10 tháng 1 2012

Phong Thủy của Thăng Long | Blog của 5xu

http://5xublog.org/2007/11/06/phong-thuy-thang-long/
Phần I: Cao Biền Trấn Yểm Tô Lịch

Các pháp sư Giao Chỉ tại sao phải lừa Cao Biền, và lừa như thế nào:

Cao Biền là con nhà dòng dõi, văn võ song toàn, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, quan hệ rộng với giới trí thức lúc bấy giờ.Ông được vua Đường cử làm Tiết độ sứ cai quản đất Giao Châu trong 9 năm.Đất Giao Châu khi đó đang ở thời kỳ Bắc Thuộc lần thứ 2. Rất may mắn là trước đó chúng ta đã trải qua một thời kỳ tuy ngắn nhưng rực rỡ của nước Vạn Xuân – Lý Nam Đế. Chúng ta đã có nước riêng, bờ cõi riêng, và vua của riêng mình.Trong thời kỳ bắc thuộc lần thứ 2, tuy là sống ách nô lệ, nhưng khát khao xây dựng một thủ đô riêng cho chính mình, nơi ấy có long mạch vượng được cả ngàn năm, vẫn là khát khao âm thầm mà mãnh liệt trong lòng trí thức đỉnh cao hồi đấy. Mà trí thức đỉnh cao hồi đấy thì rõ là các pháp sư ảnh hưởng mạnh của phái Mật Tông rồi.Đặc biệt là thời kỳ trước khi Cao Biền qua làm Tiết Độ Sứ, quân Nam Chiếu hàng chục năm trời tấn công hòng chiếm đọat Giao Chỉ từ tay nhà Đường. Lưu ý Nam Chiếu, tiền thân của vương quốc Đại Lý, là một vương quốc mà từ trên xuống dưới theo Phật Giáo Mật Tông.

Tức là Nam Chiếu hẳn đã nhìn thấy đất Giao Chỉ có địa linh nhân kiệt, phong thủy cực đẹp, nên mới kiên trì đánh chiếm như thế.

May mắn là sau đó Cao Biền đánh bại được Nam Chiếu. Đánh xong Nam Chiếu, chắc ông cũng nhận ra lý do tại sao Nam Chiếu có tham vọng chiếm Giao Chỉ. Và ông âm thầm xây dựng một cái gì đó cho riêng mình. Chính cái mộng chiếm đọat Giao Chỉ đã bị lây từ Nam Chiếu vào lòng Cao Biền như vậy. Sau tham vọng này bị lộ, Cao Biền bị gọi ngược về Trung Hoa, để lại một lực lượng quân đội đang xây dựng dở dang mà sau này được truyền thuyết hóa thành đội quân âm binh Cao Biền dậy non.

Trong 9 năm ở đất Giao Chỉ, Cao Biền đã có hành vi ứng xử tốt với dân sở tại. Dạy dân làm nghề. Trừng trị tham nhũng. Xây dựng đô thị. Giấc mộng làm vương đất Giao Chỉ của ông đã được hiện thực hóa một phần khi dân Giao Chỉ gọi ông là Cao Vương.

Tất nhiên là những gì Nam Chiếu và Cao Biền nhìn thấy ở Giao Chỉ thì các pháp sư Giao Chỉ cũng thấy, thậm chí còn thấy rõ hơn, xa hơn.

Các pháp sư của chúng ta đã nhìn thấy đất Thăng Long có địa thế đẹp thế nào, Bạch Long, Thanh Hổ ra sao. Các pháp sư của chúng ta quyết định phải xây dựng một đô thị mới ngay trên đất Thăng Long ở bên này sông Nhĩ Hà (thời Vạn Xuân kinh đô của chúng ta ở bên kia sông Hồng) thì mới trường tồn được.

Thế là các cụ nghĩ ra cách mượn sức Cao Biền để thực hiện ý mình. Hằng ngày các cụ pháp sư họp ở đền Tản Viên. Cao Biền có biết các cụ họp, nhưng tưởng chỉ oánh tổ tôm xóc đĩa, nên thi thoảng ghé qua chơi để khoe trình pháp thuật và học mót các cụ. Các cụ toàn đuổi Cao Biền đi. Sau này truyền thuyết hóa thành Đức Thánh Tản mắng chửi Cao Biền.

Thành Đại La trước thời Cao Biền đã có, nhưng nhỏ và dở dang. Cao Biền tự mình cũng nhận ra đây là đất đẹp nên quyết tâm xây cho hoàn chỉnh. Các cụ pháp sư nhà mình quyết không để cho Cao Biền tự xây theo ý mình. Cao Biền xây đến đâu đêm các cụ cho người phá đến đấy. Cao Biền lo lắng đến tột đỉnh. Thế là các cụ đóng kịch, giả làm thần Bạch Mã, cưỡi ngựa trắng chạy đi chạy lại theo đúng vết quy họach theo ý các cụ. Cao Biền cứ thế xây theo, các cụ không sai người phá nữa (đúng ý rồi mà). Thế là xây được thành Đại La, lại còn thêm được đền thờ thần Bạch Mã (chính là thờ các cụ). Mọi người thấy các cụ giỏi chưa.

Sau đó các cụ thấy đất Đại La vẫn còn bị thoát khí. Phải trấn yểm để giữ vượng khí ở lại trong vùng đất giữa sông Tô Lịch và sông Nhị Hà, cụ thể là tụ vào khu Hoàng Thành. Các cụ tính toán một hồi thấy phải trấn yểm vào đúng chỗ sông Tô Lịch mà báo chí đang um lên mấy hôm nay. Tuy nhiên các cụ không tự ra tay trấn yểm được. Nên lại dùng mưu, rình một hôm Cao Biền đang đi thuyền du lịch trên sông Tô Lịch, các cụ lại đóng kịch làm thần Long Đỗ hiện ra. Thế là Cao Biền lại dựng đền thờ Long Đỗ và đóng cọc trấn yểm.

Sau này Cao Biền ngồi nghỉ ngơi uống rượu, bỗng trong óc có cái đèn dầu lạc lóe ra một phát, vỗ đùi đứng dậy than là bị các pháp sư Giao Chỉ mượn tay mình làm lợi cho người. Cay lắm, mới đi trấn yểm để phá. Nhưng Cao Biền phá thì các cụ hóa giải. Việc này sau truyền thuyết hóa thành bà cụ già đốt béng 100 nén hương của Cao Biền trong một ngày.

Sau này vua Lý, vốn được phái trí thức Mật Tông hậu thuẫn, đã ra chiếu dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long.

Lưu ý là vua Lý Thái Tổ sinh ra ở Chùa Cổ Pháp, được sư Lý Khánh Văn nhận nuôi, đặt tên là Lý Công Uẩn. Sau này anh của Lý Khánh Văn là sư Vạn Hạnh hậu thuẫn cho vào triều đình làm quan triều Lê. Sau Lê Long Đĩnh tàn ác, sư Vạn Hạnh hậu thuẫn Lý Công Uẩn lên làm vua.

Sư Vạn Hạnh là một trong những thiền sư mật tông dòng Tì Ni Đa Lưu Chi nổi tiếng nhất thời kỳ đó. Danh tiếng của ông về sau này ngang ngửa với thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Sau khi lên làm vua, Lý Công Uẩn cho người xem lại phong thủy của Thăng Long. Thấy cần lập trận đồ bát quái một lần nữa để tái trấn yểm cửa Tây thành Thăng Long. Đúng vào chỗ Cao Biền trấn yểm ngày xưa. Việc trấn yểm này có thể dùng cả hiến sinh người sống nên sau này được truyền thuyết hóa thành truyện ông Dầu bà Dầu. Chính có lễ trấn yểm lần hai mà giáo sư Trần Quốc Vượng đã nhầm nên cho rằng đây là trận đồ của nhà Lý chứ không phải của Cao Biền.

Phần II: Thiền Tông Giao Chỉ

Mã Viện (14BC-49)quyết triệt nền văn minh Văn Lang (cột đồng Mã Viện, bỏ Việt Luật thay bằng Hán Luật). Mà hắn gần như triệt được thật (bằngchứng là hiện nay chúng ta cóc biết qué gì về thời kỳ vua Hùng).

Nhưng một lần nữa lại xảy ra vết đứt văn hóa. Văn hóa Trung Hoa không bị cưỡng hiếp nổi văn hóa Văn Lang như Nguyễn Huy Thiệp phát biểu. Mà một lần nữa, văn hóa mọi rợ của TQ hồi đó bị hóa giải và triệt tiêu.

Không những triệt tiêu tham vọng đồng hóa của người Tàu, Phật Giáo Giao Chỉ còn là quốc giáo của những người yêu nước âm thầm tìm cách đánh đổ ngoại bang. Chính các tướng lĩnh và trí thức yêu nước thời Hai Bà Trưng đã thay tên đổi họ tránh truy sát, về quê làm ruộng hoặc làm sư. Một lần nữa họ lại biến đổi Mật Giáo Giao Chỉ thành một đạo của người Việt yêu nước.

Luy Lâu (Bắc Ninh), thủ phủ của Giao Chỉ thuộc thời kỳ bắc thuộc lần 2 (602-937), trở thành trung tâm Phật Giáo Luy Lâu. Tất cả các nhà truyền giáo đi từ Ấn qua Trung Hoa đều tạt qua và nghỉ chân ở Luy Lâu. Rất nhiều kinh phật được dịch qua tiếng Hoa tại Luy Lâu trước khi được mang qua Trung Quốc để truyền giáo. Nhiều cuốn có thể được dịch từ bản tiếng Việt qua tiếng Hoa chứ không phải dịch thẳng từ tiếng Sankrit.

Các quan cai trị Luy Lâu như Chu Phù, Sĩ Nhiếp đều bị ảnh hưởng của Phật Giáo Luy Lâu và văn minh Âu lạc mà dần dần trở nên dị biệt về ý thức hệ với mẫu quốc Trung Hoa.

Cho tới lúc đó, Luy Lâu có vai trò với Trung Hoa y như Singapore với Việt Nam bây giờ. Rất nhiều du học sinh từ TQ đã đến Luy Lâu để du học (nghe đồn có tới 20 chùa và 500 tăng ở Luy Lâu vào thời kỳ ấy, đại khái giống như 20 trường đại học và 500 ông giáo sư). Các tri thức có tư tưởng tiến bộ (chống Nho giáo) hoặc li khai đều chạy qua Luy Lâu sống tị nạn.

Sau này rất nhiều trí thức đấy quay lại Trung Quốc và thành đạt. Họ đã mang Phật Giáo và Văn Minh của Giao Chỉ trở ngược lại Trung Quốc. Các trí thức tiêu biểu này có thể kể đến Mâu Tử và Khương Tăng Hội. Những người này đã mang một làn sóng văn hóa và tư tưởng vượt trội về Trung Quốc và từ đó Trung Quốc phát triển tàm tạm gọi là ổn cho đến nay. Tuy nhiên bọn này đông dân, lại chịu khó viết lách ghi chép, nên bây giờ ai cũng nghĩ là bọn nó văn minh lắm, cái gì cũng từ nó mà ra.

Như vậy Phật Giáo Trung Quốc là hậu sinh của Phật Giáo Giao Chỉ. Sau đó phát triển theo hướng khác, có thể rực rỡ hơn (do đông dân và lobby chính trị tốt hơn), nhưng bản chất chưa chắc đã hay bằng Phật Giáo Giao Chỉ Gốc (Mật Tông + Đa Thần). Ít ra cũng không thể có được một hình ảnh Đức Phật rất giản dị và thương người, thậm chí còn hơi ngô ngố như Đức Phật có tên gọi Ông Bụt trong dân gian Việt Nam. (Bụt hiện lên hỏi: vì sao con khóc?)

Phần III: Phong Thủy của Thăng Long

Riêng phần các bộ hài cốt tìm thấy ở sông Tô Lịch thì sao? Việc này liên quan đến tục hiến sinh của hầu hết các dân tộc cổ. Hiến sinh xuất hiện ở các dân tộc thờ đa thần, có mục đích khá siêu nhiên là dâng hiến linh hồn sống và máu cho các thần. Một số ít dân tộc có tục hiến sinh người sống, trong đó có dân tộc Hoa. Chuyện người Hoa chôn người sống làm thần giữ của là quá phổ biến rồi. Trong khi đó người Việt cổ cùng lắm là hiến sinh súc vật. Tàn tích của hiến sinh súc vật còn tồn tại ở Đồ Sơn với lễ hội chọi trâu, con trâu thắng cuộc được vứt xuống vực. Ngay cả người dân tộc ở Tây nguyên có lễ đâm trâu cũng chỉ là hiến sinh súc vật. Còn người Việt ở đồng bằng bắc bộ còn duy trì tục hiến sinh cho tận tới ngày nay: cúng tổ tiên hay cúng giao thừa thì bao giờ cũng làm thịt một con gà trống. Vừa là hiến sinh vừa là cho vào bụng. Rất tiện. Ngoài ra còn hiến sinh bằng lương thực. Cúng xong hay quăng và rắc muối + gạo ra xung quanh nhà hoặc quanh chùa.

Các cụ Pháp Sư nhà mình biết trước là nếu mượn tay Cao Biền đi trấn yểm thì chắc chắn Cao Biền sẽ làm lễ hiến sinh người sống. Mà người bị Cao Biền bắt cho lễ hiến sinh này chắc chắn sẽ là những trinh nữ trẻ khỏe đẹp nhất, các nam đồng khôi ngô nhất. Các cụ pháp sư Giao Chỉ phải cân nhắc rất lâu, cuối cùng quyết định là hy sinh vài người cho tương lai. Sau đó mới cử một cụ bơi giỏi nhất, canh lúc Cao Biền đi thuyền du lịch trên sông, mới bơi ra giả làm thần Long Đổ. Chính vì vậy mà hai vở kịch Bạch Mã và Long Đổ mới xảy ra ở hai khoảng thời gian cách quãng nhau.

Phần IV: Nguồn gốc của Phong Thủy và Kinh Dịch.

+ Việc Mã Viện xóa bỏ cả một nhà nước và nền văn hóa đi kèm theo nó (tịch thu và nung chảy tất cả các trống đồng) là tiền đề của việc đẩy cả một nền văn minh Văn Lang đi vào dĩ vãng.

+ Vào thế kỷ 15, khoảng 100 năm sau khi đế quốc Khmer suy yếu, người Xiêm nổi dậy chống ách áp bức của người Khmer đã tàn sát 100% sinh vật (người, gia súc) của Đế Đô Angkor Vat (1431-1432). Đưa Đế Đô này thành một thành phố chết và bị chính người Khmer quên lãng. Mãi đến 500 năm sau, các nhà khảo cổ Pháp tìm thấy tàn tích của Đế Đô Angkor Vat (Đế Thiên Đế Thích). Angkor Vat ngày nay là một điểm du lịch nổi tiếng. Thành phố cổ kỳ lạ này được cho là do Alexander Đại Đế hoặc quân của ông xây dựng. Người Khmer bị người Xiêm thôn tính hoàn toàn, xóa bỏ hoàng tộc, xóa bỏ chữ viết (tiếng Sankrit cổ) bằng cách giết sạch những người biết đọc biết viết.

+ Trước khi bị người Xiêm xóa bỏ, người Khmer của vương quốc Chân Lạp, dưới thời vua Bhavavarman đã thôn tính một nền văn minh khác (năm 627). Đó là vương quốc Phù Nam (Funan, Phnom, Phù Nam là phiên âm hán việt của Phnom như trong Phnom Pen, thủ đô Kampuchia ngày nay). Vua Bhavavarman là người xóa bỏ cái tên Phù Nam khỏi bản đồ và suýt nữa tiêu giệt toàn bộ hoàng tộc Phù Nam. May mà dân Phù Nam giỏi đi biển nên hoàng tộc Phù Nam chạy thoát qua Java và xây dựng triều đại Sailendra ở đấy. Tuy nhiên, nghề đi biển của dân Phù Nam mất hẳn. Tương tự như nghề sông nước, tục xăm mình của người Văn Lang cũng mất hẳn sau thời Mã Viện. Trước khi xóa bỏ Phù Nam, Chân Lạp của người Khmer chỉ là một xứ phiên thuộc Phù Nam. Trước khi xóa bỏ Angkor Vat, người Xiêm chỉ là nô lệ của người Khmer.

+ Bên Xiêm ngày càng lấn áp bên Khmer. Vua Khmer lúc đó là Chey Chetta II phải mượn quân đội của chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên để tỉn nhau với dân Xiêm. Tất nhiên là thắng. Sau đó Sãi Vương gả con gái của mình cho vua Khmer. Nhờ quyền lực của hoàng hậu người Việt, dân Việt Nam tràn vào sinh sống và làm ăn ở vùng đất Nam Việt Nam bây giờ. Nhờ đó chúa Nguyễn cai quản được Sài Gòn (Prey Nokor) và Bến Nghé (Kas Krobey).

+ Năm 1658, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chính thức cầm quân đánh nhau với Chân Lạp. Triều đình Chân Lạp lúc đó lại quay lại thân với người Xiêm, áp bức người Việt ở Thủy Chân Lạp (Nam Việt Nam). Hiền Vương đánh thắng quân Chân Lạp. Chiếm luôn Thủy Chân Lạp, phong vương cho người Khmer thân Việt lên làm vua ở Lục Chân Lạp. Chính thức tạo ra bờ cõi nước Việt ngày nay. Phần Lục Chân Lạp trở thành Cao Miên, Campuchia ngày nay.

Người Việt, Hoa, Khmer ở miền nam ngày nay vẫn đến đền bà chúa Xứ ở An Giang để tưởng nhớ đến vương quốc Phù Nam xa xưa. Bà chúa Xứ được truyền tụng là quốc mẫu Soma của vương quốc Phù Nam. Nữ chúa Soma là người bản địa, đã lấy một võ tướng đi truyền giáo người Ấn Độ tên là Kaundinya, đẻ ra vị vua đầu tiên của vương quốc Phù Nam. Vị vua này có tên hiệu là Kampu.

Ngày Giỗ Tổ ở đâu ra? | Blog của 5xu

http://5xublog.org/2010/04/16/ngay-gi%E1%BB%97-t%E1%BB%95-%E1%BB%9F-dau-ra/
Thấy 5xu và Trương Thái Du tranh luận vui vui bê về đây để.

Giỗ Tổ (10 tháng 3)

“Những ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.”

“Tháng Năm ngày tết Đoan Dương.
Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang”.

***

Đại khái là ngày 10/3 này cũng được quốc lễ hóa chưa lâu lắm. Cụ thể là năm 1917 vua Khải Định mới ký sắc lệnh coi ngày này là ngày giỗ tổ trên cả nước. Công văn của vua Khải Định cũng là dựa vào công văn đề xuất ý kiến của tuần phủ Phú Thọ.

Ngày 10 tháng 3 thì trong ca dao nói đến nhiều rồi.

Nhưng ông Lê Văn Lan nói (từ cái công văn của vua Khải Định ) là ở bia cổ đền Hùng có ghi ngày là ngày 11/3. Sau đó tính toán lịch mới lịch cũ thế nào đấy thì ra ngày 10/3. Cho nên dân cả nước thì giỗ tổ mùng 10, còn dân địa phương vẫn giỗ 11.

Thế nên cái câu ca dao kia ra đời sau năm 1917?!

Còn nếu ra đời trước thì hóa ra cái lập luận của công văn Khải Định mà ông Lê Văn Lan nói lại hóa ra là sai (hoặc ăn theo ca dao nhưng cũng biện chứng tí cho khoa học)?!

09 tháng 1 2012

Nguyên nhân gây cháy xe có thể từ đây chăng ????????

http://www.otofun.net/threads/312102-nguyen-nhan-gay-chay-xe-co-the-tu-day-chang
Thưa các Cụ, sáng nay Em vừa ngồi với một Anh bạn làm nghề “ Ve chai “ cũng có số má trong làng Ve chai Việt nam.

Sau khi café xong thì Em bảo đi đổ xăng để đi sang nhà máy bên Bắc Ninh thì Anh có bảo là sang Bắc Ninh đừngng có đổ xăng ở các cây nhỏ nhé ko cẩn thận cháy xe đấy ……

Em quyết định moi bằng được thông tin này, sau khi lòng vòng một hồi thì Anh ấy vẽ cho Em cái nguyên lý làm xăng Trung Quốc như sau :



Sau đó giải thích như sau :

Nguyên lý :
- Giá tiền mua máy : khoảng 700.000.000 – 800.000.000VND
- Mua dầu FO thải ở mọi nơi
- Mua chất VNK với giá 260.000d/kg
- Trộn dầu FO và VNK vói tỷ lệ 1 tần dầu FO thì cho 1kg chất VNK sau đó cho vào máy lọc ly tâm
- Chuyển sang máy ép ly tâm và thành xăng mang tên TQ
- Giá thành chỉ 12.000VND/lít
- Các cây xăng pha tỷ lệ < 20% thì ko sao
- Các cây xăng pha tỷ lệ > 40% thì ko nói được điều gì cả
Nguyên nhân xe trong thời gian vưa qua cháy nhiều thì theo Anh ta nói là:
- Chất VNK ( nhập từ TQ ) là chất gây bắt lửa cực nhậy nhưng lại giảm khói rất tốt
- Bản thân trong dầu FO hàm lượng lưu huỳnh cao chất này bắt lửa là nhất
- Chất VNK + Lưu huỳnh gặp nhau thì khỏi phải nói cháy to thôi rồi
Kết luận là ko nên đổ cây xăng của tư nhân trong thời gian này còn cây xăng nhà nước thì có thể tin hơn. Và giải thích thêm chất VNK còn gọi là xăng non.Trước dân buôn lậu nhập trực tiếp xăng kiểu này từ TQ sau đó bị bắt nhiều họ mua máy về sản xuất luôn tại VN và còn tiết lộ rằng một cơ sợ hiện đang ở Hà Tây cũ đang sản xuất loại xăng này để cung cấp ra thị trường.

Em chỉ viết lại những gì Em nghe thấy, các Cụ thử suy luận xem có đúng không.

Nghệ sỹ Tiến Hợi với vai Bác Hồ

Những người từng bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị sau đó thế nào?

Những người từng bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng (sau này là Bộ Chính trị) sau đó ra sao?

Trong lịch sử Đảng đã có một số trường hợp những người từng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã bị cách chức hoặc bị mất chức vì nhiều lý do. Song sau đó số phận của họ ra sao không phải ai cũng biết. Có những người bị mất chức nhưng sau đó đã trở lại giữ chức vụ cũ hoặc được giữ trọng trách cao hơn, có người bị tuyên án tử hình, có người vẫn còn là đảng viên đến khi mất, có người bị khai trừ ra khỏi Đảng. Dưới đây là những người đó:

Năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 25/8 đến 24/9 quyết định tiến hành sửa chữa những sai lầm trong Cải cách ruộng đất. Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung ương do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng ban. Tổng Bí thư Trường Chinh là Phó trưởng ban,nhưng phụ trách Đảng tổ Cải cách ruộng đất, là người cao nhất về Đảng lãnh đạo công cuộc Cải cách ruộng đất. Hai Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương là ông Hoàng Quốc Việt và ông Lê Văn Lương - Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thứ trưởng Bộ Nội vụ trực tiếp chỉ đạo. Từ đợt 2, ông Hồ Viết Thắng - Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương, Trưởng ban Liên lạc Nông dân toàn quốc, Thứ trưởng Bộ Nông lâm được giao nhiệm vụ là Ủy viên thường trực điều hành công việc hàng ngày, từ tháng 7 năm 1954, ông Hồ Viết Thắng được giao trách nhiệm là Phó ban, trực tiếp phụ trách cơ quan Ủy ban Cải cách ruộng đất Trung ương. Thành viên Uỷ ban Cải cách ruộng đấtTrung ương có một số Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương, người đứng đầu các Ban ngành, đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc.

Cải cách ruộng đất đã đem lại những kết quả mang tính chiến lược song cũng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng. Để lấy lại lòng tin của nhân dân, Đảng Lao động Việt Nam triển khai ngay hai việc: Một là thi hành kỷ luật những người trực tiếp chỉ đạo và điều hành công cuộc Cải cách ruộng đất.Hai là tiến hành sửa sai. Các ông Trường Chinh, Trưởng ban; ông Hồ Viết Thắng, Phó ban Thường trực; ông Lê Văn Lương, Ủy viên; ông Hoàng Quốc Việt, Ủy viên, Trưởng ban chỉ đạo thí điểm cải cách ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên bị thi hành kỷ luật.

- Ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư đã đảm nhiệm từ năm 1941, sau đó được Bác Hồ và Trung ương Đảng giao nhiệm vụ đứng đầu Ban chỉ đạo công tác sửa sai, đến năm 1958 được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ. Năm 1960, ông lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bầu vào Bộ Chính trị, phụ trách công tác Quốc hội và công tác lý luận của Đảng, được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Năm 1976, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước), Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông Trường Chinh được bầu làm quyền Tổng Bí thư Đảng thay cho ông Lê Duẩn vừa mất, ông Trường Chinh sau 30 năm lại làm Tổng Bí thư và là “người đặt nền móng cho công cuộc đổi mới đất nước” như dư luận trong nước và cả nhiều người nước ngoài đánh giá.

- Ông Hồ Viết Thắng là người thay mặt Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lúc đó, chịu trách nhiệm nặng nề nhất trước nhân dân trong Cải cách ruộng đất, bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương, trở thành chuyên viên Văn phòng Trung ương Đảng. Gia đình ông Hồ Viết Thắng tất cả 9 nhân khẩu và gia đình ông Hoàng Du, nguyên là Chánh Văn phòng Ủy ban Cải cách ruộng đấtTrung ương, dọn ra ở xóm lao động bãi Nghĩa Dũng, ngoài đê sông Hồng. Hai gia đình ở trong ba gian nhà tranh không điện, không máy nước. Năm 1958, ông Hồ Viết Thắng được phân công về phụ trách trường Hợp tác xã nông nghiệp Trung ương thuộc Ban Công tác nông thôn Trung ương.Tháng 6/1961, sau một khóa học tại trưởng Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ Viết Thắng được bổ nhiệm làm Ủy viên, rồi Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Ông làm Bí thư Đảng ủy kiêm Phó Chủ nhiệm cơ quan này trong suốt hơn 20 năm. Tháng 3/1979, đang là thành viên Đoàn chuyên gia kinh tế văn hóa giúp Chính phủ Campuchia, ông được gọi về nhận nhiệm vụ mới. ÔngNguyễn Duy Trinh, Ủy viên Bộ Chính trị tiếp đón và thông báo cho ông biết Trung ương vừa quyết định bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Bộ Lương thực Thực phẩm. Tháng 12/1980, khi đã 62 tuổi, Bộ Lương thực Thực phẩm tách thành Bộ Lương thực và Bộ Công nghiệp Thực phẩm, ông trở lại Ủy Ban Kế hoạch Nhà nước. Về Ủy ban Kế hoạch nhà nước hay ở Bộ Lương thực Thực phẩm, ông đều phụ trách ngành liên quan đến nông nghiệp và nông thôn như trước đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó. Đầu năm 1983, ông Hồ Viết Thắngchính thức nghỉ hưu ở tuổi 65.

- Ông Lê Văn Lương phải rút khỏi Bộ Chính trị và Ban Bí thư, thôi làm Trưởng ban Tổ chức, chỉ còn là Ủy viên dự khuyết Ban Thường vụ Trung ương. Tháng 11 năm 1956, được chỉ định làm Bí thư Khu uỷ Tả ngạn. Tháng 8 năm 1957, làm Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Đầu năm 1959, giữ chức Chánh văn phòng Trung ương Đảng. Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu lần thứ III của Đảng, ông Lê Văn Lương là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bầu vào Ban Bí thư. Năm 1973, ông được được phân công kiêm nhiệm chức vụ Trưởng ban Tổ chức Trung ương lần thứ 2. Từ năm 1976 đến năm 1986, ông được Bộ Chính trị phân công tham gia Ban Thường vụ Đảng bộ Hà Nội. Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đại biểu lần thứ IV của Đảng, ông tái đắc cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tại Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội ông được bầu làm Bí thư Thành ủy và đảm nhiệm chức vụ này liên tiếp 3 nhiệm kỳ cho đến khi về hưu cuối năm 1986, nhưng vẫn được Bộ Chính trị phân công tham gia tổng kết công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ.

- Ông Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng từ năm 1941, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 năm 1956 đã bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Đến năm 1960, ông được bầu làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt - Trung. Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội IV của Đảng ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, không được bầu trở lại vào Bộ Chính trị. Ông giữ chức vụ Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977), Chủ tịch danh dự Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1983) đến khi nghỉ hưu.

- Ông Nguyễn Văn Linh là Ủy viên Trung ương Đảng từ năm 1960, năm 1976 là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Trước Đại hội lần thứ V của Đảng ông bị phê phán là “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa theo kiểu Nam Tư”, ra khỏi Bộ Chính trị và mất cả chức Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, được điều động ra Hà Nội làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V, ông Nguyễn Văn Linh lại được bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 6 năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn mất, ông Trường Chinh làm quyền Tổng bí thư, ông Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư. Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng. Thế là sau 6 năm ra khỏi Bộ Chính trị, ông Nguyễn Văn Linh đã trở lại cương vị cũ và còn được bầu vào vị trí cao hơn, là Tổng Bí thư của Đảng, đúng vào thời kỳ bắt đầu công cuộc Đổi Mới đất nước.

- Ngoài hai ông Trường Chinh và Nguyễn Văn Linh, từng ra khỏi Bộ Chính trị nhưng sau đó đã trở lại Bộ Chính trị và đảm nhận cương vị cũ và cao hơn, còn có ông Trương Tấn Sang cũng bị kỷ luật "bằng hình thức khiển trách". Ông Trương Tấn Sang được bầu vào Bộ Chính trị năm 1996, giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000, ông trở thành Trưởng ban Kinh tế Trung ương. Năm 2001, ông tiếp tục vào Bộ Chính trị và giữ chức Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Tháng 1/2003, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa IX, ông Trương Tấn Sang đã bị Ban Chấp hành Trung ương Đảng kỷ luật khiển trách vì "trong thời kỳ làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (khóa VI) chưa làm tròn trách nhiệm trong việc chỉ đạo điều tra, ngăn chặn những hoạt động tội phạm của Trương Văn Cam cùng đồng bọn và có những khuyết điểm trong công tác cán bộ". Ba năm sau đó, năm 2006 ông được cử giữ chức Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng và năm 2011 ông được bầu làm Chủ tịch nước.

Những trường hợp dưới đây là những người bị kỷ luật ra khỏi Bộ Chính trị, có người bị tuyên án tử hình, có người vẫn còn là đảng viên đến khi mất, có người bị khai trừ ra khỏi Đảng:

- Ông Hoàng Văn Hoan, Ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1956, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ năm 1958. Trong một chuyến đi nước ngoài năm 1979 ông ta đã phản bội lại Tổ quốc, bỏ trốn sang Trung Quốc, bị Tòa án Tối cao kết án tử hình vắng mặt. Ông ta đã chết tại Bắc Kinh năm 1991.

- Ông Trần Xuân Bách là Ủy viên Bộ Chính trị từ Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiều khóa liền. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 tháng 3 năm 1990, ông Trần Xuân Bách đã bị phê phán gay gắt về quan điểm chính trị và bị kỷ luật, cách chức Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương "vì đã tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây nhiều hậu quả xấu".

- Ông Nguyễn Hà Phan từng là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1986, đến năm 1991 đã là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương và năm 1992 là Phó Chủ tịch Quốc hội. Năm 1993 ông được bầu vào Bộ Chính trị, được phân công làm Thường trực Ban Bí thư. Song trước khi diễn ra Đại hội Đảng lần thứ VIII, ông Nguyễn Hà Phan bị nhiều đơn thư tố cáo trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ khi bị địch bắt đã đầu hàng, phản bộ và khai báo. Ngày 17/4/1996, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp nghe Ủy ban Kiểm tra Trung ương báo cáo kết quả kiểm tra và xác minh các đơn thư tố cáo đã biểu quyết khai trừ ông Nguyễn Hà Phan ra khỏi Đảng, sau đó ông bị tước hết mọi chức vụ đã đảm nhiệm, về sống tại Cần Thơ, xem thêm ở đây https://fddinh.blogspot.com/2012/06/nguyen-ha-phan.html

- Ông Vũ Ngọc Hải được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI năm 1986. Năm 1987 làm Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Năng lượng. Ông cũng là bị can và bị án phạt 3 năm tù giam trong vụ án đường dây 500 kV vào những năm 90 của thế kỷ trước, vì tội "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", mà theo trả lời báo chí của ông thì ông đi tù vì chót phê vào đơn tham gia đấu thầu của một doanh nghiệp là "Đề nghị thứ trưởng, nếu thấy đủ điều kiện thì cho tham gia đấu thầu"..
Trong thời gian thụ án ông được Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tận trại giam gắn kỷ niệm chương đường dây 500 kV; Phó Thủ tướng Thường trực Phan Văn Khải và 28 Bộ trưởng, Thứ trưởng vào thăm nom. Ông được đặc xá sau khi thụ án 1 năm tại Trại Thanh Xuân (V26, Bộ Công an).
Ông Vũ Ngọc Hải kể lại thời gian ở trong tù: 
Khi tôi nhập trại, ông Lê Minh Hương, khi đó là thứ trưởng bộ Nội vụ (nay là bộ Công an), vào kiểm tra trại giam và cho "giải phóng" một cái trạm xá cũ để tôi vừa ở vừa tiếp khách. Cái trạm xá này một nửa nằm trong trại, một nửa nằm nhô vào khu tập thể của cán bộ trại. Vì hàng ngày khách đến thăm tôi nhiều, thấy tôi tiếp khách trong phòng bất tiện nên anh em trong trại bố trí một phòng gần phòng làm việc của cán bộ trại giam. Tôi tiếp khách không có công an ngồi kèm đâu. Nhưng phòng đó chỉ tiếp khách thường, còn từ thứ trưởng, bộ trưởng trở lên lãnh đạo bố trí tiếp ở phòng tiếp khách của trại.
...
Tôi vào trại nhưng ngày nào cũng tiếp khách. Thấy thế anh em họ cũng ái ngại, bàn đi bàn lại sau đó quyết định dọn bỏ một cái gara ô-tô để làm chuồng gà cho tôi chăn nuôi. Tôi bàn với vợ mua vài chục gà giống, thức ăn mang vào. Thế là hàng ngày tôi chỉ phải làm mỗi việc là nuôi gà. Cứ vỗ béo xong thì "anh em" trong trại lại mang bán.
Tôi bị án ba năm tù, thụ án được một năm mấy ngày thì được đặc xá. Thông thường, khi đặc xá thì mỗi phạm nhân phải viết bảng tường trình ghi lại nhận thức về quá trình cải tạo của mình nhưng tôi chỉ viết là "tôn trọng quy chế của trại, tích cực lao động...". Ngay như giờ sinh hoạt của phạm nhân họ cũng cho tôi miễn. Hôm ra trại, tôi mới hỏi ông Hân (giám thị): "Vì sao trong các buổi sinh hoạt chung của trại không thấy triệu tập tôi?". Ông Hân bảo: " Thì anh biết rồi còn gì". Tôi cười: "Thế tôi đơán nhé, khi sinh hoạt, các phạm nhân ngồi dưới đất, còn cán bộ trại ngồi trên ghế. Như thế, tôi sinh hoạt mà các anh để tôi ngồi trên ghế cũng khó mà ngồi dưới đất cũng khó". Thế là anh em cười. Nói chung, "anh em" đối xử với tôi rất tốt.
Có lẽ do những việc phát sinh trên của ông Vũ Ngọc Hải trong Trại Thanh Xuân nên sau này trên Tam Đảo có trại giam đặc biệt dành cho những trại viên vip. Ra tù, ông được cử làm Đặc phái viên của Thủ tướng và Cố vấn của Bộ trưởng Năng lượng cho đến năm 1998, thì được cho nghỉ hưu, với mức lương hưu chuyên gia cao cấp bậc hai: 8,0 (Bộ trưởng là 8,2).

- Ông Hồ Đức Việt có lẽ là một trong số không nhiều Ủy viên Bộ Chính trị có học hàm Tiến sĩ, từng làm Phó trưởng khoa Toán – Cơ trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông là Ủy viên Trung ương Đảng từ Đại hội VII, năm 1991 và là Ủy viên Bộ Chính trị năm 2006, làm Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Khác với các trường hợp trên, ông không bị kỷ luật, nhưng tại Đại hội Đảng lần thứ XI (12-19/01/2011), ở tuổi 64 ông không tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương và ngày 1 tháng 10 năm 2011 ông nghỉ hưu.

Các chàng họ Trương


*** Blogger Trương Duy Nhất viết thế này. (trích)

Các nhà báo đang say sưa bàn về số phận Hoàng Khương, ít ai thấy được “số phận” nghiệp báo của chính họ đang tuột dốc.

Phạm Đức Hải không thể dõng dạc như Lê Hoàng khi xảy ra vụ PMU 18: “Nguyễn Văn Hải sẽ mãi là người của Tuổi Trẻ, dù có bị giam cầm và lãnh án!”. Cũng như khó thấy lại hình ảnh trang blog của các nhà báo ở tòa soạn Tuổi Trẻ khi đó đồng loạt treo ảnh đồng nghiệp cùng dòng slogan “Nguyễn Văn Hải, chúng tôi luôn ở bên bạn”.

Sự kiện Nguyễn Văn Hải đã không lặp lại với Hoàng Khương, bởi Phạm Đức Hải không phải là Lê Hoàng, bởi Tuổi Trẻ và cả nền báo chí đã tuột phanh trôi quá xa so với thời PMU 18.

Không riêng Tuổi Trẻ, hàng loạt cán bộ tuyên giáo bỗng dưng thành Tổng Biên tập (1).Điều đáng nói là chiến dịch đổi mới hàng Tổng này đã vi phạm chính luật báo chí, ngang nhiên đưa hàng loạt những người chưa từng làm báo, chưa có thẻ nhà báo về cầm trịch các tờ báo lớn.

Lịch sử báo chí Việt, chưa thời nào “dân ngoại đạo” chen vào ngồi ghế Tổng biên tập đông như giai đoạn này (2). Chính những “nhà báo” bất đắc dĩ, những ông Tổng được bổ nhiệm sai luật báo chí như thế ngay tức khắc bẻ hướng các tòa báo… lao dốc!

Chiến dịch “tuyên giáo” hàng Tổng của ông Hợp chỉ qua một nhiệm kỳ đã hoàn thành mục tiêu phá hỏng hàng loạt tờ báo tên tuổi, thương hiệu. Ông Hợp hưu rồi, nhưng chiến dịch “tuyên giáo hóa” hàng Tổng vẫn chưa dừng. Nhiều tòa báo vẫn đang nằm trong tầm ngắm. Nhiều cán bộ tuyên giáo đang ngồi chơi xơi nước đã được vào danh sách nguồn (3) để sẵn sàng một hôm đẹp trời nào đó bỗng dưng nhảy vào làng báo thành… Tổng biên tập!

Sáng nào cũng vói tay lấy hai tờ Thanh Niên, Tuổi Trẻ. Lấy theo thói quen, chứ nhiều hôm lướt ngang liếc dọc vài phút rồi… vứt!

*** (1)Thanh niên, Tuổi trẻ, Người lao động, Tiền Phong, Lao động, Sàigòn tiếp thị, Saigon times, Việtnamnet, Vnexpress, Dân trí, Đại đoàn kết, Tuổi trẻ Thủ đô, Phụ nữ TP HCM, Pháp luật TP HCM.

VTV, HTV, VOV, Nhân dân, Thông tấn xã, Công an nhân dân, Sàigòn giải phóng, Hà nội mới.

Bóng đá, Mốt và cuộc sống, Tiếp thị gia đình, Thế giới văn hóa, Thuốc và sức khỏe, Khoa học phổ thông.

Trong các đơn vị báo chí  kể trên, các bạn thử thống kê xem có bao nhiêu phần trăm Tổng biên tập xuất thân là dân tuyên giáo để dẫn tới kết luận là hàng loạt.

Có 2 điều cần nói thêm: Các đơn vị báo chí kể trên chiếm thị phần 99% làng báo SG, theo con số của 2 công ty phát hành lớn nhất TP HCM là Cty phát hành báo chí TW 2 và công ty Trường phát; Ông Phạm Đức Hải, nguyên là TBT một tờ trực thuộc tuyên giáo trước khi sang Tuổi trẻ, không phải là nhà báo tay ngang và có thẻ nhà báo trước Trương Duy Nhất 2  kì hạn (5 năm cấp đổi một lần).

(2) Điều này nếu như có thật, phải hoan hô nhiệt liệt bằng cái nhìn cấp tiến, bởi nó cho thấy báo chí tư nhân thực sự đang phát triển rất tốt. Vì luật chưa cho phép nên những người làm báo thực sự phải núp bóng các nhà quản lí đơn vị chủ quản báo. Ví dụ, người đứng đầu Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt nam hay  Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt nam đều đang  làm TBT báo.  Họ hầu như không tham gia “định hướng” vì “chỉ đạo” nội dung ở đây là thị trường và các ông “bầu” bỏ tiền làm báo.

Cũng nói thêm ở ý  2, không có quy định nào bắt buộc TBT báo phải “từng là nhà báo”. Việc bổ nhiệm TBT bắt buộc phải đủ các hồ sơ sau: Một bằng đại học,  Bằng cao học chính trị, Đảng viên. Hết. Quy trình bổ nhiệm phải xuất phát từ đề xuất của cơ quan chủ quản, sau đó Hiệp thương với Tuyên giáo và bộ Thông tin truyền thông. Đủ văn bản của các cơ quan này, đơn vị chủ quản ra quyết định bổ nhiệm. Việc các cơ quan hay thậm chí các  cá nhân, can dự vào quy trình trên, thuộc về một chủ đề khác. Khác bởi, nó không thuộc về chủ trương hay quy  chế chung, mà phải gọi đúng tên là maphia.

(3) Ý này Beo không có thông tin của  Tuyên giáo TW hay các tỉnh thành khác nên không dám có ý kiến. Riêng TP HCM thì biết kĩ thế này. Theo quy định bậc lương  của Bộ nội vụ, TBT ngang vụ trưởng. Như vậy, chí ít hiện nay, các bác đang ngồi chơi xơi nước đợi nhảy xổ ra làm TBT, cũng đã phải là cấp trưởng phòng. Mà đã là trưởng phòng rồi, thì số nhiều, lấy đâu ra.