Hiển thị các bài đăng có nhãn Miền Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Miền Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

13 tháng 12 2014

"Hạt giống đỏ" học sinh miền Nam tại Hải Phòng

60 năm trước, sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành công cuộc xây dựng CNXH; miền Nam còn phải đấu tranh đòi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phải thi hành Hiệp định Giơnevơ để sau 2 năm tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ đã thực hiện âm mưu chiếm đóng lâu dài miền Nam. Vì vậy, Cách mạng Việt Nam phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Để thực hiện chiến lược con người, Bác Hồ và TW Đảng và Chính phủ ta đã có chủ trương đưa con em cán bộ miền Nam ra miền Bắc để đào tạo, chuẩn bị một đội ngũ cán bộ phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và chấn hưng đất nước sau khi thống nhất. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, vô cùng sáng suốt với tầm nhìn chiến lược về việc chuẩn bị lực lượng lâu dài cho cách mạng miền Nam trong kháng chiến cũng như sau khi thống nhất đất nước của Bác Hồ và Trung ương Đảng, 28 trường học sinh miền Nam (HSMN) nội trú được thành lập với học sinh là con em đồng bào miền Nam thuộc nhiều dân tộc từ Bến Hải đến Cà Mau - mà Bác Hồ gọi là "những hạt giống đỏ" - được học tập, rèn luyện trưởng thành từ những mái trường trên miền Bắc. Đó là chưa kể do chiến tranh ác liệt, một số HSMN không học tập trung trong các trường nội trú mà theo học các trường khác trên khắp các tỉnh, thành phố miền Bắc, nhưng vẫn hưởng chế độ HSMN.

Thầy trò của một Trường Học sinh miền Nam trên đất Bắc (năm 1956)

Giai đoạn đầu (1954-1958) có 28 trường HSMN được thành lập với các loại hình: Mẫu giáo, cấp I, cấp II, cấp III và bổ túc văn hóa. Trong số 28 trường, có một trường dành cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số và một trường dành cho các em người Việt gốc Hoa. Các trường HSMN lúc đầu được xây dựng tại Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình... về sau được tập trung chủ yếu về Hải Phòng, Hà Đông (nay là Hà Nội), Quảng Ninh và Hà Nam. Thời gian này cũng có một bộ phận HSMN được gửi sang học tại nước CHND Trung Hoa và CHDC Đức....



Hải Phòng được chọn là một trong những địa phương đón nhận đồng bào miền Nam tập kết ra miền Bắc, tổ chức các trường học cho học sinh miền Nam. 21 năm tính từ năm 1954 đến ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, thành phố đã đón nhận, nuôi dưỡng và giáo dục trên 30 ngàn học sinh miền Nam, được coi là những “hạt giống đỏ” của cách mạng. Dưới sự che chở, đùm bọc của nhân dân Hải Phòng, nhiều người đã trưởng thành cống hiến to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, tướng lĩnh, nhà khoa học, văn nghệ sỹ nổi tiếng…

Bác Hồ về thăm HSMN ở Hải Phòng

Từ sau năm 1964 trở đi, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta càng ngày càng trở nên ác liệt, Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã quyết định tiếp tục đưa thêm con em của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam ra miền Bắc để đào tạo. Từ năm 1965 đến năm 1972 đã có thêm khoảng 10 nghìn con em cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam ra học tại các trường HSMN. Đây cũng là thời kỳ đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại hết sức khốc liệt đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, với ý đồ ngông cuồng là đưa miền Bắc nước ta trở về thời kỳ đồ đá. Để bảo tồn lực lượng và vẫn tiếp tục thực hiện nuôi tốt, dạy tốt và học tốt, Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã quyết định chia nhỏ các trường HSMN và cho sơ tán về các địa phương ở trung du và miền núi, một bộ phận được gửi sang nước bạn Trung Quốc.

Mô hình trường HSMN trên đất Bắc được đánh giá như một hiện tượng lịch sử đặc biệt về giáo dục. Trường HSMN là loại hình trường nội trú, đào tạo học sinh một cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ; thực hiện nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, các trường HSMN có đội ngũ cán bộ, giáo viên được tuyển chọn, có chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề nghiệp, giàu lòng nhân ái, hết lòng vì học sinh thân yêu. Họ coi học sinh như con em của mình và coi việc chăm sóc, dạy bảo các em học sinh miền Nam là vinh dự, trách nhiệm và lương tâm đối với đồng bào miền Nam đang chiến đấu, hy sinh ngoài mặt trận để giành độc lập cho dân tộc, cho sự thống nhất Tổ quốc.

Xuất phát từ tình cảm thiêng liêng đối với đồng bào miền Nam, hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào miền Bắc đã nhường cơm, sẻ áo, đùm bọc, chắt chiu, nuôi dạy những người con của đồng bào miền Nam với khẩu hiệu: "tất cả vì miền Nam ruột thịt". Khi hòa bình mới lập lại, nền kinh tế miền Bắc bị phá hoại rất nặng nề, đồng bào miền Bắc phải ăn cơm độn ngô, độn sắn nhưng hàng ngày đồng bào vẫn lo cho học sinh miền Nam với tiêu chuẩn ăn cơm 3 bữa, lo cho con em miền Nam trang thiết bị học tập đầy đủ.

Vào mùa đông, với cái rét cắt da, cắt thịt, thấy học sinh không có áo ấm, nhiều người sẵn sàng nhường manh áo của mình cho học sinh miền Nam. Đồng bào miền Bắc đã xem các học sinh miền Nam như chính con em ruột thịt của mình với tình cảm thiêng liêng khó diễn tả hết. Những năm tháng Mỹ - ngụy phá hoại miền Bắc, việc học tập của các em học sinh miền Nam gặp khá nhiều khó khăn. Và việc dạy, học của thầy trò miền Nam càng khó khăn, phức tạp hơn nếu như không có sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng bào miền Bắc.

Học sinh miền Nam coi nhà trường là mái ấm tình thương, thầy cô và những người phục vụ như cha mẹ, người thân trong gia đình; họ sống trong tình cảm chân thành, yêu thương, đùm bọc giữa thầy-trò và nhân dân miền Bắc, coi việc học, rèn luyện là nhiệm vụ, trách nhiệm trước đồng bào của mình đang chiến đấu hy sinh ở quê hương để cho họ được học tập, rèn luyện. HSMN giàu tình cảm, giàu lòng nhân ái, trọng tình bạn, đoàn kết, thực hiện kỷ luật nghiêm, gắn bó keo sơn, vượt qua mọi thử thách, học tập giỏi, rèn luyện tốt.

Sau khi tốt nghiệp phổ thông, phần lớn HSMN đã được tiếp tục đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong và ngoài nước. Một số theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" trở về miền Nam để trực tiếp chiến đấu giải phóng quê hương. Trong số đó, rất nhiều người đã trở thành Anh hùng lực lượng vũ trang, những nhà văn, nhà thơ, những nhà chính trị, kinh tế... góp phần cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Và cũng rất nhiều anh chị đã anh dũng hy sinh trên chiến trường miền Nam.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975, hầu hết HSMN đều trở về để xây dựng quê hương, tham gia trên mọi lĩnh vực công tác. Nhiều HSMN đã trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp, cán bộ nòng cốt trong các cơ quan Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, các cơ sở khoa học, kinh tế- xã hội từ Trung ương đến địa phương.

Bác Hồ về thăm và trò chuyện thân mật với học sinh các trường miền Nam ở Hải Phòng (ảnh tư liệu)
Những ngày Học sinh miền Nam trên đất Bắc

Ngày 14/12/2014, chúng tôi - cựu Học sinh miền Nam họp mặt kỷ niệm 60 năm tại Hà Nội. Những gì xảy ra trong những ngày đầu bước chân của tôi đặt trên mảnh đất ấy vẫn còn nguyên vẹn trong tôi.
LÂM BÍCH THỦY


Ngày đó trên chuyến tàu ra Bắc sau Hiệp định Genève, ở Qui Nhơn chúng tôi tiếp tục đợi tàu hơn một ngày, một đêm. Sáng hôm sau, tiếng các mẹ gọi con í ới xôn xao góc biển. Bọn trẻ chúng tôi đang chạy theo bắt con còng. Tiếng má tôi hớt hãi: “Các con ơi, tàu đến rồi! Về để xuống tàu mau”. Cùng đi trên chuyến tàu này, có gia đình các chú: Nguyễn Khoáng (Mịch Quang), Trinh Đường (Trương Đình), Nguyễn Thành Long, Vương Linh (Lê Công Đạo) Hoàng Châu Ký (cha nhà thơ Ý Nhi), Nguyễn Khánh (Khánh Cao - cha NSND Trà Giang),.. và gia đình bà Cán (có chồng bị ta bắn oan tại Qui Nhơn).

Trước khi đi, ba tôi - thi sĩ Yến Lan, bảo không cần mang nhiều đồ, bởi ra tới Bắc là nhà nước cấp phát đồ dùng cần thiết cho chúng ta ngay. Vì khoái đồ mới nên cả chăn màn má cũng không thèm mang theo; giờ thấy hối hận, cứ chép miệng hoài! Đêm trên tàu lạnh quá! Càng xa quê cái lạnh càng khủng khiếp! Nằm cạnh tôi là bạn Cu-Bê (tức Chương, sau này học khóa Vũ Trang Trường Đạo tạo cán bộ Công an), con trai cô Trợ Thược. Cô thì mang theo nhiều thứ lắm, có chăn đắp ấm nên bạn ấy ngủ rất ngon. Còn chị em tôi nằm co ro, khóc ti tỉ: “Má ơi! lạnh quá, lạnh quá má ơi…!”. Nghe tiếng khóc, cô đưa cho mượn cái bao tải. Thế là chị em tôi chui tọt vào và nằm úp thìa, ngủ đến sáng bạch.

Sau ba ngày, ba đêm lênh đênh trên biển, không thấy đâu là bờ. Rồi, bỗng nhiên, tàu khựng lại, mọi người ngơ ngác. Thì ra, tàu Ba Lan chở chúng tôi quá lớn, không vào được cảng Cửa Hội. Tàu “Há mồm” tiếp tục đưa chúng tôi đến chặng còn lại. Tàu này là tàu chiến của đối phương (Pháp), như chiếc xà lan lớn, đen, không trần, làm nhiệm vụ trung chuyển người ra tàu lớn hoặc ngược lại. Sang tàu, cô chú lớn bước qua tấm gỗ dài bắt ngang giữa hai tàu; trẻ con được các chú Ba-Lan ném từ tàu này sang tàu kia hệt như họ đang chơi trò bóng ném với nhau. Nhìn các chú ném bạn, tôi đứng sau sợ bị rơi xuống biển. Vậy mà, các chú thao tác rất nhịp nhàng, chính xác, chuyên nghiệp như xiếc. Sau này, tôi nghe nói, cả cuộc di chuyển lớn từ Nam ra Bắc, chỉ một lần làm rơi bé gái và người bị rơi không ai khác, chính là cô họa sĩ Ngoa - bạn của tôi (cùng bay ra Hà Nội dự lễ đợt này).

Chiếc tàu Há mồm chạy dọc dòng sông Luộc, rồi vào Bến Quí Cao để đổ đoàn người lên thị xã Ninh Giang. Trên bờ, người ra đón Đoàn đã dàn thành hai hàng, dài theo bước chân chúng tôi tiến vào. Nào băng khẩu hiệu “Nhiệt liệt chào mừng đồng bào miền Nam ruột thịt”, nào cờ, nào trống rình rình, rất nhộn nhịp, rất đỗi thân thương. Chân tôi bước trên thảm ốc đẹp, đầy sắc màu (loại ốc sau này ngành du lịch tận thu làm dây chuyền bán cho khách tham quan) nghe lạo xạo vui tai; tôi thích quá, muốn cúi xuống vốc một nắm để chơi, nhưng không thể được. Các cô, các bạn thiếu nhi, nhi đồng Miền Bắc, hết người này đến người khác vít đầu, vít cổ, ghì lấy chúng tôi mà hôn mà hít (các bạn rất thạo việc này, chắc đã được học để đón tiếp rồi).

Một cô chừng bằng tuổi má, hàm răng đen bóng, dẫn chúng tôi vào gian nhà ngói rộng thênh thang, có sức chứa hàng trăm người. Có lẽ, đó là ngôi nhà nguyện của người theo đạo Thiên Chúa. Cô chỉ chỗ nghỉ ngơi và tắm giặt. Đã hơn ba ngày chúng tôi chưa tắm, ngứa lắm rồi! Đặc biệt, không thấy bóng đàn ông khỏe mạnh nào cả; có lẽ họ ra trận hết rồi! Trong làng chỉ có người già, trẻ em lớn hơn hoặc bằng tuổi bọn tôi thôi! Tôi lên tám tuổi, nhưng cảm nhận được tấm lòng của các cô miền Bắc thật chu đáo, lo chỗ ăn, ở, đi lại cho cả đoàn. Không biết vì sao, tối đó, chúng tôi được ăn bữa cơm trên sân gạch mà thấy ngon chưa từng có! Có lẽ bữa cơm ấy có độn thêm tấm lòng của bà con miền Bắc đối với bà con miền Nam chăng?

Sáng hôm sau, tôi thấy nhớ nhà ra đứng trước biển, hướng mắt về phía con tàu Há mồm đã quay đi, để định hướng nhà mình. Song, chỉ có màu xanh mênh mong của trời, biển mà thôi!..

Hôm sau nữa, mẹ chị Trà Giang giúp cô miền Bắc, cấp phát đồ dùng thiết yếu cho mọi người. Giọng cô vang to trong ngôi nhà nguyện: “Mỗi nhà cử đại diện đến kho số 1 lãnh chăn mền, áo ấm. Các cháu thiếu nhi, nhi đồng đến kho số 2 nhận áo len”. Cậy quen, tôi leo lên để chọn. Tôi sục sạo trong đống, cầm màu xanh, màu đỏ… giơ lên hỏi: “Màu này được không thím”. Chọn áo len trên núi áo, giống như chọn hoa trong rừng hoa, khó thật! Thấy vậy thím Khánh bảo: “Con lấy áo màu cà phê sữa trông sang hơn”. Thế là tôi lấy áo màu cà phê sữa. Chiếc áo này đã sưởi ấm tôi suốt thời niên thiếu trong Trường Học sinh miền Nam ở Hải Phòng.

Rồi hôm nữa, cô phụ trách cho tự do đi tham quan thị xã Ninh Giang. Chị em tôi lẽo đẽo theo chân các mẹ vào chợ Vé. Chợ này có nhiều thứ lạ mắt, đặt biệt có nhiều thúng đựng cào cào luộc. Tôi hỏi cô bán hàng: “Con này để làm gì mà ở đây bán nhiều thế thím?”. Cô nhìn tôi triều mến, vì biết chúng tôi mới ở Nam ra, nhẹ nhàng bảo: “Cháu đừng gọi bằng thím, gọi là cô nhé” rồi cười toe toét, để lộ hàm răng đen đã bạc màu, nói: “Đây là tôm bay, rang mỡ thật giòn, ăn ngon lắm, bảo mẹ mua ăn thử!” Chả biết ngon cỡ nào, nhưng tôi gớm lắm. Song, hôm sau, trong bữa ăn của đoàn, tôi thấy có cẳng châu chấu bự nữa kia!
Hết thời gian nghĩ lấy sức, người lớn phải đi nhận công tác theo ngành, nghề đã khai trong lý lịch. Còn lũ nhóc, từ bảy tuổi trở lên theo chú phụ trách nhập vào các Trường Học Sinh Miền Nam. Đó là các con em cán bộ tập kết: “Nhằm đào tạo một thế hệ cán bộ mới, vừa hồng vừa chuyên cho miền Nam sau này.” Vì thế, Bác Hồ rất quan tâm đến mọi sinh hoạt, đời sống của HSMN, đã chỉ thị: “Tất cả vì con em Miền Nam ruột thịt”.

Trước tiên, chúng tôi được chuyển về Tân Đệ - Thái Bình. Ở đây nhà trường chia trường, lớp theo học lực và tuổi. Mỗi lớp khoảng 35, 40 em; ở nhờ nhà dân; mỗi nhà từ 3 đến 5 em. Nhân dân miền Bắc, lúc này, còn quá nghèo; có nhà chỉ độc chiếc giường tre, vậy mà nhường cho chúng tôi, gia đình trải chiếu nằm đất. Dẫu việc ăn, ở, học lúc đầu chưa ổn định, nhưng nhà trường cố gắng, năng động để chúng tôi kịp vào học niên khóa năm 1955-56. Lớp học rất cơ động; chỗ nào có bóng râm, sân nhà nào rộng là có thể tận dụng để chúng tôi đến lớp. Bạn nào mượn chủ nhà được ghế xếp là ngon lắm. Phần lớn chúng tôi lấy gạch lót lá ngồi nghe giảng bài. Tối, ngồi ở giường, mỗi bạn được phát một cây đèn dầu. Chúng tôi chăm học, hồn nhiên trong đại gia đình HSMN ngay từ thuở ấy. Mỗi lớp, có một cô bảo mẫu, một giáo viên chủ nhiệm. Cô bảo mẫu thì lo về vệ sinh, tắm giặt cho chúng tôi; cô chủ nhiệm lo học tập, sức khỏe, đạo đức… Tuy nhiên, thời gian này, có lúc chúng tôi sợ là "giặc" ghẻ, chấy, rận, rệp…

Giặc ghẻ:

Lớp học đông, một cô bảo mẫu. Cứ ba ngày cô tắm cho cả lớp. Chúng tôi sắp hàng dọc, hoặc túm tụm lại, cô dội một loạt cho ướt người, đứa này kỳ lưng cho đứa kia, xong quay lại, đứa kia kỳ cho đứa này, rồi cô dội lần nữa là xong. Quần áo của 40 đứa giặt trong chậu tôn. Đúng 3 nước đem phơi. Thế là con ghẻ của đứa này tự do đi lại vào lai quần, áo đứa kia. Thành ra, một đứa bị ghẻ, lây cho cả lớp. Tối đến cả lớp đều “sột soạt gảy đàn”.

Giặc rận:

Ở thế kỷ 21, nói đến chấy rận, các bạn sẽ ngơ ngác, không hiểu nó là sinh vật gì, từ hành tinh nào rơi xuống. Ai hình dung ra nổi; bởi giờ, trên con đường hội nhập, xã hội loài người đã và đang sống trong điều kiện siêu hiện đại; điện, nước, giường nệm, máy lạnh, lò sưởi, máy nước nóng v.v...Thời đó, chúng tôi, tuy được ưu tiên hết cỡ, nhưng đất nước đang chiến tranh, bị chia cắt, mọi thứ đều khan hiếm, thiếu thốn và phải ưu tiên cho chiến trường. làm sao được như hiện nay! Chúng tôi thì quá nhỏ để tự chăm sóc. Mà không biết cái loài hút máu này, từ xó xỉnh nào chui ra, chiếm cứ rồi “đóng đô” vào lai quần, lai áo chúng tôi. Tôi cam đoan rằng, không bạn nào lớp tôi thoát khỏi nạn khủng bố của loại giặc này, nhưng, không ai dám nói ra, vì sợ bị chê ở bẩn, vì thế chúng có cơ hội xây dựng “đế chế” trên áo quần theo cấp số nhân. Rận giống con chấy, nhưng thon và trắng hơn, nó sống ở kẻ các đường may và đẻ trứng dọc theo đó. Diệt không xuể! Chúng tôi phải dùng chai cà như má cà đậu xanh ở nhà để nấu chè vậy. Trứng vỡ kêu bùm bụp nghe sướng tai lắm nhé!

Giặc chấy:

Chúng cắn ngứa khó chịu, phải cào chảy máu mới đã. Cào đến loét da đầu. Em Tú Thủy bị chấy cắn lở đầu, cô bảo mẫu cạo trọc đầu nó rồi bôi phẩm xanh. Đúng lúc, ba tôi tìm đến thăm. Từ xa, ông nhận ra nó đứng cùng đám bạn với cái đầu xanh lè, trọc lóc. Nó thấy ba, mừng quá, miệng méo xệch. Ba tôi thấy con như thế, tội quá, xin phép nhà trưởng cho về gia đình chăm chóc, hết ghẻ trả lại. Nhưng thấy con còn nhỏ, ba tôi để nó ở nhà không đưa vào trường nữa.

Bài thơ Bẻ liễu ra đời, là lúc ông dẫn nó về. Đó là bài thơ ca ngợi thành tích của Kế hoạch 5 năm đầu Hợp tác hóa nông thôn Miền Bắc:

Đi qua đường Tân Đệ - Thái Bình
Cha bẻ cho con cành dương liễu xanh
Hỡi con gái lớn theo lòng Hà Nội
Vườn phố con đi chen đầy cây cối
Có lạ gì một nhánh liễu rung rinh
Bẻ cho con nhành dương xanh biếc
Trên quãng đường xưa lên bờ tập kết
Cha dẫn con về một lớp học miền Nam
Tạm ở Thái Bình giữa xóm mái tranh lam…

Ở Thái Bình vài tháng thì chúng tôi chuyển về Sơn Tây, rồi đến Hải Phòng. Hảì Phòng, nơi đã nuôi dưỡng, giáo dục chúng tôi trưởng thành. Nhóm từ “Hải Phòng với Học sinh Miền Nam” đã trở thành câu thân quen đối với chúng tôi là như vậy đó.

L.B.T
(Trích Hồi ký Về người cha thi sĩ của LÂM BÍCH THỦY)
Thời gian qua, Ban liên lạc Hội học sinh miền Nam trung ương, phối hợp với Sở giáo dục-đào tạo Hải Phòng và một số ban ngành, tổ chức thành phố, vận động quyên góp xây dựng biểu tượng kỷ niệm học sinh miền Nam tại Hải Phòng. Biểu tượng được hoàn thiện vào ngày 10/12/2014, nhân kỷ niệm 60 năm Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc, biểu tượng có chiều cao 3,95m, với hình tượng đôi bàn tay to lớn (tượng trưng cho Đảng bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng - địa phương có nhiều trường học sinh miền Nam đóng quân nhất miền Bắc lúc bấy giờ, nơi đã nuôi dưỡng, đào tạo các cựu học sinh miền Nam trong những năm từ 1955 - 1965) đang ôm ấp, che chở cho “Hạt giống đỏ” (tượng trưng cho cựu học sinh miền Nam), đặt trên nền đá tảng và thảm cỏ xanh, trong khuôn viên rộng 56,32m2 của vườn hoa Nguyễn Du.


Sáng cùng ngày, tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Hải Phòng, điểm Trường học sinh miền Nam số 6 năm xưa, Công đoàn ngành Giáo dục và Hội Cựu giáo chức thành phố phối hợp tổ chức buổi gặp mặt, giao lưu với đoàn cựu học sinh miền Nam gồm 80 thành viên thăm lại thành phố.

07 tháng 6 2011

Miền Nam dưới thời ngụy là 'giàu nhất châu Á'

Mỹ giàu nhất thế giới cộng với sức mạnh của một nước 'giàu nhất châu Á' mà không ngăn chặn được CS ở một nửa miền Nam thì hóa ra CS là thánh thật à?! Hãy thử tưởng tượng sức mạnh kinh tế của Mỹ và Nhật ngày xưa cộng lại thì nó sẽ là như thế nào?
Là một nước 'giàu nhất châu Á', nếu không tự sản xuất được vũ khí thì ngụy cũng phải có tiền mua chứ? Đằng này Mỹ dứt bình sữa viện trợ ra là tắt thở ngay là thế nào?!
Nếu giàu có và làm kinh tế có hiệu quả thì người ta đã tranh nhau đầu tư cho vay tiền chứ sao ngay cả Mỹ cũng bỏ của chạy lấy người là sao? Không lẽ tư bản Mỹ và thế giới ngu đến nỗi có tiền mà chẳng ai biết kiếm?!...
Kinh tế VNDCCH thôi thì mủi lòng bỏ qua. VNDCCH ra đời với di sản 1,2 triệu bạc Đông Dương rách nát và 2 triệu người chết đói . Tiền Ông Cụ trên danh nghĩa là dấu ấn độc lập tự chủ nước nhà; thực tế nó chỉ là nắm giấy lộn vật vã tìm đường sống giữa đám quốc tệ - quan kim hỗn xược theo chân quân giải giáp Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc và chết đuối không sủi tăm dưới xấp đầm xòe Ngân Hàng Đông Dương ngạo mạn khoác áo Thập Tự Chinh.
VNCH hoài thai bên hông súng đạn nước Mẹ Đại Pháp trong suốt 9 năm VNDCCH kháng chiến xác xơ tổ đỉa. Ngày lành tháng tốt, Việt quốc (gia) ra đời trong vòng tay âu yếm của người cha tỉ phú Mỹ, dưới lá Cờ Hoa bách chiến bách thắng cả 2 WW. Trong 20 năm tồn tại từ 1955 đến 1975, Mỹ viện trợ kinh tế cho VNCH gần 8 tỷ đô để dựng nước và viện trợ quân sự 16,762 tỉ đô để giữ nước. Ấy là chưa kể đến chi tiêu tại chỗ của lính Mỹ, hàng năm đã đổ thêm cả tỷ đô vào miền Nam Việt Nam. Đấy mới là số lẻ nói chơi, chưa bao gồm các khoản khác tổng cộng lên tới 950 tỷ đô (thời giá 2011) để sao cho VNCH xứng đáng là bang thứ 51 của Mỹ như Philippines đã từng. Trên Wiki, "Kinh tế Việt Nam Cộng Hòa" có ghi, GDP bình quân đầu người là 150USD, cao hơn Thái - Mã - Nam Triều Tiên.

Sunday, May 1, 2011


Nhân ngày 30/4, đọc lại vài dữ liệu cũ


http://en.citizendium.org/images/thumb/0/0f/South_vietnam_ethnic_1972.jpg/180px-South_vietnam_ethnic_1972.jpgThấm thoát mà đã 36 năm. Tính từ ngày 30/4/1975. Nhân dịp đọc một cuốn sách cũ, tôi thấy có vài thông tin về kinh tế của miền nam Việt Nam trước 1975 cũng có ý nghĩa so sánh nào đó ...
Về thu nhập bình quần, theo số liệu kinh tế, GDP bình quân ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150 USD.  Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan.  Ba mươi sáu năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).

Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%.  Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%?

Hôm nọ, khi tôi viết rằng thời trước 1975, du học sinh Thái Lan sang đại học miền Nam học, còn bây giờ thì mình sang đó ... du học. Chẳng có gì xấu hổ. Người ta giỏi hơn mình thì mình học người ta.  Nhưng nói ra sự thật ấy làm tôi nao lòng và buồn về sử đổi đời. Có người từ miền Bắc hỏi tôi có bằng chứng gì giáo dục miền Nam tốt hơn bây giờ? Tôi nói chính tôi là sản phẩm của nền giáo dục thời trước 1975 đây.  Còn hàng vạn "sản phẩm" của nền giáo dục trước 1975 đang ở nước ngoài và họ cũng thành danh, thành tài. Đó là một bằng chứng của nền giáo dục trước kia.

Về trình độ của giới cầm quyền, 36 năm sau nước ta đã có 50% bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ.  Thời trước 1975, tôi không có con số chính xác, nhưng chỉ nhớ số bộ trưởng có bằng tiến sĩ chỉ đếm đầu ngón tay.  Ngay cả ông Hoàng Đức Nhã với bằng thạc sĩ nhưng được giới báo chí và công chúng nể lắm rồi.  Nhưng theo Giáo sư Đặng Phong thì tuy họ học không cao, nhưng trình độ thật thì cao và đáng nể:  “Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng... phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm ... Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng...) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm ... trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc, các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.

Ngày xưa (thời VNCH) cũng có tham nhũng, nhưng hình như bản chất hơi khác với thời nay.  Ngày xưa, giới quan chức VNCH tham nhũng chủ yếu là ăn chận tiền tài trợ của Mĩ.  Thật ra, tham nhũng của VNCH là có lợi cho cách mạng, vì lợi dụng đó mà du kích mới có tiếp viện!  Tham nhũng thời VNCH theo Gs Đặng Phong là “một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng”.  Còn ngày nay, cứ như báo chí phản ảnh thì quan chức ăn chận tiền của … dân.  Họ cũng ăn chận (hay ăn cắp?) tài nguyên đất nước.  Hình thức tham nhũng nào cũng nguy hiểm, nhưng ăn chận tiền dân và tài nguyên quốc gia thì đúng là nguy hiểm và […].  Giáo sư Đặng Phong nói: “Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn.

Ngày 30/4 thường được nhắc đến như là một “ngày chiến thắng”, “ngày giải phóng miền Nam”.  Đứng trên quan điểm kẻ thắng người thua, thì chắc cũng có lí do để gọi đó là ngày chiến thắng.  Nhưng thử hỏi với cả 4 triệu (?) người phải bỏ mạng trong cuộc chiến đó, cộng thêm hàng trăm ngàn bỏ mạng trên biển, và 3 triệu người lưu vong, thì chiến thắng đó có vẻ vang không?  Chẳng lẽ ăn mừng chiến thắng trên xác người?  Còn giải phóng thì có nghĩa là giải phóng từ nô lệ, gông cùm của bọn đế quốc, nhưng trong thực tế ngày xưa đâu có nô lệ, và bọn đế quốc Mĩ cũng đâu có gông cùm gì; chúng vẫn phát triển giáo dục tốt, hệ thống y tế tốt, kinh tế gia đình khá no ấm, học trò lễ phép, báo chí nói khá thoải mái (diễu cợt ông Thiệu, ông Kỳ liên miên).  Do đó, hai chữ “giải phóng” e rằng không thích hợp với thực tế của những con số vừa trình bày.

Hóa ra, thời trước 1975 cũng không đến nổi tệ, nếu không muốn nói là có nhiều khía cạnh tốt hơn hẳn ngày nay. Nhớ có lần bà con tôi là bộ độ tập kết vào tiếp quản miền Nam, các chú và cậu đem mấy con gà và vài lít gạo cho nhà tôi, vì tưởng tụi tôi đói khát lắm và nghèo lắm. Đến khi lên nhà, bà con tôi hết sức ngạc nhiên vì họ không ngờ tôi có xe Honda lại còn đeo đồng hồ 2 cửa sổ không người lái nữa chứ, còn gia đình tôi có độ 100 công đất và 3 chiếc máy cày!  Vài năm sau, tôi mất cái Honda, và lưu lạc xứ người, còn gia đình thì còn đúng 5 công đất. Ba mươi sáu năm mà vẫn chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiêm chỉnh để trả lại sự thật cho lịch sử. Nhưng may thay, có nghiên cứu của Gs Đặng Phong đã để lại vài dữ liệu có ý nghĩa. Xin xem bài trả lời phỏng vấn dưới đây của Gs Đặng Phong để có cái nhìn khách quan hơn về thời trước 1975.

NVT

====


Tư sản hôm qua, hữu sản hôm nay
Hân Hương thực hiện
Người Đô thị, Tháng 5/2008
Trong giới sử học, ông thuộc số ít viết sử kinh tế. Người như ông, GS Đặng Phong - tác giả của hàng chục ngàn trang sử kinh tế VN, còn ít hơn nữa. Ông bảo: “Nền kinh tế miền Nam trước 1975 phồn vinh thật nhưng giả tạo ở chỗ nó không tự nuôi nổi nó”. Báo Người Đô Thị xin giới thiệu cùng bạn đọc bài phỏng vấn GS Đặng Phong, thuộc ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội trong chuyên đề “Sài Gòn-TPHCM năm thứ 33: Nhận định bản sắc, phát triển tiềm năng”
Ông mời tôi ăn cơm trưa: "Có cá diếc kho tương và rau muống học trò vừa mang đến. Đừng ra quán, tôi mà thấy “chúng nó” hét dzô, dzô... không nuốt nổi". Ăn lối nhà quê, nhưng ông hút xì gà và có cả một bộ sưu tập tẩu Tây sang trọng.

Người ta sợ tôi bị “mua”
Thưa, ông học kinh tế trong nước, sao lại qua Pháp giảng dạy?
- GS Đặng Phong: Tôi học ĐH Kinh tế Quốc dân ở Hà Nội, rồi làm tổng biên tập tờ Vật giá của Ủy ban Vật giá Trung ương. Đến 1988, cao trào thời kỳ đổi mới, Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp quốc (FAO) dành cho VN 2 suất học bổng Học viện Nông nghiệp Địa Trung Hải (TP Montpellier – Pháp). Trường này nổi tiếng, các tiền bối GS Nguyễn Mạnh Tường, GS Phạm Huy Thông, GS Đỗ Đình Thiện... ở đó ra. Tôi cũng bất ngờ vì họ chọn mình, luận văn kết thúc khóa học của tôi là: “Chế độ thu mua thóc ở VN”, được đánh giá tốt, có lẽ vì thế ông thứ trưởng Bộ Giáo dục Pháp mời tôi ở lại giảng ở trường ĐH Paris VII.
Nghe nói ông từng bị “đả đảo” ở Mỹ?
- Việc tôi du học Pháp, được họ giữ lại giảng dạy là “chuyện động trời” đối với một trí thức xã hội chủ nghĩa. Thêm chuyện trường ĐH Irvine (bang California - Mỹ) mời tôi từ Pháp qua luôn với họ, dư luận xôn xao rằng tôi đã “bị phương Tây mua rồi”. Ngại bị hiểu lầm, nên sau khi trao đổi thẳng thắn với một cán bộ đại sứ quán ta ở Pháp, tôi quyết định trở về nước. Rồi từ VN tôi mới qua Mỹ vào năm 1991.

Buổi giảng đầu tiên tại Irvine “Thực trạng kinh tế VN” khá ồn ào vì bị một số Việt kiều biểu tình “đả đảo”, đòi “Đặng Phong hãy nói về nhân quyền!” Họ đòi bằng được phải có đại diện vào giảng đường chất vấn. Tôi đồng ý, có ba người xấn vào nóng nảy lên án tình trạng tham nhũng ở VN và chính quyền tham quyền cố vị. Về tham những, tôi nói đúng có tham nhũng - nhưng chính quyền Sài Gòn trước kia tham nhũng gấp 10 lần cơ. Tôi làm sử kinh tế, có đầy đủ số liệu chứng minh, họ chịu. Còn tham quyền cố vị, thì chính quyền Thiệu, Kỳ... không hề muốn xuống ghế. Vì bản chất người cầm quyền có ai chịu tự nguyện rời chức vụ đâu? Tôi cũng chỉ là một công dân, có nguyện vọng chính quyền không nên tham quyền, và được bày tỏ nguyện vọng đó như mọi công dân khác.

Sau này trở thành bạn bè, thỉnh thoảng qua Mỹ tôi lại gặp họ trò chuyện. Tôi có một kinh nghiệm rằng đừng nổi nóng, đừng vội quy kết ta-địch, mình có sai lầm thì thừa nhận, sửa chữa - sự tử tế là cách thuyết phục nhau tốt nhất.

Nhặt tiền lẻ xây được nhà lầu?
Năm 1975 ở R về Sài Gòn, khá “choáng váng” trước cảnh phồn vinh của đô thị này, tôi được nghe giải thích sự phồn vinh ấy chỉ là giả tạo?
- Phồn vinh là thật đấy! Miền Nam VN dân số trước 1975 chừng 17 triệu, trừ số dân thuộc vùng giải phóng, còn khoảng 8 triệu người. Sở dĩ họ giàu là nhờ nguồn viện trợ khổng lồ của Mỹ bằng 4 con đường chính.

Thứ nhất, bình quân mỗi năm Mỹ đổ vào Nam VN 1 tỉ USD. Con số đó không thấm tháp gì so với vốn nước ngoài bây giờ đầu tư vào VN – nhưng xin nhớ dân số VN nay khoảng 84 triệu. 1 tỉ USD chia bình quân cho 8 triệu người, vẫn là lớn. 1 tỉ USD trút vào nuôi bộ máy Nhà nước, binh lính - thu nhập của họ rất cao. Cấp thiếu úy được nhà riêng (gia binh), một tổng trưởng (bộ trưởng) lương trị giá 10 cây vàng/tháng.

Thứ hai, chi phí chiến tranh (nằm ngoài 1 tỉ USD viện trợ - có thời kỳ lên đến 28 tỉ USD/năm, như các năm 1967, 1968). Mỹ quản lý nhưng vẫn rơi vãi vô khối ra dân sự. Riêng vỏ đạn cũng đủ tạo ra 7 nhà máy đồng, xác chiến xa và các loại vũ khí... là đầu vào của các nhà máy cán thép, dù miền Nam làm gì có mỏ sắt. Chi phí quân sự đã trở thành kinh tế dân sự.

Thứ ba, cũng nằm ngoài 1 tỉ USD viện trợ - là sức chi tiêu tại chỗ của nửa triệu binh lính Mỹ, bình quân 1 người 800 USD/tháng. Khoản tiền khổng lồ này tạo ra vô khối ngành dịch vụ và thu nhập cho người dân. Câu “nhất Mỹ, nhì lô, tam cô, tứ tướng” là vậy. Tôi quen một chủ tiệm giặt là từng nhận thầu giặt đồ cho lính Mỹ. Anh ta bảo chỉ nhặt tiền lẻ trong đống quần áo, gom lại trong 1 năm xây được nhà 4 tầng lầu và anh ấy có đến dăm cái tiệm như thế ở các quận Sài Gòn.

Thứ tư, ngoài 1 tỉ USD tiền còn các khoản viện trợ thường xuyên bằng hàng hoá do người Mỹ chỉ định mua từ nước nào, hãng nào, loại hàng gì, theo giá nào... để giải quyết cán cân thương mại giữa Mỹ và các nước đồng minh. Cách làm này tạo ra vô số nhà máy đường, nhà máy dệt v.v không trồng mía, bông – nhưng nhập nguyên liệu từ Indonesia, Malaysia, Nhật Bản... để sản xuất.

Có thể nói chiến tranh là bầu sữa quan trọng nhất của nền kinh tế Nam VN trước năm 1975. Nó tạo ra cuộc sống phồn vinh thật ở các đô thị miền Nam (vùng nông thôn rất nghèo khổ). Nhưng đó là nền kinh tế không nuôi nổi nó.

Bộ máy kinh tế giỏi
Không nuôi nổi nó, cần gì một bộ máy vận hành kinh tế giỏi?
-Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng... phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm..., Ngô Đình Diệm là ông quan của triều đại phong kiến. Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng...) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm... trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc, các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.

Theo ông, có thể kế thừa công nghệ quản lý nền kinh tế đó?
- Rất tiếc chúng ta xóa bỏ bộ máy điều hành kinh tế miền Nam nhanh quá. Tới Đại hội Đảng VI đã ghi nhận sai lầm do chủ quan, nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhiều chuyên gia kinh tế đã ra đi...

Nhưng bây giờ chúng ta lại có nhiều doanh nhân làm kinh tế giỏi?
- Marx nói “Giai cấp tư sản đã tạo ra sự phát triển trong 100 - 200 năm bằng tất cả lịch sử của nhân loại”. Tức là tư sản tạo ra sự tăng trưởng. Trước kia ta đánh tư sản mại bản (xuất nhập khẩu hàng hóa), giờ ta khuyến khích xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ và nhập máy móc của họ. So với mại bản trước 1975, thì mại bản bây giờ (trong công nghiệp, tài chính, hàng không) quy mô lớn hơn nhiều. Sự tăng trường ấy tốt về số lượng, nhưng quản lý tồi.

Chúng ta đánh đổ giai cấp tư sản cũ, nhưng phải xây dựng được tầng lớp hữu sản mới. Sự ra đời của tầng lớp này là cần thiết, chứ với chỉ “lực lượng lao động hợp tác xã” thì chết. Nhưng đó phải là một tầng lớp hữu sản có văn hóa và có lương tâm. Con đường ra đời giai cấp này trên thế giới khác ta- bằng cách cướp bóc thuộc địa, gây chiến tranh. Ở ta, ra đời bằng cách đánh đổ giai cấp tư sản cũ - nằm trong diễn biến chung của các nước xã hội chủ nghĩa.

Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn...

Nhưng chính quyền Sài Gòn trước 1975 tham nhũng ghê gớm?
- Đó là một trong các nguyên nhân lớn của sự sụp đổ. Quân đội thì nhận hàng của Mỹ, tuồn ra ngoài, lợi dụng chiến tranh nhiều rủi ro không kiểm soát nổi. Chính quyền dân sự thì ăn vào các dự án, bệnh viện Vì Dân (Thống Nhất bây giờ), sân bay Tân Sơn Nhất... là vài ví dụ. Tướng tá, quan chức thầu công trình, đường sá... rồi bán thầu cho Hoa kiều. Tướng Đồng Văn Khuyên thầu hết các bãi rác quanh các căn cứ quân sự (tivi, honda, tủ lạnh cũ...) chuyển thành hàng secondhand cho dân Sài Gòn v.v... Tất nhiên sự tham nhũng ấy có lợi cho ta. Nhờ thế ta mua được xăng, gạo, thuốc men, vũ khí... Đó một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.

Làng Yên Phụ cổ của ông giờ nằm kẹp giữa hai con đường đang mở. Đô thị hóa đến tận nhà rồi, miếng đất 150m² này đã đưa ông thành người hữu sản?
Năm 1975 dọn từ phố ra làng, tôi mua nó giá 1,5 cây vàng. Bây giờ 7 cây vàng/m2, tài sản của tôi tăng 1.000 lần, mà không cần làm gì. Chiếm hữu thật nhiều đất đai là cũng là con đường "nâng giai cấp" của người Việt hiện nay đấy, anh bạn.


Hơn và kém xưa
Tròn 33 năm giải phóng miền Nam, GS Đặng Phong nhận xét về đời sống người dân đô thị miền Nam trước 1975 và ngày nay:
- Mức sống vật chất bây giờ rõ ràng là cao hơn trước đây rất nhiều. Thu nhập, tiện nghi, nhà cửa, phương tiện đi lại, mức ăn, mặc... đều vượt xa Sài Gòn trước đây, nếu nhìn trên bình diện chung của toàn xã hội. Riêng một số tầng lớp trên - thì ngày xưa giới thượng lưu giàu có không nhiều và cũng không giàu như những triệu phú đô la ngày nay.
- Về mức an toàn của cuộc sống thì trước đây rất kém, vì có chiến tranh. Nhà nào cũng có người đi lính, nếu muốn tránh đi lính thì phải trốn, phải chạy vạy, đút tiền. Cái chết đe dọa, rình rập tất cả các gia đình ở thành thị. Xe của cảnh binh có khi chặn ngay ở các cửa trường để bắt lính. Đến năm 1975 thì hầu như nhà nào cũng có bàn thờ một hay hai đứa con chết trận. Còn bây giờ đã có hòa bình, người ta không sợ đi bộ đội, thậm chí người ta còn chạy vạy để được đi bộ đội, để học các trường sĩ quan. Vào quân đội bây giờ không bị cái chết đe dọa mà lại được đảm bảo cuộc sống, vị trí xã hội. Trong đời sống hiện nay cũng có nhiều khía cạnh không an toàn như những vụ trấn lột, chém giết, cướp bóc... Nhưng đó chỉ là những hiện tượng cá biệt, đột xuất. Cuộc sống hằng ngày của người dân nói chung rất an toàn. Thậm chí có thể nói cuộc sống ở VN là một trong những nơi an toàn nhất thế giới. Không có khủng bố, không có phe này phái kia đánh nhau, trừng trị nhau, không có lật đổ, không có bạo loạn... Mọi người được yên ổn làm ăn.
- Cuộc sống văn hóa và tinh thần thì có thể nói thời trước có hai mặt của nó. Một mặt là sự hiện diện của quân đội Mỹ và quân đội đồng minh để lại những ảnh hưởng rất xấu trong xã hội. Đó là tệ nạn đĩ điếm, ma cô, chạy theo đồng đô la một cách khá trắng trợn. Chính người dân miền Nam thời đó cũng phản ứng rất gay gắt. Nhưng mặt khác, cuộc sống xã hội và tinh thần trong nội bộ xã hội Việt Nam, trong trường học, trong công sở, trong các gia đình, xóm giềng, bạn hữu... lại là quan hệ có nề nếp, có văn hóa. Học trò lễ phép với thầy, vợ chồng, cha con, mẹ con thương yêu gắn bó với nhau. Thời đó học trò ra đường không hỗn láo như bây giờ. Không có hiện tượng chửi thề, các quan chức cũng có chơi bời nhưng không tệ hại tới mức như một số quan chức hiện nay. Công an thời đó ít có hiện tượng chặn đường để ăn tiền mãi lộ một cách phổ biến như ngày nay. Xin giấy tờ ở cấp này cấp kia cũng không phải đút lót một cách phổ biến, đặc biệt là trong trường học thì tình trạng chạy điểm, mua điểm, ném phao, quay cóp gần như không có. Có thể nói, so với xã hội trước đây thì trên một số khía cạnh nào đó, cuộc sống văn hóa và tinh thần hôm nay đã xuống cấp nghiêm trọng... Những trí thức trước đây, công chức trong công sở là những người có tư cách, đàng hoàng, cả nói năng và hành xử rất có văn hóa. Còn bây giờ, một tỉ lệ đáng kể công chức và cả một số trí thức cũng không có được một phong độ văn hóa như trước đây.
- Các nhà kinh doanh, trước đây hầu hết là tư nhân. Ngày nay kinh doanh tư nhân cũng phát triển khá mạnh, nhưng doanh nghiệp quan trọng nhất vẫn là doanh nghiệp quốc doanh. Xét riêng khu vực tư nhân thì trước đây những nhà kinh doanh tư nhân phần lớn là những người đã có truyền thống từ nhiều đời để lại. Họ có kinh nghiệm, họ có văn hóa, họ có bạn hàng, họ có thị trường, có những quy tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh. Kinh doanh tư nhân hiện nay là một tầng lớp mới lên, đa số chưa có nhiều kinh nghiệm, không có truyền thống, mang nặng tính chất chụp giật, tạm bợ, số phận của họ cũng không ổn định.
- Về quản lý và điều hành nền kinh tế, như tôi đã nói sơ trên, cấp điều hành và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn. Họ hiểu luật pháp quốc tế vì đã từng tu nghiệp ở Mỹ, ở Pháp. Họ có phong độ của những nhà quản lý, có kiến thức quản lý. Họ có thể tham dự các cuộc đàm phán quốc tế không cần phiên dịch. Hệ thống quản lý của ta ngày nay về mặt đó là kém hơn. Phần lớn là các cán bộ chính trị của ta tri thức về quản lý vẫn còn bất cập so với những đòi hỏi của một cơ chế kinh tế thị trường hoàn hảo. Trình độ ngoại ngữ cũng như kiến thức chung về xã hội cũng vậy. Do đó, trong sự điều hành gặp nhiều vấp váp. Tình trạng lạm phát, những ách tắc trong đời sống kinh tế như nạn kẹt xe, xây cất lung tung, tai nạn xảy ra liên tục... thể hiện sự bất cập của hệ thống quản lý hiện nay.

Đặng Phong
Nguồn: Người Đô thị, Tháng 5/2008
Trong thời đại thông tin hiện nay chúng ta có cái gọi là 'thánh gúc'.  Có một bộ óc người và 'thánh gúc' thì không khó để tìm ra dữ liệu chuyên môn nhằm kiểm chứng độ xác thực của những tuyên bố trên mạng vì như trường hợp câu nói được nhét vào mồm LQD, người dùng óc người có thể dễ dàng nhận ra sự vô lý của nó.
1- Ngưỡng đói nghèo
Nếu lấy ngưỡng nghèo tuyệt đối của WB là 1USD/ngày thì GNP per capita 150USD chưa tới 0,5USD 1 ngày ===> phồn vinh Miền Nam qua bộ ảnh Sài Gòn lộng lẫy trước 1975 là giả tạo, như lâu đài trên cát. Chính vì giả tạo nên Sài Gòn sụp đổ rất nhanh, chỉ trong vòng 1 tháng tổng tiến quân của quân Bắc Việt.
2- Tỉ giá quy đổi: 150USD là giá trị quy đổi theo tỉ giá nhà nước.
Năm 1955, tỉ giá nhà nước 35:1, chợ đen tót lên 180, gấp gần 6 lần. Năm 1966, nhà nước 118/ chợ đen gần 1.000, năm 74 685/4.000 vì khi này Mỹ đã rút quân, cắt giảm viện trợ. Đồng tiền mất giá khủng khiếp.
3- Thống kê GNP của VNCH: Con số 150USD là trung bình cộng của các năm từ 1957 đến 1963:
- So sánh hơn với Nam Triều Tiên không có giá trị vì HQ kết thúc chiến tranh năm 53 với nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, đồng won mất giá chóng mặt, từ 15w ăn 1 đô năm 45 ngã nhào xuống 6.000w năm 1962. Trong khi ấy, Sài Gòn đã có 2 năm xây dựng Thiên Đường bằng tiền bạc Mỹ.
- Thống kê thiếu mất 2 năm đầu 1955 - 1956 và 11 năm cuối từ 1964 - 1974. Vắng tổng cộng 13 năm/20 năm nên con số GNP 150USD không thể đại diện cho VNCH để kết luận miền Nam trước 1975 giàu hơn cả Nam Triều Tiên - Thái.
3- Vai trò của viện trợ Mỹ: Ttrích từ các cuốn sách:
- Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả, Hà Nội.
- Phạm Thu Nga (2004), Quan hệ Việt - Mỹ 1939 - 1954, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Đăng Hinh (Cb), (2002), Chính sách kinh tế Mỹ dưới thời Bill Clinton, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nôi.
- Nguyễn Thái Yên Hương, (Cb), (2005), Can thiệp nhân đạo trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
3.1. Viện trợ của Hoa Kỳ cho thực dân Pháp và Chính phủ Bảo Đại
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ở Đông Dương mặc dù bề ngoài Hoa Kỳ giữ thái độ trung lập nhưng thực chất bên trong, quốc gia này ngày càng quan tâm và chú ý đến Việt Nam và Đông Dương. Trước sự lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc và nhằm ngăn chặn nguy cơ cộng sản ở Đông Nam Á, Hoa Kỳ ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, Hoa Kỳ và Pháp bắt tay vào xây dựng và ủng hộ các chính quyền thân Pháp tại đây. Riêng ở Việt Nam, Hoa Kỳ và Pháp đã dựng nên chính quyền tay sai thông qua sự lựa chọn “giải pháp Bảo Đại”, do đó “cỗ xe” Bảo Đại “do Pháp kéo, Mỹ đẩy” [ĐP, tr. 187].
Ngày 30/9/1949, một phái đoàn nghị viện Hoa Kỳ được cử sang nghiên cứu việc trợ giúp Đông Dương. Ngày 28/11/1949, Hoa Kỳ chính thức mời Chính phủ quốc gia Bảo Đại sang thăm Hoa Kỳ. Trong vấn đề viện trợ cho Đông Dương, giới quân sự Hoa Kỳ, cụ thể là các tham mưu trưởng liên quân nhận định tình hình Đông Dương ngày càng xấu đi, họ gây sức ép buộc Quốc hội phê chuẩn nhanh viện trợ quân sự, kinh tế cho Pháp. Đồng thời nêu ra nguyên tắc viện trợ phải gắn liền với chương trình chính trị và kinh tế. Đầu năm 1950, Hoa Kỳ cử Philip Jessup và phái đoàn kinh tế, quân sự sang Việt Nam. Ngày 15/2/1950 Quốc hội Hoa Kỳ quyết định viện trợ cấp tốc 15 triệu USD cho chính quyền Bảo Đại. Cuối tháng 5/1950, một phái đoàn viện trợ Hoa Kỳ được quyết định thành lập có trụ sở tại Sài Gòn. Tháng 9/1950, phái đoàn cố vấn quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được thành lập ở Việt Nam.
Từ tháng 7 - 8/1950, những chuyến hàng viện trợ đầu tiên đã cập bến Sài Gòn. Tiếp theo “những khoản viện trợ cấp tốc 25,5 triệu USD (được thực hiện từ tháng 6/1950), ngày 20/10/1950 Hoa Kỳ lại chấp thuận một khoản viện trợ bổ sung 275 triệu USD chiến phí đồng thời các chuyến hàng viện trợ ồ ạt cập bến cảng Việt Nam” [PTN, tr. 205].
Ngày 7/9/1951, Hội nghị hợp tác kinh tế giữa Chính phủ Hoa Kỳ và Chính quyền Bảo Đại đã đi đến một văn bản quy định Hoa Kỳ sẽ viện trợ kinh tế và kỹ thuật trực tiếp cho Chính quyền Bảo Đại với tên gọi “Hiệp ước Hợp tác kinh tế Việt - Mỹ”. Sau khi hiệp định trên được ký kết, viện trợ của Hoa Kỳ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong ngân sách của Pháp ở Đông Dương “năm 1950 viện trợ của Hoa Kỳ là 50 tỷ France, bằng 19% ngân sách Pháp ở Đông Dương; năm 1951 là 62 tỷ, bằng 20%; năm 1952 tăng lên 200 tỷ, bằng 35%; năm 1953 là 285 tỷ, bằng 43%; năm 1954 là 555 tỷ, bằng 73%. Trong tài khoá năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ thêm cho Pháp 1 tỷ USD” [PTN, tr. 206]. Tuy nhiên, diễn biến thực tế trên chiến trường Đông Dương lại cho thấy liều thuốc viện trợ cũng như hoạt động của hệ thống cố vấn Hoa Kỳ ở Đông Dương tỏ ra kém hiệu lực, không phát huy được tác dụng trong việc đánh thắng cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam.
Tuy viện trợ của Hoa Kỳ cho thực dân Pháp và Chính phủ Bảo Đại đã không làm thay đổi cục diện trên chiến trường, nhưng tác động của nó lên đời sống xã hội Việt Nam ngày càng hiện rõ. Từ đây, người Việt Nam ngày càng nghe nói nhiều đến viện trợ Hoa Kỳ và trực tiếp tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa viện trợ Hoa Kỳ. Điều đó có thể nhận thấy trên bức tranh xã hội Việt Nam: “Ở các đô thị do Pháp chiếm đóng, người ta bắt đầu thấy ngày càng nhiều sữa bột Guigoz, bột Ovemaltine, rượu Whisky, thuốc lá Philip, bút máy Parker. Những thứ đó từ các đô thị bắt đầu lan ra tận các thị trấn nhỏ và các chợ nông thôn” [ĐP, tr. 23]. Trên các ngã đường hành quân của quân đội Pháp, người ta thấy những xe GMC chở lính Pháp mang súng Mỹ, “Qua mỗi năm viện trợ Mỹ một tăng lên nhanh chóng, dần dần nó trở thành nguồn cung cấp chủ yếu cho cuộc chiến tranh của Pháp. Theo tính toán của Pháp, viện trợ Mỹ đã chiếm 80% chiến phí của Pháp: tổng cộng khoảng 1.700 triệu USD” [ĐP, tr. 23].
Từ năm 1950 – 1954, Hoa Kỳ đã viện trợ cho Chính phủ Bảo Đại 23 triệu USD bằng hàng hoá và khoảng 36 triệu USD bằng tiền Việt Nam (Hoa Kỳ có số tiền này do bán hàng, dịch vụ và do Chính quyền Bảo Đại đã cung cấp cho Hoa Kỳ một số ngân khoản để chi tiêu. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn viện trợ thẳng cho Bảo Đại khoảng 15 triệu USD vũ khí, “tuy nhiên, tổng số các loại viện trợ này, khoảng 75 triệu USD vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với số viện trợ cho Pháp” [ĐP, tr. 26].
Với tổng số viện trợ chiếm 80% chiến phí chiến tranh xâm lược Đông Dương, trên thực tế, Hoa Kỳ đã biến cuộc chiến tranh của Pháp thành cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ, biến người bạn đồng minh thành kẻ đánh thuê, xâm lược thuê cho họ.
3.2. Viện trợ Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam (1954 - 1975)
Cũng như giai đoạn trước, trong giai đoạn 1954 - 1975, viện trợ của Hoa Kỳ ở Việt Nam không đúng với mục tiêu của khái niệm viện trợ phát triển chính thức do George C. Marshall khởi xướng năm 1947. Với mục tiêu ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và làn sóng “chủ nghĩa cộng sản”, quyết tâm của Hoa Kỳ đã được khẳng định trong tài liệu mật của Lầu Năm Góc: “Mỹ phải giữ lấy miền Nam Việt Nam, y như đã giữ Nam Triều Tiên và Đài Loan. Ba vùng đó có một tầm quan trọng quyết định đến vị trí của Mỹ ở Đông Nam Á” [ĐP, tr. 15 - 17].
Do đó, mục tiêu của viện trợ Hoa Kỳ tại Việt Nam giai đoạn này là để nuôi dưỡng bộ máy chính quyền bản xứ, thông qua các khoản tiền lương, bổng lộc để nuôi sống bộ máy chính quyền, cảnh sát, quân đội khổng lồ. Có vô số những cai, đội và lính trơn thời Pháp đã được thăng vọt lên cấp uý và cấp tá, “với vài ba trăm triệu USD hàng năm (1954 - 1960) mà dựng được cả bộ máy chính quyền bản xứ, nuôi dưỡng và sử dụng được hàng chục vạn quân đánh thuê là một giá rẻ, nếu thuê Pháp làm việc đó (điều mà Hoa Kỳ đã làm) thì đắt hơn” [ĐP, tr. 31].
Viện trợ và các chi phí của Hoa Kỳ lấy từ ngân sách, ngân sách là tiền đóng góp của nhân dân Hoa Kỳ thông qua thuế, nhưng Hoa Kỳ không đem thẳng tiền mặt cấp cho một nước nào nhận viện trợ cả. Viện trợ hay chi phí đều bằng hàng hoá mua của các công ty Hoa Kỳ vì vậy, viện trợ chỉ là cơ hội để lấy tiền túi của nhân dân Hoa Kỳ bỏ vào túi tư bản Hoa Kỳ.
Nam Triều Tiên là 1 nước bại trận. Sau bao nhiêu đô hộ bởi Nhật Bản, Triều Tiên bị chia cắt làm 2. Cuộc chiến 1950s đã làm kinh tế trì trệ. Xung quanh Seoul vào thời điểm này, không có nổi 1 động vât nào tồn tại. Bởi nếu nó tồn tại thì đã trở thành 1 món ăn tối hạnh phuc cho 1 gia dình may mắn.
Sau năm 1953, Mĩ đổ 3 tỉ USD thời gian hiện giờ là 53 tỉ USD. Số tiền nhanh chóng bay và tan biến như số tiền đổ vào bất cứ đất nước châu Phi nào. Tổng thống hiện giờ là Syngman Rhee với người vợ Italian. Trong số tiền 3 tỉ đô đó, 2,2 tỉ đã bị lãng phí vào việc vớ vẩn. 0,8 đã được chia đều cho các nhà chính trị.
Năm 1960, Nam Hàn với GDP trên đầu người là 155 USD (có vài sources nói là dưới 155 USD).

Năm 1961, Pác Chung Hi, lật đổ chính quyền. Việc đầu tiên ông làm là xử tử 24 quan chức và doanh nhân liên quan đến việc tham nhũng. Việc thứ 2 là bình thường hóa quan hệ với Nhật.
Nhật là ai? Đất nước là giết hơn mấy triệu người dân Triều Tiên. Gái Triều Tiên bị hiếp liên tục. Những đứa bé quá nhỏ thì sẽ bị dùng dao xẻ chỗ ấy to ấy để tiện việc. Trong gia đình cả nhà đang ăn, nếu linh Nhật nhảy vào, bố sẽ làm chuyện ấy với con gái. Con trai phải làm chuyện ấy với mẹ
Dự án Maruta bao gồm dự án 731, 738, tạo ra những nhà chứa gas giết gần 800.000 người Triều Tiên và Trung Quốc. Nhật đồng thời tạo ra chất hóa học để tiêm vào những đứa bé xem những đứa bé sẽ lớn lên thế nào khiến cho 1 bộ phận người
Nam Triều Tiên sống cả cuộc đời quái thai về tính cách và hình dạng.
Đối với người Châu Á thì không có gì nhục hơn việc cúi đầu trước kẻ thù, v
iệc Pác Chung Hi làm vậy là bắt 33 triệu dân Nam Triều Tiên cúi đầu xin xỏ từ kẻ thống trị Nhật Bản.
Pác Chung Hi mang văn hóa quân đội vào phong cách làm việc của nước này. Mọi người đều phải làm việc hết sức mình. Ai mà làm không chăm sẽ bị phê bình trước mặt mọi người. Sẽ bị tát vào đầu (vẫn rất phổ biến hiện giờ). Rồi bị chửi nặng nề. Thời bây giờ, người ta coi trọng danh dự bây giờ rất nhiều. Và người bị chửi sẽ nói là " vâng, tôi sẽ cố gắng hơn." Một số ngành do quân đội xây dựng, khi người lính làm việc không chăm, cấp trên có quyền bắn chết và đem ra trước mọi người như minh chứng của sự lười biếng. Sự lười biếng đồng nghĩa với phản công.
Những người dân
Nam Triều Tiên với chiều cao tầm 1m5 1m6 thời bây giờ làm việc quần quật từ sáng dến tối. Người vợ Nam Triều Tiên làm lụng thêm đẻ nuôi gia đình. 2 vợ chồng có chút thịt , mỡ, thì dành hơn cho con cái (không khác gì Việt Nam). Ai cũng dạy con mình là Nếu biết nhục cho đất nước, nếu biết thương bố mẹ, thì học cho giỏi.

Ttừ năm 1960 đến 1970, lương hầu như không tăng. Những người Nam Triều Tiên ăn cơm với kimchi (khác gì Việt Nam ăn cơm với dưa khú). Lương lúc này từ 155 tăng lên 288 sau 10 năm. Dân Nam Triều Tiên không từ bỏ. Những đứa con Nam Triều Tiên không phụ lòng bố mẹ. Họ ra đời rất nhiều kĩ sư, thợ điện,... rất giỏi. Những đứa con học từ Mỹ không lưu ở xứ người mà sẵn sàng về nước làm lại từ đầu. Kết quả là người Nam Triều Tiên có đủ người để phát triển công nghiệp nặng và hóa học.
Nhưng thiếu tiền!

Pác Chung Hi gửi 320.000 quân đến Việt Nam để đổi lấy 10 tỉ tiền từ Mĩ. Bảo vệ nước Nam Triều Tiên bấy giờ là 20.000 quân chính quy. Mĩ và Nhật bản lo sốt vó nếu Triều Tiên tấn công. Pác Chung Hi sau này viết trong nhật ký là bọn "yankee bastard" và bọn phát xít (Nhật) không bao giờ có thể hiểu là người dân Nam Triều Tiên sẵn sàng đánh cược mạng sống của họ để phát triển kinh tế.
Trải qua 21 năm, khối lượng viện trợ Hoa Kỳ cho Nam Việt Nam là rất lớn, đó là chưa tính đến phí tổn chiến tranh, chỉ riêng viện trợ kinh tế cho Chính quyền Sài Gòn lên đến 26 tỷ USD. Đây là con số cao nhất so với viện trợ Hoa Kỳ tại bất cứ nước nào khác trên thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nếu chúng ta đem so sánh số lượng viện trợ Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam với một số nước sẽ thấy rõ sự vượt trội đó: Ấn Độ, trong 20 năm (1950 - 1970) đã nhận được tổng số viện trợ của Hoa Kỳ là 9,3 tỷ USD; Philippines trong 22 năm viện trợ gần 2 tỷ USD (1945 - 1967); Thái Lan nhận được gần 1,2 tỷ USD, Inđonesia nhận được gần 1 tỷ USD. Ở châu Phi, tính trong 25 năm (1946 - 1970) tổng số viện trợ Hoa Kỳ cho tất cả các nước là 4,9 tỷ USD. Tại miền Nam Việt Nam, “thu nhập quốc dân chưa bao giờ vượt quá 2 tỷ USD/năm, nhưng trong 5 năm cuối cùng (1971 - 1975) viện trợ Hoa Kỳ hằng năm hơn 2 tỷ USD/năm, tức là lớn hơn tổng số của cải do miền Nam Việt Nam làm ra” [ĐP, tr. 66].
Mặt khác, số lượng viện trợ Hoa Kỳ thay đổi theo cường độ chiến tranh xâm lược và tỷ lệ rất cao của viện trợ cho không tại miền Nam Việt Nam là một hiện tượng không phổ biến. Đối với hoạt động thương mại và đầu tư, giai đoạn này “viện trợ không phải là biện pháp chủ yếu thực hiện mục tiêu của chính sách thương mại, song nó cũng là một biện pháp sử dụng kết hợp để mở rộng thương mại và đầu tư” [VĐH, tr. 176]. Điều này có thể đúng một phần ở khía cạnh nền kinh tế Hoa Kỳ, bởi lẽ trong thời kỳ chiến tranh, việc tiêu thụ hàng hoá không những không gặp trở ngại mà lại có thêm điều kiện để mở rộng. Số viện trợ hàng chục tỷ USD và toàn bộ số phí tổn hàng trăm tỷ USD, suy cho cùng cũng là sự tiêu thụ một khối lượng hàng hoá khổng lồ.
Vì vậy, “phần lớn những khoản gọi là chi phí cho Việt Nam, thực ra lại là chi phí cho Hoa Kỳ. Phần lớn cái gọi là viện trợ cho Việt Nam thực ra lại rơi vào túi tư bản Hoa Kỳ, trong  6,1 tỷ USD viện trợ trong tài khoá 1960 - 1961, có 4,8 tỷ USD (80%) được chi ngay ở Mỹ. Sở dĩ như vậy vì 90% ngân khoản viện trợ quân sự đã ở lại nước Mỹ. Nếu không có viện trợ xuất cảng của Mỹ sẽ tụt 12%, nông phẩm thừa tăng lên đáng sợ. Vì vậy ngoại viện thực ra là sự trợ cấp cho nền kinh tế Mỹ” [ĐP, tr. 11].
Một điều cần nhấn mạnh là, viện trợ Hoa Kỳ ở miền nam Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 đã không thực hiện được các mục tiêu mà họ mong muốn. Trái lại, khoản viện trợ và chi phí khổng lồ đó đã làm suy yếu nền kinh tế Hoa Kỳ. Vì vậy, viện trợ càng kéo dài, càng tăng thì phong trào phản chiến của nhân dân Hoa Kỳ càng mạnh mẽ. Tất cả các hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam mới nằm trong khuôn khổ của giai đoạn bình định, chưa chuyển sang giai đoạn khai thác. Do đó Hoa Kỳ đầu tư và tốn kém nhiều nhưng chưa thu được gì, điều đó nằm ngoài ý muốn ban đầu của họ. Đồng thời, sự lún sâu và thất bại của cuộc chiến đã làm chia rẽ nội bộ đất nước Mỹ “cuộc chiến tranh 30 năm đã chấm dứt một cách đầy kịch tính, đẩy nước Mỹ vào tình trạng thất vọng và hoang mang” [NTYH, tr. 331].
Viện trợ ngần ấy tiền để làm ra GDP 150USD/người/năm! Nực cười! Vậy lịch sử viết 'phồn vinh giả tạo' là đúng rồi còn gì vì kinh tế ngụy chỉ sống được khi có nguồn viện trợ và 500 ngàn lính Mỹ ở đó chi tiêu với ít nhất là một phần tiền lương khoảng 500 USD/người/tháng thôi.  Biện hộ bằng vài hình ảnh xe hơi ở trung tâm Sài gòn là rất ngu xuẩn và phản khoa học.
https://fbcdn-photos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xtf1/v/t1.0-0/11039211_1056564467692232_4700523093350447608_n.jpg?efg=eyJpIjoiYiJ9&oh=fc5764413d4fcaf752e8a0de7e4d75a0&oe=55D8719F&__gda__=1439728951_4d607eba6ec4e370a94077d5e7f92c6e Điều đó cũng như đưa ra hình ảnh một con chó được mặc quần áo đẹp rồi kết luận rằng nó giàu vậy! Dĩ nhiên khi có số lượng viện trợ trên 2 tỉ một năm ở thời điểm cao nhất và tiền lương lính Mỹ thì phải có một số người nhất định phất lên nhưng chuyện đó không thể dùng để đại diện cho sức mạnh của một nền kinh tế được!
Nếu không tính đến điều kiện tự nhiên so với Miền Bắc và Trung, như đồng bằng sông Cửu Long, đất phì nhiêu, đất rộng người thưa, phát triển cây công nghiệp, thì yếu tố thực dân Pháp đầu tư như thế nào tại Miền Nam so với Miền Bắc cần phải xem xét. VNCH cũng thừa hưởng hạ tầng cơ sở, hạ tầng công nghiệp, hạ tầng kinh doanh từ thời Pháp thuộc.
Nhìn toàn cảnh về 1 nền kinh tế cần có các chỉ số, tiếc là thời VNCH không có các con số như vậy. Ví dụ chỉ số công nghiệp/nông nghiệp/dịch vụ trong cơ cấu kinh tế. Tỷ lệ giàu nghèo của xh, chi phí cho các vấn đề xh, nguồn thu ngân sách v.v. Có những xh có 1 số rất nhỏ rất giàu, nhưng đổi lại có biết bao nhiêu người rất nghèo. Con số GDP trên đầu người chưa phản ánh được nhiều.
Có 1 con số theo the Pentagon Papers là: As of 1960, 45% of the land remained concentrated in the hands of 2% of landowners, and 15% of the landlords owned 75% of all the land. - 45% đất đai nằm trong tay 2% địa chủ, 75% tổng số đất dai nằm trong tay 15% địa chủ. Mà đa phần dân Miền Nam nói riêng, VN nói chung thời kì đó là sống bằng nông nghiệp.
Nếu giàu vì thực lực thì mới là giàu thật, còn nhờ ăn bám nhà giàu ở một khoảng thòi gian nhất định mà có bề ngoài bóng bẩy tí thì gọi là 'phồn vinh giả tạo' là hoàn toàn chính xác rồi còn gì?
4- Sánh vai cùng các cường quốc năm châu
Dữ liệu từ wikipedia của Ngân hàng TG cho thấy từ năm 1960 GDP đầu người của Singapore đã gần gấp đôi VNCH và tiếp tục phát triển đều cho đến 1975 thì thành gấp 58 lần! Có thằng đồn thập niên 1960 Sing còn là nhà quê và LQD mơ ước Sing bằng được SG, như vậy mà cũng có khối thằng ngu nghe được! Theo logic thì có hai khả năng xảy ra ở đây, một là LQD bị mát dây, hai là có thằng nào đó chém gió mạnh quá thành bão luôn!
Từ 1960 đến 1963, khi Mỹ chưa đổ quân vào và do đó chưa có chiến tranh lan rộng tàn phá, ảnh hưởng lên nền kinh tế, GDP đầu người VNCH tự giảm đi một nửa và coi như dậm chân tại chỗ luôn sau đó. Đặc biệt là sau khi quân Mỹ cơ bản đã rút gần hết vào năm 1973 thì GDP đã đâm thằng xuống vực từ 200 USD xuống còn 89 USD và đến năm 1975 thì còn 44 USD trong lúc miền Bắc là 95 USD.
Có viện trợ dồi dào của Mỹ cộng với tiền lính Mỹ tiêu xài mà kinh tế èo uột như thế thì đúng ra là quản lý rất tệ.  Lạm phát năm 1973 là 200%! Bó tay với cái 'nền kinh tế mạnh nhất châu Á' của 'hòn' thật! Đây, VNCH quang vinh giàu có của chúng ta từ năm 1950-1970 nằm dưới cả Thái - In - Myan - Malay.

Biểu đồ này nằm trong tường trình của giáo sư Jean Pascal Bassino thuộc trường Ðại Học Paul Valery, Montpellier, Pháp Quốc, nói về kinh tế của Nam và Bắc Việt Nam, trước 1975, và có sự so sánh với các quốc gia trong vùng. Trong đó có đoạn:
The most important results are the following. South Vietnam per capita GDP appears as one of the highest of Asia at the end of the 19th century, close to Japan and the Philippines, higher than the figures for Taiwan, Korea, Indonesia, and Thailand. However, it is one of the lowest in the 1960s.
Tạm dịch: Kết quả quan trọng nhất (của phân tích của Madison - 1995)) là GDP đầu người của Nam Việt Nam cuối THẾ KỶ 19 vào loại cao nhất châu Á, ngang ngửa với Nhật - Phi, cao hơn Đài - Hàn - In - Thái; tuy nhiên, GDP đầu người của Nam Việt Nam trong thập kỷ 1960 đã giảm xuống, trở thành một trong những mức thấp nhất châu Á.

Trong những năm 1969-70 Nam Triều Tiên đã từng xây xa lộ ở VNCH và từng được mang tên Xa lộ Đại Hàn. Thời đó, trình độ công nghệ cầu đường của họ đã hơn hẳn VN (không tính miền Bắc VN). Năm 1972 họ từng xây dựng bệnh viện Bệnh viện Chợ Quán.
Năm 1974, Pác Chung Hi bị ám sát nhưng tránh được. Vợ thì bị ăn đạn. Thương vợ là thế (dù có bồ bịch sau này) nhưng Pác Chung Hi vài phút sau vẫn đứng lên diễn thuyết trong công chứng. Vợ thì chết một mình. Sau khi vợ chết vài tiếng, thì Pác Chung Hi mới đến thăm được xác. Thủ phạm gốc North Korean nhưng lại sinh sống ở Nhật. Pác Chung Hi đòi Nhật xin lỗi thì sứ giả không chịu xin lỗi. Pác Chung Hi sau viết vào nhật ký nói là nếu vợ của thủ tướng Trung Quốc mà bị ăn đạn thì thủ tướng Nhật đã quy gối lê lết từ Tokyo đến Bắc Kinh. Nhục quá Nhật khinh thường Nam Triều Tiên quá.
Những năm này, học sinh
Nam Triều Tiên liên tục biểu tình giống như Lybia, Thái Lan, các nước Nam Mĩ và giống lũ vichoco. Pác đán áp hết. Học sinh phản động thì bắn. Cả trường phản động thì bắt đi lính đẩy lên biên cương. Nhờ vậy mà kinh tế Nam Triều Tiên không bị ảnh hưởng , dân làm việc hết năng suất.
Tài liệu của World Bank cho thấy rõ ràng năm 1975, Nam Triều Tiên có GDP cao hơn Việt Nam. Theo số liệu của World Bank World Development Indicators do nhóm Oxford Economic Forecasting phân tích, thì năm GDP của Nam Triều Tiên năm 1975 là 100 tỉ USD (tính theo giá trị năm 2010), cao gấp 5.5 lần so với VN (lúc đó ước tính là 18.1 tỉ USD).  Cũng năm 1975, GDP của Thái Lan là 43.2 tỉ USD, tức đã hơn gấp 2 lần VN.
Theo tính toán của WB thì GDP đầu người năm 1975 của Nam Triều Tiên là 646 USD (thời giá 2010), Thái Lan là 351 USD. Đầu thạp niên 1980, Thái Lan hơn miền Nam rất xa. Thủ đô Bangkok của họ đã hơn hẳn Sài Gòn về qui mô và trình độ phát triển, gọi Sài Gòn là "Hòn ngọc Viễn Đông" chỉ là một cách tự ru ngủ mà thôi.
Park sau này bị ám sát vì câu nói 3.000 mạng là cái gì. 30.000 mạng cũng được để đổi lấy trật tự cho Cholla dể phát triển. Giám đốc KCIA nghe câu đó mà sợ. Park vì nỗi nhục đất nước (bị Tổng thống Mĩ ra sức ép này nọ, nỗi nhục vì Nhật) mà sẵn sàng theo đuổi chương trình bom nguyên tử. Vì chương trình bom nguyển tử sẽ tổn hại cho đất nước, nên giảm đốc KCIA lo ngại tương lai của Nam Triều Tiên mà bắn chết Park. Park chết nhưng nhờ những trò đàn áp dã man, tiền lương người Nam Triều Tiên đã lên dến 1.247 usd /month vào năm 1980. Park là độc tài, giết bao người, để đổi lấy trật tự và kỉ luật. Và kết quả là người Nam Triều Tiên cứ thế mà đi lên.
Năm 1997, Nam Triều Tiên bị dính khủng hoảng kinh tế châu Á nặng nề. Chính phủ kêu goi góp vàng. Người vợ Nam Triều Tiên thì đem công hiến đất nước nhẫn cứơi. Trẻ con có cái lắc quanh chân để giữ sức khỏe cũng đem đưa. Nợ IMF 60 tỉ thì tiền vàng dân nó đóng góp 22 tỉ rồi.
Cho tới giờ, lương tối thiểu của
Nam Triều Tiên so với mức sống rất thấp, khoảng 3-5 USD/h mặc dù đời sống người Nam Triều Tiên lên đến hơn 33.000 USD 1 năm. Những đứa nào cấp dưới láo lếu vẫn bị chửi ăn đòn. Biểu tình thì không ai nghe. Những đứa nào không sống được trong nước thì chạy ra các nước châu Á khác. Kết quả 5 triệu người ở nước ngoài, khoảng 10% dân số chạy ra nước ngoài. Những đứa nào không sống nổi thì có sông Hàn ngay đó.
Nam Triều Tiên giàu vì người dân sẵn sàng hi sinh danh dự cá nhân, lợi ích cá nhân mà làm. Họ sẵn sàng đánh đổi sinh mạng để sống cho con, cho cháu. Gái điếm Nam Triều Tiên bây giờ phần lón thậm chí chỉ ngủ với trai Triều Tiên chứ nó phỉ nhổ cả Nhật, da trắng và các chủng tộc khác. Du lịch Nam Triều Tiên sẽ thấy gái điếm thì nhiều mà ngủ được với nó thì khó.
VNCH có gì?

Bố mẹ thì sống hết phần con cái. Chỉ nghĩ cái lợi trước mặt, mua nhà cửa mà nghĩ gì tới con cái? Thời VNCH, saving rate như bằng 0. Dân có bao nhiêu tiền thì tiêu bấy nhiêu, đéo tiét kiệm để dành cho con cái gì cả. Gái điếm thì la liệt. Dân thì lười biếng đéo chịu làm việc. Tiền Mĩ nó đổ 1 năm vào VNCH thì phải gấp mấy lần nó đổ vào Nam Triều Tiên. Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. - Nếu vậy, sao sau Giải phóng, Cách mạng lại phải cố gắng đẩy mạnh Giáo dục và Xoá mù chữ ở Nam Bộ?
Ấy thế mà nhiều người vẫn nghe theo kiểu tuyên truyền chống cộng thời chiến tranh lạnh bằng vài tấm ảnh và nhai lại như những con vẹt. Vậy VN còn lạc hậu là đúng rồi còn gì vì có rất nhiều người như vậy, vẫn chưa biết dùng bộ óc người để suy luận một cách logic, tự biết tìm tòi dữ liệu chuyên môn để có thể đưa ra một kết luận chính xác.  Bất mãn chế độ thì tự nhiên lại quay sang xét lại lịch sử dùng thông tin của thành phần mang hận thù trở thành ngu muội ở hải ngoại!
Vậy ngu hơn cả ngu thì làm giàu thế nào được đây?!

04 tháng 5 2011

Giáo dục Cách mạng và Xoá mù chữ ở Nam Bộ

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dù chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt, nhưng nền giáo dục cách mạng vẫn được duy trì. Trong điều kiện vô cùng khó khăn, dù bom rơi, đạn lạc, nhưng ở nhiều vùng kháng chiến những con chữ vẫn được gieo đều đặn. Từ phong trào này đã tạo ra những hạt giống đỏ, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng đi đến thắng lợi.

Thành phố Hồ Chí Minh

Sài Gòn trước năm 1975 là nơi tập trung của cải và trí tuệ của chế độ cũ nhưng tồn tại cùng với nó là một bộ phận cư dân không hề nhỏ sống ở xóm nước đen, gầm cầu nghèo khó, thất học, đầy dẫy tệ nạn. Trẻ em 7-8 tuổi còn chưa được đến trường, người lớn mù chữ nhiều vô kể. Do vậy, ngay sau giải phóng, xóa mù chữ được xem là nhiệm vụ cấp bách. Theo đó, những lớp học gieo ánh sáng văn hóa được mở ra ở khắp nơi trong thành phố. Thầy Nguyễn Hữu Danh, người trực tiếp đứng lớp xóa mù chữ những ngày đó nhớ lại: từ 7 giờ tối là lớp học đã được mở đến khuya, người dân thuận giờ nào học giờ đó. Ở đâu có người học là ở đó có lớp, có khi ở nhà dân, lúc ở nhà thầy, trụ sở cũng biến thành lớp học. Lớp học chỉ có vài người cũng dạy, cả người lớn học chung với trẻ nhỏ. Dưới ánh đèn dầu leo loét, từ trẻ nhỏ, dến những cụ già đeo kính lão, các chị phụ nữ bụng mang dạ chữa, bế con... theo học lớp xóa mù.

Cả người học người dạy đều có chung mong muốn tốt đẹp nhất là biết chữ, có văn hóa để xây dựng đất nước, nhờ vậy mà chỉ sau một năm thành phố đã căn bản xoá nạn mù chữ. “Mình tổ chức những đoàn đi xóa mù chữ, phổ cập ở xóm lao động nghèo, vùng sâu vùng xa. Ban đêm chia 4 đoàn đi ra 4 phía, hết giờ làm việc ở Sở đoàn đi phổ cập có khi đến 11-12 giờ đêm mới về… nhất là khu vực ngoại thành như Củ Chi, đến 9 giờ đêm người dân mới đi làm đồng về, mình vận động người dân ra lớp xóa mù chữ nửa tiếng đến một tiếng”, thầy Nguyễn Hữu Danh nói. Không chỉ phong trào xóa mù chữ có độ lan tỏa mà số lượng học sinh ở những năm học đầu tiên sau giải phóng cũng tăng đột biến và có sức sống vô cùng mạnh mẽ. Bởi người dân đã động viên con em của mình đi học phổ thông, có trình độ, kiến thức để sau này còn góp phần xây dựng đất nước. Tuy nhiên, chưa kịp mừng thì nỗi lo đã tới. Bởi lúc bấy giờ số trường học không đủ đáp ứng đông đảo người dân đang trong tinh thần hăng hái quyết tâm tìm con chữ. Đặc biệt, còn khu vực ven đô, ngoại thành nhiều trường cũ tạm bợ, phòng ốc rất thiếu thốn, trang thiết bị dạy học hầu như không có gì.

Quê gốc Sài Gòn, năm 1955 thầy Nguyễn Hữu Danh là một trong những người tập kết ra Bắc, được cử học đi học tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, dạy Trường học sinh miền Nam Đông Triều. 20 năm sau, thầy là một trong những người nhận nhiệm vụ tiếp quản giáo dục Sài Gòn và xây dựng Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong nổi tiếng hiện nay. Thầy Danh kể lại, 11h30 ngày 30/4/1975 thành phố Sài Gòn được giải phóng. 17h30 chiều hôm đó, đoàn giáo dục có 5 người gồm thầy, cô Minh Đoài, cô Loan, thầy Bảy, thầy Trung nhận quyết định về tiếp quản giáo dục Sài Gòn. Lúc đó, Tố Hữu thay mặt Bộ Chính Trị dặn mọi người “bằng bất cứ giá nào phải làm tất cả những cái làm được cho nhân dân Sài Gòn”. Ngày 2/5/1975, đoàn giáo dục cùng khoảng 600 người ở tất cả các ngành xuống tàu biển cấp tốc vào Sài Gòn tiếp quản.

Trở về quê sau 20 năm, vốn thông thạo ngoại ngữ trong quá trình học phổ thông (tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức), nhiệm vụ đầu tiên thầy được giao là giúp Sở Y tế phân loại thuốc thu được từ chế độ cũ. Sau đó, thầy được phân công làm ở phòng THPT, phòng bổ túc văn hóa (sở GD-ĐT), đồng thời giảng dạy chính trị cho cán bộ, xóa mù chữ: “Chúng tôi thống kê, năm 1976 – 1977, TP.HCM có khoảng 40.000 trẻ em thất học chưa kể người lớn không biết chữ. Nếu thực hiện xóa mù theo lớp thì mỗi năm chỉ tối đa dạy được 9.000 trẻ. Sở Giáo dục quyết định mở lớp đêm, từ 7h tối đến khuya, người dân thuận giờ nào học giờ đó. Xong công việc ở sở, đêm đến sở chia 4 đoàn đi 4 phía khác nhau, vào tận góc xóm, ở đâu có người học ở đó có lớp, lúc học ở nhà dân, nhà văn hóa, hội trường… Khu vực ngoại thành như Củ Chi, Hóc Môn chúng tôi chờ người dân đi làm đồng về rồi vận động ra lớp xóa mù đến 11-12 giờ đêm mới về” thầy Danh nhớ lại.

Thầy Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó giám đốc Sở GD-ĐT, những năm đó công tác tại trường THPT Nguyễn Hữu Cầu huyện Hóc Môn kể: Thời gian đầu sau ngày giải phóng miền Nam, một số lớp học dựng tạm bằng tranh tre nứa lá, phải học tăng ca, ca 3, ca 4 mới đủ xoay vòng. Hình ảnh giáo viên chạy ngược xuôi ra vô nội - ngoại thành trên những xe đạp cà tàng hoặc bám vào thanh ngang của xe đò để kịp giờ lên lớp là rất phổ biến. “Lúc đó, trường vừa thiếu vừa ọp ẹp nên không đủ chỗ cho các cháu học, thường học buổi sáng, buổi chiều là hai buổi, xen vào khoảng giữa đó là lớp học ca trưa, cuối buổi chiều có thêm một ca nữa để tận dụng cơ sở vật chất trong điều kiện còn thiếu. Sau giải phóng tinh thần là huy động trẻ ra lớp để đảm bảo tất cả trẻ trong độ tuổi đều được đến trường mà trong khi nhu cầu số lượng học sinh trong độ tuổi đến trường lại nhiều, cho nên phải tăng công suất sử dụng của một phòng học”, thầy Ngai nhớ lại.

Bên cạnh nhiệm vụ xóa mù chữ, từng bước nâng cao dân trí, một trong những nhiệm vụ cấp bách của ngành giáo dục sau giải phóng là thay thế nội dung, chương trình giáo dục của chế độ cũ bằng chương trình, sách giáo khoa của chế độ mới phù hợp với thực tiễn đất nước, xây dựng con người mới XHCN. Tuy cơ sở vật chất khó khăn nhưng không khí giảng dạy và học tập lại sôi động, đầy nhiệt huyết. Các buổi hội họp, tập huấn được tổ chức dày đặc để thông tin kịp thời, phát huy kinh nghiệm thực tế. Cô Nguyễn Thị Yến Thu, người con miền Nam ra Bắc học tập và trở về sau ngày giải phóng và gắn bó với sự nghiệp giáo dục ở bất cứ nơi nào cần đến mình. Cô không thể quên không khí sôi nổi của thầy và trò với phương châm giáo dục khá mới mẻ như: “học đi đôi với hành”, “giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, “nhà trường gắn liền với xã hội”: “Đưa vào áp dụng ở thành phố mình, học sinh xuống nông thôn giúp nông thôn làm thủy lợi để gắn liền với lao động sản xuất. Học đi đôi với hành là học được thì làm được, nhà trường gắn liền với xã hội như xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ thì học trò tham gia những công việc phù hợp”.

Vấn đề nan giải của ngành giáo dục sau giải phóng là đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đứng lớp cũng đã được từng bước giải quyết với chính sách tái tuyển và tái sử dụng trên 80% giáo viên chế độ cũ. Đồng thời ngành tiếp nhận nguồn giáo viên chi viện từ miền Bắc, cộng với việc tuyển và đào tạo cấp tốc giáo viên mới nên đã giải được bài toán thiếu giáo viên. Mặc dù ở thời điểm đời sống đầy khó khăn thiếu thốn nhưng giáo viên đã hoàn thành tốt sứ mệnh trồng người của mình. Thầy Hồ Thiệu Hùng - nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT TP chia sẻ: Sau giải phóng, mức lương của giáo viên trong những năm đầu chưa được đưa vào thang bậc lương cụ thể, chỉ khoảng 40-50 đồng/tháng, so với tương quan chung thì không cao và hiếm khi giáo viên nhận lương đúng hạn. Tiêu chuẩn chỉ được 2 kg gạo mỗi tháng, phải ăn độn bo bo khiến ai cũng gầy gò, sau những buổi lên lớp là chăn nuôi heo gà trong công trình phụ nhưng giáo viên vẫn sử dụng ngày nghỉ của mình phụ đạo cho học sinh.

Với cái tâm trong sáng, với tấm lòng tất cả vì học sinh thân yêu, người thầy luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. “Lúc bấy giờ, nơi nào trả được lương giáo viên đúng hạn tức là cuối tháng có lương giáo viên là thủ trưởng vui mừng như tổ chức kì thi thành công. Có thời kì thành phố còn phải ăn độn nữa, nhưng các thầy cô vẫn gắn bó với trường, thế mới thấy thầy cô mình là quý. Tâm lý lúc bấy giờ là cứ xốc tới mà làm, làm cho hoàn thành nhiệm vụ, mà hoàn thành tốt thì càng tốt, không chỉ cán bộ lãnh đạo mà giáo viên bình thường có thể làm việc quá giờ, có những cuộc họp nòng cốt đến 12 giờ đêm để bàn công việc của trường”, thầy Hồ Thiệu Hùng cho biết.

Mặc dù những năm sau giải phóng còn nhiều gian khó nhưng công tác chuẩn bị cơ sở vật chất và đội ngũ được tiến hành về mọi mặt nên những năm học đầu tiên sau giải phóng đã được khai giảng ở tất cả các trường học đúng với quy định của Bộ GD-ĐT. Chỉ sau một thời gian ngắn, việc xóa mù tại TP.HCM được làm triệt để, được UNESCO công nhận. Năm 1979, một hội nghị quốc tế đầu tiên về công tác xóa mù chữ nhằm lấy kinh nghiệm truyền lại cho các nước trong khu vực Đông Nam Á được tổ chức tại TP.HCM. Bản lĩnh và quyết tâm của ngành GD-ĐT TP cũng chính là nền tảng để ngành vươn lên dẫn đầu trong giai đoạn sau. Sau "xóa cũ - thay mới", kể từ sau năm 1986, là một thành phố năng động, sáng tạo, ngành GD TP chuyển mình và có những bước tiến vượt bậc để từng bước đưa nền giáo dục hội nhập với quốc tế.

Khu Tây Nam Bộ

Sau phong trào đồng khởi 1960, liên Tỉnh uỷ miền Tây chủ trương xây dựng phong trào giáo dục trong tình hình mới. Ban Tuyên Văn Giáo thuộc liên Tỉnh uỷ đã mở một lớp đào tạo cán bộ giáo dục đầu tiên cho các tỉnh miền Tây tại ấp Vĩnh Tiến, xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Thuận - Rạch Giá, do đồng chí Cao Thanh Viễn (tức Mười On), Uỷ viên Uỷ ban trực tiếp phụ trách.

Từ năm 1961-1962 hoạt động giáo dục tập trung vào việc phát triển trường lớp cấp I và xoá mù chữ ở các vùng giải phóng; biên soạn, sách giáo khoa trong khi chưa có sách của R đưa về. Được sự giúp sức của hai đồng chí Hoàng Đào và Dương Minh Hồ, cán bộ giáo dục từ R về công tác, tiểu ban mở một lớp đào tạo giáo viên cấp I và một lớp cán bộ quản lý giáo dục cho các tỉnh. Để có một lớp thanh - thiếu niên được đào tạo chính quy, chu đáo phục vụ cuộc kháng chiến trước mắt và lâu dài, Khu uỷ và Ban Tuyên huấn Khu chủ trương mở một trường nội trú để đào tạo con em cán bộ, chiến sĩ. Trong Khu từ năm 1961-1962 đã có Trường Thiếu Sinh Quân đặt ở Rạch Gốc, xã Tân Ân (Cà Mau), khởi đầu là cấp I.

Năm 1963-1964, một số cán bộ giáo dục, giáo viên được đưa đi đào tạo ở miền R - tên gọi mật danh các cơ quan Trung ương Cục miền Nam. Thời gian này, Tiểu ban Giáo dục được thành lập gồm các đồng chí đầu tiên là Cao Thanh Viễn (Mười On), Hồ Thế Phương (Hai Hành), Trần Thị Ngảnh (Ba Sinh) và một số cán bộ khác như: Tám Lai, Lý Ba, Út Hậu, Sáu Ánh, Hai Ánh, Chín Văn Thông... Năm 1964 Trường Thiếu Sinh Quân chuyển về vùng Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời, trường phát triển lên cấp II và đổi tên thành Trường Lý Tự Trọng. Các lớp học của Trường Lý Tự Trọng đều được phân tán trong xóm, ấp. Học sinh được tổ chức theo nền nếp "Quân sự hoá". Thầy vượt khó, trò chăm chỉ học tập rèn luyện, tự cải thiện, gắn bó với nhân dân, chiến trường càng ác liệt thì mọi sinh hoạt của trường càng được tổ chức quy củ, bảo đảm an toàn và liên tục, khoá tốt nghiệp cấp II đầu tiên ra trường năm 1967.

Đại hội giáo dục năm 1965 và tiếp theo là Hội nghị giáo dục toàn khu tháng 3/1966 đã đánh giá đầy đủ tình hình và rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu về vận động quần chúng đi học, xây dựng trường lớp, giảng dạy, xoá mù chữ, bổ túc văn hoá và nội trú.

Năm 1966, những cán bộ, giáo viên đầu tiên do Trung ương Cục chi viện về miền Tây Nam Bộ, thế là bộ máy giáo dục được bổ sung thêm các đồng chí Lê Đức Kế (Chín Dũng), Nguyễn Thanh Bình (Út Bình) từ Cà Mau lên, Năm Chuôn ở Khmer vận khu sang. Đồng chí Lê Đức Kế thay đồng chí Cao Thanh Viễn làm Trưởng Tiểu ban Giáo dục (C6), các đồng chí Hai Hành, Út Bình là phó tiểu ban.

Năm 1968, phong trào giáo dục phát triển khá đều, có hệ thống và nền nếp. Toàn khu Tây Nam Bộ có 96.000 học sinh cấp I (trong đó có 3.600 học sinh Khmer) và khoảng 500 học sinh cấp I, II ở các trường nội trú do khu và tỉnh quản lý. Sau Tết Mậu Thân, thời kỳ địch áp dụng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và chiến dịch "Nhổ cỏ U Minh", "Bình định cấp tốc" đánh phá ác liệt vùng giải phóng, giáo viên bỏ việc, học sinh theo gia đình lánh nạn, nên đến cuối năm 1970 chỉ còn 13.000 em.

Năm 1970, trường Trường Thiếu Sinh Quân chuyển lên cấp III (hệ 10 năm) có thêm lớp dành cho học sinh Khmer, đến ngày phải phóng miền Nam 30/4/1975 có 9 khoá và số học sinh được đào tạo là 700 em.

Năm 1972 bổ sung đồng chí Trần Văn Đăng (Sáu Đăng), Lê Văn Ánh (Ba Ánh) làm Uỷ viên Ban. Từ thực tế tình hình, Khu uỷ và Tiểu ban Giáo dục chuyển hướng chỉ đạo nhằm duy trì, khôi phục trường lớp, tổ chức chương trình dạy và học phù hợp với hoàn cảnh, đã giúp khắc phục bớt khó khăn. Kết quả đến cuối năm 1972, số học sinh trong khu nhích lên 34.000 em.

Từ sau Hiệp định Paris, được sự chỉ đạo của Khu uỷ và Ban Tuyên huấn Khu, tháng 10/1973, Tiểu ban Giáo dục triệu tập hội nghị đánh giá tình hình và đề ra chủ trương, biện pháp nhằm khôi phục giáo dục. Cuối năm 1973 thêm đồng chí Nguyễn Công Thành (Sáu Thành) từ miền Bắc về... Như vậy cho thấy, Đảng bộ khu Tây Nam Bộ lúc đó rất đặt nặng công tác giáo dục - đào tạo cán bộ ở khu.

Tháng 8/1974, ta mở hội nghị giáo dục toàn Khu, có đủ đại biểu 8 tỉnh miền Tây (thêm 2 tỉnh Bạc Liêu và Châu Hà mới thành lập). Khu uỷ, Mặt trận và các đoàn thể đánh giá tình hình và đưa ra biện pháp khôi phục, phát triển giáo dục. Lúc này trong khu đã có 63.000 học sinh phổ thông. Tất cả học sinh đều được điều động đến công tác ở các cơ quan, đơn vị bộ đội và được tiếp tục đào tạo chuyên môn kỹ thuật (điện đài, cơ yếu, y tế, điện ảnh, báo chí, văn nghệ...). Nhiều học sinh trưởng thành vượt bậc như Tiến sĩ Phan Thị Việt Nga (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang) và nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng, thành phố, tỉnh và Trung ương. Đặc biệt có Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Việt Hồng là chiến sĩ biệt động, hy sinh anh dũng tại TP Cần Thơ năm 1969, khi mới 19 tuổi.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trình độ dân trí của người dân An Giang còn rất thấp. Trường học ít, nạn mù chữ rất trầm trọng. Giai đoạn này có trên 150 ngàn trẻ trong độ tuổi đi học không được đến trường. Khi đó, mạng lưới trường học chỉ được tập trung ở các vùng thị tứ và chủ yếu đào tạo số học sinh, sinh viên chuyển tiếp từ giai đoạn trước giải phóng. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học hàng năm khoảng 30%, hiệu quả đào tạo còn rất thấp.

Trước tình hình đó, ngành Giáo dục bắt tay ngay vào việc chuẩn bị nhân lực và cơ sở vật chất cho năm học đầu tiên sau giải phóng. Khi đó, giáo dục được tỉnh ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, công tác xóa mù chữ được đặc biệt quan tâm và diễn ra rộng khắp. Tuy nhiên, số lượng giáo viên cũng rất ít, chỉ khoảng hơn 2.900 giáo viên cấp I, 620 giáo viên cấp II và 137 giáo viên cấp III. Riêng giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp còn thiếu trầm trọng nên trường sư phạm đã tiến hành đào tạo các lớp cấp tốc, ngắn hạn và hình thành thêm một số cơ sở giáo dục khác theo nhu cầu lúc bấy giờ.

Dù tỉnh đã hết sức cố gắng, nhưng do ảnh hưởng của chiến tranh biên giới Tây Nam và trận lũ lịch sử 1978 nên hoạt động xóa mù chữ tạm lắng và tình trạng tái mù chữ xuất hiện trở lại. Vào năm 1980- 1981, khi đời sống người dân bắt đầu ổn định hơn, những khó khăn do chiến tranh và thiên tai đã phần nào giảm bớt nên nhu cầu học tập khởi sắc trở lại, quy mô giáo dục của tỉnh bắt đầu chuyển mình. Giai đoạn này, các lớp học mầm non được phủ rộng khắp các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Trường cấp I tăng gấp đôi so với năm 1975- 1976, giáo dục phổ thông cũng được phát triển rộng khắp đến các xã xa xôi. Song, các trường phân bố vẫn chưa hợp lý, chưa thật sự đồng đều. Một số điểm dân cư mới chưa có trường học, nhiều trường phải ghép cấp I và cấp II. Ngoài ra, còn phát sinh nhiều lớp học ca ba và cơ sở vật chất cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu giảng dạy.

Bên cạnh đó, lại thêm những chính sách thay đổi vĩ mô trong ngành Giáo dục, như: Xóa bao cấp trong giáo dục, thực hiện thu một phần học phí, triển khai cải cách nội dung và chương trình, đánh giá nghiêm túc kết quả học tập, thi cử của học sinh, chống ngồi nhầm lớp… Trước tình hình đó, mỗi năm, tỉnh ta có hàng ngàn giáo viên bỏ việc. Tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học vẫn còn rất cao, công tác phổ cập giáo dục cũng giảm sút. Giai đoạn này, đội ngũ giáo viên có trình độ đạt chuẩn còn thấp (cấp mầm non khoảng 1,78%, tiểu học 36,03%, THCS 41,38%, THPT 81,2%). Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp nên chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học.

Đến tháng 3-1978, An Giang được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận hoàn thành xóa nạn mù chữ trên phạm vi toàn tỉnh.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Bến Tre là một tỉnh bị tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất trường lớp thiếu thốn, nghèo nàn, lạc hậu. Trường lớp bằng bê tông lúc bấy giờ chỉ có ở thị trấn, các xã ở huyện, thị xã nhưng rất ít. Ở các vùng nông thôn rất ít điểm trường, trẻ em phần lớn chỉ học biết chữ hoặc hết cấp 1, khi học cấp 2, cấp 3, phải lên thị trấn huyện hoặc thị xã. Năm 1975, trường lớp ở Bến Tre thiếu thốn, trẻ em nghèo ít được đến trường, người lớn mù chữ đâu đâu cũng thấy. Số người mù chữ ở Bến Tre có hơn 45.000 người, là vấn đề khó trong điều hành, xây dựng phát triển kinh tế xã hội. Đường giao thông đi lại khó khăn, mức sống người dân bấy giờ thấp nên trẻ em nghèo rơi rớt dần việc học. Thực hiện lời Bác Hồ dạy “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, học hành”, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trương xây dựng trường lớp tạm thời bằng vật liệu có được, chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều phòng học bằng cây lá được dựng lên ở xã mới giải phóng, vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến, đáp ứng phần nào nhu cầu học tập của con em lao động.

Khắc phục trình trạng này, Tỉnh ủy Bến Tre đã kịp thời ban hành Chỉ thị số 25-CT/TU mở chiến dịch “Đồng khởi diệt dốt” lãnh đạo toàn Đảng toàn quân, dân Bến Tre vượt qua khó khăn, quyết tâm hoàn thành mục tiêu thanh toán nạn mù chữ trước thời hạn Trung ương quy định. Thực hiện chỉ thị, ngành Giáo dục kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền, vận động đi vào chiều sâu thực hiện chỉ thị. Các địa phương từ tỉnh đến huyện, xã, phường, thị trấn để thành lập Ban chỉ đạo xóa mù chữ do Phó Chủ tịch UBND phụ trách văn hóa xã hội làm trưởng ban. Ban chỉ đạo tiến hành điều tra nắm chắc đối tượng trong diện: Nam từ 50 và nữ từ 45 tuổi trở xuống và đối tượng ngoài diện. Ở các xã đều có giáo viên phụ trách xóa mù chữ cho người lớn.

Cái khó khi tiếp quản ngành Giáo dục là lực lượng giáo viên kháng chiến chỉ có gần 300 người, không đủ bố trí các cấp học. Tiểu ban giáo dục của tỉnh kêu gọi giáo viên chế độ cũ nhanh chóng trở lại nhiệm sở. Tỉnh mở nhiều lớp sinh hoạt chính trị nhằm giúp họ hiểu biết về cách mạng, về chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, về nhiệm vụ của người giáo viên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa; thành lập Hội đồng tuyển dụng giáo viên dưới chế độ Sài Gòn ở 8 huyện, thị xã. Lần lượt hầu hết giáo viên chế độ cũ đều được tuyển dụng, trừ một số ít là sĩ quan do địch biệt phái vào nhà trường để theo dõi, kìm kẹp giáo viên hướng về cách mạng. Cạnh đó tỉnh gấp rút đào tạo cấp tốc giáo viên mẫu giáo, phổ thông, bổ túc văn hóa đáp ứng nhu cầu giảng dạy của năm học mới và những năm học tiếp theo. Đồng thời tỉnh tiếp nhận giáo viên miền Bắc chi viện miền Nam; giáo viên cấp 2, 3 của tỉnh Vĩnh Phúc kết nghĩa, giáo viên cấp 3 là con em Bến Tre tập kết ra Bắc, học tập ở miền Bắc trở về. Tỉnh đã có một lực lượng giáo viên gần 4.500 người đáp ứng nhu cầu khai giảng năm học mới. Cái khó của ngành học phổ thông là khâu quản lý, điều hành. Giáo viên chế độ cũ có gần 3.000 người. Giáo viên cách mạng quá mỏng không đủ bố trí khắp các trường. Bước vào năm học đầu tiên sau giải phóng, các trường đều chưa có ban giám hiệu. Thầy Nguyễn Kiên Cường cán bộ Tiểu ban giáo dục bấy giờ đề xuất thành lập Ban điều hành do giáo viên chế độ cũ đảm trách, cán bộ giáo viên cách mạng rải ra làm cố vấn, lãnh đạo chỉ huy. Mô hình Ban điều hành được tỉnh báo cáo với Bộ Giáo dục, được Bộ nhân rộng khắp cả nước.

Thầy Phạm Trường Thắng nguyên Phó trưởng ty giáo dục phụ trách xóa mù chữ cho biết: Nhờ quyết tâm của lãnh đạo các địa phương và nhiệt tình của các đoàn thể trong các ban chỉ đạo. Việc học xóa mù được linh hoạt hóa về giờ giấc học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho các người lớn mù chữ học nhanh đạt kết quả. Do vậy, số người trong độ tuổi xóa mù chữ ra lớp rất đông. Nhưng năm ấy chưa có điện lưới quốc gia nhưng người đến lớp xóa mù với ngọn đèn dầu leo lét rất đông vui.

Với phương thức tổ chức chặt chẽ và sức mạnh tổng hợp như vậy, tinh thần “Đồng khởi diệt dốt” tiếp tục phát huy khí thế Đồng khởi đánh Mỹ năm xưa, trở thành quyết tâm lớn, thành cao trào cách mạng. Chỉ 50/55 ngày đêm cuối năm 1976, tỉnh đã đạt mục tiêu chiến dịch xóa dốt. Tháng 5/1977, Bến Tre được Bộ giáo dục công nhận đạt mục tiêu xóa mù chữ trước thời hạn. Là tỉnh đứng hạng thứ ba trong 21 tỉnh thành phía Nam. Tỉnh có 44.198 người thoát mù chữ, đạt tỉ lệ 98,06%. Xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách và xã Bình Nguyên, thị xã Bến Tre là hai đơn vị đạt mục tiêu xóa mù chữ sớm nhất của tỉnh. Năm 1996, Thủ tướng Phan Văn Khải có chuyến công tác Bến Tre, yêu cầu tỉnh báo cáo thực trạng trường lớp. Thầy Nguyễn Thanh Phương, Giám đốc Sở lúc bấy giờ báo cáo rõ tình trạng trường lớp tạm bợ, xuống cấp ở từng địa phương. Sau hội nghị ấy, cán bộ Văn phòng Chính phủ gặp Giám đốc Sở cho biết: Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Tài chính cho Bến Tre mượn tiền xây trường với điều kiện UBND tỉnh bảo lãnh (Lúc này chưa có kinh phí Trung ương cấp xây trường chuẩn quốc gia).

Sau ngày giải phóng, tháng 8/1975, Tiểu ban Giáo dục chính thức giải thể tại TP Cần Thơ. Cán bộ, giáo viên của tiểu ban được bố trí về các tỉnh, thành phố tiếp tục nhiệm vụ trong thời kỳ mới. TP Cần Thơ được hình thành sau 3 lần điều chỉnh về địa giới hành chính. Giáo dục và đào tạo thành phố Cần Thơ từ sau khi giải phóng tập trung vào xóa mù chữ, năm học đầu tiên sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975 - 1976 đã đón tiếp trên 112 ngàn học sinh các cấp. Cơ sở vật chất thiếu thốn việc đào tạo học sinh hệ chuyên nghiệp và đại học cũng mới bắt đầu chuyển sang chương trình đào tạo mới.

Khu Đông Nam Bộ

Ông Nguyễn Xuân Vinh, nguyên Phó tiểu ban giáo dục Thủ Dầu Một nhớ lại, phong trào giáo dục tỉnh Thủ Dầu Một phát triển mạnh từ cuối năm 1962 đến 1966, đỉnh cao là 1965-1966. Để tránh bom đạn của kẻ thù, thầy trò phải đào hầm, giao thông hào xung quanh lớp học. Thời đó, chiến tranh vốn ác liệt, hơn nữa, trường lớp là mục tiêu địch đánh phá bằng phi pháo nên có nhiều nhà giáo, học sinh đã ngã xuống. Đầu năm 1965 phong trào giáo dục toàn tỉnh phát triển mạnh, vì vùng giải phóng của ta được mở rộng. Đến tháng 4-1973, Tiểu ban giáo dục thành lập trường nội trú dạy cho con em cán bộ và gia đình chính sách, trường đóng ở ấp Giáng Hương (xã An Lập, Dầu Tiếng bây giờ), được làm bằng tranh, tre, nứa lá.

Ông Nguyễn Xuân Dũng, nguyên Hiệu trưởng trường thời kỳ đầu còn nhớ, tuy là vùng giải phóng nhưng giặc vẫn oanh kích tự do, vẫn có biệt kích, giặc vẫn thả bom, bắn pháo. Để bảo đảm an toàn, thầy trò cùng nhau đào hầm, xây dựng căn cứ để tránh bom. Thời gian này rất thiếu giáo viên, trường chỉ có 3 giáo viên thay nhau dạy. Vì vậy trường sử dụng số học sinh lớp lớn hướng dẫn kỹ năng giảng dạy để dạy cho lớp nhỏ. Để bảo đảm an toàn thầy, trò cùng nhau đào hầm, xây dựng căn cứ để tránh bom, đạn của kẻ thù. Lớp học ban đầu chỉ có khoảng 20 học sinh, cao điểm có khoảng 60 học sinh.

Trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm như vậy, nhưng khát khao được học tập vẫn hừng hực trong mỗi học trò. Chị Nguyễn Hồng Nhung là một trong số những lứa học sinh đầu tiên của trường còn nhớ, dưới làn bom, mũi đạn của kẻ thù, hoạt động dạy học vẫn diễn ra sôi nổi, có những kỷ niệm thật sâu sắc mà những người như chị không bao giờ quên. Những ngày đó, trường lớp được làm bằng tranh tre, thầy trò cùng vô rừng cắt tranh, chặt cây về dựng lớp học. Cứ giặc bắn phá cháy trụi thì thầy trò cùng dựng lại. Lớp học phía trên, hầm phía dưới, có lúc đang học giặc pháo kích thầy trò cùng chui vô hầm tránh đạn. Trong chiến tranh, điều kiện còn khó khăn, thiếu thốn, vừa học, các học sinh vừa sản xuất, tự túc lương thực, học sinh lớn làm nuôi học sinh nhỏ. Dù cực khổ, nhưng ai cũng quyết tâm học, bởi học tập cũng là thể hiện tinh thần yêu nước, có kiến thức văn hóa mới mở mang được tầm nhìn, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Để chuẩn bị cho công tác tiếp quản và điều hành tỉnh Biên Hòa sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, ngày 24/4/1975, tại Gia kiệm, Thường vụ Khu ủy miền Đông công bố Nghị quyết của Khu ủy Miền Đông về chủ trương tổ chức Ủy ban Quân quản các tỉnh và thành phố.

Ngày 03/5/1975, hội nghị Ban Thường vụ và cán bộ chủ chốt Khu ủy miền Đông do đồng chí Lê Quang Chữ, Bí thư Khu ủy chủ trì công bố Quyết định thành lập Ủy ban Quân quản các tỉnh và thành phố Biên Hòa, như sau:
Ủy ban Quân quản tỉnh Biên Hòa do đồng chí Võ Văn Lượng làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản tỉnh Bà Rịa – Long Khánh do đồng chí Phạm Lạc làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản tỉnh Tân Phú do đồng chí Võ Tấn Vịnh làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản thành phố thành phố Vũng Tàu do đồng chí Phạm Văn Hy làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản thành phố Biên Hòa do đồng chí Lê Đình Nhơn, Phó Bí thư Khu ủy làm Chủ tịch. Các đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Thành ủy và đồng chí Nguyễn Việt Hoa, Phó Tư lệnh Quân khu, làm Phó Chủ tịch. Đồng chí Nguyễn Quý Nam, Ủy viên Ban an ninh Khu và đồng chí Nguyễn Hồng Kỳ, Phó Bí thư Thành ủy, làm Ủy viên.

Những ngày đầu giải phóng, vùng đất đất Đồng Nai ngày nay thuộc địa giới của các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa-Long Khánh, Tân Phú, thành phố Biên Hòa, thị xã Vũng Tàu. Mỗi tỉnh đều do Ủy ban Quân quản điều hành. Đến cuối năm 1975, tình hình kinh tế xã hội ổn định, chính quyền cách mạng ở xã ngày càng được củng cố; Ủy ban Quân quản tỉnh , huyện hoàn thành nhiệm vụ giữ vững ổn định tình hình ở vùng mới giải phóng và chuyển giao nhiệm vụ lãnh đạo điều hành xã hội cho Ủy ban nhân dân cách mạng các tỉnh.

Ngày 29/9/1975, Hội nghị Ban chấp hành Trung Đảng ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về “nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó Nghị quýết chỉ rõ:…”hợp nhhất các tỉnh thành đơn vị hành chính-kinh tế với quy mô cần thiết”. Về công tác cán bộ, Nghị quyết Trung ương chỉ đạo:”…điều động và phân bố lại cán bộ theo tình hình mới, nhằm đảm bảo lợi ích chung của cách mạng cả nước; nâng cao kiến thức kinh tế cho cán bộ quân đọi, chuyển một số ra làm kinh tế. ..”

Căn cứ Nghị quyết 24 của Trung ương, ngày 20/9/1975, Trung ương cục miền Nam ra Nghị quyết số 16/QĐ.75 về việc giải thể khu, sát nhập tỉnh. Đến tháng 01/1976, Trung ương có quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai trên cơ sở hợp nhất 3 tỉnh Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa - Long Khánh, gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc là thành phố Biên Hòa, Thị xã Vũng Tàu và các huyện: Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành, Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc, Duyên Hải.

Đến tháng 1/1976, ba tỉnh trên được Trung ương hợp nhất thành tỉnh Đồng Nai. Sau nhiều lần thay đổi ranh giới hành chính, từ năm 1995, địa bàn tỉnh Đồng Nai gồm 1 thành phố (Biên Hòa), 8 huyện (Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Tân Phú, Định Quán, Long Khánh, Xuân Lộc). So với hiện nay, địa bàn tỉnh Đồng Nai lúc đó rộng hơn, bao gồm các địa phương: toàn bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, huyện Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh), huyện Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa). Diện tích tự nhiên tỉnh Đồng Nai lúc thành lập là 8360 km2 , dân số trên 1.223.683 người. Toàn tỉnh có 154 đơn vị hành chính cấp xã (bao gôm xã, phường, thị trấn).

Khi thành lập tỉnh Đồng Nai, ông Lê Quang Chữ được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy.

Ngày 24/3/1976, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Quyết định số 21/QĐ-76 về việc công nhận Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đồng Nai theo đề nghị của Đại hội đại biểu nhân dân tỉnh Đồng Nai, gồm các vị sau đây:
- Chủ tịch: Ông Nguyễn Văn Lá, tức Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung)
- Các Phó Chủ tịch: Ông Nguyễn Văn Có, tức Nguyễn Văn Hòa (Năm Hòa)
Ông Lê Thành Ba (Ba Bùi)
Ông Hoàng Vĩnh Phú (Bảy Phú)
Ông Lê Đình Nghiệp (Năm Nghiệp)
- Ủy viên thư ký: Ông Nguyễn Văn Dinh (Năm Dân)
- Các Ủy viên khác: Ông Nguyễn Hoàng Vân (Mười Vân)
Ông Lê Văn Ngọc (Sáu Ngọc)
Ông Lê Ngọc Bạch (Chín Hồng)
Ông Hồ Sĩ Hành (Hai Huỳnh)
Bà Lê Thị Hoa (Năm Thường)

Để giúp việc cho Ủy ban nhân dân cách mạng lãnh đạo điều hành, tỉnh đã hình thành ngay bộ máy giúp việc ban đầu với 34 đơn vị quản lý Nhà nước và 5 đơn vị đoàn thể cấp tỉnh. Đến cuối năm 1976, bộ quản lý chuyên ngành của tỉnh có 39 Ty, ban ngành và tương đương, gồm: Văn phòng Uỷ banhành chính tỉnh; Ty Công nghiệp, Ty Giao thông vận tải, Ty Giáo dục, Ty Lâm nghiệp, Ty Nông nghiệp, Ty Thủy lợi, Ty Lao động, Ty Thương binh- xã hội, Ty Tài chính, Ty Thương nghiệp, Ty Văn hóa - thông tin, Ty Xây dựng, Ty Bưu điện, Ty Lương thực, Ty Thủy sản, Ủy ban Vật giá, Ủy ban Xây dựng cơ bản, ty Công an, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Liên hiệp công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Ủy Ban kế hoạch, Ủy Ban vật giá, Chi cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Ban Cải tạo nông nghiệp, Ban Liên hiệp xã, Ban Ngoại vụ-chuyên gia, Ban pháp chế, Ban Thanh tra, Ban Thi đua, Ban Tổ chức chính quyền.

Đúng 10 giờ 30 phút, ngày 30/4/1975, Bộ chỉ huy tiền phương gồm các đồng chí Phan Văn Trang, Nguyễn Việt Hoa, Hoàng Việt Thắng, Nguyễn Quý Nam và Trung đoàn 5 tiến vào tiếp quản tòa hành chính tỉnh Biên Hòa. Khu ủy miền Đông về đóng cơ quan tại dinh tên trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 (nay là Nhà văn hóa thiếu nhi tỉnh) để lãnh đạo.

Nhiệm vụ chủ yếu cấp bách trong thời gian đầu là tiếp quản vùng giải phóng, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội, ổn định đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên từng khu vực, nhằm từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo vệ an toàn các nhà máy, xí nghiệp. Trong ngày đầu tiên tiếp quản, Ủy ban Quân quản thành phố Biên Hòa chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho Ban an ninh triển khai kế hoạch ổn định trật tự trong thành phố; các lực lượng vũ trang (bộ đội, an ninh) được triển khai chốt chặn các đầu mối giao thông và các tuyến đường trọng yếu như ngã 3 Tam Hiệp, ngã 3 đi Vung Tàu, cầu Đông Nai, cầu Gành, cầu Rạch Cát; các đội thông tin của Ủy ban Quân quản tăng cường tuyên truyền chính sách 10 điểm của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam, chính sách hòa hợp dân tộc của Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền giao nộp vũ khí, đăng ký trình diện; lực lượng công binh Quân khu tập trung tháo gỡ bom, mìn; thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của địch còn gài lại; lực lượng an ninh Khu miền Đông phối hợp với bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ tích cực truy lùng, truy bắt và triệt phá các tổ chức phản động, tình báo của Mỹ cài lại; triệt phá các băng nhóm lưu manh chuyên nghiệp; các ổ chứa mại dâm, các đối tượng xì ke, ma túy...do chế độ cũ để lại; kêu gọi các công chức, viên chức chế độ cũ, nhất là ngành kinh tế, y tế, giáo dục và các cơ sở hạ tầng như điện, nước.. ra đăng ký làm việc trở lại sau một đợt học chính trị từ 2 đến 3 ngày ...Chỉ 3 ngày sau giải phóng, các cơ sở sản xuất điện, nước ở Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa-Vũng Tàu đi vào hoạt động, tình hình xã hội ổn định, mọi hoạt động của nhân dân trở lại bình thường.

Trong thời kỳ đầu mới giải phóng, do hậu quả của chiến tranh để lại, hàng trăm ngàn đồng bào từ nông thôn bỏ quê hương chạy về thành thị sống bằng con đường buôn bán, thêm vào đó hàng trăm ngàn ngụy quân, ngụy quyền của bộ máy chiến tranh và gia đình họ trước đây sống dựa chủ yếu vào viện trợ Mỹ, nay nguồn đó không còn, vì vậy tỷ lệ người thất nghiệp quá lớn, trong khi đó diện tích canh tác ở nông thôn phần lớn bị bỏ hoang, toàn tỉnh chỉ có gần 40.000 ha đất canh tác, bình quân lương thực đầu người đầu năm 1976 (bao gồm cả màu quy thóc) chỉ đạt 89 kg/ đầu người, thấp nhất cả nước…, cho nên tình trạng thiếu lương thực trở nên gay gắt, nạn đói xảy ra. Trước tình hình nạn đói đe dọa, đầu năm 1976, một mặt tỉnh phải xin Trung ương chi viện 35.000 tấn lương thực để cứu đói cho nhân dân, mặt khác phát động đợt tuyên truyền, vận động nhân dân ở đô thị chưa có việc làm trở về quê cũ sản xuất nông nghiệp, đi xây dựng vùng kinh tế mới. Bên cạnh đó, tỉnh chủ trương mở rộng khai hoang, phục hóa trồng các cây lương thực để khắc phục nạn đói. Đồng thời vận động nhân dân tham gia phong trào làm thủy lợi, đào vét kênh mương, xây dựng hồ chứa nước để thâm canh, mở rộng diện tích, nâng cao năng suất lao động. Kết quả chỉ trong vòng 2 năm 1976 đến 1977, Đồng Nai đã phục hóa hơn 44.456 ha đất sản xuát nông nghiệp. Nhờ đó, từng bước cân đối được lương thực trên địa bàn, khắc phục nạn đói, ổn định đời sống các tầng lớp đân cư.

Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp: ngay từ ngày đầu mới giải phóng, Ủy ban Quân quản đã ra lời kêu gọi công nhân bảo vệ nhà máy, xí nghiệp. Tiếp theo đó tỉnh thành lập Ban khôi phục sản xuất công nghiệp Biên Hòa để phục vụ tiếp quản trọn vẹn khu kỹ nghệ Biên Hòa; tổ chức điều hành, thực hiện các biện pháp cần thiết để nhanh chóng khôi phục sản xuất công nghiệp. Vì vậy, ngay sau ngày 30/4/1975 đã có 38/94 nhà máy trong khu kỹ nghệ Biên Hòa đi vào hoạt động; nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp ngành nghề truyền thống trở lại sản xuất bình thường…, giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ cho người lao động. Cùng với nhiệm vụ ổn định chính trị, trật tự xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai quan tâm sâu sắc đến xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục, y tế nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Ty văn hóa thông tin các tỉnh được thành lập, các đội thông tin cổ động lưu động đi xuống các huyện xã để tuyên truyền chính sách mới của cách mạng, phát động phong trào thu gom các loại văn hóa phẩm phản động, đồi trụy do chế độ cũ để lại. Thành lập Đài phát thanh giải phóng Biên Hòa, Báo Đồng Nai để thông tin đến quần chúng nhân dân, hướng dẫn dư luận quần chúng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới xã hội chủ nghĩa…

Ngành giáo dục miền Đông lúc bấy giờ đặt dưới sự chỉ đạo của Sở giáo dục khu Đông Nam bộ, bao gồm 5 tỉnh: Biên Hòa, Vũng Tàu, Bà Rịa - Long Khánh, Tân Phú và Thủ Dầu Một đã tiếp quản toàn bộ các cơ sở giáo dục do chế độ cũ để lại. Sở Giáo dục miền Đông, Ban Giáo dục các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa- Long Khánh, thị xã Vũng Tàu, Tân Phú mở các lớp bồi dưỡng chính trị cho 3.747 giáo viên, tập huấn nghiệp vụ, định hướng chương trình, nội dung giảng dạy cho 3.292 giáo viên; khôi phục 480 trường học các cấp, với 189.614 học sinh trở lại học đường. Ngày 21/9/1975, tỉnh đã tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học đầu tiên 1974-1975 dưới chính quyền cách mạng cho 3.199 học sinh đăng ký dự thi. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện chương trình xóa mù chữ theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục. Chính quyền và nhân dân các tỉnh miền Đông đã nhanh chóng sữa chữa trường lớp bị hư hại do chiến tranh và chuẩn bị xây dựng thêm trường học cho các vùng kinh tế mới ở tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và Thủ Dầu Một.

TỈ NH
Cấp I
Cấp II, III
Số trường
Phòng học
Số trường
Phòng học
Thủ Dầu Một
211
763
16
189
Vũng Tàu
35
169
12
221
Bà Rịa - Long Khánh
123
600
-
-
Tân Phú
19
211
-
27
Biên Hòa
209
607
42
370
Tổng cộng
597
2350
100
1007

Về đội ngũ giáo viên, Sở giáo dục khu Đông Nam bộ đã vận động 7.047 giáo viên từng giảng dạy trước năm 1975 ra đứng lớp, gồm: 5.118 giáo viên cấp I, 1.432 giáo viên cấp II và 497 giáo viên cấp III. Hầu hết các tỉnh đều thiếu giáo viên (tổng cộng thiếu 1.441 giáo viên các cấp), nhưng đã nhanh chóng có những biện pháp khắc phục như: đào tạo giáo viên cấp tốc, vận động dạy thêm giờ, thêm buổi...

Ngày 17 - 6 - 1975, Ban bí thư TW Đảng đã có chỉ thị 221 - CT/TW về “Công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn giải phóng” và chỉ thị 222 - CT/TW về “Công tác giáo dục Đại học và Chuyên nghiệp ở miền Nam trong thời gian tới”.

Chỉ thị 221 - CT/TW Ban bí thư nêu rõ nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng miền Nam là “Nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động của nền giáo dục Mỹ - ngụy ở vùng mới giải phóng, tích cực góp phần xây dựng con người mới và cuộc sống mới, đáp ứng yêu cầu cấp bách và lâu dài của cách mạng trên các mặt kinh tế, văn hóa, quốc phòng”. Chỉ thị cũng chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể: Tích cực xóa mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa; phát triển mạnh và đều khắp các trường phổ thông; tiếp bước xây dựng ngành mẫu giáo; xây dựng thật tốt các trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, giáo viên;

Đồng thời, nêu lên vấn đề trước mắt về tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục là: Cải tạo cơ sở giáo dục cũ của Mỹ - ngụy; xây dựng bộ máy giáo dục các cấp; tiến hành điều tra cơ bản về giáo dục để có cơ sở chuẩn bị tốt cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục trong những năm tới; phát động phong trào quần chúng tham gia giáo dục.

Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND các tỉnh, ngành giáo dục các tỉnh khu Đông Nam bộ đã nhanh chóng triển khai thực hiện chỉ thị 221 - CT/TW của Ban Bí thư, khôi phục toàn bộ các cơ sở trường lớp do chế độ cũ để lại, cải tạo hệ thống tư thục, trường lớp; mở rộng mạng lưới trường học ở các vùng giải phóng cũ, vùng kinh tế mới, phát động phong trào toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ, xây dựng hệ thống trường lớp BTVH cho cán bộ và thanh niên, tách các trường mẫu giáo ra khỏi các trường phổ thông để hình thành trường mẫu giáo hoàn chỉnh, tiến hành bồi dưỡng và tuyển dụng lại đội ngũ giáo chức vùng mới giải phóng, khôi phục Trường trung học sư phạm Bà Rịa và xúc tiến việc xây dựng Trường cao đẳng sư phạm, Trường sư phạm mẫu giáo tại thành phố Biên Hòa để đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở cho tỉnh, xây dựng bộ máy giáo dục các cấp, triển khai công tác điều tra cơ bản để xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo những năm sau, tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền động viên toàn thể nhân dân tham gia xây dựng giáo dục, thành lập các “Ban vận động xóa mù chữ”, “Hội bảo trợ nhà trường”, “Hội cha mẹ học sinh”...

Sau 5 tháng chuẩn bị, ngày 19 - 10 - 1975, cùng với toàn miền Nam, các tỉnh miền Đông đã khai giảng năm học mang tính lịch sử 1975 - 1976. Sau đây là số học sinh các cấp so với năm học 1974 - 1975:


TỈNH
Học sinh cấp I
Học sinh cấp II
Học sinh cấp III
74 – 75
75 - 76
74 - 75
75 - 76
74 - 75
75 - 76
Thụ Dầu Một
Vũng Tàu
Bà Rịa - Long Khánh
Tân Phú
Biên Hòa
47.090
12.400
33.122
8.990
84.700
48.350
11.866
50.464
10.590
84.000
15.080
4.360
3.811
1.100
20.346
18.790
4.234
6.077
1.155
20.346
2.856
1.650
1.900
 -
6.445
5.056
1.445
2.900
 -
6.445
Tổng cộng
186.302
205.450
42.697
47.602
12.851
15.844

Như vậy, so với năm học trước ngày miền Nam giải phóng, học sinh các cấp của miền Đông Nam bộ, mà địa bàn chủ yếu là tỉnh Đồng Nai sau đó, hầu hết đều tăng. Ở cấp I, tăng hơn 10%; cấp II và III, tăng hơn 14%. Sở giáo dục khu Đông Nam bộ giải thích là do dân số trong khu vực tăng hơn trước, nhưng nguyên nhân chính là do đông đảo con em nông dân trước đây thất học nay được đi học lại.

Trước đó, ngành giáo dục đã tổ chức thi hết lớp Năm cho 19.457 học sinh và thi tuyển vào lớp Sáu. Kỳ thi tốt nghiệp lớp 12 năm học 1974 - 1975 cũng đã được tổ chức nghiêm túc cho 4.691 học sinh 4 tỉnh miền Đông. Tỉnh Biên Hòa là nơi có số học sinh thi hết lớp Năm (7.800) và hết lớp Mười hai (2.268) cao nhất các tỉnh.

Công tác bình dân học vụ và bổ túc văn hóa đã được ngành giáo dục đặc biệt chú trọng ngay sau khi tiếp quản các vùng tạm chiếm. Tỉnh có nhiều khó khăn như Tân Phú nhưng đã phát động được phong trào sôi nổi trong toàn dân tham gia xóa mù chữ và bổ túc văn hóa. Đến tháng 10.1975, tỉnh Tân Phú đã huy động 361 giáo viên dạy cho 525 học viên bổ túc văn hóa và 626 học viên mù chữ.

Sau ba năm học đầu tiên sau giải phóng (1975 - 1976, 1976 - 1977, 1977 - 1978), sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh Đồng Nai đã đạt được những thành tựu to lớn:
- Hoàn thành việc tiếp quản và cải tạo hệ thống trường lớp của chế độ cũ để lại.
- Công lập hóa 64 trường tư thục, bao gồm 4 trường mẫu giáo, 46 trường tiểu học, 14 trường trung học.
- Sắp xếp, thu gọn lại 78 trường tiểu học (chủ yếu là trường ấp) và 8 trường trung học có qui mô quá nhỏ để xây dựng thành trường có qui mô phù hợp.
- Tách 71 trường trung - tiểu học (C1+2+3 hoặc C1+2) để hình thành hệ thống trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông riêng biệt.
- Tách 96 cơ sở mẫu giáo gắn với các trường phổ thông để hình thành lại trường mẫu giáo độc lập.
- Sắp xếp lại 6 trường kỹ thuật, trong đó tập trung xây dựng 3 trường lớn ở Biên Hòa là Kỹ thuật Tân Mai, Trung học kỹ thuật Biên Hòa và Nữ công gia chánh Biên Hòa.
- Củng cố Trường trung học sư phạm Bà Rịa, hoàn thành việc đào tạo chuyển tiếp cho 305 giáo sinh đã học từ trước giải phóng.
- Xây dựng mới hệ thống trường phổ thông ở các vùng giải phóng cũ, vùng kinh tế mới của tỉnh, bao gồm 1 trường PTTH cho huyện Tân Phú, 17 trường tiểu học và trung học cơ sở cho các xã thuộc vùng kháng chiến cũ và kinh tế mới ở các huyện: Xuyên Mộc, Châu Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Long Thành, Xuân Lộc, Long Đất.
- Xây dựng Trường sư phạm cấp 2 và Trường sư phạm mẫu giáo Đồng Nai để đào tạo giáo viên cấp 2 và giáo viên mẫu giáo cho tỉnh. Xây dựng hai trường BTVH tập trung tỉnh, 4 trường BTVH tập trung và 8 trường BTVH tại chức tại các huyện và thành phố Biên Hòa. Mở các lớp xóa mù chữ rộng khắp trong toàn tỉnh.
- Xây dựng hoàn chỉnh bộ máy quản lý từ Sở đến các trường học bao gồm cơ quan ty, 11 phòng giáo dục (Biên Hòa, Châu Thành, Duyên Hải, Long Đất, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Vũng Tàu, Xuân Lộc, Xuyên Mộc) và 468 ban giám hiệu các trường học.
- Tuyển dụng lại 3.071 giáo chức của chế độ cũ, đào tạo mới 2.006 giáo viên THCS, tiểu học và mẫu giáo. Xin chi viện từ các tỉnh bạn 287 giáo viên, chủ yếu là giáo viên PTTH và sư phạm.
- Ngoài ra, các địa phương còn tổ chức đào tạo cấp tốc gần 500 giáo viên cho các trường vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
- Xây dựng mới 793 phòng học, trong đó có 95 phòng kiên cố, 698 phòng bán kiên cố và tạm thời.

Trong ba năm học này, ngành giáo dục cũng đã tổ chức thi tốt nghiệp cho 6.278 học sinh lớp 12, 17.843 học sinh lớp 9, 66.263 học sinh lớp 5 và 2.175 giáo sinh sư phạm của tỉnh. Mở gần 30 lớp xóa mù cho 4.753 học viên, hoàn thành về cơ bản xóa mù chữ cho cán bộ, thanh niên trong độ tuổi, được Nhà nước thưởng 3 huân chương Lao động hạng 3 về công tác xóa mù chữ (một cho toàn tỉnh, hai cho xã Ngãi Giao, huyện Châu Thành và phường Thống Nhất, thị xã Vũng Tàu).

Đến cuối năm 1978, hệ thống giáo dục - đào tạo Đồng Nai đã được xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện chương trình dạy học, sách giáo khoa thống nhất do Bộ giáo dục chỉ đạo. Hệ thống giáo dục của tỉnh lúc bấy giờ như sau:

NGÀNH HỌC
SỐ TRƯỜNG
PHÒNG HỌC
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
Mẫu giáo
Tiểu học
THCS
PTTH
BTVH
Kỹ thuật
Sư phạm
129
216
88
15
14
3
3
569
2.139
441
151
24
37
38
914
3.696
916
280
 -
73
59
30.577
189.271
40.087
7.481
5.721
547
1.746
Tổng cộng
468
3.399
6.065
275.430
Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, trong muôn vàn khó khăn, cả nước nói chung, Sông Bé (trước đây) nói riêng bắt tay vào kiến thiết đất nước. Đi cùng với đó, nền giáo dục cách mạng cũng sớm được điều chỉnh, không để việc học của học sinh bị gián đoạn. Giai đoạn này, vô vàn khó khăn. Cơ sở vật chất trường lớp thiếu thốn, mất cân đối, đội ngũ giáo viên thiếu trầm trọng. Ngay sau ngày đất nước thống nhất, ban điều hành của ngành giáo dục tỉnh đã tiến hành điều chỉnh, cải tạo cơ sở vật chất, sắp xếp lại mạng lưới trường lớp và tổ chức bộ máy các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ khung để hình thành các phòng giáo dục, giáo viên thiếu trầm trọng, để khai giảng năm học đầu tiên, Ty Giáo dục phải đào tạo cấp tốc đội ngũ giáo viên.

Ông Nguyễn Đức Danh, nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT Sông Bé nhớ lại, đội ngũ giáo viên giảng dạy được huy động từ nhiều nguồn, nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu của nền giáo dục mới, trong khi các trường sư phạm chưa hình thành. Trước tình hình trên, lãnh đạo tỉnh đã quyết định mở 3 lớp đào tạo giáo viên cấp tốc, gồm 1.234 giáo viên cấp I, 284 giáo viên cấp II. Cùng với đó, ngành tiến hành bồi dưỡng chính trị và nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên ở vùng mới giải phóng, nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới của nền giáo dục cách mạng. Sau khi tiếp quản các cơ sở giáo dục từ trước 1975, để kịp thời phục vụ cho việc phát triển sự nghiệp giáo dục những năm đầu sau giải phóng, ngành GD-ĐT đã tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và huy động nhiều nguồn lực đầu tư cho giáo dục, tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, song song với sắp xếp lại mạng lưới trường lớp và hình thành các cấp học. Để kịp thời đáp ứng nhu cầu học tập và quy mô phát triển giáo dục, trong 5 năm ngành đã xây dựng được 942 phòng học, trong đó 37% phòng học kiên cố và bán kiên cố. Đến năm 1985 tỉnh không còn xã trắng về giáo dục, đó là một cố gắng lớn của Đảng bộ và nhân dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.

Để thay đổi cuộc sống, con người cần có trình độ học vấn. Với mục tiêu nâng cao trình độ dân trí cho người dân, những năm đầu tiên sau giải phóng, tỉnh tập trung cho công tác xóa mù chữ. Năm học 1975-1976 toàn tỉnh xóa mù chữ cho 14.277 người. Đến tháng 12-1977 căn bản hoàn thành xóa mù chữ cho 30.992 người. Thực hiện Nghị quyết 221/CT-TW và Chỉ thị 115/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tỉnh Sông Bé đã có Chỉ thị số 03/CT-TV của Thường vụ Tỉnh ủy về “đẩy mạnh xóa mù chữ cho nhân dân lao động và bổ túc văn hóa cho cán bộ thanh niên”, ngành bổ túc văn hóa bắt đầu hình thành và phát triển. Năm học 1976- 1977 có 3 trường bổ túc công nông được thành lập, tiếp theo đó là sự ra đời của trường bổ túc văn hóa cán bộ tỉnh, các trường bổ túc văn hóa tập trung ở huyện chủ yếu là bổ túc văn hóa cơ sở. Đến năm 1985 toàn tỉnh có 14 trường bổ túc, đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ cho mọi đối tượng.

Số học sinh của trường nội trú được đưa về trung tâm TX.Thủ Dầu Một, tiếp quản cơ sở của bộ phận an ninh tình báo chế độ cũ tại đường Lý Thường Kiệt (nay là Trung tâm dạy nghề của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh) làm trường tạm. Trong thời gian này, đội ngũ giáo viên được tăng cường. Sau đó tỉnh tiếp quản một trường nuôi trẻ mồ côi của chế độ cũ (hiện nay là Bệnh viện Đa khoa TX.Bến Cát) lấy tên là trường Nội trú và chuyển toàn bộ học sinh trong chiến khu về trường tiếp tục học tập. Tháng 8-1976, học sinh trường Thiếu sinh quân cũng được gia nhập về trường Nội trú đồng thời tiếp nhận thêm con, em liệt sĩ vào học. Năm 1977, trường Nội trú Bến Cát đổi tên thành trường cấp 1, 2 Nguyễn Văn Lên. Do trường chỉ giảng dạy đến cấp 2 nên số học sinh học hết cấp phải ra trường cấp 3 Bến Cát học, nhưng vì chiến tranh mới kết thúc, phương tiện đi lại khó khăn, việc con em liệt sĩ tự đi học bên ngoài không bảo đảm an toàn nên lãnh đạo tỉnh quyết định chuyển nhóm học sinh học hết cấp 2 về trường Bổ túc công nông (sau có tên là trường Bổ túc văn hóa thanh niên thuộc phường Hòa Lợi, TX.Bến Cát hiện nay) và lần lượt từng nhóm học sinh học hết cấp được chuyển dần về trường Bổ túc công nông. Đến năm 1983, số học sinh còn lại được đưa về trường Bổ túc văn hóa thanh niên tiếp tục học tập, trường chính thức giải thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Trong 10 năm, bậc phổ thông cơ sở đã thành lập được 164 trường. Ngành học phổ thông trước giải phóng chỉ tập trung ở những địa bàn trung tâm và khu vực có điều kiện thuận lợi, sau 10 năm đã phát triển rộng khắp các địa bàn. Bậc THPT, các huyện thị đều có từ 1 - 3 trường. Chất lượng giáo dục ở 2 bậc học này có sự chuyển biến rõ rệt. Từ năm 1981-1985, tỉnh có 10 học sinh đoạt giải học sinh giỏi cấp toàn quốc. Thời gian này, phong trào thi giáo viên giỏi, viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học cũng được phát triển mạnh.




Nguồn
Đài Tiếng Nói Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh
Báo An Giang
Báo Bến Tre
Báo Bình Dương
Báo Cà Mau
Báo Cần Thơ
Kỷ yếu Chính quyền nhân dân tỉnh Đồng Nai 1945-2004, Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Đồng Nai
Địa chí Đồng Nai‎, ‎Tập 5: Văn hóa Xã hội‎, ‎Chương 7: Giáo dục‎, ‎4. Giáo dục Đồng Nai thời Độc lập - Xây dựng (1975 - 1998)‎ -