Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồng Quân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồng Quân. Hiển thị tất cả bài đăng

01 tháng 6 2015

Tiệp Khắc 1968 và Hiệp ước Warsaw

Názor čtenáře Protiproudu na odvysílaný dokument Rossija 1
Người đọc quan tâm các tài liệu lịch sử phát sóng trên Truyền hình Nga Rossia 1
Rok 1968 a Varšavská smlouva.
1968 và Hiệp ước Warsaw.
Foto: Srpen 1968
Autor: Josef Koudelka
https://scontent-sjc2-1.xx.fbcdn.net/hphotos-xtf1/l/t31.0-8/11393608_559420834196786_7321614139152998550_o.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9
Những biến động chính trị diễn ra ở Tiệp Khắc từ tháng 4 đến tháng 8/1968.
Từ 1/1968, bí thư đảng bộ Xlôvakia (Slovakia) đã gạt Nôvôtny (A. Novotný) để nắm chức vụ bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp Khắc. Đupchêch (A. Dubcek) đưa ra “Chương trình hành động” đi ngược đường lối của Đảng Cộng sản, đề xướng chủ trương “dân chủ hoá”, thực hiện chế độ nhiều đảng, xoá bỏ kiểm duyệt báo chí, giải tán lực lượng dân quân tự vệ, tự do hội họp, cho phép người dân đi lại với phương Tây, không tham dự cuộc họp của tổ chức Hiệp ước Vacsava (7/1968).

Nhiều cuộc biểu tình nổ ra ở các thành phố ủng hộ Đupchêch. Đupchêch cùng với ê kíp cải cách của mình: Ota Sik, Eduard Goldstuke, Giri Pelikan và Zdenek Mlinar. Một người trong số họ là Zdenek Mlinar đã có tình bạn tốt với Gorbachev trong thời gian học đại học Tổng hợp Matxcova, đưa ra khẩu hiệu "Chủ nghĩa xã hội mang mang diện mạo con người". Họ đã cố gắng cải cách nền kinh tế bằng cách đưa vào áp dụng những yếu tố thị trường.

Dần dần phong trào đối lập đạt được những hình thái căn bản. Các thành viên phong trào không chỉ nói về đổi mới chủ nghĩa xã hội mà đã bắt đầu nói về thay đổi chế độ nhà nước. Khách quan mà nói, hoạt động của phe đối lập có tính chất chống Liên Xô, bởi vì sự có mặt về quân sự của Liên Xô và tư cách thành viên của Tiệp Khắc trong tổ chức Hiệp ước Varsava được xem là trở ngại chính đối với tự do phát triển đất nước. Lực lượng chủ công của phe đối lập là giới thanh niên sinh viên và tầng lớp có học thức ở thành thị. Mùa hè năm 1968 các sự kiện ở Praha lên đến đỉnh điểm, các cuộc biểu tình đòi thay đổi chính quyền diễn ra trong thành phố.

Phái đối lập do Huxăc (Gustav Husák, 55 tuổi, người Slovac) đứng đầu yêu cầu sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô và Khối Vacsava. Ngày 21 tháng 8 Ban lãnh đạo Hiệp ước Vacsava thông qua quyết định can thiệp tập thể vào Tiệp Khắc.
Lý do can thiệp là thực hiện nghị quyết cuộc họp các đảng cộng sản CHDC Đức, Liên Xô, Ba Lan, Hungary và Bungary có sự tham gia của nhiều vị lãnh đạo đảng cộng sản Tiệp Khắc tổ chức tại Bratislava và lời kêu gọi “cứu nguy sự nghiệp chủ nghĩa xã hội” của một số thành viên chính phủ Tiệp Khắc. Và kết quả là lực lượng quân sự của CHDC Đức, Ba Lan, Hungary và Bungary tiến vào lãnh thổ Tiệp Khắc nhưng quân đội Liên Xô là lực lượng nòng cốt.

Chiến dịch Danube năm 1968 của Lực lượng đặc nhiệm ưu tú Spetsnaz GRU - Liên Xô ở Tiệp Khắc bắt đầu sau khi các nước thành viên Hiệp ước Warsaw (Vacsava) quyết định đưa quân vào nước này. Chiếc máy bay chở đội đặc nhiệm yêu cầu sân bay của thủ đô Praha cho phép hạ cánh khẩn cấp do động cơ trục trặc. Sau khi máy bay hạ cánh, các binh sĩ Spetsnaz trong chớp mắt chiếm sân bay, theo tài liệu giải mật của Bộ tổng tham mưu Nga, toàn bộ chiến dịch diễn ra trong 9 phút 21 giây.

      
    Курочкин Константин Яковлевич
    Начальник ОГ
 Кукушкин Алексей Васильевич
Начальник штаба ОГ
   Хохлушин Николай Николаевич    Голубков Алексей Тихонович
Sau báo cáo đã chiếm thành công sân bay, chỉ huy Liên Xô nhanh chóng triển khai tại sân bay sư đoàn dù để hỗ trợ Spetsnaz. Trong thời gian đó, các nhóm Spetsnaz tới Tiệp Khắc chiếm các tòa báo, nhà ga xe lửa, bưu điện - ngay tức thì một cách êm thấm. Sau khi chiếm tòa nhà chính quyền, chính phủ Tiệp Khắc được các binh sĩ Spetsnaz đưa về Moskva. Trong vòng 36 giờ, quân đội các nước Hiệp ước Vacsava đã hoàn toàn kiểm soát lãnh thổ Tiệp Khắc.
Tướng L.N. Gorelov và Đại Tá A.N. Kalyadin tóm tắt hạ cánh.
Một trong những người tham gia chiến dịch là Trung tá Yuri Struzhnyak. Vào thập niên 1990, ông nhớ lại: "Với chúng tôi việc chiếm sân bay không phải nhiện vụ lạ lẫm. Chúng tôi được huấn luyện làm điều này, chúng tôi được trang bị tốt, bởi vậy vào lúc đó không có hành động nào thừa. Chúng tôi lo lắng hơn về việc toàn bộ chiến dịch Danube sẽ diễn ra như thế nào. Với các hành động của mình, chúng tôi cảm thấy hoàn toàn yêu tâm. Chiến dịch diễn ra đúng kế hoạch và hầu như chẳng ai bị thương".

Cựu điệp viên Đức, Otto Skorzeny, người giám sát tình hình tại Tiệp Khắc, đã gọi chiến dịch chiếm sân bay là "xuất sắc".
Bức ảnh chụp thời điểm quân lính khối Warszawa chiếm trung tâm phát thanh tại Praha
Khi quân lính tiến vào Praha, những người dân Tiệp Khắc đã xuống đường để tuần hành biểu tình phản đối. Không hề có một cuộc đụng độ quân sự nào, chỉ có những cuộc tuần hành của người dân Tiệp Khắc bao gồm đủ các thành phần trí thức, thanh niên, sinh viên, công nhân, thậm chí có cả một sinh viên đã tự thiêu tại quảng trường để phản đối.

Lúc cả Tiệp Khắc thức cùng đêm trắng để bảo vệ đất nước của mình, Josef Kouldelka một kỹ sư hàng không người Tiệp, có sở thích chụp ảnh cũng thấy mình cần phải làm một điều gì để bảo vệ "nền dân chủ" của đất nước mình. Josef Kouldelka đã cùng chiếc máy ảnh ghi lại những khỏanh khắc trong suốt một tuần vào mùa xuân năm 1968. Đã có 5.000 bức ảnh được ông ghi lại.

Josef Koudelka trước đó chỉ coi việc chụp ảnh là một thú vui trong thời gian rảnh rỗi, chưa bao giờ ông nghe tới thuật ngữ Photojournalism hay được nhìn thấy những tạp chí như Life hay Paris March. Sau này như ông hồi tưởng lại “Đối với tôi, lúc đó điều quan trọng là tôi phải chụp lại những gì mà tôi là một phần trong đấy”.

Trong suốt tuần lễ, ông đã sử dụng chiếc máy ảnh Exakta của mình, cùng với những cuộn phim treo ở trên vai, được cắt ra từ hộp phim nhựa lớn dành cho quay phim mà ông đã mua rẻ từ một người bạn. “Tôi thường xuyên phải chạy về nhà để thay phim, tôi luôn nghĩ là mình đã bỏ lỡ mất điều gì đó quan trọng. Có một lần, điều đấy đã cứu sống tôi. Trong lúc tôi đang thay phim tôi nghe thấy một tiếng nổ lớn và rất nhiều người đã chết trước đài phát thanh”.

Josef Koudelka đã chụp những bức ảnh để đời với sự hiểm nguy khi quân lính khối Warsawa đuổi theo ông, ông đã phải núp vào giữa những người biểu tình để trốn. ‘Bây giờ khi tôi xem lại những bức ảnh, tôi không thể tin là tôi đã chụp chúng. Magnum cũng đã không thể tin đấy là công việc của một nhiếp ảnh gia duy nhất. Tôi đã ở khắp mọi nơi bởi vì tất cả mọi nơi khi tôi nhìn vào trong bảy ngày đó đều có sẵn một bức ảnh đang đợi tôi. Tôi thậm chí không có cả thời gian để suy nghĩ về sự nguy hiểm’.

Những bức ảnh của Koudelka đã ghi lại sự phẫn nộ, cơn giận dữ khổng lồ, sự bất lực của những người dân. Những bức ảnh sau sự kiện Mùa xuân 1968 đã được lén chuyển ra khỏi Tiệp Khắc tới Magnum và nhanh chóng phơi bày cho thế giới thấy "sự thật" về 7 ngày mùa xuân năm 1968.

Từ khi sự kiện xảy ra trong nhận thức của nhiều người hình thành một định kiến theo truyền thông phương Tây là cuộc "cách mạng" non trẻ đã bị đàn áp bởi hành động diệt chủng của xe tăng xô viết và Liên Xô là tên đao phủ tàn bạo đã giết chết nền dân chủ. Rằng cuộc cách mạng đã bị dìm trong biển máu, điều đó chỉ đúng một phần, phe "cách mạng" đã đầu hàng ngay từ đầu, ngay trong ngày 21/8/1968, phong trào của Đupchêch đã tắt.
Vào tháng Tám năm 1968 tại Prague. The Major Shevchenko NF - Đầu tiên trái - Hành động Trưởng Hoạt động của Bộ đội 7. Airborne Division.
Trên thực tế không hề xảy ra trận đánh nào. Quân đội Tiệp Khắc hoàn toàn không kháng cự dù họ có 200 nghìn người. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng, quân đội Tiệp Khắc án binh bất động và giữ thái độ trung lập trong suốt thời gian diễn ra sự kiện.
Bình minh ngày 21 tháng 8 năm 1968 Sau khi hạ cánh tại Ruzyně. Tại phía sau, chỉ huy của lực lượng Vệ binh thứ 7. Airborne Division Tướng LN Gorelov
Trong dân chúng, chủ yếu ở Praha, Bratislava và các thành phố lớn, xuất hiện sự bất bình đối với tình hình. Sự chống đối của dân chúng thể hiện bằng cách lập chướng ngại vật trên đường di chuyển của các đoàn xe tăng, một số đài phát thanh bí mật, rải truyền đơn kêu gọi nhân dân Tiệp Khắc và binh sĩ các nước trong liên minh Vacsava. Lác đác xảy ra các cuộc tấn công vũ trang như ném chất cháy vào xe tăng xe bọc thép, phá phương tiện thông tin liên lạc và xe cộ, triệt hạ tượng đài chiến sỹ Xô Viết ở một vài thành phố và làng mạc.
Cùng với các quân nhân của 22 DNVVN Quân đội nhân dân Bungari trong vùng lân cận của sân bay. Tháng 8 năm 1968, Tiệp Khắc.
Đã có những đoạn phim tư liệu nổi tiếng: đám đông những người bảo vệ "cách mạng" “dũng cảm” chặn xe tăng, nhiều sỹ quan tham gia sự kiện ở Tiệp Khắc vẫn nhớ là đã có lệnh không được nổ súng: “Vì vậy họ nằm bò ra dưới xe tăng vì biết chắc là chúng tôi sẽ dừng lại – các sỹ quan nhớ lại - Họ có thể nhổ vào mặt , thậm chí bắn vào lưng chúng tôi. Còn chúng tôi lại chẳng thể làm gì, ngay cả đấm vào mõm họ cũng không thể - mệnh lệnh là mệnh lệnh”.

Xin nói thêm là quân đội CHDC Đức hành động cứng rắn hơn nhiều: họ vẽ một vòng tròn và cảnh cáo nếu có kẻ nào ngu ngốc vượt qua đường kẻ sẽ bị tiêu diệt. Không hiểu vì sao chẳng ai chê trách người Đức trong sự kiện ở Tiệp Khắc.
Đến mùa thu năm 1968 đảng cộng sản đã kiểm soát được tình hình ở Tiệp Khắc. Ông Ludvic Svoboda (73 tuổi, người Séc) trở thành chủ tịch mới của đảng, còn bí thư thứ nhất BCH trung ương đảng CS Tiệp Khắc là Huxăc. Họ là đại diện cho thế hệ già hơn trong đảng cộng sản.
Trong khi đó hậu quả của việc đưa quân đội vào Tiệp Khắc thể hiện rất rõ rệt và người ta sẽ còn la ó Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa rất lâu. Việc can thiệp vào Tiệp Khắc làm cho những người biết suy nghĩ tức giận, trong số đó có cả những người có quan điểm cộng sản xã hội chủ nghĩa cánh tả trong phe xã hội chủ nghĩa và trên toàn thế giới. Đã có những nhóm bất đồng chính kiến phát biểu phản đối ở Matxcova liên quan đến tình hình ở Tiệp Khắc. Dấu hiệu đáng lo ngại nhất đối với Liên Xô là thái độ của Rumani từ chối ủng hộ hành động ở Tiệp Khắc. Đây là bằng chứng rõ ràng về sự bất hoà trong khối Hiệp ước Vacsava.
Sau khi thực hiện nhiệm vụ chiến đấu - cuộc diễu hành đầu tiên của 7 Guards Airborne Division tại sân bay Ruzyne. Phó tư lệnh sư đoàn Đại Tá AS Kite báo cáo Tướng LN Gorelov trên bộ phận xây dựng sẵn sàng cho các cuộc diễu hành. Tiệp Khắc, tháng 9 năm 1968
Ngày 12/9/1968 Anbani rút ra khỏi khối Hiệp ước Vacsava. Sự kiện ở Tiệp Khắc làm cho ban lãnh đạo CHND Trung Hoa nghĩ rằng Liên Xô có ý định lặp lại “kịch bản Tiệp Khắc” ở Trung Quốc dười chiêu bài giúp đỡ cuộc đấu tranh phe phái trong lãnh đạo Trung Quốc.
Báo cáo về sự sẵn sàng của Tư lệnh các Lực lượng Nhảy Dù của Liên Xô tối cao Anh hùng Liên Tướng Margelov VF
Những đảng cộng sản lớn ở Tây Âu (Pháp, Ý, Tây Ban Nha) trước đây cố gắng phối hợp cương lĩnh của mình với ý kiến của các đảng cầm quyền Đông Âu đã quay ra phê phán hành động của Liên Xô và đoạn tuyệt với quan điểm chính trị tư tưởng của các nước khối Vacsava. Các đảng cộng sản Nam Tư, Nhật Bản và cả Trung Quốc cũng lên tiếng phê phán hành động Liên Xô.
Cuộc diễu hành trọng thể.
Còn một hậu quả nữa là người ta ngày càng nghi ngờ đối với các đảng viên trẻ được đề bạt và thế là xuất hiện tầng lớp “lão làng Kremli”.
Tư lệnh các Lực lượng Nhảy Dù, Tướng Margelov VF trong cuộc diễu hành.
Xu hướng chuyển giao quyền lực “theo vòng tròn” trong phạm vi những người cùng một thế hệ những năm chiến tranh càng rõ hơn. Điều đó phá vỡ tiến trình đổi mới cán bộ và làm lão hoá tầng lớp lãnh đạo cao cấp trong đảng.

Ngoài việc trấn áp bọn phản cách mạng, cuộc can thiệp này còn có một khía cạnh nữa. Trước năm 1968 quân đội Liên Xô không có mặt ở Tiệp Khắc. Bị ràng buộc bởi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, Liên Xô không thể triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật tại đó. Ngày 16 tháng 10/1968 chính phủ Liên Xô và Tiệp Khắc ký thoả thuận về điều kiện có mặt tạm thời quân đội xô viết trên lãnh thổ Tiệp Khắc “để đảm bảo an ninh của phe xã hội chủ nghĩa”. Thoả thuận này cho phép bố trí tên lửa ở Tiệp Khắc.
Một năm sau, mùa xuân năm 1969, khi Koudelka đang viếng thăm London cùng một nhóm diễn viên nhà hát Tiệp Khắc, ông kinh ngạc khi nhìn thấy bức ảnh của mình trên tờ bìa Sunday Times, kỷ niệm 01 năm sự kiện mùa xuân năm 1968. Bức ảnh được chú thích chụp bởi một người vô danh. Ông đã lo lắng đến số phận của mình và gia đình nếu bị phát hiện là tác giả của những bức ảnh đó. Chính vì vậy ông đã viết thư cho Magnum để xin được tị nạn.

Sau sự kiện 1968, một làn sóng di cư khổng lồ của những người Tiệp Khắc đã xảy ra, ước tính khoảng 300.000 người đã rời bỏ đất nước để sống lưu vong. Koudelka cũng là một trong số kẻ lưu vong, ông đã trở thành một người lang thang không nhà cửa với những người Digan, lang thang khắp Châu Âu trong một thời gian dài: “Suốt 17 năm trời tôi đã không phải trả tiền thuê nhà
---------------
Falšuje Putin historii?
Putin đã bóp méo lịch sử?
„Co tomu říkáš? To jsem zvědav, jak budeš teď obhajovat Putina, hajzle!“
"Bạn nói gì? Tôi tự hỏi bây giờ làm thế nào để bạn bảo vệ Putin, motherfucker! "
https://fbcdn-photos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-frc3/v/t1.0-0/10517466_559420840863452_3468519204894368142_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=6d71d311d5046207c45bb247d87eafa6&oe=560116E6&__gda__=1441956598_4d67859f17235e9d30912f40def9a0e7
Tento dopis sice nebyl podepsán, ale patří mezi několik podobných, daleko vulgárnějších, které mi někteří specifičtí čtenáři Protiproudu (obdivuji tuto skupinu, že nás čte, když při tom musí nevýslovně trpět) na dané téma adresovali: O co jde?
Mặc dù bức thư này đã không được ký kết, nhưng là một trong một số tương tự, thô tục xa hơn với tôi bởi một số độc giả SpecificTo dòng chảy (Tôi ngưỡng mộ nhóm này mà chúng ta đọc, trong khi thực tế phải chịu đau đớn khôn tả) về chủ đề này được giải quyết: đó là gì?
https://fbcdn-photos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xft1/v/t1.0-0/11391520_559420837530119_3029860802767811512_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=4b535aace41e8b8eecaa3a0edd69b01a&oe=55F3B919&__gda__=1442292371_4b1e56103c28eff627df0d7c24e5a460
Ruská televize Rossia 1 odvysílala dokumentární film o „odtajněných stránkách" dějin vojenského paktu Sovětského svazu a jeho satelitů – států Varšavské smlouvy. Invazi pěti zemí tohoto uskupení do Československa v roce 1968 vysvětluje ve filmu ruský historik Vladimir Bruz jako „důsledek socialistického internacionalismu“, který stanovoval „povinnost poskytnout členu Varšavské smlouvy pomoc v případě ohrožení socialismu". A z tohoto hlediska (jako autoři filmu) tehdejší invazi obhajuje.
Truyền hình Nga Rossia 1 phát sóng một bộ phim tài liệu về "trang giải mật của" Lịch sử của một liên minh quân sự của Liên Xô và các vệ tinh của nó -. Warsaw Hiệp ước Cuộc xâm lược của năm quốc gia của nhóm này ở Tiệp Khắc năm 1968, giải thích trong bộ phim sử Nga Vladimir Bruz là "một hậu quả của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa", mà đặt ra các "nghĩa vụ cung cấp hỗ trợ cho một thành viên của Hiệp ước Hiệp ước trong trường hợp đe dọa đến chủ nghĩa xã hội." Và từ quan điểm này (như là một nhà làm phim) sau đó bảo vệ các cuộc xâm lược.
https://fbcdn-photos-f-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfp1/v/t1.0-0/11232013_559421047530098_9069121698215905433_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=5a50b1a42d9d46a8c04e9e9d3d685d8a&oe=55F7B72C&__gda__=1441533605_d34e3449028f96d4c484196c50295752
Česká televize a následně všechna hlavní média šílí: Teď se Putin ukázal v plné parádě! Takové falšování historie! Chystá se na nás jako tehdy, už je to tady!
Czech Truyền hình và sau đó tất cả các phương tiện truyền thông lớn điên: Bây giờ Putin xuất hiện trong y phục! Giả mạo như của lịch sử! Đi vào chúng tôi như thể nó ở đây!
https://fbcdn-photos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xtf1/v/t1.0-0/10425167_559420994196770_636445299180634550_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=c1ae6dc1b5d60c764f9d1c2f40619c4e&oe=55F87B77&__gda__=1442400949_80465e5d11ab333fb9d738edd571ab97
Můj názor? Mystifikace, jako vždycky. O prezidenta Putina ani vládu Ruské federace přece vůbec nejde. Současný, minulý i předminulý ruský prezident – jako šéfové nástupnického státu po Sovětském svazu – nejednou řekli (několikrát i v Praze), že invaze z osmašedesátého byla neomluvitelná chyba. Přesto se za ni omluvili. Co k tomu víc?
Ý kiến của tôi? Sự bao trùm bí mật, như mọi khi. Chính phủ của Tổng thống Putin hay Liên bang Nga đã không ở tất cả. Qua, Tổng thống Nga hiện tại hoàn thành và quá khứ - như tình trạng ông chủ kế thừa của Liên Xô - thường nói (nhiều lần trong Prague), cuộc xâm lược của sáu mươi tám là sai lầm không thể tha thứ. Tuy nhiên, họ đã xin lỗi cho nó. Những gì làm được nhiều hơn?
https://fbcdn-photos-b-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xta1/v/t1.0-0/11108976_559420997530103_1197454905386680776_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=051801a59ea64ae39c1e8b073a2b7bed&oe=55EBFE03&__gda__=1442860682_e41742d8c92e7fa8abce5d8a023b3e8f
Ruská televize se věnuje historii Sovětského svazu – podobně jako naše televize se věnuje historii naší země v době předchozí totality (a buduje tím tu současnou) – tak, jak ona soudí. Relativně svobodně. Určitě nepoměrně svobodněji než ta naše „státní“ Česká. V Rusku prostě různí autoři točí různé dokumentární filmy různé úrovně, s různým názorovým zázemím. Tito se věnovali invazi do Československa. Dospěli k „překvapivému“ závěru, že z hlediska tehdejšího Sovětského svazu (a „států socialistického společenství) byla okupace nezbytností. Což samozřejmě byla, jinak by k ní nedošlo.
Truyền hình Nga dành cho lịch sử của Liên Xô - cũng như truyền hình của chúng tôi dành cho lịch sử của nước ta trong thời chế độ độc tài toàn trị trước đó (và do đó xây dựng hiện hành) - cách cô ấy nghĩ. Tương đối tự do. Chắc chắn không hai tự do hơn so với chúng ta, "nhà nước" Cộng hòa Séc. Ở Nga, các tác giả khác nhau có chỉ đơn giản là quay phim tài liệu nhiều cấp độ khác nhau, với các nền tảng khác nhau và ý kiến. Họ cống hiến mình cho cuộc xâm lược Tiệp Khắc. Họ đến "đáng ngạc nhiên" kết luận rằng các điều khoản của Liên Xô cũ (một "cộng đồng xã hội chủ nghĩa quốc gia) là cần thiết chiếm đóng. Trong đó tất nhiên là, nếu không nó đã không xảy ra.
https://fbcdn-photos-a-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xta1/v/t1.0-0/11391528_559421020863434_7823382069312002880_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=d698456fbc2a3c30e2c79293b98ad49b&oe=56088DC2&__gda__=1441991499_965eb16f5cf70915169566e2ccb90976
Ostatně soudím: Článek 5 washingtonské smlouvy zaručuje podobnou „bratrskou pomoc“ členským státům NATO v podstatě stejným způsobem. Umím si živě představit, co by nastalo, kdyby se u nás začal dnes odvíjet nějaký takový „obrodný proces“: Kdyby se objevil politik, který by požadoval vystoupení z NATO, odchod z EU a třeba naše přistoupení do „Euro-asijské unie – a většina národa by šla za ním. To by byl panečku „Majdan“! A kdyby se nepodařil, ukázalo by se, že to tady Rusko chtělo „napadnout“ – a už by tu byli. Vyzkoušeli si to přece s „konvojem“ (také nic nového)...
Thật vậy, tôi xem xét Điều 5 của Hiệp ước Washington đảm bảo tương tự như "trợ giúp huynh đệ" quốc gia thành viên NATO, trong nhiều cách giống nhau. Tôi chỉ có thể tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta bắt đầu ở đây hôm nay phụ thuộc vào một số loại "quá trình hồi sinh": Đã xuất hiện các chính sách đó sẽ yêu cầu rút tiền từ NATO, rút từ EU và cần gia nhập của chúng tôi để các "Euro-Asian Union - và hầu hết mọi người sẽ theo anh ta. Đó sẽ là Crikey "Majdan"! Và nếu nó không thành công, nó sẽ xuất hiện ở đây mà Nga muốn "tấn công" - và họ ở đó. Họ đã thử nó đã làm với "Convoy" (cũng không có gì mới) ...
https://fbcdn-photos-d-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xtf1/v/t1.0-0/11377337_559421000863436_9201316035146893072_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=9a0f6e9a4d4bb311d2ac8182304cfc64&oe=56044B68&__gda__=1442646835_57a5d082315e260078b709c904e66890
Nevím – jak autoři tvrdí – zda tehdy NATO bylo připraveno pomoci „pokrokovému křídlu“ Komunistické strany (Dubček a spol.). Že stálo na našich západních hranicích, o tom samozřejmě pochyb není. Že Západ „demokratizačnímu procesu“ všemožně napomáhal, také není pochyb. Bylo to v době studené války v jeho zájmu. Zato osobně pochybuji o tom, že by NATO u nás tehdy přímo zasáhlo. Soudím tak z reakce Západu po invazi, která v podstatě zněla stejně jako Brežněvova doktrína: „Eto vaše dělo“, to je vaše věc. Amerika ani NATO nehnuli ani prstem.
Tôi không biết - như các tác giả khẳng định - rằng nếu NATO đã sẵn sàng để giúp đỡ "cánh cấp tiến" của Đảng Cộng sản (Dubcek et al.). Đó là vào biên giới phía Tây của chúng tôi, không có nghi ngờ gì về điều đó, tất nhiên là không. Rằng phương Tây "quá trình dân chủ hóa" đã giúp bằng mọi cách, cũng không cần bàn cãi. Đó là trong thời chiến tranh lạnh trong quan tâm của mình. Nhưng tôi nghi ngờ rằng sẽ với chúng tôi khi NATO can thiệp trực tiếp. Tôi đoán rằng phản ứng của phương Tây sau cuộc xâm lược, mà về cơ bản có vẻ như các học thuyết Brezhnev: "Eto pháo của bạn," đó là điều của bạn. Mỹ không phải NATO cũng không nhấc một ngón tay.
 https://fbcdn-photos-f-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpf1/v/t1.0-0/10958815_559421007530102_1074616510125687372_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=2d7e68be641b1291f54746bb90338eb1&oe=55F2E0C1&__gda__=1438592939_ae4a6efd4632b92472af81c2b0fb8011
Neberu však autorům filmu jejich přesvědčení, že to bylo naopak. Nemám o tom dostatek dokumentů. Ale to je naprosto vedlejší. Jedna televize odvysílala historický dokument, který je v rozporu s oficiální politickou linií tamní vlády. Tak už to v demokraciích chodí. V totalitách, nebo zemích, které k ní směřují, je to naopak:
Tuy nhiên, các tác giả không đưa bộ phim đến niềm tin của họ rằng nó là ngược lại. Tôi không có đủ tài liệu về nó. Nhưng nó là hoàn toàn bên cạnh điểm. Một truyền hình phát sóng một tài liệu lịch sử, đó là mâu thuẫn với đường lối chính trị chính thức của chính phủ đó. Đó là cách nó đi trong các nền dân chủ. Trong chế độ độc tài toàn trị, hoặc quốc gia đang hướng đến nó, nó là ngược lại:
https://fbcdn-photos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfa1/v/t1.0-0/11350421_559421014196768_5457569093880937032_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=ecfdf5c33dff058a34c91d0987d1f750&oe=55F03597&__gda__=1443326113_0debc76251dc3ff984267ae0d4cff00d
Když washingtonský list uveřejní kritiku českého prezidenta, zabývá se tím u nás málem parlament. Proč? Vědí snad politici (i ti nevolení v našich médiích), že jde fakticky o postoj americké vlády? Chovají se tak. Závěr?
Khi lá Washington công bố những lời chỉ trích của Tổng thống Cộng hòa Séc, chúng tôi đang nghiên cứu với chúng tôi hầu như quốc hội. Tại sao? Họ biết có lẽ chính trị gia (ngay cả những người không được bầu lên trong phương tiện truyền thông của chúng tôi), nó là de facto vị trí của chính phủ Mỹ? Họ cư xử như vậy. Các kết luận?
https://fbcdn-photos-c-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfp1/v/t1.0-0/11069695_559421027530100_8314602014487710953_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=16a32c745baaa4e20ed37776220494bc&oe=55C18A11&__gda__=1438643608_b2beac49c230b226970b9a16ecaea9f8
Případ televizního dokumentu o osmašedesátém dokazuje jediné: Rusko směřuje k demokracii, od níž se my naopak rychle vzdalujeme. Nic víc se k tomu říci nedá. Nebo přece něco:
Trường hợp tài liệu truyền hình sáu mươi tám chứng minh một điều: Nga đang tiến tới dân chủ, từ đó chúng ta, trái lại, nhanh chóng di chuyển ra. Không có gì nhiều để nói không thể. Hoặc đã làm cái gì khác:
https://fbcdn-photos-e-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfa1/v/t1.0-0/11329973_559421034196766_8494796921973172826_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=3df47497df03f90b4bbec55c2a26029f&oe=55FF988D&__gda__=1443703995_b977c09b2ed793791fe5ebc4b10e21d5
Rozesmálo mě, když nedávno intervenovala OBSE u Vladimíra Putina, aby nepodepisoval zákon na ochranu země před rozkladnými akcemi zahraničních rozvědek skrze takzvané „neziskovky“ placené ze Západu.
Nó làm cho tôi cười khi ông gần đây đã can thiệp với OSCE Vladimir Putin không ký một đạo luật để bảo vệ đất nước từ những hành động phá hoại của các dịch vụ tình báo nước ngoài thông qua cái gọi là "phi lợi nhuận" trả của phương Tây.
https://scontent-sjc2-1.xx.fbcdn.net/hphotos-xta1/v/l/t1.0-0/11393185_559420984196771_5387998119563536701_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=b37a5a4ef69f93c90146e78c90ee1e16&oe=55F58668
Zmocněnkyně OBSE pro svobodu tisku Dunja Mijatovičová v prohlášení uvedla, že nejasné a příliš obecné formulace zákona mohou "ohrozit široké spektrum demokratických práv, včetně svobody slova a tisku". A vyzvala ruského prezidenta, aby zákon vetoval "v zájmu zachování plurality" (samozřejmě to Vladimír Putin ignoroval – a podepsal). Ale je to přece půvabné: OBSE argumentovala tím, že by takový zákon mohl „ohrozit pluralitu a demokracii v Rusku“. Tam ale přece žádná není – tedy alespoň pokud jsem konzument českých (a západních) hlavních médií, nemohu o tom mít pochyb. Tak co že to ve skutečnosti bylo v ohrožení?
https://fbcdn-photos-d-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpf1/v/t1.0-0/10906265_559421157530087_6076255123572679295_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=c37c557315d4cccaf43cb6c20749da9a&oe=56057531&__gda__=1443555419_1b2324c9af8cd1c5cf91f500a8568c87
Ủy viên OSCE tự do báo chí Dunja Mijatovičová cho biết trong một tuyên bố rằng nó là quá mơ hồ và từ ngữ chung của Đạo luật có thể "đe dọa một phổ rộng các quyền dân chủ, bao gồm tự do ngôn luận và báo chí." Và mời của Tổng thống Nga phủ quyết luật pháp "để bảo tồn đa nguyên" (tất nhiên Vladimir Putin bỏ qua - và có chữ ký). Nhưng nó vẫn còn duyên dáng: OSCE lập luận rằng một đạo luật như vậy có thể "làm suy yếu chủ nghĩa đa nguyên và dân chủ ở Nga." Nhưng vẫn không có - ít nhất là nếu tôi là một người tiêu dùng Séc (và phương Tây) phương tiện truyền thông chính thống, tôi không có nghi ngờ gì về điều đó. Vì vậy, những gì nó thực sự là nguy hiểm?
https://fbcdn-photos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfp1/v/t1.0-0/10653598_559421194196750_5222515101094507433_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=f1eba80e748ddfa8cc54c78820225793&oe=55C0F598&__gda__=1443120913_2db368621e51dbe5fd14c4a884568d97
U nás „po našom“
Đối với chúng tôi "sau khi chúng tôi"
https://fbcdn-photos-c-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xfa1/v/t1.0-0/10479157_559421210863415_8979814186225942558_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=f8720ab3e0f1e2b5e8df067522f322ed&oe=55EBF6A5&__gda__=1441433491_b67b6435f6cdceb2db4077cd141fadeb
Je pozoruhodné, jak některé lidi vzrušil jeden dokument ruské televize, ale nenapíší mi ani slovo o záplavě „historických dokumentů“ České televize – zvláště pak v souvislosti s nedávným výročím konce 2. světové války. Jiní zase – a je jich absolutní většina – píší především o tom.
Nó là đáng chú ý cách một số người hơi bối rối một phim tài liệu trên truyền hình Nga, nhưng tôi sẽ không viết một chữ về một trận lụt của "tài liệu lịch sử" Czech Truyền hình - đặc biệt là với những kỷ niệm gần đây của sự kết thúc của WW2. Khác - và có một đa số tuyệt đối - đặc biệt là viết về nó.
https://fbcdn-photos-a-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xat1/v/t1.0-0/11246187_559421204196749_7127414032004025922_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=2c3eb2a1096d2b557a2bccea32cb1788&oe=55C1CA17&__gda__=1443541960_3830bc5532ec71c61ac0ecb40c6d46d4
-------------------


http://rassvet21-go.ru/index.php/kto-zhe-oni/124-davidovskij
http://www.magnumphotos.com/C.aspx?VP3=SearchResult&VBID=2K1HZOQ3T2X9OD

08 tháng 5 2010

Hồng Quân Hấp Diêm


Phim về vụ phụ nữ Berlin bị hãm hiếp bởi Hồng quân trong WW2
A Woman in Berlin (2008)
A Woman In Berlin 2008 DVD Disc Cover
http://www.covershut.com/DVD-Covers/26388-A-Woman-In-Berlin-2008-Disc.html
A Woman In Berlin 2008 Chec DVD Front Cover
http://www.listal.com/viewimage/1127517hDas Wunder Von Berlin 2008 German HD DVD Front Cover
Chúng ta thường sẽ đọc tháy như sau:
Kể từ khi tiến vào nước Đức (1944-1945), ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu Hồng quân Liên Xô đã hãm hiếp trên 2 triệu phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi. Tại các tỉnh miền Đông nước Đức và biên giới Phổ có hơn 1,4 triệu phụ nữ bị hãm hiếp; riêng ở Berlin là hơn 100 ngàn, các tỉnh còn lại hơn nửa triệu. Rất nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính Hồng quân hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp trên 70 lần.
Khoảng 10% nạn nhân chết sau đó do tự sát, hay chết do chấn thương nặng, hoặc bị giết ngay sau khi bị hãm hiếp. Việc hãm hiếp phụ nữ Đức được xem là chiến tích, và để đàn áp tinh thần nhân dân Đức. Những cô gái Đức bị hãm hiếp nếu có thai còn bị cấm phá thai dưới mọi hình thức, để tăng thêm phần sỉ nhục. Mãi đến năm 1948 các người chỉ huy quân đội Liên Xô mới có biện pháp để giảm hành động tội ác này của binh sĩ.
Tác giả Norman Naimark viết rằng: "Tâm lý xã hội của phụ nữ Đông Đức được đánh dấu bởi tội ác hãm hiếp và cưỡng bức của Hồng quân Liên Xô kể từ những ngày đầu chiếm đóng, qua năm 1949 khi mà Đông Đức được thành lập, cho đến tận ngày nay".
Ở Hungary, hơn 50 ngàn phụ nữ và trẻ em đã bị Hồng quân Liên Xô hãm hiếp chỉ riêng ở thủ đô Budapest. Nhiều nhà sử học đã lý giải cho hành động của Hồng quân Liên Xô ở Đức và Hungary rằng "họ có mối căm thù sâu sắc đối với Đức Quốc Xã"; tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng Hồng quân Liên Xô còn đã hãm hiếp luôn cả phụ nữ Nga, Ba Lan, Do Thái, Belarus, Ukraina, hay bất cứ sinh vật giống cái nào họ tìm được khi giải phóng các trại tập trung. Dù Hồng Quân Liên Xô chỉ "đi ngang qua một phần nhỏ" của Nam Tư, đã có 121 vụ hãm hiếp tập thể được ghi lại, và 111 nạn nhân trong số đó bị giết tại chỗ, số nạn nhân phụ nữ thực tế có thể cao hơn nhiều.
Tác giả Catherine Merridale đã bình luận rằng "hãm hiếp và cướp bóc không phải là điều lạ trong chiến tranh, nhưng điều đáng nói là sự khác nhau giữa khẩu hiệu, lý tưởng mà người Bolsheviks đã nói và những gì Hồng quân của họ đã thật sự làm". Những thông tin này được giấu kín cho đến khi Liên Xô tan rã và các hồ sơ bí mật dần được tiết lộ. Khi bị một sĩ quan than phiền về việc quân sĩ cướp bóc và hãm hiếp quá ghê, Stalin đã trả lời rằng "Ông ta không hiểu nổi à? Lính của ta vượt qua hàng ngàn dặm, qua máu và lửa, hiếp dâm và ăn cướp chút ít có sao đâu?".
Hồi ký của bà Marta Hillers, một nạn nhân trực tiếp của những cuộc hãm hiếp của Hồng quân Liên Xô, đã mô tả lại sự kinh hoàng và cố gắng để sống sót trong thời đó ở Berlin. Bà đã cho phép xuất bản cuốn hồi ký và yêu cầu giấu tên mình, nhưng tên tuổi bà mới được tiết lộ sau khi chết
Một học giả người Anh xác nhận vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến, Hồng Quân Liên Xô đã hiếp dâm khoảng 2.000.000 phụ nữ và con gái người Đức và một số người Nga vừa được giải thoát từ những trại tập trung.
Cái con số 2 mil chị em Đức bị Hồng quân hấp diêm vốn từ bài báo "Red Army troops raped even Russian women as they freed them from camps." tác giả Daniel Johnson đăng trên Daily Telegraph (London) số ra ngày 26/1/2002. Tựa đề thì thôi khỏi nói nhưng nguyên văn cái đoạn liên quan đến con số 2 mil là thế này:"The total number of women who were raped by the Red Army necessarily remains unknown, but Beevor points out that there were about two million illegal abortions performed in Eastern Germany from 1945-1948 -- an astounding number considering that there were only about 15 million women in East Germany." Tạm dịch: "Tổng số chị em bị Hồng quân hấp diêm thực sự không thể biết được, nhưng Beevor chỉ ra rằng có khoảng 2 mil trường hợp nạo thai bất hợp pháp ở Đông Đức từ năm 1945 đến 1948 - 1 con số đáng kinh ngạc nếu so sánh với số phụ nữ toàn Đông Đức chỉ là 15 mil."
Thế đấy, từ số nạo thai qua nhào nặn của 01 số web "mà ai cũng biết là ai đấy" biến thành Hồng quân hấp diêm, suy luận thông minh ác. Chắc khi chiếm đóng Đông Đức Hồng quân đã tiến hành triệt sản toàn thể anh em thổ dân!
Seach trên mấy cái scholarly database online (không phải wiki ) với cả cuốn sách của ông Beevor đưa thì thấy có mấy điểm sau:
- Chuyện lính Hồng quân rape phụ nữ Đức và dân các vùng trên đường tiến quân của họ là có, tuy nhiên số liệu rất khác nhau, và hình như không đến 2 triệu.
- Chuyện rape xảy ra ở cả hai phía Hồng quân và quân Đồng minh Anh-Mỹ, tuy nhiên rape do phía LX thực hiện thường được mô tả như hành động trả thù có phần tàn bạo, thú tính (rape cả làng, cả bệnh viện, rape không từ trẻ em 8 tuổi cho đến bà già, rape nhiều lần v.v...) Còn những vụ việc do phía Anh-Mỹ thì ít ra cũng do phụ nữ Đức có nửa phần tình nguyện nhằm đánh đổi lấy miếng cơm và sự an toàn.
Về quy mô của những vụ hãm hiếp này, sử dụng đầu óc phân tích thông thường cũng có thể thấy được một số điểm bất hợp lý về con số 2 triệu:
2 triệu = bao nhiêu phần trăm dân số Đức, phụ nữ Đức thời bấy giờ?
 
Nếu là thật thì vụ đó phải kinh hoàng lắm, gần như toàn bộ dân Đức lúc đó ai cũng biết và chắc phải ít nhiều kể lại cho con cháu nghe. Thế mà sao mình chả bao giờ nghe báo đài (phương Tây) nói đến nhỉ?
 
Thậm chí chỉ cần một phần mười cũng đã nổi đình nổi đám lắm rồi. Vụ Nam Kinh chưa bằng được như thế mà cả thế giới đều biết, chính phủ Tàu ra rả đòi Nhật xin lỗi. Bên Hàn Quốc có mấy người phụ nữ bị bắt làm nô lệ tình dục nay đang tới tấp đòi bồi thường. Vậy sao phụ nữ Đức lại im lặng một cách "dễ thương" vậy không biết?
 
Còn dân bị hại ở các nước Đông Âu thì sao?
 
Bảo hồi trước còn sợ ông anh cả LX, nay LX sụp rồi chính là cơ hội tốt để các nước này quay lại chơi Nga một vố, sao không thấy tận dụng?
 
Rồi truyền thông phương Tây nữa, chẳng thấy đâu cả. Ngoài một vài bản báo cáo lèo tèo hồi năm 45, 46, thông tin về vụ này chỉ rộ lên vào đợt kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít; cơ hội tốt để "xét lại" một cách có chủ đích) rồi sau đó lại chìm vào dĩ vãng...
 
Ô, phải công nhận là tinh thần "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" của chính phủ Đức còn triệt để hơn Việt Nam ta nhiều.

Hồi ức của cựu quan chức Nam Tư

Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Phạm Minh Ngọc dịch
Có lẽ tôi đã không phải đi Moskva lần thứ hai và gặp lại Stalin nếu tôi không trở thành nạn nhân của tính bộc trực của chính mình.
Cụ thể là sau khi Hồng quân tiến vào Nam Tư và giải phóng Belgrad vào mùa thu năm 1944 đã xảy ra nhiều vụ cướp bóc, hãm hiếp nghiêm trọng, cá nhân cũng có mà tập thể cũng có. Đối với chính quyền mới và Đảng cộng sản Nam Tư thì điều đó đã trở thành vấn đề chính trị.
Những người cộng sản Nam Tư trước đó vẫn coi Hồng quân là lí tưởng, còn chính trong hàng ngũ của mình thì những kẻ hiếp dâm và cướp bóc thường bị trừng phạt rất nghiêm khắc. Dĩ nhiên, họ cảm thấy choáng váng hơn là những người dân thường vì theo kinh nghiệm từ xa xưa để lại thì đội quân nào cũng cướp bóc và hãm hiếp cả. Nhưng vấn đề còn phức tạp hơn vì những kẻ chống cộng đã lợi dụng những hành động của Hồng quân để chống lại chính quyền non trẻ và chống chủ nghĩa cộng sản nói chung. Còn một vấn đề nữa, đấy là các cấp chỉ huy Hồng quân đã bỏ qua những lời phàn nàn và phản đối, có cảm giác như họ cố tình dung dưỡng những vụ cướp bóc và những tên hiếp dâm vậy.
Ngay khi Tito trở về từ Rumania, ông đã ghé qua Moskva và lần đầu tiên gặp Stalin, vấn đề lập tức được đặt lên bàn nghị sự.
Trong cuộc họp tại phòng làm việc của Tito, ngoài Kardel và Rankovic, còn có cả tôi. Chúng tôi quyết định nói chuyện với tướng Korneev, trưởng phái đoàn quân sự Liên Xô. Để Korneev tiếp thu vấn đề một cách thật nghiêm túc, quyết định được đưa ra là không chỉ Tito mà cả ba người chúng tôi và hai viên tướng nổi tiếng của Nam Tư là Peko Dapcevic và Koca Popovic cũng sẽ có mặt trong buổi tiếp.
Tito trình bày với Korneev một cách rất nhẹ nhàng và lịch sự và vì vậy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi ông ta phủ nhận một cách thẳng thừng với lời lẽ xúc phạm. Chúng tôi đã mời ông ta như một người đồng chí, như một người cộng sản, thế mà ông ta lên giọng quát tháo:
Thay mặt chính phủ Liên Xô, tôi tuyên bố phản đối những hành động vu khống Hồng quân, một quân đội…
Dù chúng tôi có cố gắng thuyết phục thế nào cũng vô ích, trước mặt chúng tôi đã hiện nguyên hình đại diện đang phát khùng của một lực lượng vĩ đại, một đạo quân “giải phóng”.
Tôi nói:
Vấn đề khó khăn là ở chỗ kẻ thù của chúng ta đã lợi dụng việc này nhằm chống lại chúng ta, họ đã so sánh Hồng quân với các sĩ quan Anh. Chúng nói rằng quân Anh không làm như thế
Korneev không muốn hiểu và phản ứng đặc biệt dữ dội với câu này:
Tôi kiên quyết phản đối những hành động xúc phạm Hồng quân bằng cách so sánh với quân đội của các nước tư bản!
Phải một thời gian sau chính quyền Nam Tư mới thu thập được các tài liệu về những hành động phạm pháp của Hồng quân: theo báo cáo của dân chúng thì đã có 121 vụ hiếp dâm, trong đó 111 trường hợp bị giết sau khi cưỡng hiếp và 1.204 vụ cướp gây thương tật; những con số ấy không phải là nhỏ bởi vì lúc đó Hồng quân mới chỉ xâm nhập vào phần Đông - Bắc Nam Tư mà thôi. Lãnh đạo Nam Tư buộc phải coi đấy là vấn đề chính trị và phải phản ứng vì nó đã trở thành vấn đề đấu tranh trong nội bộ Đảng nên càng đặc biệt nghiêm trọng. Những người cộng sản chúng tôi còn coi đây là vấn đề đạo đức nữa: chẳng lẽ Hồng quân mà chúng tôi coi là lí tưởng và chờ đợi từ bao lâu nay lại thế này ư?
Cuộc gặp với Korneev không đem lại kết quả nào, mặc dù sau đó chỉ huy các đơn vị Hồng quân có tỏ ra nghiêm khắc hơn đối với những hành động vô kỉ luật của binh sĩ dưới quyền. Nhưng ngay khi Korneev vừa đi ra thì các đồng chí đã phản ứng, người thì nhẹ nhàng, kẻ thì quyết liệt với câu nói của tôi. Bản thân tôi dĩ nhiên là không bao giờ có ý so sánh quân đội Liên Xô với quân Anh vì thực ra họ chỉ là phái đoàn quân sự ở Belgrad mà thôi. Tôi chỉ dựa trên các sự kiện rõ ràng, tôi đã nhắc lại các sự kiện và tỏ thái độ đối với vấn đề chính trị đã bị thái độ thiếu thông cảm và ngang bướng của Korneev làm cho phức tạp thêm. Hơn nữa, tôi không hề có ý xúc phạm Hồng quân, lúc đó tôi cũng yêu Hồng quân không khác gì tướng Korneev nữa kia. Dĩ nhiên, tôi không thể, nhất là địa vị của tôi lúc đó càng không cho phép, tỏ ra bình thản trước những hành động hiếp dâm mà tôi vốn cho là một trong những tội ác kinh tởm nhất; tôi không thể tỏ ra bình thản trước những hành động lăng nhục các chiến sĩ của chúng ta, cướp bóc tài sản của chúng ta.
Câu nói đó của tôi cùng với một vài việc khác đã trở thành nguyên nhân của những mối bất hoà đầu tiên giữa lãnh đạo Liên Xô và Nam Tư. Mặc dù còn có những nguyên nhân xác đáng hơn, nhưng các nhà lãnh đạo Liên Xô và đại diện của họ thường hay nhắc đến câu nói của tôi. Nhân tiện xin nói thêm rằng vì thế mà chính phủ Liên Xô đã không thưởng cho tôi và một số ủy viên khác của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Nam Tư huân chương Suvorov. Tướng Peko Dapcevic cũng không được thưởng huân chương vì lí do đó, nhằm làm dịu bớt tình hình, tôi và đồng chí Rankovic đã phải đề nghị Tito phong Dapcevic danh hiệu Anh hùng. Không nghi ngờ gì rằng câu nói của tôi đã là nguyên nhân của những tin đồn rằng tôi là một phần tử Trotskist do các gián điệp Liên Xô tung ra vào đầu năm 1945. Sau này, họ đã ngừng chiến dịch bôi nhọ tôi vì quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư đã được cải thiện cũng như đã nhận ra sự vô lí của những lời cáo buộc đó.
Ngay sau buổi họp đó, tôi đã rơi vào tình trạng gần như bị cô lập, đấy không chỉ là do các đồng chí thân cận đã phê bình tôi, những lời phê bình dĩ nhiên là quá nghiêm khắc, cũng không phải là do các cấp lãnh đạo Liên Xô đã thổi phồng và làm cho tình hình thêm căng thẳng mà còn do những dằn vặt nội tâm của chính tôi nữa.
Vấn đề là lúc đó tôi đã rơi vào một cuộc xung đột nội tâm mà bất kì người cộng sản trung thực, những người chấp nhận lí tưởng cộng sản một cách vô tư nào cũng phải trải qua; trước sau gì những người như thế cũng nhận thấy sự bất nhất giữa lí tưởng cộng sản và hành động của các cấp lãnh đạo đảng. Trong trường hợp của tôi, vấn đề không chỉ là mâu thuẫn giữa những quan niệm mang tính lí tưởng về Hồng quân và hành vi của những người đại diện cho nó. Chính tôi cũng hiểu rằng dù Hồng quân có là đội quân của xã hội “phi giai cấp” đi nữa, nó cũng chưa thể hoàn toàn như ý, “vẫn” còn mang trong mình “tàn dư của quá khứ”. Xung đột nội tâm của tôi bắt nguồn từ thái độ bàng quan, nếu không nói là dung túng, của lãnh đạo cũng như các cấp chỉ huy Liên Xô đối với các vụ hiếp dâm, đặc biệt là việc họ không chịu công nhận, chứ chưa nói còn tỏ ra tức giận, khi chúng tôi chỉ ra một cách rõ ràng. Thái độ của chúng tôi là chân thành, chúng tôi chỉ muốn giữ uy tín cho Hồng quân và giữ uy tín cho Liên Xô mà thôi; uy tín đó đã được bộ máy tuyên truyền của Đảng cộng sản Nam Tư xây đắp trong biết bao năm trời. Thái độ chân thành đó đã gặp phản ứng ra sao? Lỗ mãng và bác bỏ thẳng thừng, đặc trưng của mối quan hệ giữa nước lớn và nước nhỏ, giữa kẻ yếu và kẻ mạnh.
Các đại diện Liên Xô càng sử dụng những lời nói, mà thực chất là đầy thiện ý, của tôi như một cái cớ cho thái độ thù địch với ban lãnh đạo Nam Tư thì cuộc xung đột nội tâm của tôi càng nặng nề thêm, càng sâu sắc hơn.
Thế là thế nào? Tại sao các đại diện Liên Xô không thể hiểu được chúng tôi? Tại sao câu nói của tôi lại bị thổi phồng và xuyên tạc đi như thế? Tại sao họ lại xuyên tạc và sử dụng nó cho mục đích chính trị của mình khi khẳng định rằng các nhà lãnh đạo Nam Tư là những kẻ vô ơn với Hồng quân, đội quân đóng vai trò quyết định trong việc giải phóng thủ đô Belgrad và đã có công giúp họ đứng vững tại đây?
Chuyện đó và trên cơ sở như thế câu trả lời rõ ràng là không thể có được.
Một số hành động khác của các đại diện Liên Xô làm nhiều người, trong đó có tôi, băn khoăn không kém. Thí dụ, Bộ chỉ huy Liên Xô tuyên bố rằng họ giúp Belgrad khá nhiều bột mì. Nhưng hoá ra đấy là số bột mì do quân Đức trưng thu của nông dân và vẫn nằm trong kho trên lãnh thổ Nam Tư. Bộ chỉ huy Liên Xô coi đấy và nhiếu thứ khác nữa là chiến lợi phẩm. Tình báo Liên Xô còn tuyển mộ nhiều kiều dân vốn là bạch vệ và người Nam Tư làm gián điệp cho họ, thậm chí họ tiến hành tuyển mộ ngay những người đang làm việc trong Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Nam tư nữa. Để làm gì? Để chống ai? Trong Ban tuyên truyền và vận động do tôi làm lãnh đạo cũng xảy ra nhiều mâu thuẫn với các đại diện Liên Xô. Báo chí Liên Xô đánh giá không đúng và trình bày sai lạc một cách có hệ thống cuộc đấu tranh của những người cộng sản Nam Tư, trong khi các đại diện Liên Xô, lúc đầu còn thận trọng nhưng càng ngày càng công khai, đòi bộ máy tuyên truyền của chúng tôi phải phục vụ các nhu cầu của Liên Xô, ép chúng tôi phải theo khuôn mẫu của họ. Những cuộc nhậu nhẹt của các đại diện Liên Xô, họ muốn lôi kéo cả các nhà lãnh đạo cao cấp của chúng tôi tham gia nữa, càng ngày càng trở nên xa hoa, chỉ càng khẳng định, với tôi và một số người khác, sự chính xác của những nhận xét của tôi về sự bất nhất giữa lí tưởng và hành động, giữa đạo đức mà họ rao giảng với những hành vi phi luân trên thực tế mà thôi.
Giai đoạn tiếp xúc ban đầu giữa hai phong trào cách mạng và hai chính phủ, dù có cùng lí tưởng và hoàn cảnh xã hội tương tự nhau, cũng không thể nào trơn tru ngay được. Nhưng vì điều đó xảy ra trong một hệ tư tưởng khép kín nên các mâu thuẫn nhất định phải thể hiện dưới hình thức tiến thoái lưỡng nan về đạo đức và thắc mắc về việc trung tâm chính giáo không hiểu những ý định tốt lành của đảng đàn em, của nước nghèo hơn.
Nhưng người ta không chỉ phản ứng bằng nhận thức. Lúc đó, tôi bất ngờ “phát hiện” ra mối liên hệ không gì chia cắt được của con người với thiên nhiên vì thế tôi bắt đầu trở lại với việc đi săn như thời còn trai trẻ và tôi nhận ra rằng cái đẹp có mặt khắp nơi chứ không phải chỉ có trong đảng và cách mạng.
Nhưng giai đoạn buồn đau mới chỉ bắt đầu.

Hồi ức của các cựu Hồng Quân:

Hồi ức của Ivan Yakushin
...
Ngay sau khi chúng tôi tiến vào Đông Phổ, Tkalenko tập hợp tất cả sĩ quan của trung đoàn lại và bảo chúng tôi: "Tôi nghĩ rằng giờ đây chúng ta có thể gửi tay sĩ quan NKVD của mình đi nghỉ phép. Có một lệnh bất thành văn rằng các chiến sĩ có thể thoải mái nghe theo tiếng gọi trong tim mình khi ở trên đất địch. Nếu ai đó muốn trả thù, các anh cần bỏ lơ đi?. Mọi sĩ quan đều hiểu thông điệp này. Bọn Đức đã đem đến biết bao đau khổ, chết chóc và huỷ diệt tới đất nước ta!" có người trong trung đoàn tôi cả gia đình bị giết sạch!" nên rất nhiều người muốn trả thù. Do đó, khi tiến vào Đông Phổ, các tội ác do lính Hồng quân thực hiện được xem là các trường hợp trả thù. Nhưng việc này không kéo dài, bởi các mệnh lệnh chính thức cũng tới sau đó yêu cầu phải đối xử tốt với dân cư địa phương.
Tôi không nghe được bất cứ điều gì về các vụ hãm hiếp do lính trung đoàn tôi thực hiện, nhưng có thể hình dung những vụ như vậy sẽ diễn ra thế nào. Hầu hết là do lính hậu cầu làm: họ có quá nhiều thời gian, trong khi chúng tôi luôn phải hành quân. Chúng tôi cũng phải chăm sóc lũ ngựa và trang bị khí tài, việc này tiêu tốn khá nhiều thời gian và sức lực. Tuy nhiên, tôi có thể xác nhận rằng nhiều sĩ quan đã hẹn hò với phụ nữ Đức. Những quý bà ấy có lẽ khá vui vẻ khi sống với sĩ quan Xôviết (tất cả đàn ông Đức đều đang ở mặt trận) và theo tôi thì họ lập luận như sau: ?oNếu tôi sống với một sĩ quan Xôviết, đám lính thường sẽ không dám làm gì xấu ở nhà tôi.?
...


Bổ sung:

Cac tác phẩm có nhiều ghi chép về vụ việc: Vasily Grossman - Nhà văn nơi chiến trường - http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=7705.95
800 ngày trên Mặt trận phía Đông - Nikolai Litvinhttp://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=17004.110


Tháng Tư 1944 Đức Quốc Xã bại trận, lình Đức ở Pháp chạy về Đức, bỏ những cô đầm Pháp ở lại chịu trận, bị đàn ông Pháp hành hạ, làm nhục vì tội giao thiệp thân mât với những quân nhân Đức Quốc Xã. Tội chính của những người phụ nữ Pháp bị hành hạ này là tội lấy lính Đức, sống chung với lính Đức, đem thân xác phục vụ lính Đức; đổi thân xác lấy bơ thừa, sưã cặn của lính Đức. Những cô đầm này bị lôi ra cắt tóc, cạo trọc đầu ở giữa đường. Các cô, với những cái đầu trọc, bị bắt đi riễu phố. Có cô bị lột truồng. Nhiếu tấm ảnh ghi lại những cảnh đáng buồn cho đàn ông Pháp.


Tài liệu ghi có đến 20.000 cô đầm bị cạo trọc trên toàn nước Pháp trong Tháng Năm 1945. Ở những nước Âu châu bị Quân đội Hitler chiếm đóng, như Ý, Na Uy ..v..v.. cũng có chuyện những phụ nữ lấy lính Đức bị hành hạ nhưng không nhiều, không tàn nhẫn như ở Pháp. Nhiều cô đầm Pháp bị cạo trọc sau đó đã tự tử.


Tháng Năm 1945 Lính Mỹ vào Paris. Những cô đầm Paris chào mừng các chàng GI. Um hun thấm thít.
https://hoanghaithuy.files.wordpress.com/2014/05/soldier2.jpg Nhưng chưa quá 12 tháng, Paris đã có những tấm biểu ngữ “USA GO HOME.”
https://hoanghaithuy.files.wordpress.com/2014/05/frenchwoman.jpg Một trong những cô đầm Pháp can tội lấy Lính Đức bị cạo trọc đầu giữa đường.


One resident stated that "With the Germans, the men had to camouflage themselves -- but with the Americans, we had to hide the women." U.S. troops committed 208 rapes and about thirty murders in the department of Manche. French men also raped women perceived as collaborators with the Germans.
Bất lực để phụ nữ nước mình bị "đồng minh" hấp.


Vậy mà sau chiến tranh cái đám tự nhận là "tự do" nó đối xử với những phụ nữ từng qua lại với lính Đức như như vậy đây


Ai là người trên trái đất này đã chặn đứng Hitler

Tại sao loài người trên thế giới không bao giờ quên sự sinh to lớn của nước Nga.

Albert Axell, là một nhà văn, một sử gia quân sự Mỹ và cũng là tác giả một cuốn sách viết về nguyên soái Zhukov: The Man Who Beat Hitler – Người đánh Hitler, ông là người giải thích tai sao lại có nhiều người phương Tây đánh giá thấp về những đóng góp của Liên Xô vào chiến thắng Đức quốc xã trong thế chiến II.
Các bạn có tin là loài người vẫn còn quan tâm đến thế chiến II, một cuộc chiến mà đã qua đi từ lâu?
Người bạn của tôi, một giáo sư người Anh, anh ấy nói chuyện với tôi về một cuộc khảp sát đã chứng tỏ rằng, mọi người hoàn toàn không biết gì: 95 phần trăm các bạn trẻ ở nước Anh cho rằng, Đức là một nước đồng minh với nước Anh trong thế chiến thứ hai, trong khi đó, Liên Xô là kẻ thủ của họ. Ngày nay, hầu hết người Mỹ không hề biết gì về nguyên soái Zhukov. HIện nay, tôi chỉ mong muốn thế hệ đương thời ở phương Tây, tất cả đều nhận thức được đầy đủ về những người mà chúng ta đã phải mang ơn họ, vì họ đã đem lại sự sinh tồn cho chúng ta. Đó là lý do, để tôi viết những cuốn sách của mình.
Khi viết ra những trang sách của mình, bạn cần phải đánh giá thật công bằng, và cần phải thừa nhận về vai trò chủ chốt của Liên Xô đối với chiến thắng trong thế chiến II, đó là những lời khuyên nhủ chân thành của rất nhiều người quan sát trung kiên. Tôi có nghe nhiều nhà báo, nhà sử học người người Anh nói rằng, mặc dù đến mãi gần đây, vai trò của Liên Xô trong thế chiến II đã được dần tự chủ, cậu cần phải đẩy mạnh nó lên đến đúng điểm mà nó cần phải đứng.
Tôi có nói một cách đáng tin cậy rằng, hầu hết các nhà sử học phương Tây, những người mà không có dính líu đến chính trị, ho đã chia sẻ với tôi rất nhiều cách nhìn nhận về mọi vấn đề. Không một dân tộc nào khác trên thế giới, đã chuẩn bị được cho mình những nố lực anh hùng và hy sinh cao cả như người dân Nga. Ở nước Anh, trong thế chiến II đã tổn thất khoảng 300,000 lính và dần thường, trong khi đó ở Liên Xô thì con số tổn thất lên đến 27 triệu người. Điều này có phải là cái giá "cường điệu" mà người Nga phải trả cho chiến thắng?
Năm mươi năm chiến tranh lạnh đã làm phai mờ mất danh tiếng của họ, với Bức màn Sắt đã làm cho Liên Xô che phủ đi. Tôi thật sự ngạc nhiên, khi một lần tôi mở cuốn bách khoa toàn thư tiếng Anh ở Đài Loan vào thời kỳ Tưởng Giới Thạch, thì hoàn toàn không có một từ nào trong đó viết về Mao Trạch Đông.
Một lần khác, tôi được mời nói chuyện trên đài truyền thanh BBC. Người được mời tiếp theo được giới thiệu là "một nhà sự học quân sự có thẩm quyền" tên là Antony Beevor, người đã viết Berlin: Sự Sụp Đổ, 1945 (Berlin:The Downfall, 1945), trong đó ông ta đã miêu tả về Hồng Quân như là những kẻ cướp phá và hãm hiếp tàn bạo. Nhà sử học này nói rằng, khi quân đội Liên Xô tấn công vào Đức, những người lính Nga đã cưỡng hiếp hai triệu phụ nữ Đức. Ông ta còn trích dẫn ra một nguông tin nói rằng: "Những người lính Nga đã hãm hiếp tất cả phụ nữ Đức từ tám tuổi đến 80 tuổi". Thông tin chính xác là thế nào: Là tất cả những người phụ nữ Đức - không một ai cần phải có một sự chống cự nào!
Joseph McCabe, một nhà lịch sử và trí thức người Anh, chính thức được coi như là một trong những người có trí tuệ lỗi lạc nhất của thế kỷ 20, ông nói rằng, thế chiến II vốn là một cơn khủng hoảng nhân loại to lớn nhất, nó đã từng tồn tại ngay từ khi đế chế La Mã bị thất bại cho đến khi nó bùng nổ. Và nước Nga, theo như McCabe, thì họ là những người dẫn đầu trên con đường vượt qua cơn khủng hoảng đó. Những nhà sử học quân sự thì cho rằng, nguyên soái Zhukov chính là người đã làm thay đổi dòng lịch sử. Đến khi cuộc chiến tranh kết thúc, Georgiy Zhukov là một người nổi tiếng trong các nước Đồng minh, có nhiều nước phương Tây còn nói đùa rằng, Zhukov có thể thắng cử chức tổng thống Mỹ. Bất luận như thế nào, nếu Georgiy Zhukov đứng ở một vị trí lãnh đạo hàng đầu ở Liên Xô, thì cuộc chiến tranh lạnh có thể sẽ không xảy ra, hoặc ít ra nó không ác liệt và kéo dài liên miên đến như vậy.
Mọi người có thể được nghe rằng, Liên Xô chiến thắng trong chiến tranh bởi tính tàn nhẫn của các sĩ quan chỉ huy, họ đã đưa binh lính của mình vào chỗ chết với một số lượng lớn, hơn là sự tài tình của những vị tướng lãnh cao cấp. Những lời lẽ khác, đó là chiến thắng của Liên Xô là dựa trên số lượng đông người, chứ không phải là có trí tuệ hơn người. Các bạn có thể đồng ý với những quan điểm trên?.
Không. Cuộc chiến tranh đó không thể mang lại chiến thắng trong bất kỳ một chách nào khác. Cuộc chiến đó không thể chặn đứng Hitler, nếu sự không có sự mất mát lớn lao của loài người. Pháp, là một nước có quân đội mạnh nhất châu Âu, vậy mà họ đã phải đầu hàng chỉ sau có 6 tuần giao tranh. Pháo đài Brest của Xô Viết thì lại trụ vững ròng rã hơn một tháng trời, chỉ với một lực lượng quá nhỏ. Lúc này, nếu như Pháp cũng chiến đầu với những ý chí hy sinh quyên mình như vậy, và trụ vững lâu hơn nữa trên "pháo đài" của họ, thì nước Nga có thể đã không phải tổn thất lớn lao đến như vậy.
Để cho chúng ta không bao giờ quên, ở đây có nêu ra hai điểm chính: đầu tiên là, chúng ta ở Mỹ và Anh, không hề giống như ở nước Nga, chúng ta không phải đi chiến đấu ở ngay trên nơi chôn nhau cắt rốn của chúng ta. Nếu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự, thì tôi hoàn toàn tin chắc rằng, chúng ta sẽ không bao giờ đối xử với kẻ xâm lược ngôi nhà của ta, với những cử chỉ mềm mỏng được. Thứ hai, Hitler có một kế hoạch rất kinh khủng đó là, tiêu diệt hết 100 triệu người Slavơ, cùng với những người Do Thái, người Gipsy và các hạng thuộc "loại người hạ đẳng" khác. Đây là sự khác biệt chủ yếu cảu Liên Xô phải gánh vác so với các quốc gia khác. Khi quân Đồng minh đang vật lộn ở Ardennes, thì Churchill phải cầu viện với Moskva: "Làm ơn hãy giúp đỡ chúng tôi!", và Stalin cũng với Zhukov, đã đến giải thoát cho họ bằng cách đưa quân đánh dữ dội trên mặt trận phía Đông. Trận tấn công này đã làm cho phía Liên Xô phải tổn thất hàng tấn máu. Nhưng bù lại, họ đã giúp quân Đồng minh thoát khỏi cơn hoạn nạn. Churchill đã phải cảm kích mà thốt lên rằng, thật cảm ơn sâu sắc đến nhân dân Liên Xô.

Mọi người nghĩ thế nào về Josef Stalin?

Ngày nay, có rất nhiều tranh cãi rằng Stalin còn tàn khốc hơn cả Hitler. Điều này thực sự là chỉ đúng có một phần cực tiểu. Cho dù bạn có ưa chuộng Stalin hay không, thì bạn cũng cần phải thừa nhận những sự thật mà chúng vốn đã hiện hữu. Stalin phải đối mặt với một bổn phận, mà có thể nói là luôn bị đe dọa nhất trong chiều dài lịch sử, ông phải lãnh đạo một đất nước, mà hầu như từ đêm hôm qua mới chỉ là một nước sân sau của thế giới, để rồi đưa đất nước đó sánh ngang với những quốc gia hàng đầu thế giới, và với tới những tầm cao mới – những tầm cao mà để nước Nga có khả năng chiến thắng trong thế chiến II một cách diệu kỳ. Nếu như nước Nga Xô Viết không thể đững vươn lên được, thì đất nước này bị loại trừ ngay lập tức. Có nhiều người vô tội đã phải chịu cảnh cơ hàn dưới thời của Stalin. Chỉ có một điều rằng, tuy nhiên rất rõ ràng: Dưới sự lãnh đạo của ông, nước Nga trước đây là một mảnh đất với những công cụ bằng gỗ, đã trở thành một cường quốc hạt nhân. Điều đó dã tự nói lên tất cả.
Đừng có bao giờ nghe những người đó giảng đạo rằng, nước Nga sẽ phải hộ thẹn về lịch sử của mình trong thế kỷ 20. Thật đáng buồn, cũng có một số không nhỏ người Nga cảm thấy "xấu hổ", và bắt đầu phỉ báng ngay cả quá khứ của mình, họ quên đi những vấn đề khác, những chiến công của họ trong thế chiến thứ II. Mãi mãi nhớ đến những thắng lợi của các bạn, và những người anh hùng của các bạn đã quên đi những nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương để, để làm những nhiệm vụ cao cả nhất. Những điều đó có nghĩa là, nước Nga là một đất nước có khả năng cần thiết cho mọi người trên thế giới. Và lịch sử đã hơn một lần chứng minh, nước Nga có khả năng giành được lòng ngưỡng mộ trên toàn thế giới.
nthach dịch từ http://rbth.ru/

06-10-2013

Gái giải sầu Hungary phục vụ quân đội Liên Xô trong Thế chiến thứ Hai

Ngày 03/10, đài truyền hình quốc gia Hungary cho chiếu bộ phim tư liệu nói về tội ác của quân đội Liên Xô trong Đệ Nhị Thế Chiến đối với phụ nữ Hungary. Đây là một đề tài cấm kỵ ít được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu lịch sử của Hungary.
"Sự ô nhục bị che đậy" của nữ đạo diễn trẻ Skrabski Fruzsina đề cập đến một tấn thảm kịch xưa nay chưa được chính thức nghiên cứu một cách có hệ thống tại Hungary.
Chưa có những dữ liệu chính xác, tuy nhiên theo bộ phim, ước tính cho thấy có chừng 400-800 ngàn phụ nữ Hungary đã bị Hồng quân Liên Xô cưỡng hiếp và làm nhục khi quân đội Xô-viết tràn vào đất Hung. Đạo diễn bộ phim cho rằng, trong số triệu quân nhân Liên Xô có mặt tại chiến trường Hungary, cứ 10 người lại có một người đã cưỡng bức phụ nữ, và sự cưỡng bức diễn ra nhiều lần.
Thứ Ba, ngày 17 tháng 3 năm 2015

Hãm hiếp hậu chiến: Lính Mỹ có tệ như lính Liên Xô?

Klaus Wiegrefe
Trong hình dung quen thuộc, lính Mỹ ở Đức thời hậu chiến được yêu quý và cư xử tử tế. Nhưng một cuốn sách mới khẳng định rằng lính Mỹ đã hãm hiếp tới 190 nghìn phụ nữ vào lúc kết thúc Thế chiến II. Có chút sự thật nào trong lời cáo buộc gây tranh cãi đó không?
Những gã lính tới vào lúc tối trời. Họ xộc vào nhà và cố gắng lôi hai người phụ nữ lên gác. Nhưng Katherine W. và cô con gái 18 tuổi Charlotte đã vùng chạy thoát được.
Nhưng những gã lính không dễ dàng bỏ cuộc. Họ bắt đầu lục soát mọi ngôi nhà trong vùng và cuối cùng tìm thấy hai người phụ nữ ở trong một cái buồng nhỏ của một nhà hàng xóm ngay trước lúc nửa đêm. Những gã đàn ông lôi họ ra và quăng họ lên hai cái giường. Tội ác mà sáu tên lính đã thực hiện vào tháng Ba 1945, ngay gần trước khi Thế chiến II kết thúc. Cô gái kêu cứu: “Mẹ ơi. Mẹ ơi.” Nhưng không có ai tới.
Hàng trăm ngàn, có thể là hàng triệu những người phụ nữ Đức đã trải qua số phận tương tự cùng lúc đó. Thường thì những cuộc hãm hiếp tập thể được buộc tội cho Hồng quân ở phía Đông nước Đức. Nhưng trường hợp này thì khác. Những tên hiếp dâm là lính của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và tội ác diễn ra ở Sprendlingen, một làng nhỏ gần sông Rhine ở miền Tây.
Vào lúc chiến tranh chấm dứt, khoảng 1,6 triệu lính Mỹ đã tiến vào sâu trong nước Đức, và cuối cùng đã gặp cánh quân Liên Xô ở sông Elbe. Ở Mỹ, những người đã giải phóng châu Âu khỏi ách phát xít được gọi là “Thế hệ Vĩ đại nhất”. Và người Đức cũng phát triển hình ảnh tích cực của những người tiếp quản/chiếm đóng: những người lính dễ thương phân phát kẹo cao su cho trẻ em và làm vui các quý cô người Đức bằng nhạc jazz và nylon.
Nhưng hình ảnh đó có đồng nhất với thực tế? Nhà sử học người Đức Miriam Gebhardt, nổi tiếng ở Đức với cuốn sách về nhà nữ quyền hàng đầu Alice Schwarzer và phong trào nữ quyền, vừa xuất bản một cuốn sách mới gây nên sự nghi ngờ về phiên bản được chấp nhận lâu nay của vai trò của nước Mỹ trong lịch sử hậu chiến Đức.
GIs watch German girls swimming in July, 1945 in this image, part of a photo essay for  Life  magazine. GIs watch German girls swimming in July, 1945 in this image, part of a photo essay for Life magazine.
Lính Mỹ xem các cô gái Đức bơi, 7/1945. Ảnh trong phóng sự ảnh của tạp chí Life.

 
Những bản báo cáo từ Kho lưu trữ Thiên chúa giáo
Tác phẩm vừa ra mắt hôm thứ Hai ở Đức, đã đưa ra một cái nhìn gần cận hơn về việc hãm hiếp phụ nữ Đức của cả bốn tứ cường chiến thắng khi Thế chiến II kết thúc. Đặc biệt, cái nhìn của tác giả về hành vi của lính Mỹ làm người đọc sửng sốt. Gebhardt tin rằng lính Mỹ đã hãm hiếp tới 190 nghìn phụ nữ Đức cho tới lúc Tây Đức giành được quyền tự quyết vào năm 1955, với hầu hết các vụ xâm hại diễn ra trong những tháng ngay sau khi người Mỹ xâm chiếm nước Đức Quốc xã.
Tác giả đưa ra các cáo buộc dựa trên số lượng lớn những bản báo cáo do các linh mục xứ Bavaria lập vào mùa hè năm 1945. Tổng giám mục Munich và Freising đã yêu cầu giới tu sĩ lưu giữ các báo cáo về việc đổ bộ của quân Đồng minh và tòa Tổng giám mục đã xuất bản các phần trích lục từ Kho lưu trữ vài năm trước.
Michael Merxmüller, một linh mục ở làng Ramsau gần Berchtesgaden, đã viết vào ngày 20/7/1945, ví dụ: “Tám cô gái và phụ nữ bị hãm hiếp, vài người bị trước mặt bố mẹ họ”.
Cha Andreas Weingand, ở Haag an der Amper, một ngôi làng nhỏ bé ngay phía bắc sân bay Munich ngày nay, đã viết vào ngày 25/7/1945: “Sự kiện đau lòng nhất trong cuộc đổ bộ là ba vụ hãm hiếp, một phụ nữ đã có chồng, một phụ nữ độc thân và một cô bé 16 tuổi rưỡi trong trắng. Họ đều bị hiếp bởi những người Mỹ say rượu bí tỉ”.
Cha Alois Schiml ở Moosburg viết ngày 1/8/1945: “Do quy định của chính quyền quân sự, một danh sách mọi nhân khẩu và tuổi của họ phải được dán ở cửa mỗi nhà. Kết quả của lệnh này không khó để hình dung ra. …Những cô gái mười bảy tuổi hay những người phụ nữ … được đưa đến bệnh viện, bị lạm dụng tình dục một hoặc nhiều lần”.
Nạn nhân trẻ nhất được đề cập trong bản ghi chép là một đứa bé bảy tuổi. Già nhất là một phụ nữ 69 tuổi.
Những dục vọng của con đực
Các bản ghi chép đã dẫn tác giả Gebhardt tới việc so sánh hành vi của lính Mỹ với những sự làm nhục đầy bạo lực gây ra do Hồng quân ở nửa phía Đông đất nước, nơi những vụ hãm hiếp tập thể tàn bạo và những phi vụ cướp bóc bao trùm lên sự tiếp nhận của đại chúng đối với sự chiếm đóng của Liên Xô. Tuy nhiên Gebhardt nói rằng những vụ hãm hiếp xảy ra ở vùng Thượng Bavaria cho thấy chẳng có gì khác mấy ở phía Nam và Tây Đức hậu chiến cả.
Nhà sử học cũng tin rằng các động cơ cũng tương tự. Cũng như các đồng minh Hồng quân của mình, lính Mỹ, bà tin rằng, kinh hãi về tội ác của người Đức, cay đắng vì những nỗ lực vô nghĩa và nguy hiểm đến tính mạng của họ để bảo vệ đất nước tới phút cuối, và giận dữ về mức độ thịnh vượng khá cao của nước này. Hơn nữa, sự tuyên truyền ở thời điểm đó chuyên chở ý tưởng rằng phụ nữ Đức hấp dẫn lính Mỹ, vì thế thôi thúc những dục vọng đàn ông.
Những ý kiến của Gebhardt có gốc rễ vững chắc trong hệ thống chủ lưu của giới nghiên cứu hiện nay. Khi vụ scandal tra tấn tù nhân ở Abu Ghraib và các tội ác chiến tranh khác do lính Mỹ gây ra ở Irag và Afghanistan bùng lên, nhiều nhà sử học đưa ra cái nhìn phê phán hơn về hành vi của quân đội Mỹ trong những ngày ngay trước và sau khi Thế chiến II kết thúc ở Đức. Những nghiên cứu trong những năm gần đây đã rọi ánh sáng vào những vụ liên quan đến việc lính Mỹ cướp phá nhà thờ, giết thường dân Ý, giết tù binh Đức và hãm hiếp phụ nữ, thậm chí khi họ tiến quân qua Pháp.
Mặc dù có những phát giác như vậy, người Mỹ vẫn được xem như có kỷ luật tương đối khá so với Hồng quân và lính Pháp – sự khôn ngoan thường tình mà Gebhardt hi vọng có thể nghi vấn. Dẫu vậy, mọi bản ghi chép được thu thập trong Nhà thờ Công giáo Bavaria chỉ thêm vào được vài trăm trường hợp. Hơn nữa, các tu sĩ thường khen hành vi “rất đúng đắn và đáng kính” của lính Mỹ. Các ghi chép của họ dường như cho thấy việc lạm dụng tình dục của lính Mỹ có tính ngoại lệ hơn là bản chất.
Vậy thì làm thế nào mà nhà sử học đi tới chỗ có con số gây sốc là 190 nghìn vụ hãm hiếp đó?
Bằng chứng đầy đủ?
Con số tổng không phải là kết quả của một nghiên cứu sâu trong lưu trữ khắp đất nước. Nó là một phép ngoại suy thì đúng hơn. Gebhardt đưa ra sự ước định rằng 5 phần trăm số “trẻ em chiến tranh” được sinh ra có mẹ là những phụ nữ không có hôn thú ở Tây Đức và Tây Berlin vào giữa thập niên 1950 là sản phẩm của hãm hiếp. Nó đưa đến kết quả tổng cộng 1900 trẻ em có bố là người Mỹ. Gebhardt còn suy luận xa hơn rằng tính trung bình, cứ 100 vụ hãm hiếp thì có một ca sinh. Kết quả bà đưa ra là con số 190 nghìn nạn nhân.
Một kết quả như thế, thực vậy, dường như khó mà thừa nhận được. Khi con số thực sự cao như thế, nó hầu như chắc chắn phải có nhiều báo cáo về hãm hiếp trong hồ sợ của các bệnh viên hay các nhà chức trách y tế, hoặc phải có nhiều hơn những báo cáo của các nhân chứng. Gebhardt không thể đưa ra bằng chứng nào có số lượng đầy đủ như vậy.
Một sự ước lượng khác, xuất phát từ giáo sư ngành tội ác học Mỹ Robert Lilly, người đã nghiên cứu các vụ hãm hiếp bị xử ở các tòa án binh Mỹ, có con số là 11 nghìn vụ xâm hại tình dục nghiêm trọng diễn ra vào tháng 11 năm 1945 – một con số ngay bản thân nó cũng đủ kinh khủng.
Nhưng Gebhardt chắc chắn đúng ở một điểm: Đã quá lâu, nghiên cứu lịch sử bị áp đảo bởi ý kiến rằng các vụ hãm hiếp do lính Mỹ gây ra là không thể nào có vì phụ nữ Đức chỉ muốn nhảy ngay lên giường với họ.
Tuy vậy, người ta sẽ diễn dịch lời phàn nàn được ghi lại của một người chủ khách sạn ở Munich ngày 31/5/1945 như thế nào đây? Bà ta ghi lại rằng lính Mỹ trưng dụng vài phòng và có bốn phụ nữ “chạy vòng quanh, hoàn toàn trần truồng” và “đổi phòng vài lần”. Có thực sự là tình nguyện không?
Ngay cả nếu không phải người Mỹ đã gây ra tới 190 nghìn vụ tội ác tình dục, vẫn là điều đúng đối với các nạn nhân hãm hiếp hậu chiến – là không thể chối cãi rằng có một hiện tượng phổ biến lúc Thế chiến II kết thúc, không có “văn hóa của trí nhớ, không có sự ghi nhận công khai, không có lấy một lời xin lỗi” từ những kẻ chiếm đóng, Gebhardt viết. Và ngày nay, 70 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, điều không may là không có vẻ như tình hình sẽ sớm thay đổi.
Nguyễn Trương Quý dịch từ báo Đức Spiegel International - http://www.spiegel.de/international/germany/book-claims-us-soldiers-raped-190-000-german-women-post-wwii-a-1021298.html


09-05-2015

Các vụ hãm hiếp tại Đức sau chiến tranh

Sau chiến tranh, vấn đề phụ nữ bị hãm hiếp tại nước Đức là một chủ đề tế nhị, nhất là trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Vì lý do tuyên truyền, người ta chỉ tố cáo Hồng quân Liên Xô. Thế nhưng, trên thực tế, binh sĩ các nước Mỹ, Anh, Pháp cũng không phải là mẫu mực gì và cũng đầy kỳ thị đối với thường dân nước chiến bại.
Khoảng 860.000 phụ nữ đã bị hãm hiếp trong giai đoạn sau chiến tranh bởi quân đội của bốn nước Đồng minh tham chiến chống lại nước Đức phát xít của Hitler. Nhận định này của nhà sử học Miriam Gebhardt trong cuốn sách « Khi binh sĩ kéo tới » cho thấy các vụ bạo hành, hãm hiếp đã diễn ra một cách ồ ạt tại nước Đức bị chiếm đóng.
Trong một thời gian dài, chỉ có Hồng quân Liên Xô bị tố cáo và quả thực là đa số các vụ hãm hiếp là do binh sĩ Liên Xô tiến hành. Thế nhưng, quân đội Mỹ, Anh, Pháp cũng không phải là vô can. Thực tế này đã không được nói đến trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Những hành động này không thể biện minh là do muốn trả thù tội ác của phát xít Đức.
Nhà sử học Miriam Gebhardt nhận định :« Không phải chỉ có phụ nữ Đức bị hãm hiếp. Binh sĩ Mỹ cũng hãm hiếp cả phụ nữ Anh, Pháp, vợ của các binh sĩ thuộc quân đồng minh. Quân Liên Xô thì hãm hiếp phụ nữ Ba Lan và cả những phụ nữ vừa ra khỏi trại tập trung. Không thể giải thích những hành động này là do ý muốn trả thù và lòng căm thù ».
Các nạn nhân thường giữ im lặng, không nói về những gì mà họ phải hứng chịu. Nếu mang thai, họ lại còn bị lên án mạnh hơn lúc sinh con. Nếu vụ việc vỡ lở, họ bị tố cáo đã ngủ với kẻ thù, sinh con mà không có chồng.
Ngay cả những phụ nữ Đức có quan hệ tình ái và đồng thuận với một binh sĩ quân đồng minh, cũng không sống dễ dàng. Quân đồng minh chiến thắng không chấp nhận có quan hệ thân thiết với thường dân nước chiến bại. Việc kết hôn lập gia đình rất hiếm. Những đứa con của các gia đình này, theo thẩm định có khoảng 200.000 trẻ, thường sống với người mẹ độc thân và thường bị tẩy chay, xa lánh khi người ta biết được tông tích của chúng.
Margot Jung, con gái một quân nhân Pháp đóng tại Coblence, sau chiến tranh cho biết : « Ở trường, người ta thường xuyên hỏi tên của bố và mẹ. Tôi thường trả lời thày giáo là tôi không có bố. Thế là thày giáo nhắc nhở : Em phải có bố, ai cũng có một người cha ».
Vào thời kỳ đó, binh sĩ Pháp thường ở nhà dân. Do vậy, các cuộc gặp gỡ, làm quen dễ dàng hơn. Khác với những nước khác, Paris muốn sử dụng những đứa trẻ này vào mục đích làm tăng dân số, sẵn sàng cấp quốc tịch và đưa chúng về Pháp. Do vậy, những bà mẹ Đức lại càng phải kín tiếng để giữ con.
Cho đến thập niên vừa qua, Margot Jung mới biết được sự thật. Người cha của bà đã qua đời, nhưng cuộc gặp với hai người em gái cùng cha khác mẹ tại Pháp đã mang lại cho bà một gia đình mới.
« Giờ đây, tôi đã tự hòa giải với bản thân mình. Tôi có thể nói về việc này một cách thoải mái. Trước đây thì không thể vì quá xấu hổ và nhục nhã. Tôi rất biết ơn về món quà này. Tôi yêu quí các em tôi. Tôi đã biết bố tôi là ai. Tôi là một ví dụ về việc kiên trì tìm kiếm và thành công ».
Thế nhưng đối với nhiều người khác, việc tìm kiếm không thành hoặc là họ bị chính người cha, gia đình mới khước từ thừa nhận.