27 tháng 7 2013

Mộ bia nhiều như nấm


Những năm trước 1975, Trịnh Công Sơn qua tiếng hát của Khánh Ly như một lời kêu gọi khẩn thiết về hòa bình. Những ca khúc đó còn là sự ủi an, chia sẻ với những phận người vô tội. Khát vọng hòa bình là một mạch chảy trong “Ca khúc da vàng”.

Sự xuất hiện của Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trong giai đoạn của cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã được giới truyền thông nước ngoài ví như đôi danh ca Bob Dylan và Joan Baez ở Mỹ với những ca khúc kêu gọi chấm dứt chiến tranh làm rung động bao triệu trái tim người Việt Nam, nhất là tầng lớp thanh niên, là những người sẽ phải đối diện với chiến tranh, với cái chết hơn ai hết. 

Bao nhiêu thanh niên Việt Nam mê nhạc Trịnh, thuộc nhạc Trịnh vì lời ca ông viết ra là những con chữ đã xoáy xoay vào tâm thức tuổi trẻ trong giai đoạn đất nước có nhiều nghịch lí.

Cùng với phong trào sinh viên đấu tranh, ca khúc của Trịnh Công Sơn đi vào công chúng, tạo thành làn sóng phản chiến mạnh mẽ đến nỗi chính quyền Sài Gòn coi ông như một phần tử nguy hiểm. 

Trong bút ký “Như con sông từ nguồn ra biển”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại chi tiết ông nhận được bài báo đưa từ Sài Gòn lên rừng, trong đó có mẩu đối thoại giữa nhân vật Giao (Trịnh Công Sơn) với cảnh sát:
- Tại sao anh lại làm bài hát ca ngợi hòa bình vào lúc này?
- Ủa, thế chẳng lẽ ông lại bảo tôi ca ngợi chiến tranh?
- Nhưng anh có biết rằng lúc này, ai nói hòa bình là trung lập, trung lập là cộng sản không? Tôi nhắc lại cho anh rõ: Sắc luật ngày 7.5.1965 của chính phủ đã đặt hòa bình ra ngoài vòng pháp luật.
- Chính vì các ông đặt hòa bình ra ngoài vòng pháp luật của các ông, nên nó phải đi vào trong tiếng hát của chúng tôi.

Lời nói đó như một cam kết của đời mình, với đất nước, và Trịnh Công Sơn đã thực hiện với tất cả trách nhiệm công dân cùng với tấm lòng và tài năng của một nghệ sĩ.


Ca khúc “Tôi sẽ đi thăm”, Trịnh Công Sơn mang niềm hân hoan về sự thống nhất: “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng. Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam, tôi đi chung cuộc mừng. Và mong sẽ quên, chuyện non nước mình”.

"Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm, tôi sẽ đi thăm, đi thăm nhiều nghĩa địa buồn. đi xem mộ bia nhiều như nấm"

"Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, Mẹ già lên núi tìm xương con mình"


Tôi sẽ đi thăm - Trịnh Công Sơn

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, một phố đầy hầm,
đi thăm một con đường nhiều hố
Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, cầu gẫy vì mìn,
đi thăm hầm chông và mã tấu.
Khi đất nước tôi không còn giết nhau
Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường.

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng
Sài gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam,
tôi đi chung cuộc mừng
và mong sẽ quên chuyện non nước mình.

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm,
đi thăm nhiều nghĩa địa buồn
đi xem mộ bia nhiều như nấm 


Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Mẹ già lên núi tìm xương con mình


Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, làng xóm thành đồng
đi thăm từng khu rừng cháy nám
Khi đất nước tôi không còn giết nhau
Mọi người ra phố mời rao nụ cười

Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi không ngừng
Sài gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam,
tôi đi chung cuộc mừng
và mong sẽ quên chuyện non nước mình.



VIET NAM REVISITED

When my land has peace
I shall go visiting,
I shall go visiting
Along a road with many foxholes.
When my land is no longer at war
I shall visit the green graves of my friends.
When my land has peace
I shall go visiting
I shall go visiting
Over bridges crushed by mines,
Go visiting
Bunkers of bayonets and pungi sticks;
When my people are no longer killing each other
The children will sing children's songs
Outside on the street.

Trinh Cong Son
"I Shall Go Visiting"
in Don Luce, John C. Schafer, and Jacquelyn Chagnon
We Promise One Another (1971:92).

Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người


Sau chiến tranh nhiều gia đình có nhu cầu tìm kiếm người thân bị chết hoặc mất tích, họ phải đến nhờ vả những người có khả năng đặc biệt giúp đỡ, do đó, các nhà ngoại cảm có cơ hội xuất hiện khắp nơi tại Việt Nam và có nhiều bằng chứng khá thuyết phục về khả năng kỳ lạ của họ. Trước thực tế này, Nhà nước Việt Nam đã cho thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người.

Trung tâm được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1996 tại địa chỉ số 10 đường Đào Tấn, quận Ba Đình, Hà Nội (Viện Vật lý Việt Nam) do Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đạt Tam làm Giám đốc và sau này (2007) là Giáo sư Tiến sĩ Đào Vọng Đức, nguyên Viện trưởng Viện Vật lý (Việt Nam), làm Giám đốc, Trung tâm có ba bộ môn: Năng lượng sinh học, Thông tin dự báo và Cận tâm lý.

Bộ môn cận tâm lý do Tiến sĩ Nguyễn Chu Phác Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Nhà trường (Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam), Phó chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Việt Nam, làm chủ nhiệm và Đại tá Hàn Thụy Vũ. Bộ môn này, sau khi tìm hiểu, khảo sát và sàng lọc, đã tập hợp lại các nhà ngoại cảm để dùng các khả năng đặc biệt của họ trong các đề tài khoa học như tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ - đáng chú ý là đề tài TK08a và TK08b "Xác minh tên liệt sĩ trên mộ vô danh". Ban chủ nhiệm đề tài đã cùng một số nhà ngoại cảm đi đến các nghĩa trang liệt sĩ Kim Tân (Thanh Hoá), Phú Long (Ninh Bình), Mai Dịch và Đông Kim Ngưu (Hà Nội). Thành công lớn của bộ môn là trong 4 nghĩa trang này các nhà ngoại cảm đã tiếp xúc được với 60 vong linh, hỏi được họ tên của các vong linh, quê quán và cả tên họ của thân nhân gia đình hiện đang còn sống.

Cho tới nay, theo những nhà khoa học tự nhiên - ngoại cảm thì những nhà ngoại cảm thuộc trung tâm này, đặc biệt là các nhà ngoại cảm trong bộ môn cận tâm lý, đã giúp tìm được hơn mười ngàn bộ hài cốt liệt sĩ quy tập về nghĩa trang, và cũng đã thành công trong việc tìm lại mộ của một số danh nhân như tướng quân Hoàng Công Chất, nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến, nhà văn Nam Cao, nhà cách mạng Nguyễn Đức Cảnh v.v., cũng như nhiều người khác. Trong nhiều trường hợp trung tâm hoặc người nhà đã đi xác định bằng phương pháp thử ADN (DNA) và cho kết quả chính xác 100%.

Một số bài báo:

Những người làm "khoa học kỳ lạ" - QUỐC VIỆT - ĐỨC BÌNH - Tuổi tẻ Online - 1 tháng 8 năm 2005.

Những người làm "khoa học kỳ lạ"

08/01/2005 13:00 GMT+7
TTCN - “Ngày xưa Galillée đã “điên” khi nói Trái đất tròn, nhưng bây giờ Trái đất tròn thật. Nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ bảo thủ tin vào những gì đang có, đang giải thích rõ ràng được thì có lẽ 100 năm, thậm chí 1.000 năm sau, khoa học vẫn chỉ giậm chân tại chỗ”.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2005/01/08/Pj6ievfL.jpg
Giáo sư Lê Xuân Tú
TTCN - “Ngày xưa Galillée đã “điên” khi nói Trái đất tròn, nhưng bây giờ Trái đất tròn thật. Nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ bảo thủ tin vào những gì đang có, đang giải thích rõ ràng được thì có lẽ 100 năm, thậm chí 1.000 năm sau, khoa học vẫn chỉ giậm chân tại chỗ”. 
GS-TS Đào Vọng Đức - nguyên viện trưởng Viện Vật lý Hà Nội, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người - đã nói như thế về công việc của mình và đồng nghiệp. Phóng sự này phản ánh thực tế nỗ lực của họ, còn kết quả như thế nào thì như lời của chính họ đã nói: “Cứ dấn thân vào đi, rồi sự thật sẽ sáng tỏ”.
Căn phòng 107 nhỏ bé lọt thỏm trong khu nhà đồ sộ của Viện Vật lý ở số 10 Đào Tấn, Đống Đa, Hà Nội. Vật dụng đơn sơ với vài chiếc tủ hồ sơ, máy vi tính, bàn ghế cũ kỹ. Không gian quạnh quẽ, mốc thếch mùi thời gian, ít ai tin nổi đó lại là trụ sở của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Một cơ quan thuộc Liên hiệp Các hội khoa học - kỹ thuật VN bao gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học và những người có khả năng khác thường chuyên đi tìm câu trả lời cho những việc mà... hiện nay chưa trả lời được.
Trồng lúa bằng...nhân điện
Trong hàng loạt đề tài “kỳ lạ” trung tâm này nghiên cứu, gần đây có một đề tài “Nghiên cứu tác động nông nghiệp đối với cây” mà nói rõ hơn là “trồng lúa bằng nhân điện” đã và đang được rất nhiều người chú ý. Chúng tôi tìm gặp GS-TSKH Lê Xuân Tú, trưởng bộ môn năng lượng sinh học của trung tâm, kiêm chủ nhiệm đề tài này, không khó. Hình như ông cũng muốn công việc “kỳ lạ” của mình và cộng sự được rõ ràng hơn trước lắm ý kiến khen, chê ngược xuôi.
“Đó là phương pháp trồng lúa mà chỉ bón phân, chăm sóc bằng ánh mắt”. GS-TSKH Tú ngồi đối diện chúng tôi với đôi mắt nhìn thẳng nghiêm túc sau tròng kính cận. Ông kể chương trình nghiên cứu này đã được thực hiện hơn hai năm tại các cánh đồng ở Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc... Khởi đầu phương pháp này cũng không hề khác truyền thống với giống má, thửa ruộng, đất đai, nước...
Điểm khác biệt chỉ là cách trồng lúa truyền thống phải bón phân, phun thuốc trừ sâu, còn lúa trồng bằng năng lượng sinh học (nhân điện) thì hoàn toàn không cần trợ lực bởi các “ngoại vật” này. Hằng tuần, những người thực hiện (người có khả năng truyền năng lượng sinh học) sẽ đến nhìn lúa trên thửa ruộng đó khoảng 1-2 phút. “Tất cả chỉ có thế thôi, chẳng bí thuật, bí quyết gì cả. Nhưng không phải ai cũng làm được”. Ông Tú nhấn mạnh và cho biết đó là những người phải qua tập luyện đạt đến mức độ thu nhận, phát truyền được năng lượng sinh học của vũ trụ.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2005/01/08/YiSgGU6G.jpg
TS Lê Xuân Cuộc, Trung tâm nghiên cứu cây đặc sản (Bộ NN & PTNT) kiểm tra thành công của giống lúa Bắc thơm được nhóm nghiên cứu trồng (6-2004)
Theo ông, nhận thức cũng như thực hành về năng lượng sinh học ở VN còn ít nhiều tranh luận, nhưng trên thế giới nó đã tồn tại từ lâu. Đây là nguyên khí của vũ trụ có nhiều ảnh hưởng về sinh học lên sinh vật. Ở Ấn Độ, Pháp, Nga, Mỹ, Trung Quốc... đều có các trung tâm nghiên cứu, thực hành và bộ môn giảng dạy hẳn hoi. Nếu con người không có những dạng năng lượng sinh học khác nhau làm sao người ta đo được điện não đồ, tâm đồ...
Trở lại ứng dụng trong nông nghiệp, ông Tú cho biết cụ thể các ruộng lúa “bón bằng mắt” đã được thử nghiệm ở các địa phương Đan Thầm, Mỹ Hưng, Duyên Thái, Song Phượng, tỉnh Hà Tây; Châu Phong, Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc... Song song với các thửa ruộng trồng lúa bằng nhân điện, nhóm nghiên cứu cũng thuê luôn đất ruộng ở sát bên và trồng theo phương pháp truyền thống để so sánh. Kết quả là lúa “bón bằng mắt” vẫn lên xanh tốt như lúa trồng bón phân, xịt thuốc, năng suất đạt 5-6 tấn/ha. Nhưng cái hơn rõ ràng là lúa “năng lượng sinh học” cho ra thóc sạch, gạo sạch, lâu thiu, còn độ thơm dẻo thì như bình thường.
Trong quá trình trồng, người tò mò, chờ đợi kết quả nhiều, người phản bác cũng không ít. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu vẫn kiên trì công việc “lạ đời” của mình. Ngay từ đầu, họ đã mời các nhà khoa học nông nghiệp đến tham quan, kiểm tra tại ruộng. Sau thu hoạch, hạt gạo cũng được gửi đến Viện Công nghệ sau thu hoạch, Viện Cơ điện để phân tích cho kết quả tốt. Đặc biệt, Viện Thổ nhưỡng tham gia nghiên cứu cũng cho thấy đất trồng lúa “năng lượng sinh học” vẫn đảm bảo độ phì nhiêu như đất trồng lúa thường sau hai vụ “trồng chay” và thu hoạch.
Trả lời câu hỏi của chúng tôi là đến nay có thể khẳng định kết quả đề tài như thế nào, GS-TSKH Tú cho biết một hội đồng khoa học sẽ nghiệm thu trong tháng 1-2005. Riêng ông khẳng định đã đi đúng đường và gặt hái kết quả tốt. “Đó là tiền túi, công sức của cả một tập thể. Ban đầu chỉ thử nghiệm trên 2m2, sau đó tăng 200m2, 900m2, rồi lên đến 20.000m2 sau bốn vụ...”.
Tâm sự với chúng tôi, ông Tú rất hi vọng vào kết quả cuối cùng được thừa nhận, khi ấy sẽ góp phần phát triển bền vững nền nông nghiệp quốc gia. “Phương pháp đơn giản. Vấn đề lớn nhất là con người thực hiện, và chúng tôi đang đào tạo những con người này. Nếu thành công, chắc chắn chúng tôi không chỉ áp dụng trên cây lúa”.
Tìm hài cốt liệt sĩ từ xa
Chuyện những người có khả năng ngoại cảm tìm kiếm, xác minh hài cốt thật sự đã rộ lên suốt hai thập niên qua ở VN với nhiều tên tuổi khắp Bắc - Trung - Nam. Kéo theo đó là hàng loạt người tin, hàng loạt cuộc tìm kiếm có kết quả cũng như... hàng loạt ý kiến phản bác. Ngay từ khi ra đời năm 1996, các nhà khoa học của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người đã xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm mà họ phải lý giải trên cơ sở khoa học và các chứng minh thực nghiệm.
http://static.new.tuoitre.vn/tto/i/s626/2005/01/08/aHAxiSS3.jpg
Giáo sư Đào Đức Vọng
Nó thuộc bộ môn nghiên cứu cận tâm lý do tiến sĩ - thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ nhiệm. Năm nay đã gần 80 tuổi nhưng ông vẫn cùng các cộng sự Dương Mạnh Hùng, Phan Thị Bích Hằng, Lê Khắc Bảy, Thẩm Thúy Hoàn... lặn lội khắp đất nước để thực nghiệm và tìm hiểu sự thật trong một loạt đề tài TK05, TK06, TK07...
Trong nhóm họ, Dương Mạnh Hùng là lương y ở Hà Nội. Năm 20 tuổi, anh chết sau một trận sốt cao và đã được tẩm liệm (gia đình anh còn lưu giữ các bức ảnh này). Ông bác ở quê ra trễ nên lật tờ giấy bản trên mặt cháu để được nhìn lần cuối cùng. Bỗng thấy tờ giấy lay động, ông gọi người nhà nhanh chóng đưa vào Bệnh viện Việt - Đức cấp cứu.
Sau lần thoát chết ấy, anh Hùng tiếp tục học nghề thuốc và đi chữa bệnh. Một lần, trong lúc bắt mạch người bệnh, trong đầu anh tự nhiên như hiện lên cả một đoạn phim về gia đình bệnh nhân cả người còn sống lẫn người đã mất. Trong đầu thấy gì, miệng anh cứ thốt lên như thế, người bệnh ngạc nhiên đến hốt hoảng, còn anh cũng thấy sợ chính mình. Sau đó anh liên tục phát xuất khả năng này mỗi khi bắt mạch thái tố cho bệnh nhân... Riêng Thẩm Thúy Hoàn mới sinh năm 1977 nhưng cũng có khả năng nhìn thấy những điều người khác không thể thấy được như anh Hùng ngay từ năm cô mới... 11 tuổi.
Trong quá trình đi tìm kiếm hài cốt, họ thường phối hợp với nhau, thậm chí mời thêm cả các cộng tác viên như nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Văn Nhã cùng tham gia từ xa để kiểm chứng mức độ chính xác. Đây cũng là điểm khác biệt với những người đi tìm hài cốt riêng lẻ để có thể đối chiếu, so sánh, tổng kết các kết quả khoa học. Có đề tài họ đi tìm người đã mất theo nguyện vọng của người còn sống. Nhưng có đề tài họ “thấy và nghe được” người chết vô danh để tìm kiếm thân nhân còn sống.
Ở nghĩa trang Mường Thanh, nhóm nghiên cứu (gồm tướng Nguyễn Chu Phác, Hàn Thụy Vũ, nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy) sau khi đọc điếu văn và làm lễ tạ ơn các liệt sĩ, đã chia thành hai tốp xuống các ngôi mộ vô danh. Ở một ngôi mộ, anh Hùng bỗng “thấy và nghe” một người nói: “Tôi là liệt sĩ La Đình Hưởng, quê ở Bắc Cạn, năm 1952 hi sinh ở đường 6, trận Pheo, Hòa Bình. Tôi có bạn thân tên Nguyễn Nguyên Huân, học viên khóa 4, Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, hiện vẫn còn sống ở số nhà 66 Triệu Việt Vương...”.
Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người được thành lập theo giấy phép số 572 ngày 9-3-1996 của Bộ Khoa học - công nghệ & môi trường. Các bộ môn nghiên cứu chính của trung tâm là cận tâm lý do tiến sĩ - thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ nhiệm; năng lượng sinh học do GS-TSKH Lê Xuân Tú làm chủ nhiệm; dự báo và thông tin tư liệu do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải làm chủ nhiệm; cảm xạ học do lương y Nguyễn Hồng Quang làm chủ nhiệm...
Sau đó, anh Hùng về Hà Nội xác minh và gặp đúng ông Huân xác nhận có bạn là liệt sĩ La Đình Hưởng. Ngoài ra, anh Hùng còn “thấy và nghe” được một liệt sĩ khác tự xưng tên là Trần Văn Chính, nhắn lời hỏi thăm đồng đội Trần Thọ Vệ hiện còn sống ở thôn Phú Điền, xã Phú Hộ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Sau này khi nghe anh Hùng chuyển lời hỏi thăm, ông Vệ đã khóc và cho biết liệt sĩ Chính cùng quê với ông. Cả hai là dân công hỏa tuyến...
Trao đổi với chúng tôi, GS-TS Đào Vọng Đức cho biết các nhà ngoại cảm thành viên hoặc cộng tác viên của trung tâm có nhiều đặc điểm khác nhau. Người thì “thấy” khi bắt mạch cho người bệnh. Người thì “thấy” khi đến tận nơi, thậm chí nhiều người còn “thấy” ở cách xa khi có người nhà thật tâm nhờ tìm kiếm. Khả năng này lúc mạnh, lúc yếu, thậm chí có lúc “mất sóng” hoàn toàn, nhưng mỗi người trong họ đều đã tìm kiếm thành công ít nhất hàng trăm trường hợp. Trong đó có nhiều liệt sĩ vô danh tập trung ở các nghĩa trang liệt sĩ lớn như Mai Dịch, Đông Kim Ngưu (Hà Nội), Kim Tân (Thanh Hóa), Phú Long (Ninh Bình)...
Tuy nhiên, những trường hợp được đưa vào đề tài nghiên cứu đều phải qua kiểm chứng, xác minh, phản biện rất kỹ, bởi nội dung chính của đề tài là “nghiên cứu độ tin cậy về khả năng tìm mộ của các nhà ngoại cảm”. Ngoài việc đã tìm kiếm được hơn 1.000 hài cốt liệt sĩ và nhân dân, các nhà ngoại cảm của trung tâm còn tham gia giúp đỡ tìm kiếm những người mất tích, chữa cai nghiện ma túy...
Vĩ Thanh
“Bởi chúng tôi đang cố gắng lý giải những vấn đề mà khoa học hiện nay chưa có khả năng trả lời cụ thể, nên ai muốn nói đúng cũng được, nói sai cũng được. Nhưng đến giờ chúng tôi có thể khẳng định là hoàn toàn thanh thản với những gì mình đã làm...”.
GS-TS Đức nhẹ nhàng tâm sự với chúng tôi và cho biết nguyên tắc hàng đầu của trung tâm là phi lợi nhuận không ai có lương từ đây. Ông không khẳng định tất cả những gì mình và đồng nghiệp làm là đúng hoặc tương lai sẽ hoàn toàn đúng, “nhưng những nhà khoa học chúng tôi cảm thấy sẽ có lỗi với thế hệ sau nếu không làm...”.
Qua phóng sự này, chúng tôi chỉ muốn kể về những con người đang “đốt đuốc lao vào đêm tối”. Họ có thể tìm được con đường đi tới ánh sáng hay họ có thể vấp ngã, nhưng ít ra họ đã dám dũng cảm đốt đuốc để dấn bước...
QUỐC VIỆT - ĐỨC BÌNH


Người có hiện tượng lạ: Khoa học, không phải huyễn hoặc! - Ngọc Huyền -  VietNamNet - 11 tháng 6 năm 2006, bản gốc đã bị gỡ.


Bịt mắt nhưng vẫn đọc được...người có hiện tượng lạ như trên là chuyện có thật mà khoa học đang lý giải, chứ không phải huyễn hoặc!
>> Leonardo da Vinci có thể người gốc Ả Rập
>> Muốn sống lâu, hãy giảm thân nhiệt 
Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải thuộc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người giải thích về một số hiện tượng lạ ở người nhưng có thật tại Việt Nam. 
Gần đây, báo chí đưa tin về những con người có khả năng kỳ lạ, như bịt mắt mà vẫn nhìn thấy và đọc được... Là nhà khoa học, ông có tin vào những chuyện như thế không? Liệu đó có phải là trò ảo thuật?
 
Nhà khoa học NGuyễn Phúc Giác Hải. (Ảnh: N.Huyền)
Nguyễn Phúc Giác Hải: Những người có khả năng kỳ lạ thì có nhiều như nhận biết ý nghĩ của người khác, định vị địa điểm khác để tìm những người mất tích, xác định vật bị thất lạc hay tìm mộ từ xa.
Những trường hợp này Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người đã giới thiệu rất nhiều. Thế nhưng, gần đây có hiện tượng một người phụ nữ là chị Hoàng Thị Thiêm, 40 tuổi ở Lương Sơn, Hòa Bình.
Chị Thiêm có khả năng bịt mắt mà vẫn đọc được.
Tuy nhiên, người được thực nghiệm luôn đòi hỏi không được bịt ở giữa trán, hai nhân trung và một chút xuống khoang mũi giữa hai khóe mắt.
Vì vậy, chúng tôi đã bịt khăn trễ xuống một chút ở trán và chị phải đọc ngang trục mắt.
Sau đó, chúng tôi còn tự chế ra một cái kính bằng cách dùng kính đeo mắt thông thường có lót bên trong một tấm xốp dày. Đồng thời, lót hai lần mút đen có độ khoét hở một chút trán (ấn đường) và buộc dây thật chắt ở phía sau.
Trước khi đưa vào thực nghiệm, chúng tôi đã đưa cho những người khác để thử.
Hơn nữa, chúng tôi thử chị bằng cách đưa các tài liệu chỉ riêng tôi có và bằng các góc độ khác nhau thì chị vẫn đọc được. Chiếc kính do chúng tôi tự chế buộc trục mắt của chị Thiêm luôn đi theo tầm ngang, chứ không phải trên hoặc dưới để chị có thể nhìn qua khe được.
 
Chị Hoàng Thị Thiêm đang đọc báo. (Ảnh: Nguyễn Phúc Giác Hải)
Chúng tôi đã thử nghiệm nhiều lần khả năng đọc của chị Thiêm khi được bịt mắt.
Mới đầu, chị Thiêm chỉ "nhìn" được bằng "ấn đường", tức phần trên trán. Sau đó, để tờ giấy bên cạnh thái dương, chị cũng nhìn được. Bịt kín cả mặt, nhưng không che vùng trán và chỉ để hở tý mũi, chị cũng đọc được. Cũng nên lưu ý, mắt của chị Thiêm cũng như mắt của mọi người bình thường khác, nghĩa là không nhìn thấy trong bóng tối. Khi tắt đèn đi thì chị Thiêm không đọc được, dù bịt mắt hay không bịt mắt!
Có thể đó là những vùng trên đầu của chị Thiêm có chức năng tiếp nhận thông tin. Thế nhưng thông tin ấy được truyền hình ảnh trong não như thế nào thì đó là vấn đề đặt ra. Cần phải có nhiều nghiên cứu thêm nữa để đưa ra được cách lý giải phù hợp về mặt khoa học.
Tuy nhiên, tôi khẳng định đây là một hiện tượng phi thường, chứ không phải là một trò ảo thuật!.
- Như trường hợp của chị Thiêm, một số tờ báo cho là hiện tượng "lạ" nhưng cũng có báo như tờ An Ninh thủ đô số 1870 (2705) ngày 3/11 cho biết "thực tế người phụ nữ "ba mắt" này có dấu hiệu của một trò lừa bịp hơn là một khả năng phi thường của con người"... Ý kiến của ông như thế nào?
- Tôi cho rằng đó là ý kiến cá nhân của họ.
Điều thứ nhất, khả năng kỳ lạ của chị Hoàng Thị Thiêm đã được kiểm chứng qua nhiều nghiên cứu của Liên hiệp Tin học Ứng dụng UIA, Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người trong hai năm nay.
Trong một số cuộc kiểm chứng, còn có sự chứng kiến của  nhiều người và kể cả các nhà báo. Thậm chí, một số phóng viên báo chí đã trực tiếp làm thí nghiệm với chị Thiêm, nhưng chị vẫn vượt qua các cuộc kiểm tra và vẫn đọc được khi bị bịt mắt lại.
Vậy thì đó không phải là dấu hiệu lừa bịp!
Trong khi đó, có một bác sỹ đến từ Hưng Yên đã phản đối khả năng của chị Thiêm. Ông cho rằng, chị Thiêm làm được thì ông cũng làm được. Thế nhưng khi chúng tôi yêu cầu được thử nghiệm với ông thì ông đã từ chối. Nếu ông có khả năng thực sự như vậy thì đó là một điều may mắn cho chúng tôi vì đã phát hiện thêm một người nữa có khả năng kỳ lạ! 
 
Đeo kính có lớp xốp dày và hai miếng mút màu đen lót bên trong nhưng vẫn... đọc được.  (Ảnh: Nguyễn Phúc Giác Hải)
Thứ hai, nếu ai đó không tin, họ có thể đề nghị được thực nghiệm lại khả năng của chị Thiêm nhưng không cần lời đề nghị này, chúng tôi cũng vẫn tiếp tục khảo sát hiện tượng kỳ lạ này.
Thứ ba, nhiều phóng viên đã thử bằng những cách khác nhau như dùng tay bịt hai mắt chị vẫn đọc được... 
- Thế nhưng, khoa học lý giải như thế nào về những hiện tượng kỳ lạ đó?
- Đối với khả năng đặc biệt của chị Thiêm có thể đọc được bằng ấn đường, để bên cạnh thái dương. Tức là chị có cảm giác đó là những vùng có thể tiếp nhận thông tin. Nhưng những thông tin đó được truyền hình ảnh trong não như thế nào đó là vấn đề chúng tôi cần phải tiếp tục có thêm nhiều nghiên cứu nữa để đưa ra những giả thuyết thích hợp.  
 

Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải sinh năm 1934 tại Hải Phòng. Năm 1957, ông theo bố mẹ lên Hà Nội học tập và công tác. Năm 1954, sinh viên Khoa sinh Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc Gia Hà Nội) sau đó chuyển sang Khoa sinh Trường Đại học Sư Phạm I Hà Nội. Từ 1956-1958: Giáo viên Trường Sư phạm Trung cấp Trung Ương. Từ 1958-1964: Giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Công nông Trung Ương. 1964-1999: Nghiên cứu viên chính Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Sau 1999: Nghỉ hưu.
Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải đã từng đảm nhiệm chức vụ Tổng thư ký đầu tiên Hội Di truyền học Việt Nam; Ủy viên BCH TW Hội các ngành Sinh học Việt Nam; Ủy viên BCH Hội Thiên văn Vũ trụ - Hội Vật lý Việt Nam; Hội viên phong tặng "Hội Thiên văn Quốc tế Thái Bình Dương" . Ông cũng là tác giả công trình nghiên cứu "Nguồn gốc tên nước Việt Nam" và các quyển sách như  "Những kỳ lạ trong thế giới sinh vật" NXB giáo dục 1964; "Từ nguyên tử đến con người" (NXB Từ điển Bác khoa- 2006) và quyển "Lý thuyết mã số vũ trụ" sắp xuất bản.
Khả năng bịt mắt đọc sách của chị Thiêm không những đặc biệt mà còn gọi là phi thường. Sở dĩ như vậy là do hiện nay,  trên thế giới, chưa phát hiện trường hợp tương tự. 
Chúng ta không nên bỏ qua, không nghiên cứu hiện tượng này! 
Thử giải thích về mặt khoa học. Chúng ta có hai cây đàn dựng đứng cạnh nhau.Khi đánh dây son ở một cây đàn và bịt dây đàn lại thì cây đàn bên cạnh cũng rung lên nốt "son". Người ta gọi đó là hiện tượng "cộng hưởng". 
Tôi đã từng được biết những hiện tượng kỳ lạ như trường hợp một cặp song sinh.
Người anh là Đ.T.Q, hiện đang là Trưởng phòng biên tập của một tờ báo báo ở Hà Nội. Còn người em là Đ.T.M, hiện đang là bác sỹ thú y. Anh có nhọt trên đầu em cũng có nhọt trên đầu. Anh đí đánh nhau người ngoài đường bị đau tay thì tay của em ở nhà cũng bị đau!
Tôi cho rằng đây là hiện tượng cộng hưởng như đã nêu trên.
Chúng ta thử nêu giả thuyết, giữa con người có cùng tần số bước sóng suy nghĩ thì họ có thể đưa ý nghĩ của họ sang cho người kia nhận. 
Đối với người có khả năng ngoại cảm, họ có thể điều khiển tần số trong não của họ như một máy nhận - phát sóng của họ để bắt vào sóng của người kia. 
Đó là cách giải thích và là giả thuyết để nghiên cứu.
- Ở Việt Nam, những người có khả năng kỳ lạ có nhiều không? Các nhà khoa học có khảo sát và nghiên cứu đến nơi, đến chốn tất cả những trường hợp đó không?
- Đã gọi là khả năng kỳ lạ thì không có nhiều. Mỗi một khả năng khác nhau, chúng tôi có cách khảo sát khác nhau.
Trường hợp người đọc được ý nghĩ của người khác, chúng tôi đã thực nghiệm bằng cách viết ý nghĩ của mình ra giấy ở một phòng khác và gấp lại. Chỉ có chúng tôi biết nội dung đã ghi trong tờ giấy nhưng người này vẫn đọc ra được những chữ đó. Rõ ràng, họ đã đọc được những ý nghĩ mà chúng tôi gửi vào trong tờ giấy đó.
Cũng có một số người có khả năng "lạ" như khi họ đến một ngôi nhà, họ có thể cảm thấy trường khí của ngôi nhà này hợp hay không hợp với chủ nhân của ngôi nhà. Người ta gọi những người này là "cảm xạ phong thủy". Rồi có người có khả năng phát ra năng lượng để điều chỉnh rối loạn sinh học của người khác (người dùng năng lượng để chữa bệnh). Cũng có người có khả năng nhận biết suy nghĩ người khác, gọi là người có thần giao cách cảm. Lại cũng có người có khả năng điều khiển ý nghĩ của người khác gọi là tâm lý điều khiển.
Bây giờ tôi quay lại vấn đề nghiên cứu hiện tượng lạ... chúng ta không thể đòi hỏi một lúc mà xuyên suốt các công việc.
Chúng tôi mới chỉ đi những bước đầu tiên. Việc nghiên cứu các hiện tượng "lạ" này thường gặp khó khăn do nhận thức của mọi người, vì thế, phải dũng cảm chịu những búa rìu dư luận... Có trường hợp cấp trên đã "mở", đã cho phép nghiên cứu nhưng do người ta không truyền đạt cho cấp dưới tạo điều kiện nghiên cứu nên một số trường hợp nhà nghiên cứu đành phải bỏ dỡ...
 
Bịt mắt bằng khẩu trang dày nhưng vẫn có thể nhìn thấy để đọc (Ảnh: N.P.G.Hải)
Điển hình, có một trường hợp "đầu thai" ở Thanh Hóa. Một đứa bé đẻ ra nói rằng trước đây là con của một gia đình ở cách nơi nó sinh ra mấy chục cây số. Trung tâm tiềm năng lập tức cử người đến nghiên cứu. Thế nhưng khi đến nơi, địa phương đã không cho tiếp xúc.
Hay như trường hợp ở huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, xảy ra hiện tượng một nữ sinh bị ngất thì hàng chục nữ sinh bị ngất theo gây rối loạn tập thể.
Tôi giải thích đó là sự cộng hưởng. Trong khi đó, ngành y tế giải thích là rối loạn của tuổi dậy thì. Nếu giải thích như thế, rối loạn chỉ có thể xảy ra ở một người chứ tại sao lại xảy ra hiện tượng ngất dây chuyền, hàng loạt như thế? Đây là cách nhìn của nhà khoa học nghiên cứu ngoại cảm, nhưng một vài người trong ngành y tế bó hẹp và giải thích, công chúng không nghe.
- Theo chúng tôi được biết ở nước ngoài khi nghiên cứu những khả năng kỳ lạ của con người họ được trang bị phòng cách ly, hệ thống đo điện não hiện đại... Vậy ở Việt Nam, có đủ điều kiện nghiên cứu những người có khả năng kỳ lạ chưa? 
- Ở nước ngoài, họ có phòng nghiên cứu và đầy đủ thiết bị nghiên cứu. Còn ở Việt Nam có rất nhiều hạn chế do tổ chức nghiên cứu chưa chính quy. Trang thiết bị nghiên cứu của chúng tôi chỉ có máy ghi âm, máy ảnh, máy ghi hình.
Ngoài ra, trong một vài trường hợp có thể sử dụng thêm điện kế, người đặc biệt thì đưa đi đo điện não, một số trường hợp phân tích biến chuyển về tác động của năng lượng sinh học đối với các hoạt động cơ thể thì chúng tôi đưa đi phân tích chỉ số sinh hóa có gì biến đổi không.... Và kết quả xét nghiệm cho thấy, khi thực hiện các hiện tượng "lạ", năng lượng sinh học ở những người này có biến đổi.  
Trung tâm Nghiên cứu Tiềm Năng con người - Được thành lập tháng 11/1996, Giám đốc Trung tâm là GS.TS Đào Vọng Đức. Nhiệm vụ: - Điều tra, phát hiện những con người Việt Nam có khả năng kỳ lạ. Xác minh đưa vào thừ tiễn. - Xây dựng những giả thuyết lý luận để giải thích các hiện tượng kỳ lạ mà Khoa học chưa giải thích được. - Kinh phí hoạt động của Trung tâm được trích từ kinh phí hoạt động khoa học của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Những đề tài đặc biệt được Chính phủ cấp kinh phí riêng thông qua Bộ Khoa học và Công nghệ và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Năm 2006, Trung tâm được Nhà nước cấp kinh phí 400 triệu đồng.  

Hơn nữa, Trung tâm thiếu cơ sở để đưa những người có khả năng kỳ lạ về Trung tâm để thực nghiệm. Ví dụ như người có khả năng chữa bệnh không dùng thuốc muốn theo dõi họ phải có những hội trường lớn để bệnh nhân đến chữa bệnh và theo dõi...
Ngoài ra, có sự hạn hẹp về kinh phí nghiên cứu và sự nhận thức của xã hội về các hiện tượng người có khả năng kỳ lạ.
- Cho đến nay Việt nam có ghi chép và thống kê những người có khả năng kỳ lạ này không? Số lượng khoảng bao nhiêu?
- Có vì đây là nhiệm vụ chính của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người điều tra và phát hiện những con người Việt Nam có khả năng kỳ lạ.
Trong 10 năm hoạt động, Trung tâm đã phát hiện được khoảng 20 người có khả năng kỳ lạ thực sự. Còn lại, chỉ là hoang tưởng vì không đạt tiêu chuẩn.
- Thế nhưng, những nghiên cứu nói trên chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu khoa học thôi sao... Liệu chúng có khả năng ứng dụng được gì trong thực tế cuộc sống không?
- Chúng tôi vừa có nghiên cứu vừa đưa vào ứng dụng...
Ví dụ người có khả năng dùng năng lượng để chữa bệnh thì chúng tôi khai thác chắc chắn để xác nhận khả năng của họ. Tuy nhiên, việc đưa vào thực tiễn chữa bệnh thì nhiều khi lại vướng thủ tục hành nghề. Do vậy, những người này cũng không phát huy được khả năng của họ. Hơn nữa, có khi họ còn bị làm phiền, rắc rối và lây sang cả những người xung quanh.
Riêng vấn đề "tìm mộ bằng ngoại cảm" lúc đầu có nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng trước những bằng chứng hết sức thuyết phục và nhất là do yêu cầu bức xúc của gia đình thân nhân liệt sỹ như vậy vấn đề này cần được thực hiện để phát huy.
Còn việc một số nhà ngoại cảm có khả năng định vị sinh học, tìm người mất tích và giúp các cơ quan điều tra tìm hung thủ thì đã có thật trong thực tế. Tuy nhiên, việc này vẫn còn được các cơ quan chức năng giữ kín!
Trờ lại vấn đề người có hiện tượng "lạ" như bịt mắt mà vẫn đọc được, chẳng hạn,  trên thế giới hiện nay chưa có ai bịt mắt mà đọc sách được. Nhân đây, tôi đề nghị các cơ quan khoa học tiếp tục nghiên cứu và có thể mời một số nhà khoa học trên thế giới cùng tham gia kiểm chứng, khảo nghiệm.
- Xin cảm ơn ông! 


Cập nhật lúc 14h00' ngày 02/10/2006
Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam) đã triển khai nghiên cứu và đưa vào ứng dụng ba đề tài khoa học về năng lượng cảm xạ, gồm: nghiên cứu sự ảnh hưởng của âm nhạc dân tộc trong phương pháp trị liệu bởi rung động thư giãn cảm xạ học; nghiên cứu ứng dụng cảm xạ địa sinh học trong đời sống; ứng dụng vỗ huyệt bằng năng lượng cảm xạ điều trị đau trong các chứng bệnh vùng cổ vai.
Việc nghiên cứu tìm hiểu những tính năng này để khai thác năng lực tiềm ẩn trong cơ thể con người kết hợp với việc luyện tập dưỡng sinh sẽ đem lại kết quả hữu ích tăng cường sức khỏe và phòng chữa bệnh tật.
Với đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của âm nhạc với đời sống con người và loài vật, các nhà khoa học đã dẫn chứng nhiều ví dụ khẳng định tác động tích cực của âm nhạc giúp trẻ em có trí nhớ tốt hơn, phản xạ tốt hơn những em không được học nhạc. Theo lý giải, âm nhạc có thể đã kích thích vào bán cầu não trái - nơi điều khiển khả năng tiếp thu của trẻ tiết ra nhiều hormone có ích hơn.

Theo TTXVN, Tuổi trẻ


Kính báo về chương trình tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm - An ninh Thế giới ngày 2 tháng 4 năm 2007.
Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống Kính báo về chương trình tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm
2:02, 02/04/2007



Để tiện cho việc tìm mộ của hàng hài cốt liệt sĩ, thân nhân của các liệt sĩ cần phải biết một số quy định. Chúng tôi xin giới thiệu những quy định chung trong việc tìm hài cốt liệt sĩ và địa chỉ những nơi có thể liên hệ tìm hài cốt.
Ba cơ quan (Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống) đã nhận được hàng ngàn bức thư của các gia đình liệt sĩ và người có công, đề nghị cơ quan hỗ trợ việc tìm hài cốt thân nhân mất tích bằng phương pháp ngoại cảm.
Chúng tôi rất xúc động và cảm thông trước những tình cảm thiêng liêng mà các gia đình dành cho người thân đã mất, và xin cảm ơn sự tín nhiệm đối với các nhà ngoại cảm và đối  với cơ quan chúng tôi.
Tuy nhiên, vì số thư quá nhiều, do vậy chưa thể trả lời riêng cho từng gia đình được, chúng tôi xin phép được trả lời chung và hướng dẫn phương thức đăng ký tìm mộ bằng khả năng đặc biệt cho các đối tượng có nhu cầu như sau:
Để việc tìm kiếm mộ mất tích đạt hiệu quả cao, các gia đình cần thực hiện chu đáo các quy trình, gồm:
1- Công tác chuẩn bị: Việc tìm mộ liệt sĩ và người  thân mất tích trước hết phải xuất phát từ tình cảm thương nhớ, quý kính, hoặc hiếu thảo đối với người đã khuất, phải xác định đây là nghĩa cử thiêng liêng, không nên đi tìm chỉ vì phong trào, hoặc vì nghĩa vụ khiên cưỡng, hoặc vì cầu lợi cá nhân...
2 - Người chủ trì công việc tìm kiếm: Phải là người có vai trò và quan hệ mật thiết nhất đối với người đã khuất, nếu vì lý do chính đáng mà không thể tham gia trực tiếp được thì phải thắp hương ủy quyền cho người có vai trò tiếp theo.
3 - Chuẩn bị về kinh phí:  Trong chương trình khảo nghiệm tìm mộ mất tích bằng khả năng đặc biệt, cả ba cơ quan chúng tôi chỉ đạo không thu lệ phí dưới bất kỳ hình thức nào. Nơi nào thu lệ phí thì nơi đó không thuộc sự bảo trợ của chương trình nghiên cứu khảo nghiệm này.
- Các gia đình có lòng hảo tâm, muốn bồi dưỡng trực tiếp cho các nhà ngoại cảm thì phải xuất phát từ sự tự nguyện, thiện tâm, không gượng ép và không được nghe theo bất kỳ hình thức gợi ý nào.
- Trong quá trình đi tìm phải rất tiết kiệm, giản dị, tránh ăn uống lãng phí và tránh  ở khách sạn sang trọng. Thực tế đã chứng minh: những gia đình nào khi đi tìm liệt  sĩ mà tiêu pha, ăn ở tốn kém hoặc kêu ca, ngại khó ngại khổ... thì xác suất thành công rất ít, mọi người thường gọi hiện tượng này là “liệt sĩ cảnh cáo đấy”.
4 - Quá trình đi tìm: Cần đến trực tiếp gặp các nhà ngoại cảm theo sự giới thiệu của cơ quan. (Riêng đối với nhóm  nhà ngoại cảm của Nguyễn Văn Nhã thì chỉ cần liên lạc bằng điện thoại).
- Đối với các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Đỗ Bá Hiệp, Vũ Minh Nghĩa, Dương Thị Năng, Hoàng Thị Thiêm, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa... thì không cần phải có ảnh, thậm chí cũng không cần khai tên hoặc tiểu sử, mà chỉ cần nói họ của người muốn tìm là đủ.  Riêng đối với nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng thì cần mang theo tấm ảnh của người cần tìm.
- Vì hiện nay nhu cầu tìm mộ liệt sĩ rất đông, mọi người cần phải xếp hàng theo thứ tự, phải quý kính và coi tất cả các liệt sĩ của gia đình khác cũng như là liệt sĩ của gia đình mình, đều được coi là linh khí quốc gia, đều phải được trân trọng như nhau. Những người chen ngang không theo sắp xếp của tổ chức thì đi tìm tại hiện trường rất vất vả mà hiệu quả thành công lại rất ít. Mọi người gọi hiện tượng này là “các liệt sĩ không hài lòng với việc chen ngang nên làm nhiễu thông tin”. Riêng các liệt sĩ tình báo thường được làm nhanh và thông tin rõ nét hơn. Mọi người cho rằng có lẽ Hội đồng tâm linh “ưu tiên” cho các liệt sĩ tình báo vì gia đình đã chịu nhiều sự thiệt thòi!!!
- Các nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Nhã, Dương Thị Năng, Hoàng Thị Thiêm, Phạm Huy Lập, Trần Văn Tìa... không cần đến hiện trường mà chỉ ngồi ở nhà vẫn có thể vẽ được sơ đồ nơi có mộ.
Riêng Vũ Thị Minh Nghĩa  thì  thường trực  tiếp  tìm  kiếm  các liệt sĩ, sau đó các liệt sĩ mới “thông báo” ngược lại cho gia đình  (gọi là hiện tượng liệt sĩ đi tìm thân nhân).
- Khi nhận được băng ghi âm và bản vẽ hướng dẫn của nhà ngoại cảm thì các gia đình phải khẩn trương đi tìm, nếu để lâu sẽ kém hiệu quả. Đến hiện trường thì phải thường xuyên liên lạc bằng điện thoại để điều chỉnh tọa độ. Đa số các trường hợp tìm mộ đều phải điều chỉnh nhiều lần thì mới thành công.
- Chương trình khảo nghiệm mời vong linh của các liệt sĩ tạm gá (nhập) vào người thân của mình để đi tìm mộ (còn gọi là áp vong) đang được khảo nghiệm và bước đầu đã có một số ca thành công. Khi xác suất độ tin cậy đủ lớn thì đây sẽ là giải pháp rất thuận lợi giúp cho việc tìm mộ thất lạc được nhanh chóng. Kết quả của phương pháp này sẽ được kính báo sau.
5 - Các gia đình liệt sĩ có thể nhận được các kênh thông tin khác từ các đồng đội, hội cựu chiến binh, từ các tầng lớp nhân dân trong toàn xã hội bằng cách đưa thông tin và truy cập trang website nhắn tìm đồng đội (www.nhantimdongdoi.org), www.uia.edu.vn.
6- Một số  nhà ngoại cảm đã được tặng thưởng gương Huyền Thông (là giải thưởng dành cho các nhà ngoại cảm đã tìm được trên 1.000 thông tin về mộ liệt sĩ thất lạc) như: Nguyễn Văn Liên, Phan Bích Hằng, Nguyễn Thị Nguyện, Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Văn Nhã, Vũ Thị Minh Nghĩa...
7- Địa chỉ, điện thoại của một số nhà ngoại cảm:
- Nguyễn Thị Nguyện (tạm cắt, vì quá đông): Nhà 12, ngách 45, ngõ 6, đường Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội.
- Phan Bích Hằng (tạm cắt vì quá đông): Phòng kế toán, Trường ĐHQTKD, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà, Hà Nội.
- Đỗ Bá Hiệp (tạm cắt vì quá đông): Số 1, Đông Tác,  Kim Liên, Hà Nội.
- Hoàng Thị Thiêm (tạm cắt vì quá đông ): Số 1, Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội.
- Vũ Minh Nghĩa:   0903616818.         
- Nguyễn Văn Nhã, 0903905957, 73 An Bình, TP HCM.
- Phạm Huy Lập: 0903746547 (nhóm anh Nhã).
- Trần Văn Tìa: 0913786781 (nhóm anh Nhã).
- Nguyễn Văn Liên: 0320864011 - 1900561518, tạm về quê Tứ  Kỳ, Hải Dương.
Áp vong liệt sĩ vào thân nhân để đi tìm mộ: Số 1, Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội.
Tra thông tin về liệt sĩ trên trang Website www.uia.edu.vn
www. nhantimdongdoi.org



Sử dụng tiềm năng con người - viễn tưởng hay hiện thực?

TP - Nhân Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người (NC&ƯDTNCN) được thành lập, PV Tiền Phong có cuộc trao đổi với Viện trưởng, GS.TSKH.VS Phạm Minh Hạc, về nhiều vấn đề tưởng như bí ẩn nhưng lại hết sức nghiêm túc đối với các nhà khoa học.
Tiềm năng con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học, song đây dường như là vấn đề rất mới mẻ và nhạy cảm nữa. Xin GS cho biết ý tưởng và mục đích thành lập Viện NC&ƯDTNCN?
Tiềm năng con người là vấn đề rất lớn của từng con người, của thực tiễn xã hội, do đó, nó cũng là vấn đề của nhiều môn khoa học như Triết học, Tâm lý học, Vật lý học, Y học, Sinh vật học... Cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, vấn đề phát triển, phát huy tiềm năng con người được nhiều quốc gia đặc biệt chú trọng.
Ở nước ta, Nghị quyết Đại hội Đảng XI cũng xác định trong thời kỳ 2011-2020, phải tập trung vào nhân lực có trình độ cao, vấn đề này cũng liên quan tiềm năng con người.
Tiềm năng con người còn là vấn đề của văn hoá. Khoảng vài thập kỷ nay, nổi lên vấn đề văn hoá phương Đông.
Văn hoá Việt Nam thuộc văn hoá phương Đông, với rất nhiều vấn đề liên quan đến tiềm năng con người như văn hoá tâm linh, phong thuỷ, dịch học... Viện NC&ƯDTNCN ra đời trong bối cảnh trên, mục đích không ngoài đáp ứng được những bài toán đặt ra từ thực tiễn cuộc sống.
Xin GS điểm qua cơ cấu tổ chức của Viện?
Viện NC&ƯDTNCN là một tổ chức phi chính phủ trực thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Ngoài các phòng ban hành chính, chúng tôi bước đầu lập ra một số bộ môn để nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người như: Phương pháp luận; Cận tâm lý học - văn hoá tâm linh; Khoa học dự báo; Văn hoá phương Đông; năng lượng sinh học; Nghiên cứu các hiện tượng siêu hình.
Không thể phủ nhận đóng góp của những người có khả năng đặc biệt đối với đời sống xã hội, chẳng hạn đóng góp của những nhà ngoại cảm đối với công tác tìm kiếm hài cốt liệt sỹ. Tuy nhiên, đây luôn là đề tài nhạy cảm. Đã xuất hiện cả những “trung tâm” tìm kiếm hài cốt liệt sỹ mang màu sắc mê tín dị đoan, thậm chí lừa đảo, bịp bợm, Tiền Phong từng có loạt bài phản ánh. Viện NC&ƯDTNCN có phương án gì để phát huy được năng lực của những nhà ngoại cảm đích thực, và ngăn chặn được những người “giả danh ngoại cảm”, thưa GS?
Trong các lĩnh vực nghiên cứu của chúng tôi, có văn hoá tâm linh, trong đó có vấn đề “giao tiếp giữa người dương và người âm”.
Các nhà ngoại cảm đích thực sẽ tiếp tục đóng góp sức lực của mình để đáp ứng các nhu cầu văn hoá tâm linh của người dân, trong đó có các gia đình liệt sỹ.
Viện chúng tôi sẽ kiên trì định hướng khoa học, loại trừ mọi biểu hiện mê tín dị đoan, giả dối bịp bợm.
Trong tháng qua, chúng tôi đã có thảo luận về chủ đề ngoại cảm và tìm mộ; quan điểm của chúng tôi, để có cơ sở khoa học đánh giá vấn đề này, nhất thiết phải giám định ADN, và chúng tôi đang tìm kinh phí để tiến hành việc này.
Chữa bệnh bằng năng lượng sinh học cũng được rất nhiều người quan tâm, và đây cũng là đề tài nhạy cảm, thật giả khó lường. Viện NC&ƯDTNCN có hướng đi nào cho vấn đề này, thưa GS?
Như đã nói, chúng tôi có bộ môn Năng lượng sinh học, phạm vi nghiên cứu gồm nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề chữa bệnh. Vấn đề này không mới, từ lâu nó đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, và đã có nhiều ứng dụng.
Các nhà khoa học đã chứng minh, trong từng tế bào con người có năng lượng, năng lượng đó tạo ra năng lượng tâm lý, năng lượng tinh thần, tạo ra sức mạnh tinh thần của con người.
Trong Hội đồng khoa học của Viện chúng tôi, có một nữ GS-TS chuyên nghiên cứu về năng lượng sinh học. Cá nhân tôi cũng có nghiên cứu về vấn đề này (luận văn Tiến sỹ khoa học của tôi từ năm 1977 có tên “Hành vi và hoạt động”; đầu năm 2013 này, tôi cũng mới phát hành cuốn “Học thuyết và Tâm lý học Xich-mua Frớt”). Tuy nhiên phải nhận thấy viện chúng tôi mới thành lập, cán bộ chưa đông, tài chính eo hẹp.
Chúng tôi sẽ cố gắng tối đa để phục vụ nhu cầu của người dân về việc chữa bệnh bằng năng lượng sinh học, hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ nhoi nào đó để cải thiện sức khoẻ của người dân, trên cơ sở khoa học, khách quan, trung thực.
Thưa GS, còn có rất nhiều lĩnh vực có thể ứng dụng tiềm năng con người, không thể không nói đến công tác khám phá những vụ án mạng. Viện NC&ƯDTNCN sẽ nghiên cứu cả vấn đề này?
Trong cuốn sách “Sự thật tưởng như huyền thoại” hơn 600 trang do NXB Văn học phát hành đầu năm nay, có đề cập đến những vụ án mạng được khám phá với sự góp sức của các nhà ngoại cảm.
Trong Hội đồng khoa học Viện chúng tôi có Thiếu tướng Nguyễn Tiến Quý, hiện là Viện trưởng Viện Khoa học hình sự Bộ Công an. Chắc chắn chúng tôi sẽ có nghiên cứu vấn đề tiềm năng con người ứng dụng vào khoa học hình sự, và vấn đề này sẽ được nghiên cứu bởi bộ môn Cận tâm lý học.
Xin cám ơn GS. 
Cập nhật lúc 08h38' ngày 29/01/2013
Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam đã tổ chức lễ ra mắt Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người ngày 27/1.

Viện hoạt động trên hai lĩnh vực chủ yếu là nghiên cứu và ứng dụng những khả năng đặc biệt của con người vào phục vụ đời sống xã hội. Giáo sư, tiến sĩ khoa học Phạm Minh Hạc - người được bổ nhiệm là Viện trưởng cho biết, viện sẽ tiến hành nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn những vấn đề liên quan đến khả năng đặc biệt của con người và phát triển tiềm năng con người bằng biện chứn khoa học hiện đại.
Trong công tác ứng dụng, viện sẽ triển khai các kết quả nghiên cứu, nhằm đưa những khả năng đặc biệt của con người vào phục vụ đời sống xã hộ theo bản sắc văn hóa dân tộc, tiến hành tư vấn, bồi dưỡng, phổ biến tri thức, hợp tác với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, thực hiện nhiệm vụ của viện là phát huy tiềm năng con người.
Theo đánh giá của Viện trưởng Phạm Minh Hạc, phần lớn các nghiên cứu về khả năng đặc biệt của con người ở nước ta thời gian qua mới dừng lại ở mức quan sát, ghi nhận, thống kê những khả năng và chưa tiếp cận được bản chất và cơ sở khoa học của những khả năng đặc biệt, những điều còn bí ẩn với con người.
"Nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề này là mục tiêu lớn của viện", giáo sư Hạc nhấn mạnh. Tính khoa học và thực tiễn, phục vụ thiết thực đời sống xã hội sẽ được viện tập trung trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng.
Theo Vietnamnet




Ngoài ra, bạn đọc có thể tải bản PDF của M Schlecker bằng tiếng Anh tại đây:

Psychic Experience, Truth, and Visuality in Post-war Vietnam

29 tháng 6 2013

Bức tường Berlin - Câu chuyện về hình thành và sụp đổ


Bức tường Berlin, từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là “Tường thành bảo vệ chống phát xít”, là một phần của biên giới nội địa nước Đức. 

Nó chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989, với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin. 

Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. 

Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người.

Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt, nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta, do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp) kiểm soát và quản lý. Berlin, đã là thủ đô của Đế chế Đức, cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây cũng đã bắt đầu trên nhiều bình diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa các cơ quan tình báo của cả hai phe. 

Trong năm 1948, cuộc phong tỏa Berlin của Liên bang Xô Viết là một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Lạnh.


Cuộc phong toả Berlin kéo dài từ ngày 24 tháng 6, 1948 đến ngày 11 tháng 5 năm 1949, là một trong những cuộc khủng hoảng quốc tế chính đầu tiên của Chiến tranh Lạnh và là cuộc khủng hoảng đầu tiên gây ra tổn thất.


Năm 1948, Stalin muốn giành toàn bộ thành phố Berlin cho Đông Đức nên đã ra lệnh phong tỏa tất cả đường bộ từ phía Tây Đức đến Tây Berlin nhằm bỏ đói dân Tây Berlin để họ phải đầu hàng Đông Đức. 

Phương Tây không vừa, họ thiết lập một cầu không vận, vận chuyển 1,5 triệu tấn lương thực, thuốc men, nhu yếu phẩm,... cho người dân phần Tây Berlin, tính ra trên 120.000 chuyến bay đến thành phố này trong vòng 10 tháng. Phong tỏa Berlin thất bại.

Trong năm 1949, khi nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập trên ba vùng chiếm đóng ở phía tây. Ngay sau đó nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập trong vùng phía đông do Liên bang Xô Viết chiếm đóng. 

Biên giới bắt đầu được cả hai bên tăng cường củng cố và canh phòng. Hai quốc gia được thành lập đã tạo nền tảng cho việc chia cắt nước Đức về chính trị. Đầu tiên, chỉ có cảnh sát biên phòng và lực lượng quân đội biên phòng được giao nhiệm vụ canh gác giữa Đông Đức và Tây Đức. 

Sau đấy Đông Đức bắt đầu xây dựng nhiều rào chắn. Về mặt hình thức, Berlin mang thể chế của một thành phố bao gồm bốn khu vực và là thành phố phi quân sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một thành phố độc lập so với cả hai quốc gia Đức – nhưng thật ra điều này không còn giá trị trong thực tế. 

Trên nhiều phương diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ như việc có đại diện (nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức (Bundestag). Đi ngược lại hiệp định đã được ký kết, Đông Berlin trở thành thủ đô của nước Đông Đức.


Lính gác ở bức tường Berlin

Khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang dẫn đến nhiều việc như cấm vận kỹ thuật cao COCOM cho khối Đông Âu, chiến tranh ngoại giao liên tục và đe dọa về quân sự, phía Đông đã tăng cường đóng kín biên giới. Biên giới này không còn chỉ là một biên giới giữa hai phần nước Đức mà đã trở thành biên giới giữa Hội đồng Tương trợ Kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối Warsaw, tức là giữa hai thế lực khác nhau về tư tưởng chính trị, kinh tế và văn hóa, đã chính thức đối mặt thù địch nhau trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. 

Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất canh phòng có chiều ngang 10 m. Trong khi đó tại Berlin, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân từ Đông chạy qua Tây Berlin. 

Từ 1949 cho đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. 

Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt, nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cho sự tồn tại của quốc gia này.

Thêm vào đó khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. 

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1961, Hội đồng thành phố Đông Berlin ban quy định bắt buộc những người này phải đăng ký và phải trả tiền nhà cũng như những phí tổn phụ (điện, nước) bằng tiền Mark của Tây Đức (Deutsche Mark). 

Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng Công an Nhân dân của Đông Đức tại Đông Berlin cũng đã kiểm soát nghiêm ngặt các con đường và phương tiện giao thông đi qua phần phía tây của thành phố để ngăn chặn những người “chạy trốn cộng hòa” và “buôn lậu”. 

Ngược lại, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây Berlin đã dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. 

Qua đó hệ thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi. 

Bức tường được xây dựng để phục vụ cho ý định của những người cầm quyền Đông Đức, là đóng kín cửa biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách bình dân là “bỏ phiếu bằng chân”, hay nói cách khác là người dân rời bỏ “quốc gia công nông xã hội chủ nghĩa”.

Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands – SED), dưới sự bảo vệ và canh phòng của lực lượng Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân Quốc gia, và trái với những lời cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước của Đông Đức, Walter Ulbricht. 

Ông này là người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông Berlin vào ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ nhà báo Tây Đức Annamarie Doherr:
Tôi hiểu câu hỏi của bà là có hay không những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động công nhân xây dựng tại thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường? 
Tôi không biết có một ý định như thế, vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn lực của họ để xây chủ yếu nhà dân cư. 
Không một ai có ý định dựng lên một bức tường cả!
Vậy là, Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức tường trong việc này – hai tháng trước khi nó được dựng lên.

Sau đó, theo thông điệp chính thức được phát ra ngày 12/8/1961 của Nước cộng hòa dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Republik – DDR): 

«Để dễ dàng cho việc kiểm soát sự di cư của người dân Đông Đức, chúng ta sẽ đặt ra một dạng đường biên giới ngay phần đất giới hạn của DDR và SED, qua đó xác định được số người dân qua lại, khi mà họ sử dụng đường bộ hành.»

Vào buổi sáng ngày chủ nhật 13/8/1961, những dây thép gai và cột gỗ được chuyển đến vùng đất ranh giới giữa Đông và Tây Đức, trong khi cảnh sát ngăn cản người dân băng qua biên giới: hàng rào được tạo nên từng bước một.

Sau đó, dây thép gai được thay thế bằng một bức tường đá với kích cỡ khá to, những cánh cổng và cửa sổ của các khu nhà phố Bernauer (Bernauer Straße) ở đấy cũng góp phần vào việc phân chia rõ biên giới. 

Những lề đường thuộc về quận Wedding (thuộc Đông Đức) trong khi các khu nhà lại thuộc về quận Mitte (nằm ở địa phận Tây Đức). 

Người dân ở đấy nếu muốn đi vào nhà họ thì đầu tiên phải được phép đi qua các cửa khẩu để qua phía bên kia biên giới. 

Ngày hôm trước họ còn nói chuyện với người hàng xóm, ngày hôm sau đã không được phép sang thăm nhau nữa vì ngôi nhà đó thuộc về một đảng phái chính trị khác.

Trong suốt năm 1961 và sau đó, có rất nhiều nhà ở vùng biên giới bị bắt phải dọn đi.

Tuy quân đội Đồng Minh phía Tây đã có thông tin về kế hoạch của “những biện pháp cứng rắn” nhằm để phong tỏa Tây Berlin thông qua những người tin cậy, nhưng họ vẫn ngạc nhiên về thời điểm cụ thể và quy mô của rào cản này. Do quyền ra vào Tây Berlin không bị cắt xén nên phương Tây đã không can thiệp bằng quân sự. 

Cơ quan tình báo Liên bang Đức (Bundesnachrichtendienst – BND) cũng đã nhận được nhiều thông tin tương tự ngay từ giữa tháng 7. Sau khi Ulbricht viếng thăm Nikita Sergeyevich Khrushchyov trong thời gian của cuộc họp cấp cao các nước trong khối Warsaw tại Matx-cơ-va từ 3 tháng 8 đến 5 tháng 8, báo cáo hằng tuần của BND vào ngày 9 tháng 8 đã ghi lại:

Thông tin cho thấy chế độ Pankow đang cố gắng đạt được sự đồng ý của Mátxcơva để tiến hành nhiều biện pháp ngăn cản có hiệu quả hơn – thuộc vào trong số đó đặc biệt là việc thắt chặt biên giới của các khu vực chiếm đóng ở Berlin và làm gián đoạn giao thông tàu điện ngầm và tàu nhanh ở Berlin
Trong tuyên bố của các quốc gia thành viên trong hội nghị của khối Warsaw đã có lời đề nghị:
phải chặn đứng các hoạt động phá hoại ngấm ngầm chống lại các nước phe xã hội chủ nghĩa tại biên giới Tây Berlin, và phải đảm bảo canh gác và kiểm soát có hiệu quả vùng Tây Berlin.
Vào ngày 11 tháng 8 Quốc hội của Đông Đức chấp thuận kết quả của hội nghị Matx-cơ-va và ủy nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng tiến hành tất cả các biện pháp tương ứng. 

Ngày 12 tháng 8 Hội đồng Bộ trưởng quyết định sử dụng các «lực lượng vũ trang» để canh phòng biên giới với Tây Berlin và để xây dựng rào chắn biên giới.

Trong ngày thứ Bảy 12 tháng 8, cơ quan BND nhận được thông tin từ Đông Berlin, rằng:
vào ngày 11 tháng 8 năm 1961 đã có cuộc họp các bí thư các nhà xuất bản thuộc Đảng và các cán bộ Đảng khác tại Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức. 
Tại đấy, ngoài những việc khác là tuyên bố: Do tình hình dòng người di tản tăng liên tục, việc khóa kín phần phía đông của Berlin và khu vực chiếm đóng phía đông cần phải thực hiện trong những ngày sắp đến – một thời điểm cụ thể không được nêu ra – chứ không như theo kế hoạch là đến 14 ngày nữa.“
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 8 năm 1961 Quân đội Nhân dân Quốc gia, người của Cảnh sát biên phòng (tiền thân của Lực lượng Biên phòng sau này), người thuộc Công an Nhân dân và người thuộc lực lượng công nhân vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. 

Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.

Erich Honecker vào thời điểm đó dưới cương vị là bí thư trung ương Đảng về an ninh, đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng chịu trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức tường. 

Ngay trong cùng ngày Thủ tướng Liên bang Konrad Adenauer đã kêu gọi qua đài phát thanh yêu cầu người dân hãy bình tĩnh và thận trọng, nhắc đến việc sẽ phối hợp cùng với lực lượng Đồng Minh để có phản ứng tiếp theo. Mãi hai tuần sau khi bức tường được xây dựng ông mới viếng thăm Tây Berlin. 

Chỉ riêng thị trưởng Berlin đương nhiệmWilly Brandt đã cực lực phản đối, nhưng cuối cùng ông cũng bất lực trước việc xây bức tường bao quanh Tây Berlin chia cắt thành phố. 

Ngay trong năm đó, các tiểu bang Tây Đức đã thành lập Trung tâm Thu thập của Hành chánh Tư pháp Tiểu bang (Zentrale Erfassungsstelle der Landesjustizverwaltungen) tại Salzgitter để ghi nhận lại các vi phạm về quyền con người trên lãnh thổ Đông Đức. 

Vào ngày 16 tháng 8 năm 1961, Willy Brandt và 300.000 người dân Tây Berlin đã biểu tình trước Tòa thị chính Schöneberg.

Đồng Minh phía tây phản ứng rất chậm chạp: mãi 20 tiếng sau đó, lực lượng quân sự mới xuất hiện tại biên giới. 

Sau 40 tiếng một bức thư mới được gửi đến Ban chỉ huy quân sự Xô Viết Berlin, và mãi đến 72 tiếng sau đó, để cho đầy đủ về mặt hình thức, các phản đối mang tính ngoại giao của phe Đồng Minh phía tây mới được gửi đến Matx-cơ-va. 

Có nhiều tin đồn cho rằng trước đó Liên bang Xô Viết đã bảo đảm với phe Đồng Minh phía tây là Liên bang Xô Viết sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của họ ở Tây Berlin. 

Trên thực tế, từ kinh nghiệm của Cuộc phong tỏa Berlin, trong mắt của Đồng Minh phía Tây, thể chế của Tây Berlin luôn luôn bị đe dọa. 

Việc xây bức tường chính là tuyên ngôn bằng hiện vật của nguyên trạng đương thời, cái mà giờ đây chỉ được xây nền tảng bằng bê tông theo đúng nghĩa đen của nó. 

Có thể thấy rõ rằng Liên bang Xô Viết đã từ bỏ yêu cầu về một thành phố Berlin “tự do”, phi quân sự được thể hiện trong tối hậu thư của Khrushchyov năm 1958.

Phản ứng quốc tế năm 1961:

* “Một giải pháp không hay lắm nhưng vẫn tốt hơn chiến tranh hằng ngàn lần.” John F. Kennedy, Tổng thống Mỹ.

* “Người Đông Đức chận dòng người tỵ nạn lại, và cố thủ sau một bức màng sắt dầy hơn. Điều đấy không có gì là phạm pháp cả.” Harold Macmillan, Thủ tướng Anh.

Tuy vậy Tổng thống John F. Kennedy cũng đã đứng sát cạnh với “thành phố tự do” Berlin. Ông gửi thêm lực lượng quân sự gồm 1.500 người đến Tây Berlin và tái động viên tướng Lucius D. Clay. Vào ngày 19 tháng 8 năm 1961 Clay và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson đến thăm Berlin.

Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và Xô Viết xảy ra vào ngày 27 tháng 10 năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên đường Friedrich (Friedrichstraße) khi 10 chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối diện nhau ngay trước vạch ranh giới. 

Thế nhưng vào ngày hôm sau cả hai nhóm tăng đều được rút về, cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối cùng là đi đến một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Từ ngày 1 tháng 6 năm 1952 dân cư trong Tây Berlin không còn được phép tự do vào Đông Đức. Sau nhiều cuộc thương lượng kéo dài Hiệp định giấy thông hành (Passierscheinabkommen) được ký kết năm 1963, tạo điều kiện cho hằng trăm ngàn người Tây Berlin thăm viếng họ hàng trong phần phía đông của thành phố vào dịp cuối năm.



Cấu trúc hệ thống bảo vệ biên giới tại Berlin

Biển cảnh báo tại vùng biên giới (Vùng biên giới, chỉ được phép vào với giấy phép đặc biệt.)

Bức tường Berlin được hoàn thiện bằng nhiều công trình rộng khắp ở cạnh biên giới với Tây Đức. 

Cũng như phần biên giới nội Đức còn lại, Bức tường Berlin được củng cố với nhiều hệ thống rộng lớn bao gồm hàng rào kẽm gai, hào, vật cản xe tăng, đường tuần tra và tháp canh. 

Chỉ riêng chó đặc nhiệm đã có khoảng 1.000 con đã được sử dụng cho đến đầu thập niên 1980. 

Các hệ thống này được liên tục mở rộng qua nhiều thập niên. Các ngôi nhà gần bức tường đều bị giật sập, dân cư trong các ngôi nhà đó đã bị bắt buộc di chuyển sang nơi khác trước đấy. 

Ngay cả Nhà thờ Hòa giải trên đường Bernau (Bernauer Straße) cũng bị giật sập vào ngày 28 tháng 1 năm 1985. 

Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia trong mùa xuân 1989, hệ thống chung quanh Bức tường Berlin bao gồm:

* 41,91 km tường có chiều cao 3.60 m

* 58,95 km tường có chiều cao 3,40 m

* 68,42 km hàng rào bằng kim loại có chiều cao 2,90 m làm “vật cản trước”

* 161 km đường đi có hệ thống chiếu sáng

* 113,85 km hàng rào có hệ thống báo động

* 186 tháp canh

* 31 cơ sở chỉ huy
Lính Liên Xô đứng gác bức tường Berlin 1989

Trong tổng số 156,4 km biên giới với Tây Berlin, 43,7 km nằm trong thành phố Berlin và 112,7 km nằm trong tỉnh Potsdam. Có 63,8 km chạy qua khu vực có công trình xây dựng, 32 km xuyên qua vùng có rừng, 22,65 km qua đồng trống và 37,95 km nằm cạnh sông hay hồ.

Vào thời gian cuối, hệ thống bảo vệ biên giới bao gồm (từ hướng của Đông Đức):

* Tường bê tông hay rào sắt cao khoảng từ 2 đến 3 mét

* Dưới đất là hệ thống phát tín hiệu báo động khi chạm vào

* Rào sắt cao hơn đầu người có gắn kẽm gai và dây báo động

* Ngoài ra nhiều đoạn còn có chó đặc nhiệm, hào cản xe cơ giới và cản xe tăng, chỉ được hủy bỏ sau khi Tây Đức cho vay hằng tỉ đồng DM.

* Đường đi có chiếu sáng về đêm cho lực lượng biên phòng

* Tháp canh (tổng cộng 302 tháp vào năm 1989)

* Bức tường Berlin

* Trước đấy là vài mét lãnh thổ của nước Đông Đức.

Hệ thống bảo vệ biên giới này có chiều ngang tổng cộng khoảng từ 30 m đến khoảng 500 m (ở Quảng trường Potsdam) tùy thuộc vào địa hình. Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức.

Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia (Đông Đức), lực lượng biên phòng của khu vực biên giới với Tây Berlin bao gồm 11.500 quân nhân và 500 nhân viên dân sự. 

Ngoài bộ tham mưu đóng ở Berlin-Karlshorst lực lượng này bao gồm 7 trung đoàn đóng tại Berlin-Treptow, Berlin-Pankow, Berlin-Rummelsburg, Hennigsdorf, Groß-Glienicke, Potsdam-Babelsberg và Kleinmachnow cũng như là 2 trung đoàn tập huấn tại Wilhelmshagen và Oranienburg.

Mỗi trung đoàn có 5 đại đội biên phòng, ngoài ra là mỗi một trung đội của các binh chủng công binh, truyền tin, vận tải, súng cối và pháo binh, súng phóng lửa và một đội chó đặc nhiệm. 

Ngoài ra còn có thể có một đại đội thuyền hải quân.

Lực lượng canh phòng biên giới có hơn 567 xe bọc thép chở quân, 48 súng cối, 48 đại bác chống tăng, 114 súng phóng lửa cũng như là 156 xe bọc thép hay xe công binh và 2.295 xe cơ giới khác, 992 chó đặc nhiệm.

Vào một ngày bình thường có khoảng 2.300 quân nhân nhận nhiệm vụ canh phòng trực tiếp tại biên giới và vùng cận biên giới.

Tại Bức tường Berlin có 25 nơi qua biên giới, 13 cửa khẩu cho đường ô tô, 4 cho tàu hỏa và 8 cửa khẩu đường sông, chiếm 60% tất cả các cửa khẩu biên giới giữa Đông Đức và Tây Đức. Sau khi hai nước Đức thống nhất tiền tệ vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, toàn bộ các cửa khẩu biên giới nội địa Đức được hủy bỏ, một vài phần còn lại được giữ làm kỷ niệm
Một góc của bức tường


Bắt từ đầu thập niên 1970 với chính sách tiếp cận giữa Đông Đức và Tây Đức do Willy Brandt và Erich Honecker mở đầu, biên giới của hai quốc gia được mở rộng hơn một ít. 

Đông Đức bắt đầu cho phép đi du lịch dễ dàng hơn, đặc biệt là cho những nhóm người “phi sản xuất” như những người đang nghỉ hưu và cho phép công dân Tây Đức thăm viếng một cách đơn giản hơn từ những vùng gần biên giới. 

Một quyền tự do du lịch rộng rãi bị Đông Đức gắn liền với việc công nhận thể chế là một quốc gia độc lập và với yêu cầu trao trả các công dân Đông Đức đi du lịch nhưng không muốn trở về nữa, Tây Đức đã không muốn thỏa mãn các yêu cầu này vì hiến pháp không cho phép.

Trong tuyên truyền, Đông Đức đã gọi bức tường này cũng như toàn bộ việc bảo vệ biên giới là “bức tường thành chống phát xít” (antifaschistischer Wall), bảo vệ nước Đông Đức chống lại việc “di dân, xâm nhập, gián điệp, phá hoại, buôn lậu, bán tống bán tháo và gây hấn từ phương Tây“.

Lý do dẫn đến việc mở cửa bức tường, một mặt là vì các cuộc biểu tình tuần hành rộng lớn và yêu cầu tự do đi lại trong Đông Đức trước kia, mặt khác là vì việc “bỏ trốn Cộng hòa” (Republikflucht) liên tục của một số lớn người dân từ Đông Đức sang Tây Đức theo cách vòng qua nước ngoài như Hungary – nước đã mở cửa biên giới với Áo từ ngày 11 tháng 9, hay trực tiếp từ Tiệp Khắc từ đầu tháng 11, hoặc qua các đại sứ quán Đức tại các thủ đô của các quốc gia ở Đông Âu, trong đó là các đại sứ quán tại Praha và Warsaw.

Sau khi bản dự thảo cho Luật đi lại mới (Reisegesetz) được công bố vào ngày 6 tháng 11 vấp phải phản đối cực lực, và bị lãnh đạo Tiệp Khắc ngày càng phản đối mạnh mẽ bằng con đường ngoại giao về việc công dân Đông Đức bỏ đi thông qua lãnh thổ Tiệp Khắc, Bộ chính trị của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức quyết định thay đạo luật mới bằng một quy định về việc ra nước ngoài. 

Một bản dự thảo cho quyết định này, có thêm phần về việc xuất ngoại để thăm viếng, được Bộ chính trị xác nhận và chuyển tiếp đến Hội đồng Bộ trưởng. 

Tại đấy, theo như dự tính thì bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng cần được hoàn thành và thông qua ngay trong ngày, để có thể được công bố bắt đầu từ lúc 4 giờ ngày hôm sau qua hãng thông tấn xã nhà nước ADN. 

Thế nhưng trong quy trình thông qua đã có ý kiến phản đối từ Bộ Tư pháp. Song song với việc này, bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng được đưa ra bàn thảo vào buổi chiều ngày hôm đó trong Ủy ban Trung ương Đảng và được sửa đổi nhỏ. 

Phiên bản này của dự thảo được Egon Krenz trao cho thành viên của Bộ Chính trị Günter Schabowski, người vắng mặt trong các cuộc họp trước đó của Bộ chính trị và Ủy ban Trung ương Đảng, trước khi Schabowski tổ chức họp báo về kết quả của lần họp Ủy ban Trung ương Đảng.

Cuộc họp báo với Günter Schabowski trong Sở Báo chí/Trung tâm Báo chí Quốc tế trên đường Mohren (Mohrenstraße) số 38 tại Đông Berlin (hiện nay là một phần của Bộ Tư pháp Liên bang) được truyền hình trực tiếp và được nhiều người theo dõi, và chính là ngòi nổ mở cửa bức tường. 

Vào cuối cuộc họp báo vào lúc 18 giờ 57, gần như là việc phụ, Schabowski đọc từ tờ giấy được đưa cho ông bản dự thảo dành cho Hội đồng Bộ trưởng:
Có thể làm đơn xin du lịch cá nhân ra nước ngoài mà không cần có điều kiện như lý do xuất ngoại hay quan hệ họ hàng. 
Giấy phép sẽ được cấp trong thời hạn ngắn. Các ban phòng có thẩm quyền về hộ chiếu và khai báo cư trú của các cơ quan Công an Nhân dân cấp huyện trong nước Đông Đức có thể nhanh chóng cấp giấy thông hành ra nước ngoài thường xuyên theo như chỉ thị.  
Có thể liên tục ra nước ngoài tại tất cả các cửa khẩu biên giới giữa nước Đông Đức và Tây Đức.

- “Khi nào? Ngay lập tức?” Một nhà báo, Peter Brinkmann phóng viên thường trực của báo Bild tại Đông Đức, hỏi.

Schabowski (lục lọi trong chồng giấy tờ của ông): - “Theo như tôi biết – thì ngay lập tức, không chậm trễ”.

(Trích dẫn theo Hans-Hermann Hertle, Katrin Elsner trong quyển “Mein 9. November”, NXB Nicolai, Berlin,1999)

Dựa trên thông tin từ các đài truyền thanh và truyền hình của Tây Đức và Tây Berlin dưới tựa đề được diễn giải một cách sai lầm là “Bức tường đã mở!” hằng ngàn người dân Đông Berlin đã kéo đến các cửa khẩu và yêu cầu mở cổng. 

Vào thời điểm này, không những lực lượng biên phòng mà ngay cả các đơn vị kiểm tra hộ chiếu chịu trách nhiệm về thủ tục thuộc Bộ An ninh Quốc gia cũng hoàn toàn không được thông báo gì về vấn đề này. 

Dưới áp lực của số đông quần chúng, ngay sau 23 giờ, cửa khẩu biên giới tại đường Bornholmer (Bornholmer Straße) ở Berlin được mở đầu tiên mà không có lệnh hay chỉ đạo cụ thể, sau đấy là các cửa khẩu khác trong thành phố Berlin cũng như tại biên giới nội địa Đức. 

Ngay tối khuya đó, nhiều người đã theo dõi việc mở các cửa khẩu biên giới qua truyền hình và một phần đã bắt đầu ra đi. “Cơn bão” bắt đầu vào sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng 11 năm 1989, vì rất nhiều người vẫn còn đang ngủ khi biên giới được mở vào giữa đêm khuya.

Công dân Đông Đức đã được người dân Tây Berlin đón chào nồng nhiệt. 

Phần lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho uống bia không phải trả tiền và trên đại lộ Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp còi diễu hành, những người hoàn toàn xa lạ ôm choàng lấy nhau. 

Khi có thông tin về việc bức tường được mở cửa, Quốc hội Liên bang đã tạm ngừng phiên họp về ngân sách quốc gia và các nghị sỹ đã tự phát hát quốc ca.

Cho đến tháng 9 năm 1961, chỉ riêng từ lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ sang Tây Berlin, ngoài ra là khoảng 200 lần chạy trốn thành công của tổng cộng 400 người. 

Mãi mãi không quên là các bức ảnh nổi tiếng chụp những người chạy trốn được thả xuống từ các ngôi nhà lân cận bằng dây làm từ tấm vải trải giường hay của người cảnh sát biên phòng trẻ tuổi Conrad Schumann đang chạy qua hàng rào kẽm gai trên đường Bernauer (Bernauer Straße).

Thông tin về con số những người chết tại Bức tường Berlin chứa nhiều mâu thuẫn và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa chắc chắn, năm 2000 Viện công tố Berlin cho biết con số có thể minh chứng được của những nạn nhân đã chết vì bạo lực tại Bức tường Berlin là khoảng 100 người. 

Từ tháng 8 năm 2005 một dự án được Hội Bức tường Berlin (Verein Berliner Mauer) cùng với Trung tâm nghiên cứu lịch sử đương đại Potsdam tiến hành với mục đích điều tra con số chính xác của những nạn nhân bức tường và lịch sử của những nạn nhân này. 

Theo một công bố vào ngày 8 tháng 8 năm 2006, 125 người chết trong số 268 vụ việc điều tra đã có thể được minh chứng rõ ràng, 62 vụ việc có trong nhiều danh sách nạn nhân có thể được loại bỏ vì không đúng và 81 vụ việc cần phải được tiếp tục điều tra thêm. 

Một nửa nạn nhân đã chết trong vòng 5 năm đầu tiên sau khi bức tường được xây dựng, khoảng 2/3 trong thời gian cho đến năm 1969, phần lớn nạn nhân là nam giới dưới 30 tuổi. 

Tiếp theo sau công bố này tranh cãi đã bùng nổ gay gắt về con số nạn nhân và về các phương pháp điều tra những vụ việc đã xảy ra tại bức tường. 

Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 (Arbeitsgemeinschaft 13. August), tổ chức với một danh sách có tổng cộng 262 nạn nhân, cho rằng dự án này đã cố tình “tính toán” số nạn nhân nhỏ đi vì lý do chính trị. 

Ngược lại Cộng đồng Ngày 13 tháng 8, tổ chức không có chuyên gia về lịch sử tham gia vào trong các điều tra, bị cho rằng đã đưa vào trong danh sách nhiều trường hợp không rõ ràng, không được minh chứng có liên quan trực tiếp đến các vụ việc xảy ra tại biên giới hay ngay cả những vụ việc mà hiện nay đã bị phản chứng.

Nạn nhân đầu tiên của Bức tường là Ida Siekmann, người đã tử nạn khi nhảy từ cửa sổ của một căn nhà trên đường Bernau (Bernauer Straße) xuống vào ngày 22 tháng 8 năm 1961

Vào ngày 24 tháng 8 năm 1961 các phát súng đầu tiên đã bắn chết Günter Litfin, 24 tuổi, trong khi anh cố chạy trốn ở gần Nhà ga trên đường Friedrich. 

Một năm sau khi tường Berlin được xây dựng, Peter Fechter, khi đó 18 tuổi, cùng bạn là Helmut Kulbeik quyết định chạy trốn khỏi nước Đông Đức để đến Tây Đức, chỉ cách nhau một bức tường cao gần 2m có dây thép quấn ở trên. 

Trưa ngày 17 tháng 8 năm 1962, họ trốn trong xưởng của một thợ gỗ để theo dõi các lính biên phòng Đông Đức.


Khi cả 2 người cùng chạy ra và leo lên tường, họ bị lính biên phòng Đông Đức cùng nhắm bắn. 

Kulbeik nhảy được qua bên phía kia, nhưng Fechter bị bắn trúng vào lưng trước sự chứng kiến của nhiều nhân chứng, cậu rơi xuống lại bên phía đông bức tường, vướng trong dây thép gai, Fechter khóc và kêu cứu, nhưng lính Đông Đức bỏ mặc cậu. 

Sau khi bị để cho chảy máu đến chết trong 1 giờ đồng hồ, tiếng kêu khóc nhỏ dần và Fechter chết trong lúc nhân dân Tây Đức thành lập một cuộc biểu tình hàng trăm người ở bên kia bức tường và hét to “Lũ giết người!”.

Trong lúc người phía Tây không thể sang cứu do súng chĩa vào họ, một sĩ quan Mỹ ở Tây Đức cũng nhận được lệnh của thượng cấp “không được hành động”, phía Đông thì chỉ ra dọn xác chết cả giờ đồng hồ sau đó vì sợ bốc mùi thối.

Sau khi Peter Fechter chết, mọi người mới bắt đầu tỏ ra thương tiếc, nhưng đa phần chỉ có phía Tây tỏ ra thương tiếc. Tỉnh trưởng Tây Berlin ông Herbert Frahm (Willy Brandt) đi đặt vòng hoa, mặc dù họ đã chẳng làm gì để cứu. Sau khi Đông Đức sụp đổ, một nơi tưởng niệm được lập ra ngay tại nơi Fechter bị bỏ mặc đến chết.


Trong năm 1966 hai trẻ em 10 và 13 tuổi đã bị bắn chết bởi 40 phát súng. 

Nạn nhân cuối cùng bị bắn chết là Chris Gueffroy vào ngày 6 tháng 2 năm 1989.
Bức tường Berlin

Tháng 7-1965, Tây Đức phát hành một con tem diễn tả cảnh người Đông Đức chạy sang miền Tây: 

Name:  01.jpg
Views: 131
Size:  97.5 KB

Đây là một bì thư dán con tem trên gửi từ Tây Đức đi Frankfurt đúng ngày phát hành: 

Name:  02.jpg
Views: 130
Size:  47.1 KB


Con tem được hủy hoàn toàn theo nghĩa đen; dấu "Zuruck" (Trả lại người gửi) được đóng lên mặt trước. 

Name:  03.jpg
Views: 128
Size:  58.8 KB

Mặt sau có hai dấu "Không thấy phố ở Frankfurt " và "Tìm không được."

Nước Đức có hai Frankfurt, Frankfurt trên sông Main thuộc về Tậy Đức, thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, thành phố này được dự định chọn làm thủ phủ Tây Đức, nhưng sau đó lại chọn Bonn.
Còn Frankfurt trên sông Oder thuộc về Đông Đức, khoảng những năm 1980 tại Việt Nam có cuốn tiểu thuyết "Mùa xuân trên sông Ô đe" được dịch từ tiếng Nga, sông Ô đe (Oder) là con sông chảy qua thành phố Frankfurt/Oder.


Hãy phá đổ bức tường này” (Tear down this wall) là bài diễn văn nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan tại Cổng Brandenburg, bên cạnh Bức tường Berlin vào ngày 12 tháng 6 năm 1987. 

Ông đã thách thức nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Sergeyevich Gorbachyov hãy phá bỏ Bức tường Berlin, để biểu hiện sự ước muốn của Gorbachev trong việc gia tăng sự tự do tại khối Xô Viết. Hoa Kỳ luôn xem Xô Viết phải có trách nhiệm phá vỡ Bức tường Berlin, vì tất cả quyền hành trong chính phủ Đông Đức đều cho Xô Viết kiểm xoát.
General Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization, come here to this gate. Mr. Gorbachev, open this gate. Mr. Gorbachev, tear down this wall!
"Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông muốn tìm hòa bình, nếu ông muốn tìm thịnh vượng cho Liên Xô và Đông Âu, nếu ông muốn tìm giải phóng, hãy đến tại cổng này. Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá đổ bức tường này!"
Có nhiều tranh cãi về sức ảnh hưởng về sự thách thức Tổng thống Reagan mang đến, có nguồn cho rằng bài diễn văn là điểm bắt đầu cho sự thay đổi và sự sụp đổ Bức tường Berlin, những nguồn khác thì cho rằng bài diễn văn của Reagan chỉ đơn giản cùng chung một thời điểm. 

Tuy nhiên, không ai nghi ngờ sự chống đối cương quyết của Reagan với giới lãnh đạo Xô Viết là một yếu tố chính trong việc lật đổ các chính thể cộng sản, điều này đã xảy ra trong hai năm ngay sau khi ông rời nhiệm sở tại Nhà trắng.

Vào ngày 18 tháng 10 năm 1989, nhà lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker từ chức. 

Các lãnh đạo mới của Đông Đức nới lỏng hạn chế cho dân Đông Đức rời khỏi quốc gia, ngay lập tức đánh dấu sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11, 1989. 

Bức tường sụp đổ trong đêm thứ Năm ngày 9 tháng 11, rạng sáng ngày thứ Sáu ngày 10 tháng 11 năm 1989,sau hơn 28 năm

Bức tường chính thức được phá vào ngày 13 tháng 6 năm 1990. Nhiều người tham gia với sự khởi đầu của 300 người lính biên phòng RDA và 600 lính Bundeswehr. Nhiều thiết bị khác như 13 xe máy ủi, 65 chiếc cần cẩu và 175 xe camion đã san bằng bức tường phân đôi Berlin vào ngày 30-11, để lại 6 phần với mục đích tưởng niệm.

Sau khi Cộng hoà Dân chủ Đức giải tán tháng 10 năm 1990, vợ chồng Honecker ở với gia đình vị mục sư Lutheran Uwe Holmer. 

Sau đó Honecker sống trong một bệnh viện quân sự Liên xô gần Berlin trước khi bỏ trốn với Margot Honecker tới Moscow, để tránh bị truy tố vì các trách nhiệm tội ác thời Chiến tranh Lạnh. 

Sau sự sụp đổ của Liên xô tháng 12 năm 1991, Honecker vào tị nạn trong đại sứ quán Chile tại Moscow, nhưng đã bị chính phủ Yeltsin trục xuất về Đức năm 1992. 

Sau khi thống nhất nước Đức, các vụ án xử những người ra lệnh bắn kéo dài cho đến mùa thu năm 2004. 

Theo nhiều dự tính, khoảng 75.000 người đã phải ra tòa án trong Đông Đức vì tội chạy trốn, tội mà theo điều 213 Bộ Luật hình sự nước Đông Đức có thể lãnh án đến 8 năm tù, những ai giúp đỡ chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân.
Thuộc vào trong số những người chịu trách nhiệm bị xử án là Erich Honecker, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và người kế nhiệm Egon Krenz, các thành viên của Hội đồng Quốc phòng Erich Mielke, Willi Stoph, Heinz Keßler, Fritz Streletz và Hans Albrecht, bí thư tỉnh Suhl, cũng như là một vài tướng lãnh như cựu chỉ huy lực lượng biên phòng (1979-1990), đại tướng Klaus-Dieter Baumgarten. 

Tổng cộng có 35 người được trắng án, 44 người bị tù treo và 11 người lãnh án tù, trong đó Albrecht, Streletz và Kessler cũng như là Baumgarten đã lãnh án từ 4 năm 6 tháng đến 7 năm 6 tháng tù giam. Trong tháng 8 năm 2004 Hans-Joachim Böhme và Werner Lorenz, cựu thành viên của Bộ Chính trị, đã nhận án treo từ Tòa án Berlin (Landgericht Berlin).

Ông Honecker bị chính phủ Đức buộc tội liên quan tới những cái chết của 192 người Đông Đức tìm cách bỏ trốn trái phép sang Cộng hoà Liên bang Đức. 

Tuy nhiên, khi phiên toà chính thức mở ra đầu năm 1993, Honecker đã được thả ngày 13 tháng 1 vì sức khoẻ kém. Ông sang Chile sống cùng con gái Sonja, cùng người chồng người Chile Leo Yáñez, và con trai Roberto. Ông chết trong cảnh lưu vong vì ung thư gan tại Santiago ngày 29 tháng 5 năm 1994.

Honecker sinh tại Max-Braun-Straße ở Neunkirchen, hiện là Saarland, con trai một người thợ mỏ, Wilhelm và Caroline Catharina Weidenhof. 

Ông gia nhập Liên đoàn Cộng sản Thanh niên Đức (KJVD) năm 1926 và giới trẻ của Đảng Cộng sản Đức (KPD) KPD năm 1929. Từ 1928 tới 1930 ông làm thợ lợp nhà, nhưng không qua được bậc học nghề. Sau đó ông sang Moscow để học tại Trường Quốc tế Lenin và trong suốt cuộc đời còn lại luôn làm một chính trị gia chuyên nghiệp.

Ông quay trở lại Đức năm 1931 và bị bắt giữ năm 1935, hai năm sau khi phe Phát xít lên nắm quyền. Năm 1937, ông bị kết án mười năm tù vì các hoạt động cộng sản và tiếp tục ở tù cho tới khi Thế chiến II chấm dứt. 

Sau khi chiến tranh kết thúc, Honecker nối lại các hoạt động trong đảng dưới sự lãnh đạo của Walter Ulbricht. 

Năm 1946, Honecker trở thành một trong những thành viên đầu tiên của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands, SED), được hình thành sau sự hợp nhất của KPD và Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) trong vùng chiếm đóng Xô viết của Đức.

Sau chiến thắng của SED trong cuộc bầu cử tháng 10 năm 1946, Honecker trở thành một những lãnh đạo đầu tiên của SED trong nghị viện Đông Đức thời hậu chiến, Đại hội Nhân dân Đức (Deutscher Volkskongress). 

Cộng hoà Dân chủ Đức được tuyên bố thành lập ngày 7 tháng 10 năm 1949 với việc thông qua hiến pháp mới, thành lập một hệ thống chính trị giống với hệ thống chính trị Liên xô. Năm 1958, ông đã là một thành viên đầy đủ của Bộ chính trị.

Năm 1961, Honecker, với tư cách thư ký Ủy ban Trung ương về các vấn đề an ninh, chịu trách nhiệm xây dựng Bức tường Berlin. 

Năm 1971, ông khởi động cuộc đấu tranh quyền lực với sự hỗ trợ của Liên xô, dẫn đến việc hay thế Walter Ulbricht trong chức vụ Thư ký thứ nhất Uỷ ban Trung ương SED và chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. 

Năm 1976, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (Vorsitzender des Staatsrats der DDR) và trên thực tế là lãnh đạo quốc gia.

Dưới thời Honecker, Cộng hoà Dân chủ Đức tiến hànhchương trình “chủ nghĩa xã hội tiêu dùng,” dẫn đến sự cải thiện đáng kể tiêu chuẩn sống vốn đã cao trong các nước thuộc khối Đông Âu. 

Ông đặt chú ý nhiều vào sự sẵn có của hàng tiêu dùng, và việc xây dựng nhà cửa được đẩy nhanh, với lời hứa của Honecker “đặt vấn đề nhà cửa như một vấn đề của xã hội.” 

Tuy thế, dù có tiêu chuẩn sống được cải thiện, sự bất đồng nội bộ không được khoan dung. Khoảng 125 công dân Đông Đức đã bị giết hại trong giai đoạn này khi tìm cách vượt biên trái phép vào Tây Đức hay Tây Berlin.

Về quan hệ nước ngoài, Honecker từ bỏ mục tiêu thống nhất nước Đức và chấp nhận một quan điểm “phòng thủ” của ý thức hệ Abgrenzung (phân chia ranh giới). Ông kết hợp sự trung thành với Liên xô cùng sự mềm dẻo với tình trạng giảm căng thẳng, đặc biệt trong quan hệ với Tây Đức. 

Tháng 9 năm 1987, ông trở thành lãnh đạo nhà nước đầu tiên của Đông Đức viếng thăm Tây Đức.

Cuối thập niên 1980, lãnh đạo Xô viết Mikhail Gorbachev đưa ra các cải cách “glasnost” và “perestroika”, để tự do hoá chủ nghĩa Cộng sản. Tuy nhiên, Honecker và chính phủ Đông Đức từ chối áp dụng các cải cách tương tự tại Cộng hoà Dân chủ Đức.

Theo thông báo Honecker đã nói với Gorbachev: “Chúng tôi đã tiến hành cải tổ của mình, chúng tôi chẳng có gì phải cơ cấu lại.” Ông còn cho rằng: “Bức Tường sẽ đứng trong 50 thậm chí 100 năm, nếu các lý do cho nó không được giải quyết.” (Berlin, 19 tháng 1 năm 1989) (Nguyên văn: “Die Mauer wird in 50 und auch in 100 Jahren noch bestehen bleiben, wenn die dazu vorhandenen Gründe noch nicht beseitigt sind”)

Tuy nhiên, khi phong trào cải cách lan rộng khắp Trung và Đông Âu, những cuộc tuần hành lớn chống chính phủ Đông Đức diễn ra, đáng chú ý nhất là cuộc tuần hành thứ 2 năm 1989 tại Leipzig. 

Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự, các đồng chí trong Bộ chính trị của Honecker kết luận cần phải thay thế ông. Honecker khi ấy đã già và ốm yếu bị buộc phải từ chức ngày 18 tháng 10 năm 1989, và được thay thế bởi Egon Krenz.
Bức tường Berlin ở Đức sau khi bị phá đổ năm 1989 đã không còn dấu vết. Công trình Đường mòn Bức tường Berlin đã hoàn thành để gợi lại một thời kỳ lịch sử của nước Đức. Dọc theo tuyến đường là những biển báo chỉ dẫn các di tích lịch sử.

Theo chính trị gia M.Cramer tại Berlin và cũng là người đưa ra ý tưởng xây dựng đường mòn:
Bức tường Berlin là một phần của quá khứ và chúng ta không thể xóa bỏ nó. Đó không chỉ là lời nhắc nhở về sự chia cắt mà còn là ký ức về chuyện bức tường đã bị phá đổ một cách hòa bình như thế nào”.
Viện bảo tàng Bức tường Berlin tại Checkpoint Charlie ngay tại biên giới nội địa Đức ngày trước được nhà sử học Rainer Hildebrandt khai trương trong năm 1963 và do Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 chịu trách nhiệm vận hành. 

Viện bảo tàng là một trong những viện bảo tàng có du khách đến tham quan nhiều nhất của Berlin. Viện trưng bày hệ thống bảo vệ biên giới, tư liệu về các cuộc chạy trốn thành công và các phương tiện đã được sử dụng để bỏ trốn như khinh khí cầu, ô tô hay một tàu ngầm nhỏ. Giám đốc hiện nay là góa phụ của người sáng lập, bà Alexandra Hildebrandt.

Khu tưởng niệm Bức tường Berlin tại đường Bernau được hoàn thành vào cuối thập niên 1990 bao gồm đài tưởng niệm, Trung tâm tư liệu Bức tường Berlin và ngôi nhà thờ hòa giải.

Đài tưởng niệm xuất phát từ một cuộc thi đua do Liên bang tổ chức và được khánh thành vào ngày 13 tháng 8 năm 1998 sau nhiều cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài. 

Trung tâm tư liệu do một hiệp hội vận hành và được khai trương vào ngày 9 tháng 11 năm 1999. 

Nhà thờ hòa giải của Cộng đồng hòa giải Tin Lành được khánh thành vào ngày 9 tháng 11 năm 2000 và được xây dựng trên nền móng của Nhà thờ hòa giải đã bị giật sập trong năm 1985.


Phần còn lại của bức tường


Các con số lấy từ Wikipedia, tài liệu được tổng hợp từ nhiều nguồn.