn, vững chắc, lâu bền, vĩnh cửu, vì thế trong tiếng Hán, số chín đọc là cửu (九) đồng âm với chữ cửu (久: "vĩnh cửu", "trường cửu") tượng trưng cho đỉnh cao ở mọi phương diện. Theo quan niệm xưa, số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm, số chín là con số lớn nhất trong dãy số dương, nên được gọi là số cực dương, chứa đựng ý nghĩa tốt lành. Trong hệ Thái Dương chúng ta đang sống, trừ Mặt Trời thì có chín hành tinh bao gồm Trái Đất. Số chín tượng trưng cho Ông Giời, ngày vía Ông Giời là ngày Chín tháng Giêng.
Số chín do đó được lấy làm tượng trưng cho quyền lực chí cao vô thượng của bậc đế vương trong xã hội quân chủ phong kiến xưa. Quan lại toàn bộ triều đình chia làm chín phẩm, tức Cửu Phẩm Quan Giai. Hoàng cung nơi Thiên tử ở có chín cửa (cửu môn, 九門) ngăn cách với ngoại giới, trong sân rồng bày chín cái đỉnh (cửu đỉnh, 九鼎), ngai vàng của bậc Thiên tử đặt trên chín bậc (cửu trùng 九重), và luôn được đặt làm sao cho khi Thiên tử ngồi thì mặt lúc nào cũng nhìn về hướng Ngọ Môn, tức hướng chính Nam, ứng với con số chín. Mà tại sao lại nhìn về hướng chính Nam? Hướng chính Nam lại ứng với con số chín? Đó lại bắt nguồn từ phương Nam, các cụ ta xưa có câu:
Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Namvợ hiền hòa nghĩa là vợ hiền lành và hòa thuận, sẽ giúp gia đình được êm ấm, hạnh phúc. Có một dị bản là:
Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Namđã làm nhà thì phải là nhà hướng Nam, điều đó cũng hiển nhiên như việc lấy vợ phải là đàn bà. Có người vặn hỏi, "lấy vợ chẳng lấy đàn bà thì lấy đàn ông à!" Mặt khác, lấy vợ là phải lấy con gái, chứ lấy “đàn bà” thì... nhiều anh không thích! Lúc này, câu chuyện có thể xôm ra trò nếu bàn về vấn đề giới tính, đàn bà ở đây là phụ nữ, nhưng ngày nay không ít người đồng tính, không hiếm chị em trông xinh như hoa hồng mà nụ có nguồn gốc từ “cây chuối”. Nói vui vậy thôi, chứ ai cũng hiểu ý người xưa muốn nói, dù “vợ đàn bà” hay “vợ hiền hòa” thì bản chất vẫn là “nữ tính”, có ngoại hình và những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ như dịu dàng, duyên dáng, khéo léo, xinh đẹp, tình cảm, vị tha, tế nhị, kín đáo, tề gia nội trợ…
“Lấy vợ hiền hòa” ai cũng mong muốn, vậy còn “làm nhà hướng Nam” là vì sao? Trước hết, do vị trí địa lý và đặc thù khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa của phương Nam nên đối với hầu hết vùng, miền, hướng Nam là hướng thuận lợi nhất để xây dựng nhà cửa, đón được đầy đủ ánh sáng và gió mát hơn hẳn các hướng khác. Đặc biệt, nhà xây hướng Nam sẽ tránh được ánh nắng chói phía Đông vào buổi sáng, buổi chiều không bị nắng chiếu gay gắt từ phía Tây, đồng thời tránh được gió nóng (gió Lào) từ phía Tây thổi tới và không bị ảnh hưởng bởi gió lạnh từ phương Bắc tràn về. Mùa Hè đón được những ngọn gió mát từ hướng Đông Nam và hướng Nam. Dân gian có câu:
Trăm người hầu không bằng đầu ngọn giónói lên lợi điểm của nhà hướng Nam. Từ thời nguyên thủy, con người đã biết tận dụng hướng Nam để được mát về mùa Hè, ấm về mùa Đông, tăng sức đề kháng của cơ thể, tránh sự xâm hại của tự nhiên đối với sức khỏe. Phần lớn hang động có người ở từ thời Văn hóa Hòa Bình trên khắp vùng Bắc Đông Nam Á và Hoa Nam, tức là bao gồm lãnh thổ Xích Quỷ, ngày nay phát hiện được đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam. Không một hang có người ở nào lại có cửa quay về hướng Bắc, bởi lẽ, gió mùa kèm theo giá rét từ phương Bắc có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người. Mặt khác, hướng Nam là hướng mặt trời lên cao, tượng trưng cho lửa, dương lực, mùa hạ, sự ấm áp…, cũng chính là hướng tượng trưng cho thời kỳ mạnh mẽ nhất của cuộc đời con người, phát huy khả năng, sức mạnh của bản thân mỗi người. Địa vị xã hội, tiền tài, năng lực lãnh đạo, trí tuệ, tài năng đều có liên quan đến hướng Nam. Những kinh nghiệm này của người Việt cổ được đúc kết lại thành thứ mà ngày nay ta biết dưới tên Kinh Dịch.
Gió Nam chưa nằm đã ngáy
Nhà hướng Nam, không làm cũng có ăn…
Trong Kinh Dịch, số chín thuộc quẻ thứ 30 là quẻ Ly 離, đồ hình |:||:|, Nội quái Ngoại quái đều là ☲, hành Hỏa 火, hướng chính Nam, biểu tượng của lửa, ánh sáng, như mặt trời trên cao, sáng láng, rực rỡ. Trong "Tiên thiên Bát quái" (先天八卦, còn gọi là Phục Hy bát quái 伏羲八卦, tộc Hoa Hạ nói là do Bào Hy vẽ ra, vận động về mặt hình học là ngược chiều kim đồng hồ), phía Nam có tượng là quẻ Càn (乾: Trời [天], quẻ số một trong Kinh Dịch,, đồ hình ||| Nội quái Ngoại quái đều là ☰), nên được coi là hướng của bậc Thiên tử. Trung thiên Bát quái 中天八卦 thất truyền nên không biết ra sao, một số nhà nghiên cứu đang cố tạo dựng lại lý thuyết, còn trong "Hậu thiên Bát quái" (后天八卦, còn gọi là Văn vương Bát quái 文王八卦, tộc Hoa Hạ nói là do Văn vương [文王, Cơ Xương 姬昌, 1152 - 1046 TTL] nhà Chu vẽ ra, vận động thuận chiều kim đồng hồ, Trên - Nam, Dưới - Bắc, Phải - Tây, Trái - Đông), hướng Nam có tượng là quẻ Ly, đã nói trên. Trong bộ môn Tử vi lý số, tốt nhất với cách "Tử vi cư Ngọ", là ngôi Thiên tử (sao Tử vi) đóng ở cung Ngọ (tức Thiên tử thiết triều luôn ngồi mặt nhìn về hướng chính Nam) cùng các ngôi sao tốt đẹp, sáng sủa khác cùng nhau chiếu về, tượng trưng cho quần thần, quan lại; tạo thành "Quân Thần Khánh Hội", làm nên lá số tử vi được xem là hoàn hảo, tuyệt vời nhất.
Do vậy, khi cướp văn hiến của người Việt cổ về, tộc Hoa Hạ ứng dụng ngay vào điều kiện Hoa Bắc dù không được chính xác cho lắm, tuy nhiên ít nhất thì các bậc Thiên tử Hoa Hạ cũng còn biết tọa Bắc hướng Nam, hướng về cái gốc của triết lý Việt cổ, hướng về lẽ sáng mà xử lý công việc, cai trị thiên hạ; cung điện, thành quách được xây theo hướng này nhằm bảo vệ vị trí chí cao vô thượng. Khi tế lễ các bậc Thiên tử Hoa Hạ cũng ở đàn Nam Giao hướng về phương Nam mà hành lễ, trong khi đó tại phương Nam người Việt chổng phao câu vào mặt Thiên tử Hoa Hạ mà hành lễ. Và như đã nói trong "Thời đại Hồng Bàng", Tư Mã Thiên cố gắng "thoát Việt" bằng cách chép về Tam Hoàng khác trong "Sử ký" - "Tam Hoàng bản kỷ" với đờ Hoàng thứ Tam là
... thị tộc Nhân Hoàng có chín anh em, chia nhau trị vì cửu (九, chín) châu (州 hoặc tỉnh), mỗi người đều có đất riêngnhưng lại lòi ra chín châu là cướp từ chín phần của nước Xích Quỷ. Truyền thuyết kể rằng Đế Lai sau khi thua trận về Bắc thì thị tộc Thần Nông từ đó suy yếu, truyền ngôi đến đời Đế Du Võng (帝榆罔, cháu ba đời của Đế Nghi, như vậy Đế Du Võng là cháu gọi Lạc Long Quân bằng chú do Đế Nghi là anh Vua Kinh Dương và Vua Kinh Dương sinh ra Lạc Long Quân), cư trú tại vùng Khương Thủy ở tây bắc TQ, thì bạc nhược lắm rồi. Lúc ấy đang vào giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy, của cải tích lũy được của dân chúng giao cho tù trưởng hay thủ lĩnh của bộ lạc cai quản. Dần dần những tài sản thặng dư đó để lâu thành của riêng gia đình thủ lĩnh đó, dân chúng nhiều người bất bình đòi hỏi trả lại hoặc chia đều cho mọi người thì họ không được đáp ứng, thế lâu ngày sinh biến và "con giun xéo lắm cũng quằn" người ta nổi dậy đấu tranh. Bộ lạc Du Võng đang trên đà xuống dốc không thể cản nổi những cuộc biểu tình của dân thường khiến nó trở thành đấu tranh vũ lực.
Nhân tình hình rối ren lúc đó Chiyou đem quân đến đánh, yêu cầu Du Võng phải thoái vị nhường ngôi thủ lĩnh liên minh bộ lạc cho mình. Du Võng không có cách gì chống lại nổi Chiyou, bèn ra lời kêu gọi các bộ lạc chư hầu giúp dẹp Chiyou. Các chư hầu không ai dám đương đầu với quân Cửu Lê vì họ rất thiện chiến, vả lại họ còn chế tạo ra nhiều loại vũ khí đặc biệt sát thương hàng loạt. Du Võng đành chạy đến Trác Lộc (涿鹿县, nay là huyện thuộc thành phố Trương Gia Khẩu 張家口, tỉnh Hà Bắc) xin thủ lĩnh bộ lạc Thiểu Điển (tức là con cháu Đế Xích, theo sự bổ sung của Tư Mã Trinh vào "Sử ký"), một trong những chư hầu có kinh tế phồn thịnh nhất của triều đại Thần Nông, giúp đỡ.
Lúc đó thủ lĩnh Thiểu Điển là người thị tộc Công Tôn 公孙氏, do sống ở gò nên gọi Hiên Viên 轩辕, tức Công Tôn Hiên Viên (公孙轩辕, 2719 - 2599 TTL), về sau được biết tới là Đế Hoàng. Hiên Viên là con Thiếu Điển, cũng là thủ lĩnh bộ tộc Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiệu là Phù Bửu 附宝, sinh ra ở đất Thọ Khâu (寿丘, tỉnh Sơn Đông). "Sử ký" chép:
Hoàng Đế giả, Thiếu Điển chi tửGiữa Đế Viêm, vị Thần Nông đầu tiên đến Hiên Viên Đế Hoàng là khoảng thời gian trên 500 năm mà "Quốc ngữ" - "Tấn ngữ tứ" chép:
... xưa Thiếu Điển cưới Hữu Kiểu thị, sinh Đế Hoàng, Đế Viêmnói Hiên Viên là anh em với Đế Du Võng, vị quân chủ cuối cùng của thị tộc Thần Nông thì hợp lý hơn. Hiên Viên lúc trẻ làm thủ lĩnh bộ lạc Hữu Hùng (有熊氏 nay thuộc khu vực thị xã Tân Trịnh 新郑 thành phố Trịnh Châu tỉnh lỵ Hà Nam, cũng là tên thị tộc hợp thành), và lãnh đạo bộ lạc này một thời gian dài, "Sử ký tập giải" chép:
Hữu Hùng quốc quân, Thiếu Điển chi tử dãTheo "Sơn Hải kinh", Hiên Viên có người vợ đầu tại đây, người thị tộc Tây Lăng 西陵氏 tên là Luy Tổ (hay Loa Tổ 嫘祖, tương truyền là người đầu tiên chế ra việc nuôi tằm dệt vải, nên gọi là Tiên Tằm 先蚕, 累 hay 螺 đều có chữ 糸 mịch tức sợi tơ nhỏ, nhưng một số người cho rằng các tên trên có thể phiên sai từ Lôi Tổ 雷祖, nghĩa là bà Tổ Sấm, sinh ra mấy người con trong đó có Huyền Hiêu 玄囂 là con trưởng và Xương Ý 昌意), lại có các vợ bé Mô Mẫu (嫫母, cũng người thị tộc Tây Lăng), Nữ Tiết (sinh ra Thiếu Hạo 少昊). Hiên Viên sau đó kế nghiệp cha làm thủ lĩnh bộ lạc Thiếu Điển, ban đầu sống ở ven Cơ Thủy (濟水), nhân đó lấy tên sông, "Cơ" 姬, làm "tính" (姓, "tánh").
Khi con người bắt đầu đặt ra họ tên thì có hai dạng họ, "tính" 姓 và "thị" 氏, dù cùng nghĩa là "họ" nhưng theo truyền thống lịch sử TQ, "tính" và "thị" (thị tộc) có nhiều khác biệt. Các "tính" có bộ thủ "nữ" (女: "con gái", tượng hình giống cô gái đang quỳ xuống, hai tay khoanh trước ngực để chờ nghe theo mệnh lệnh sai khiến), là chứng tích của xã hội mẫu hệ, khi ấy đứa con sinh ra chỉ biết mặt người mẹ nhưng không chắc chắn về nhân thân người cha, nên "tính" biểu đạt ý nghĩa "được mẹ sinh ra", truyền theo dòng mẹ. Cơ "tính" về sau trở thành họ của các vương tử nhà Chu, tuy chỉ xếp thứ 213 trong danh sách "Bách gia tính" (百家姓, ghi lại các họ phổ biến của TQ, soạn vào đầu thời Bắc Tống [北宋, 960 - 1127]) nhưng "Cơ" là một trong các "tính" có nguồn gốc cổ nhất, theo truyền thống thì chỉ có Chu vương mới được mang Cơ "tính" vì vậy có rất ít người mang họ Cơ, cho đến nay "Cơ" là một họ hiếm ở TQ.
Theo nghiên cứu sự thay đổi tự dạng trong chữ giáp cốt từ thời nhà Thương tới thời nhà Chu của nhà Hán học người Pháp, Léon Vandermeersch, có vẻ như bộ thủ nữ xuất hiện trong các chữ Hán tạo thành trong giai đoạn nhà Thương sang nhà Chu, ít nhất là ở thời kỳ đầu nhà Tây Chu 西周 (1046 - 771 TTL), để chỉ tới các nhóm sắc dân hoặc bộ lạc, và chỉ có ở nữ giới, tức là những người phụ nữ từ các bộ lạc khác nhau được gả vào họ nhà Chu, được gọi bằng tên bộ lạc mà họ sinh ra, tức là "tính". Trong khi nam giới được gọi bằng danh xưng hoặc thái ấp của họ, tức là "thị". Nhà Chu sau khi thành lập đề ra chế độ phong kiến (封建: phong tước, kiến địa), "phong tước" là hình thức ban tặng danh hiệu cho hoàng thân quốc thích hoặc công thần các tước vị: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男 (hoặc Khanh 卿), thường được "cha truyền con nối". Đi kèm với phong tước là việc ban tặng đất đai làm thực ấp tức là "kiến địa", để kiến lập các nước chư hầu, gọi là "phong kiến thân thích", tạo nên các giai cấp địa chủ và nông dân.
Cho đến giữa thời Đông Chu (東周 770 - 249 TTL), "tính" chỉ có các bộ lạc quyền quý được sở hữu. Khi cấu trúc xã hội trở nên phức tạp hơn, với sự hình thành xã hội phụ hệ thì "thị" được dùng để đáp ứng nhu cầu phân biệt giữa những người chung một "tính". Cùng một "tính" sẽ có nhiều "thị" khác nhau, khi này một người xuất thân quyền quý sẽ vừa mang "thị" vừa mang "tính". Các vương tử một số nước chư hầu nhà Chu, vốn là hoàng thân quốc thích nhà Chu nên đều mang "tính" "Cơ", lấy tên đất được phong làm tên nước và "thị" của mình để phân biệt với những người cũng có "tính" là "Cơ" khác, ví dụ: nước Trịnh (鄭國, 806 - 375 TTL) một chi của vương tộc nhà Chu, ban đầu được phong tước Bá ở đất Trịnh Yển làm phụ dung nên gọi là Trịnh bá (鄭伯, đóng đô tại Hoa huyện 华县, tỉnh Sơn Tây), sau hậu duệ Trịnh bá được thăng lên tước Công thì thiên đô sang đất Tân Trịnh, lấy Trịnh 鄭 làm "thị" của mình. Cuối thời Chu, các tầng lớp thấp hơn trong xã hội cũng từ từ được mang họ, do đó sự khác biệt giữa "tính" và "thị" dần mờ nhạt đi, dẫn đến thuật ngữ bá tính (百姓, nghĩa đen "trăm họ"), "lão bá tính" (老百姓, nghĩa đen "người trăm họ") được dùng để chỉ "thường dân", "nhân dân", hoặc "bình dân", đến ngày nay ở TQ vẫn còn nhiều họ dạng "thị", trong đó có "Cơ".
Tại Thiểu Điển, Hiên Viên lại có thêm các vợ bé Phong Luy (封嫘), Đồng Ngư (彤魚), sau Hiên Viên dời bộ lạc Thiểu Điển tới vùng Trác Lộc, bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi, trồng trọt, lấy thêm vợ bé. Truyền thuyết kể rằng Rồng xuất hiện từ thời này, ngày đó mỗi bộ lạc đều lấy hình một con vật là Tộc huy cho bộ lạc của mình, bộ lạc của Hiên Viên chọn con rắn. Sau mỗi lần thu phục 1 bộ lạc, Hiên Viên sẽ trích 1 phần Tộc huy của bộ lạc đó để thêm vào Tộc huy của bộ lạc mình như một cách tượng trưng cho chiến thắng và uy danh. Vì vậy nên Tộc huy của Hiên Viên có thêm Sừng Nai, Mặt Ngựa, Vẩy Cá, Móng Chim Ưng... Lâu dần biến đổi thành Rồng.
Đáp ứng yêu cầu của Du Võng, Hiên Viên liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Chiyou trên cánh đồng Trác Lộc. Liên quân đánh với quân Cửu Lê nhiều trận kịch liệt bất phân thắng bại. Nước Thục cũng tham gia trong nhiều trận đánh kịch liệt, Xương Ý mấy lần được cử sang sứ nước Thục đã gặp người con gái của thủ lĩnh thị tộc Thục Sơn nước Thục là Xương Phó (hay Cảnh Bộc), đem lòng yêu mến, thủ lĩnh Thục Sơn thấy thế gả Xương Phó cho Xương Ý để thắt chặt tình hữu nghị đồng minh. Cuộc chiến kéo dài ròng rã nhiều năm trời khiến quân sĩ 2 bên đều thương vong vô số, sau cùng Liên quân Hiên Viên với nhiều cơ mưu túc trí đã đánh bại được Chiyou.
Trong trận chiến Trác Lộc, Chiyou đã thể hiện được uy lực trong chiến tranh, khiến cái tên Chiyou trở nên đồng nghĩa với từ "chiến tranh" trong tiếng Hán, những người tôn trọng thì xem Chiyou như là "chiến thần", còn những người bài xích thì xem như là "họa thủ". Chiyou sau này bị Nho gia Hoa Hạ xem là xấu xa, thần hóa thành nhân vật có hình tượng "đầu đồng trán sắt", "tám tay tám chân", "thân người móng trâu", "bốn mắt sáu đầu", "ăn cát sỏi", và thiện chiến, "chế tạo năm loại binh khí", "biến đổi mây mù", "làm ra sương mù dày đặc, trọn ba ngày", khiến cho Hiên Viên "chín lần chiến thì chín lần không thắng", "ba năm không hạ được thành". Sau khi Chiyou bại trận, người trong bộ tộc Cửu Lê lưu tán, một bộ phận quy phục Hiên Viên, dung hợp vào tập đoàn Viêm Hoàng, trở thành đồng tổ tiên tộc Hoa Hạ, còn lại di cư đến nơi khác.
Đến nay nguồn gốc Chiyou cũng như Cửu Lê vẫn rất phức tạp và gây tranh luận, có thể là tổ tiên tập đoàn Đông Di hoặc Tam Miêu (三苗, một nhóm dân tộc thuộc Bách Việt, theo các nhà dân tộc học, họ có thể là tổ tiên của các dân tộc H'Mông: TQ: Miêu / 苗; Lào: Lào Sủng / ລາວສູງ / Mèo; Thái Lan: แม้ว / Maew hay ม้ง / H'Mông ở VN, TQ, Lào, Miến, Thái… ngày nay) hay thậm chí là Nam Man (南蠻, "giống man di mọi rợ phía Nam"). Đông Di bao gồm cả Triều Tiên, Nhật Bản, người Nhật ngày xưa thường lùn nên còn gọi là Oa Di (夷倭, hay Uy Di, "oa" 倭 hay "nụy" là "lùn"). Cửu Di có thể là tổ tiên phân chi Đông Bắc Di của tập đoàn Đông Di, quan hệ tới Phù Dư (부여: Buyeo / Puyŏ; 夫餘, 238 TTL - 494), có thể cả Cao Câu Ly (고구려: Goguryeo / Koguryŏ; 高句麗, 37 TTL - 668), các quốc gia cổ trên bán đảo Triều Tiên. Năm 1979, tại Nam Triều Tiên xuất hiện cuốn sách lịch sử "Hoàn Đàn cổ ký" (환단고기, 桓檀古記), trong sách Chiyou được xem là Từ Ô Chi Hoàn Hùng (자오지 환웅, 慈烏支桓雄), đại quân chủ thứ 14 của Bột Đạt Quốc (배달국, 倍達國) trên bán đảo Triều Tiên. Cũng tại Nam Triều Tiên, năm 2007 xuất bản tiểu thuyết "Chiyou Thiên hoàng" (치우천왕기, 蚩尤天皇) viết rằng Chiyou là tổ tiên của dân tộc Triều Tiên và đã đánh thắng Hiên Viên, người TQ đương nhiên cho rằng đó là bóp méo lịch sử.
Căn cứ theo "Thượng thư" và "Quốc ngữ" cùng nhiều loại thư tịch cổ, Cửu Di chiến bại, tộc nhân lưu tán, phát triển thành Tam Miêu. Sách "Hậu Hán thư" - "Tây Khương truyện" cho biết một bộ phận Tam Miêu đã di chuyển về hướng tây, do vậy nếu Chiyou và Tam Miêu có quan hệ thì Chiyou có khả năng là tổ tiên của người Khương nước Cổ Thục. Căn cứ theo một số sử thi, ca dao, truyền thuyết của người H'Mông thi Chiyou là đại tổ thần của họ, có địa vị hết sức cao quý, Chiyou trong tiếng H'Mông là "Txiv Yawg", vị vua thần thoại có tính khôn ngoan của người H'Mông. Một số học giả, đặc biệt là học giả người H'Mông đề xuất rằng, tổ tiên của người H'Mông vào thời thượng cổ ban đầu cư trú tại lưu vực Hoàng Hà, do bị tộc Hoa Hạ đánh bại, buộc phải thiên di đến khu vực Quý Châu, phía tây tỉnh Hồ Nam và tây nam tỉnh Hồ Bắc.
Sau trận Trác Lộc, sự hiện diện của tộc Cửu Lê trên vũ đài lịch sử coi như kết liễu. Hiên Viên được nhiều bộ lạc ủng hộ, di bộ lạc Thiểu Điển về phía tây, được xem là mở đầu sự hình thành tộc Hoa Hạ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hiên Viên và Du Võng lại nảy ra xung đột, hai bên giao binh ở Phản Tuyền, đánh ba trận Du Võng đều bại, kéo theo sự cáo chung của triều đại Thần Nông. Đế Du Võng bị giáng phong ở một ấp bên bờ Lạc Hà (洛河, chi lưu Hoàng Hà), gọi là Lạc Ấp (洛邑, nay thuộc quận Tây Công 西工区, thành phố Lạc Dương 洛陽市 phía tây tỉnh Hà Nam) rồi chết ở đó. Hiên Viên thay thế Du Võng trở thành thủ lĩnh liên minh các bộ lạc vùng Hoàng Hà, mở đầu thời Ngũ Đế, chấm dứt thời Tam Hoàng và cũng tạm ngắt con số chín.
Ngũ Đế và con số chín là nội dung bài tiếp theo.
¤¤¤
Chôm chỉa từ:
Các tài liệu đã liệt kê trong các bài trước và:
¤ Viện Khảo cổ học:
• Văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, Hoàng Xuân Chinh (chủ biên),Viện Khảo cổ học, Hà Nội, 1989
¤ Khảo cổ:
- Khảo cổ học Tiền sử và Sơ sử Việt Nam, Phạm Huy Thông
- Theo dấu các văn hóa cổ, Hà Văn Tấn, Nxb. Xã hội, 1998
- Thời đại nguyên thủy trên đất nước Việt Nam, Nguyễn Cảnh Minh, 2007
¤ Văn hóa:
- Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt - Mường, Phan Ngọc - Phan Đăng Nhật, Tạp chí Văn hóa dân gian,số 33 - 34, 1991
- Chu Dịch với Dự Đoán học, Thiệu Vĩ Hoa, Mạnh Hà dịch, Nxb. Văn hóa. Hà Nội, 1995
- Bí ẩn của Bát Quái, Vương Ngọc Đức, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội,1996
- Văn hóa học đại cương và cơ sở VHVN, Phạm Đức Dương, Nxb. Khoa học Xã hội, 1996
- Mai Hoa Dịch tân biên, Vưu Sùng Hoa, Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1997
- Chu Dịch tường giải, Nguyễn Quốc Đoan, Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1998
- Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc, Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,1999
- Tìm về bản sắc VHVN, Trần Ngọc Thêm, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
- Dịch học toàn tập, Chu Bá Côn, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội,2003
- Hán Việt từ điển giảng yếu, Đào Duy Anh, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005
- Người cổ Đông Nam Á. Nguyễn Đức Hiệp, Khoa Văn hóa học, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2012
¤ Tạp chí:
+ Tạp chí Khảo cổ học, Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Khảo cổ họcxuất bản:
• Số 1 & 2, 1984:
- Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình, Phạm Huy Thông
- Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á, Ngô Thế Phong