04 tháng 5 2011

Giáo dục Cách mạng và Xoá mù chữ ở Nam Bộ

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dù chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt, nhưng nền giáo dục cách mạng vẫn được duy trì. Trong điều kiện vô cùng khó khăn, dù bom rơi, đạn lạc, nhưng ở nhiều vùng kháng chiến những con chữ vẫn được gieo đều đặn. Từ phong trào này đã tạo ra những hạt giống đỏ, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng đi đến thắng lợi.

Thành phố Hồ Chí Minh

Sài Gòn trước năm 1975 là nơi tập trung của cải và trí tuệ của chế độ cũ nhưng tồn tại cùng với nó là một bộ phận cư dân không hề nhỏ sống ở xóm nước đen, gầm cầu nghèo khó, thất học, đầy dẫy tệ nạn. Trẻ em 7-8 tuổi còn chưa được đến trường, người lớn mù chữ nhiều vô kể. Do vậy, ngay sau giải phóng, xóa mù chữ được xem là nhiệm vụ cấp bách. Theo đó, những lớp học gieo ánh sáng văn hóa được mở ra ở khắp nơi trong thành phố. Thầy Nguyễn Hữu Danh, người trực tiếp đứng lớp xóa mù chữ những ngày đó nhớ lại: từ 7 giờ tối là lớp học đã được mở đến khuya, người dân thuận giờ nào học giờ đó. Ở đâu có người học là ở đó có lớp, có khi ở nhà dân, lúc ở nhà thầy, trụ sở cũng biến thành lớp học. Lớp học chỉ có vài người cũng dạy, cả người lớn học chung với trẻ nhỏ. Dưới ánh đèn dầu leo loét, từ trẻ nhỏ, dến những cụ già đeo kính lão, các chị phụ nữ bụng mang dạ chữa, bế con... theo học lớp xóa mù.

Cả người học người dạy đều có chung mong muốn tốt đẹp nhất là biết chữ, có văn hóa để xây dựng đất nước, nhờ vậy mà chỉ sau một năm thành phố đã căn bản xoá nạn mù chữ. “Mình tổ chức những đoàn đi xóa mù chữ, phổ cập ở xóm lao động nghèo, vùng sâu vùng xa. Ban đêm chia 4 đoàn đi ra 4 phía, hết giờ làm việc ở Sở đoàn đi phổ cập có khi đến 11-12 giờ đêm mới về… nhất là khu vực ngoại thành như Củ Chi, đến 9 giờ đêm người dân mới đi làm đồng về, mình vận động người dân ra lớp xóa mù chữ nửa tiếng đến một tiếng”, thầy Nguyễn Hữu Danh nói. Không chỉ phong trào xóa mù chữ có độ lan tỏa mà số lượng học sinh ở những năm học đầu tiên sau giải phóng cũng tăng đột biến và có sức sống vô cùng mạnh mẽ. Bởi người dân đã động viên con em của mình đi học phổ thông, có trình độ, kiến thức để sau này còn góp phần xây dựng đất nước. Tuy nhiên, chưa kịp mừng thì nỗi lo đã tới. Bởi lúc bấy giờ số trường học không đủ đáp ứng đông đảo người dân đang trong tinh thần hăng hái quyết tâm tìm con chữ. Đặc biệt, còn khu vực ven đô, ngoại thành nhiều trường cũ tạm bợ, phòng ốc rất thiếu thốn, trang thiết bị dạy học hầu như không có gì.

Quê gốc Sài Gòn, năm 1955 thầy Nguyễn Hữu Danh là một trong những người tập kết ra Bắc, được cử học đi học tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, dạy Trường học sinh miền Nam Đông Triều. 20 năm sau, thầy là một trong những người nhận nhiệm vụ tiếp quản giáo dục Sài Gòn và xây dựng Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong nổi tiếng hiện nay. Thầy Danh kể lại, 11h30 ngày 30/4/1975 thành phố Sài Gòn được giải phóng. 17h30 chiều hôm đó, đoàn giáo dục có 5 người gồm thầy, cô Minh Đoài, cô Loan, thầy Bảy, thầy Trung nhận quyết định về tiếp quản giáo dục Sài Gòn. Lúc đó, Tố Hữu thay mặt Bộ Chính Trị dặn mọi người “bằng bất cứ giá nào phải làm tất cả những cái làm được cho nhân dân Sài Gòn”. Ngày 2/5/1975, đoàn giáo dục cùng khoảng 600 người ở tất cả các ngành xuống tàu biển cấp tốc vào Sài Gòn tiếp quản.

Trở về quê sau 20 năm, vốn thông thạo ngoại ngữ trong quá trình học phổ thông (tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức), nhiệm vụ đầu tiên thầy được giao là giúp Sở Y tế phân loại thuốc thu được từ chế độ cũ. Sau đó, thầy được phân công làm ở phòng THPT, phòng bổ túc văn hóa (sở GD-ĐT), đồng thời giảng dạy chính trị cho cán bộ, xóa mù chữ: “Chúng tôi thống kê, năm 1976 – 1977, TP.HCM có khoảng 40.000 trẻ em thất học chưa kể người lớn không biết chữ. Nếu thực hiện xóa mù theo lớp thì mỗi năm chỉ tối đa dạy được 9.000 trẻ. Sở Giáo dục quyết định mở lớp đêm, từ 7h tối đến khuya, người dân thuận giờ nào học giờ đó. Xong công việc ở sở, đêm đến sở chia 4 đoàn đi 4 phía khác nhau, vào tận góc xóm, ở đâu có người học ở đó có lớp, lúc học ở nhà dân, nhà văn hóa, hội trường… Khu vực ngoại thành như Củ Chi, Hóc Môn chúng tôi chờ người dân đi làm đồng về rồi vận động ra lớp xóa mù đến 11-12 giờ đêm mới về” thầy Danh nhớ lại.

Thầy Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó giám đốc Sở GD-ĐT, những năm đó công tác tại trường THPT Nguyễn Hữu Cầu huyện Hóc Môn kể: Thời gian đầu sau ngày giải phóng miền Nam, một số lớp học dựng tạm bằng tranh tre nứa lá, phải học tăng ca, ca 3, ca 4 mới đủ xoay vòng. Hình ảnh giáo viên chạy ngược xuôi ra vô nội - ngoại thành trên những xe đạp cà tàng hoặc bám vào thanh ngang của xe đò để kịp giờ lên lớp là rất phổ biến. “Lúc đó, trường vừa thiếu vừa ọp ẹp nên không đủ chỗ cho các cháu học, thường học buổi sáng, buổi chiều là hai buổi, xen vào khoảng giữa đó là lớp học ca trưa, cuối buổi chiều có thêm một ca nữa để tận dụng cơ sở vật chất trong điều kiện còn thiếu. Sau giải phóng tinh thần là huy động trẻ ra lớp để đảm bảo tất cả trẻ trong độ tuổi đều được đến trường mà trong khi nhu cầu số lượng học sinh trong độ tuổi đến trường lại nhiều, cho nên phải tăng công suất sử dụng của một phòng học”, thầy Ngai nhớ lại.

Bên cạnh nhiệm vụ xóa mù chữ, từng bước nâng cao dân trí, một trong những nhiệm vụ cấp bách của ngành giáo dục sau giải phóng là thay thế nội dung, chương trình giáo dục của chế độ cũ bằng chương trình, sách giáo khoa của chế độ mới phù hợp với thực tiễn đất nước, xây dựng con người mới XHCN. Tuy cơ sở vật chất khó khăn nhưng không khí giảng dạy và học tập lại sôi động, đầy nhiệt huyết. Các buổi hội họp, tập huấn được tổ chức dày đặc để thông tin kịp thời, phát huy kinh nghiệm thực tế. Cô Nguyễn Thị Yến Thu, người con miền Nam ra Bắc học tập và trở về sau ngày giải phóng và gắn bó với sự nghiệp giáo dục ở bất cứ nơi nào cần đến mình. Cô không thể quên không khí sôi nổi của thầy và trò với phương châm giáo dục khá mới mẻ như: “học đi đôi với hành”, “giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, “nhà trường gắn liền với xã hội”: “Đưa vào áp dụng ở thành phố mình, học sinh xuống nông thôn giúp nông thôn làm thủy lợi để gắn liền với lao động sản xuất. Học đi đôi với hành là học được thì làm được, nhà trường gắn liền với xã hội như xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ thì học trò tham gia những công việc phù hợp”.

Vấn đề nan giải của ngành giáo dục sau giải phóng là đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đứng lớp cũng đã được từng bước giải quyết với chính sách tái tuyển và tái sử dụng trên 80% giáo viên chế độ cũ. Đồng thời ngành tiếp nhận nguồn giáo viên chi viện từ miền Bắc, cộng với việc tuyển và đào tạo cấp tốc giáo viên mới nên đã giải được bài toán thiếu giáo viên. Mặc dù ở thời điểm đời sống đầy khó khăn thiếu thốn nhưng giáo viên đã hoàn thành tốt sứ mệnh trồng người của mình. Thầy Hồ Thiệu Hùng - nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT TP chia sẻ: Sau giải phóng, mức lương của giáo viên trong những năm đầu chưa được đưa vào thang bậc lương cụ thể, chỉ khoảng 40-50 đồng/tháng, so với tương quan chung thì không cao và hiếm khi giáo viên nhận lương đúng hạn. Tiêu chuẩn chỉ được 2 kg gạo mỗi tháng, phải ăn độn bo bo khiến ai cũng gầy gò, sau những buổi lên lớp là chăn nuôi heo gà trong công trình phụ nhưng giáo viên vẫn sử dụng ngày nghỉ của mình phụ đạo cho học sinh.

Với cái tâm trong sáng, với tấm lòng tất cả vì học sinh thân yêu, người thầy luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. “Lúc bấy giờ, nơi nào trả được lương giáo viên đúng hạn tức là cuối tháng có lương giáo viên là thủ trưởng vui mừng như tổ chức kì thi thành công. Có thời kì thành phố còn phải ăn độn nữa, nhưng các thầy cô vẫn gắn bó với trường, thế mới thấy thầy cô mình là quý. Tâm lý lúc bấy giờ là cứ xốc tới mà làm, làm cho hoàn thành nhiệm vụ, mà hoàn thành tốt thì càng tốt, không chỉ cán bộ lãnh đạo mà giáo viên bình thường có thể làm việc quá giờ, có những cuộc họp nòng cốt đến 12 giờ đêm để bàn công việc của trường”, thầy Hồ Thiệu Hùng cho biết.

Mặc dù những năm sau giải phóng còn nhiều gian khó nhưng công tác chuẩn bị cơ sở vật chất và đội ngũ được tiến hành về mọi mặt nên những năm học đầu tiên sau giải phóng đã được khai giảng ở tất cả các trường học đúng với quy định của Bộ GD-ĐT. Chỉ sau một thời gian ngắn, việc xóa mù tại TP.HCM được làm triệt để, được UNESCO công nhận. Năm 1979, một hội nghị quốc tế đầu tiên về công tác xóa mù chữ nhằm lấy kinh nghiệm truyền lại cho các nước trong khu vực Đông Nam Á được tổ chức tại TP.HCM. Bản lĩnh và quyết tâm của ngành GD-ĐT TP cũng chính là nền tảng để ngành vươn lên dẫn đầu trong giai đoạn sau. Sau "xóa cũ - thay mới", kể từ sau năm 1986, là một thành phố năng động, sáng tạo, ngành GD TP chuyển mình và có những bước tiến vượt bậc để từng bước đưa nền giáo dục hội nhập với quốc tế.

Khu Tây Nam Bộ

Sau phong trào đồng khởi 1960, liên Tỉnh uỷ miền Tây chủ trương xây dựng phong trào giáo dục trong tình hình mới. Ban Tuyên Văn Giáo thuộc liên Tỉnh uỷ đã mở một lớp đào tạo cán bộ giáo dục đầu tiên cho các tỉnh miền Tây tại ấp Vĩnh Tiến, xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Thuận - Rạch Giá, do đồng chí Cao Thanh Viễn (tức Mười On), Uỷ viên Uỷ ban trực tiếp phụ trách.

Từ năm 1961-1962 hoạt động giáo dục tập trung vào việc phát triển trường lớp cấp I và xoá mù chữ ở các vùng giải phóng; biên soạn, sách giáo khoa trong khi chưa có sách của R đưa về. Được sự giúp sức của hai đồng chí Hoàng Đào và Dương Minh Hồ, cán bộ giáo dục từ R về công tác, tiểu ban mở một lớp đào tạo giáo viên cấp I và một lớp cán bộ quản lý giáo dục cho các tỉnh. Để có một lớp thanh - thiếu niên được đào tạo chính quy, chu đáo phục vụ cuộc kháng chiến trước mắt và lâu dài, Khu uỷ và Ban Tuyên huấn Khu chủ trương mở một trường nội trú để đào tạo con em cán bộ, chiến sĩ. Trong Khu từ năm 1961-1962 đã có Trường Thiếu Sinh Quân đặt ở Rạch Gốc, xã Tân Ân (Cà Mau), khởi đầu là cấp I.

Năm 1963-1964, một số cán bộ giáo dục, giáo viên được đưa đi đào tạo ở miền R - tên gọi mật danh các cơ quan Trung ương Cục miền Nam. Thời gian này, Tiểu ban Giáo dục được thành lập gồm các đồng chí đầu tiên là Cao Thanh Viễn (Mười On), Hồ Thế Phương (Hai Hành), Trần Thị Ngảnh (Ba Sinh) và một số cán bộ khác như: Tám Lai, Lý Ba, Út Hậu, Sáu Ánh, Hai Ánh, Chín Văn Thông... Năm 1964 Trường Thiếu Sinh Quân chuyển về vùng Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời, trường phát triển lên cấp II và đổi tên thành Trường Lý Tự Trọng. Các lớp học của Trường Lý Tự Trọng đều được phân tán trong xóm, ấp. Học sinh được tổ chức theo nền nếp "Quân sự hoá". Thầy vượt khó, trò chăm chỉ học tập rèn luyện, tự cải thiện, gắn bó với nhân dân, chiến trường càng ác liệt thì mọi sinh hoạt của trường càng được tổ chức quy củ, bảo đảm an toàn và liên tục, khoá tốt nghiệp cấp II đầu tiên ra trường năm 1967.

Đại hội giáo dục năm 1965 và tiếp theo là Hội nghị giáo dục toàn khu tháng 3/1966 đã đánh giá đầy đủ tình hình và rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu về vận động quần chúng đi học, xây dựng trường lớp, giảng dạy, xoá mù chữ, bổ túc văn hoá và nội trú.

Năm 1966, những cán bộ, giáo viên đầu tiên do Trung ương Cục chi viện về miền Tây Nam Bộ, thế là bộ máy giáo dục được bổ sung thêm các đồng chí Lê Đức Kế (Chín Dũng), Nguyễn Thanh Bình (Út Bình) từ Cà Mau lên, Năm Chuôn ở Khmer vận khu sang. Đồng chí Lê Đức Kế thay đồng chí Cao Thanh Viễn làm Trưởng Tiểu ban Giáo dục (C6), các đồng chí Hai Hành, Út Bình là phó tiểu ban.

Năm 1968, phong trào giáo dục phát triển khá đều, có hệ thống và nền nếp. Toàn khu Tây Nam Bộ có 96.000 học sinh cấp I (trong đó có 3.600 học sinh Khmer) và khoảng 500 học sinh cấp I, II ở các trường nội trú do khu và tỉnh quản lý. Sau Tết Mậu Thân, thời kỳ địch áp dụng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và chiến dịch "Nhổ cỏ U Minh", "Bình định cấp tốc" đánh phá ác liệt vùng giải phóng, giáo viên bỏ việc, học sinh theo gia đình lánh nạn, nên đến cuối năm 1970 chỉ còn 13.000 em.

Năm 1970, trường Trường Thiếu Sinh Quân chuyển lên cấp III (hệ 10 năm) có thêm lớp dành cho học sinh Khmer, đến ngày phải phóng miền Nam 30/4/1975 có 9 khoá và số học sinh được đào tạo là 700 em.

Năm 1972 bổ sung đồng chí Trần Văn Đăng (Sáu Đăng), Lê Văn Ánh (Ba Ánh) làm Uỷ viên Ban. Từ thực tế tình hình, Khu uỷ và Tiểu ban Giáo dục chuyển hướng chỉ đạo nhằm duy trì, khôi phục trường lớp, tổ chức chương trình dạy và học phù hợp với hoàn cảnh, đã giúp khắc phục bớt khó khăn. Kết quả đến cuối năm 1972, số học sinh trong khu nhích lên 34.000 em.

Từ sau Hiệp định Paris, được sự chỉ đạo của Khu uỷ và Ban Tuyên huấn Khu, tháng 10/1973, Tiểu ban Giáo dục triệu tập hội nghị đánh giá tình hình và đề ra chủ trương, biện pháp nhằm khôi phục giáo dục. Cuối năm 1973 thêm đồng chí Nguyễn Công Thành (Sáu Thành) từ miền Bắc về... Như vậy cho thấy, Đảng bộ khu Tây Nam Bộ lúc đó rất đặt nặng công tác giáo dục - đào tạo cán bộ ở khu.

Tháng 8/1974, ta mở hội nghị giáo dục toàn Khu, có đủ đại biểu 8 tỉnh miền Tây (thêm 2 tỉnh Bạc Liêu và Châu Hà mới thành lập). Khu uỷ, Mặt trận và các đoàn thể đánh giá tình hình và đưa ra biện pháp khôi phục, phát triển giáo dục. Lúc này trong khu đã có 63.000 học sinh phổ thông. Tất cả học sinh đều được điều động đến công tác ở các cơ quan, đơn vị bộ đội và được tiếp tục đào tạo chuyên môn kỹ thuật (điện đài, cơ yếu, y tế, điện ảnh, báo chí, văn nghệ...). Nhiều học sinh trưởng thành vượt bậc như Tiến sĩ Phan Thị Việt Nga (Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang) và nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng, thành phố, tỉnh và Trung ương. Đặc biệt có Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Việt Hồng là chiến sĩ biệt động, hy sinh anh dũng tại TP Cần Thơ năm 1969, khi mới 19 tuổi.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trình độ dân trí của người dân An Giang còn rất thấp. Trường học ít, nạn mù chữ rất trầm trọng. Giai đoạn này có trên 150 ngàn trẻ trong độ tuổi đi học không được đến trường. Khi đó, mạng lưới trường học chỉ được tập trung ở các vùng thị tứ và chủ yếu đào tạo số học sinh, sinh viên chuyển tiếp từ giai đoạn trước giải phóng. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học hàng năm khoảng 30%, hiệu quả đào tạo còn rất thấp.

Trước tình hình đó, ngành Giáo dục bắt tay ngay vào việc chuẩn bị nhân lực và cơ sở vật chất cho năm học đầu tiên sau giải phóng. Khi đó, giáo dục được tỉnh ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, công tác xóa mù chữ được đặc biệt quan tâm và diễn ra rộng khắp. Tuy nhiên, số lượng giáo viên cũng rất ít, chỉ khoảng hơn 2.900 giáo viên cấp I, 620 giáo viên cấp II và 137 giáo viên cấp III. Riêng giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp còn thiếu trầm trọng nên trường sư phạm đã tiến hành đào tạo các lớp cấp tốc, ngắn hạn và hình thành thêm một số cơ sở giáo dục khác theo nhu cầu lúc bấy giờ.

Dù tỉnh đã hết sức cố gắng, nhưng do ảnh hưởng của chiến tranh biên giới Tây Nam và trận lũ lịch sử 1978 nên hoạt động xóa mù chữ tạm lắng và tình trạng tái mù chữ xuất hiện trở lại. Vào năm 1980- 1981, khi đời sống người dân bắt đầu ổn định hơn, những khó khăn do chiến tranh và thiên tai đã phần nào giảm bớt nên nhu cầu học tập khởi sắc trở lại, quy mô giáo dục của tỉnh bắt đầu chuyển mình. Giai đoạn này, các lớp học mầm non được phủ rộng khắp các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. Trường cấp I tăng gấp đôi so với năm 1975- 1976, giáo dục phổ thông cũng được phát triển rộng khắp đến các xã xa xôi. Song, các trường phân bố vẫn chưa hợp lý, chưa thật sự đồng đều. Một số điểm dân cư mới chưa có trường học, nhiều trường phải ghép cấp I và cấp II. Ngoài ra, còn phát sinh nhiều lớp học ca ba và cơ sở vật chất cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu giảng dạy.

Bên cạnh đó, lại thêm những chính sách thay đổi vĩ mô trong ngành Giáo dục, như: Xóa bao cấp trong giáo dục, thực hiện thu một phần học phí, triển khai cải cách nội dung và chương trình, đánh giá nghiêm túc kết quả học tập, thi cử của học sinh, chống ngồi nhầm lớp… Trước tình hình đó, mỗi năm, tỉnh ta có hàng ngàn giáo viên bỏ việc. Tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học vẫn còn rất cao, công tác phổ cập giáo dục cũng giảm sút. Giai đoạn này, đội ngũ giáo viên có trình độ đạt chuẩn còn thấp (cấp mầm non khoảng 1,78%, tiểu học 36,03%, THCS 41,38%, THPT 81,2%). Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp nên chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học.

Đến tháng 3-1978, An Giang được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận hoàn thành xóa nạn mù chữ trên phạm vi toàn tỉnh.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Bến Tre là một tỉnh bị tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất trường lớp thiếu thốn, nghèo nàn, lạc hậu. Trường lớp bằng bê tông lúc bấy giờ chỉ có ở thị trấn, các xã ở huyện, thị xã nhưng rất ít. Ở các vùng nông thôn rất ít điểm trường, trẻ em phần lớn chỉ học biết chữ hoặc hết cấp 1, khi học cấp 2, cấp 3, phải lên thị trấn huyện hoặc thị xã. Năm 1975, trường lớp ở Bến Tre thiếu thốn, trẻ em nghèo ít được đến trường, người lớn mù chữ đâu đâu cũng thấy. Số người mù chữ ở Bến Tre có hơn 45.000 người, là vấn đề khó trong điều hành, xây dựng phát triển kinh tế xã hội. Đường giao thông đi lại khó khăn, mức sống người dân bấy giờ thấp nên trẻ em nghèo rơi rớt dần việc học. Thực hiện lời Bác Hồ dạy “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, học hành”, Tỉnh ủy Bến Tre chủ trương xây dựng trường lớp tạm thời bằng vật liệu có được, chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều phòng học bằng cây lá được dựng lên ở xã mới giải phóng, vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến, đáp ứng phần nào nhu cầu học tập của con em lao động.

Khắc phục trình trạng này, Tỉnh ủy Bến Tre đã kịp thời ban hành Chỉ thị số 25-CT/TU mở chiến dịch “Đồng khởi diệt dốt” lãnh đạo toàn Đảng toàn quân, dân Bến Tre vượt qua khó khăn, quyết tâm hoàn thành mục tiêu thanh toán nạn mù chữ trước thời hạn Trung ương quy định. Thực hiện chỉ thị, ngành Giáo dục kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền, vận động đi vào chiều sâu thực hiện chỉ thị. Các địa phương từ tỉnh đến huyện, xã, phường, thị trấn để thành lập Ban chỉ đạo xóa mù chữ do Phó Chủ tịch UBND phụ trách văn hóa xã hội làm trưởng ban. Ban chỉ đạo tiến hành điều tra nắm chắc đối tượng trong diện: Nam từ 50 và nữ từ 45 tuổi trở xuống và đối tượng ngoài diện. Ở các xã đều có giáo viên phụ trách xóa mù chữ cho người lớn.

Cái khó khi tiếp quản ngành Giáo dục là lực lượng giáo viên kháng chiến chỉ có gần 300 người, không đủ bố trí các cấp học. Tiểu ban giáo dục của tỉnh kêu gọi giáo viên chế độ cũ nhanh chóng trở lại nhiệm sở. Tỉnh mở nhiều lớp sinh hoạt chính trị nhằm giúp họ hiểu biết về cách mạng, về chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, về nhiệm vụ của người giáo viên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa; thành lập Hội đồng tuyển dụng giáo viên dưới chế độ Sài Gòn ở 8 huyện, thị xã. Lần lượt hầu hết giáo viên chế độ cũ đều được tuyển dụng, trừ một số ít là sĩ quan do địch biệt phái vào nhà trường để theo dõi, kìm kẹp giáo viên hướng về cách mạng. Cạnh đó tỉnh gấp rút đào tạo cấp tốc giáo viên mẫu giáo, phổ thông, bổ túc văn hóa đáp ứng nhu cầu giảng dạy của năm học mới và những năm học tiếp theo. Đồng thời tỉnh tiếp nhận giáo viên miền Bắc chi viện miền Nam; giáo viên cấp 2, 3 của tỉnh Vĩnh Phúc kết nghĩa, giáo viên cấp 3 là con em Bến Tre tập kết ra Bắc, học tập ở miền Bắc trở về. Tỉnh đã có một lực lượng giáo viên gần 4.500 người đáp ứng nhu cầu khai giảng năm học mới. Cái khó của ngành học phổ thông là khâu quản lý, điều hành. Giáo viên chế độ cũ có gần 3.000 người. Giáo viên cách mạng quá mỏng không đủ bố trí khắp các trường. Bước vào năm học đầu tiên sau giải phóng, các trường đều chưa có ban giám hiệu. Thầy Nguyễn Kiên Cường cán bộ Tiểu ban giáo dục bấy giờ đề xuất thành lập Ban điều hành do giáo viên chế độ cũ đảm trách, cán bộ giáo viên cách mạng rải ra làm cố vấn, lãnh đạo chỉ huy. Mô hình Ban điều hành được tỉnh báo cáo với Bộ Giáo dục, được Bộ nhân rộng khắp cả nước.

Thầy Phạm Trường Thắng nguyên Phó trưởng ty giáo dục phụ trách xóa mù chữ cho biết: Nhờ quyết tâm của lãnh đạo các địa phương và nhiệt tình của các đoàn thể trong các ban chỉ đạo. Việc học xóa mù được linh hoạt hóa về giờ giấc học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho các người lớn mù chữ học nhanh đạt kết quả. Do vậy, số người trong độ tuổi xóa mù chữ ra lớp rất đông. Nhưng năm ấy chưa có điện lưới quốc gia nhưng người đến lớp xóa mù với ngọn đèn dầu leo lét rất đông vui.

Với phương thức tổ chức chặt chẽ và sức mạnh tổng hợp như vậy, tinh thần “Đồng khởi diệt dốt” tiếp tục phát huy khí thế Đồng khởi đánh Mỹ năm xưa, trở thành quyết tâm lớn, thành cao trào cách mạng. Chỉ 50/55 ngày đêm cuối năm 1976, tỉnh đã đạt mục tiêu chiến dịch xóa dốt. Tháng 5/1977, Bến Tre được Bộ giáo dục công nhận đạt mục tiêu xóa mù chữ trước thời hạn. Là tỉnh đứng hạng thứ ba trong 21 tỉnh thành phía Nam. Tỉnh có 44.198 người thoát mù chữ, đạt tỉ lệ 98,06%. Xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách và xã Bình Nguyên, thị xã Bến Tre là hai đơn vị đạt mục tiêu xóa mù chữ sớm nhất của tỉnh. Năm 1996, Thủ tướng Phan Văn Khải có chuyến công tác Bến Tre, yêu cầu tỉnh báo cáo thực trạng trường lớp. Thầy Nguyễn Thanh Phương, Giám đốc Sở lúc bấy giờ báo cáo rõ tình trạng trường lớp tạm bợ, xuống cấp ở từng địa phương. Sau hội nghị ấy, cán bộ Văn phòng Chính phủ gặp Giám đốc Sở cho biết: Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Tài chính cho Bến Tre mượn tiền xây trường với điều kiện UBND tỉnh bảo lãnh (Lúc này chưa có kinh phí Trung ương cấp xây trường chuẩn quốc gia).

Sau ngày giải phóng, tháng 8/1975, Tiểu ban Giáo dục chính thức giải thể tại TP Cần Thơ. Cán bộ, giáo viên của tiểu ban được bố trí về các tỉnh, thành phố tiếp tục nhiệm vụ trong thời kỳ mới. TP Cần Thơ được hình thành sau 3 lần điều chỉnh về địa giới hành chính. Giáo dục và đào tạo thành phố Cần Thơ từ sau khi giải phóng tập trung vào xóa mù chữ, năm học đầu tiên sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975 - 1976 đã đón tiếp trên 112 ngàn học sinh các cấp. Cơ sở vật chất thiếu thốn việc đào tạo học sinh hệ chuyên nghiệp và đại học cũng mới bắt đầu chuyển sang chương trình đào tạo mới.

Khu Đông Nam Bộ

Ông Nguyễn Xuân Vinh, nguyên Phó tiểu ban giáo dục Thủ Dầu Một nhớ lại, phong trào giáo dục tỉnh Thủ Dầu Một phát triển mạnh từ cuối năm 1962 đến 1966, đỉnh cao là 1965-1966. Để tránh bom đạn của kẻ thù, thầy trò phải đào hầm, giao thông hào xung quanh lớp học. Thời đó, chiến tranh vốn ác liệt, hơn nữa, trường lớp là mục tiêu địch đánh phá bằng phi pháo nên có nhiều nhà giáo, học sinh đã ngã xuống. Đầu năm 1965 phong trào giáo dục toàn tỉnh phát triển mạnh, vì vùng giải phóng của ta được mở rộng. Đến tháng 4-1973, Tiểu ban giáo dục thành lập trường nội trú dạy cho con em cán bộ và gia đình chính sách, trường đóng ở ấp Giáng Hương (xã An Lập, Dầu Tiếng bây giờ), được làm bằng tranh, tre, nứa lá.

Ông Nguyễn Xuân Dũng, nguyên Hiệu trưởng trường thời kỳ đầu còn nhớ, tuy là vùng giải phóng nhưng giặc vẫn oanh kích tự do, vẫn có biệt kích, giặc vẫn thả bom, bắn pháo. Để bảo đảm an toàn, thầy trò cùng nhau đào hầm, xây dựng căn cứ để tránh bom. Thời gian này rất thiếu giáo viên, trường chỉ có 3 giáo viên thay nhau dạy. Vì vậy trường sử dụng số học sinh lớp lớn hướng dẫn kỹ năng giảng dạy để dạy cho lớp nhỏ. Để bảo đảm an toàn thầy, trò cùng nhau đào hầm, xây dựng căn cứ để tránh bom, đạn của kẻ thù. Lớp học ban đầu chỉ có khoảng 20 học sinh, cao điểm có khoảng 60 học sinh.

Trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm như vậy, nhưng khát khao được học tập vẫn hừng hực trong mỗi học trò. Chị Nguyễn Hồng Nhung là một trong số những lứa học sinh đầu tiên của trường còn nhớ, dưới làn bom, mũi đạn của kẻ thù, hoạt động dạy học vẫn diễn ra sôi nổi, có những kỷ niệm thật sâu sắc mà những người như chị không bao giờ quên. Những ngày đó, trường lớp được làm bằng tranh tre, thầy trò cùng vô rừng cắt tranh, chặt cây về dựng lớp học. Cứ giặc bắn phá cháy trụi thì thầy trò cùng dựng lại. Lớp học phía trên, hầm phía dưới, có lúc đang học giặc pháo kích thầy trò cùng chui vô hầm tránh đạn. Trong chiến tranh, điều kiện còn khó khăn, thiếu thốn, vừa học, các học sinh vừa sản xuất, tự túc lương thực, học sinh lớn làm nuôi học sinh nhỏ. Dù cực khổ, nhưng ai cũng quyết tâm học, bởi học tập cũng là thể hiện tinh thần yêu nước, có kiến thức văn hóa mới mở mang được tầm nhìn, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Để chuẩn bị cho công tác tiếp quản và điều hành tỉnh Biên Hòa sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, ngày 24/4/1975, tại Gia kiệm, Thường vụ Khu ủy miền Đông công bố Nghị quyết của Khu ủy Miền Đông về chủ trương tổ chức Ủy ban Quân quản các tỉnh và thành phố.

Ngày 03/5/1975, hội nghị Ban Thường vụ và cán bộ chủ chốt Khu ủy miền Đông do đồng chí Lê Quang Chữ, Bí thư Khu ủy chủ trì công bố Quyết định thành lập Ủy ban Quân quản các tỉnh và thành phố Biên Hòa, như sau:
Ủy ban Quân quản tỉnh Biên Hòa do đồng chí Võ Văn Lượng làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản tỉnh Bà Rịa – Long Khánh do đồng chí Phạm Lạc làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản tỉnh Tân Phú do đồng chí Võ Tấn Vịnh làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản thành phố thành phố Vũng Tàu do đồng chí Phạm Văn Hy làm Chủ tịch.
Ủy ban Quân quản thành phố Biên Hòa do đồng chí Lê Đình Nhơn, Phó Bí thư Khu ủy làm Chủ tịch. Các đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Thành ủy và đồng chí Nguyễn Việt Hoa, Phó Tư lệnh Quân khu, làm Phó Chủ tịch. Đồng chí Nguyễn Quý Nam, Ủy viên Ban an ninh Khu và đồng chí Nguyễn Hồng Kỳ, Phó Bí thư Thành ủy, làm Ủy viên.

Những ngày đầu giải phóng, vùng đất đất Đồng Nai ngày nay thuộc địa giới của các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa-Long Khánh, Tân Phú, thành phố Biên Hòa, thị xã Vũng Tàu. Mỗi tỉnh đều do Ủy ban Quân quản điều hành. Đến cuối năm 1975, tình hình kinh tế xã hội ổn định, chính quyền cách mạng ở xã ngày càng được củng cố; Ủy ban Quân quản tỉnh , huyện hoàn thành nhiệm vụ giữ vững ổn định tình hình ở vùng mới giải phóng và chuyển giao nhiệm vụ lãnh đạo điều hành xã hội cho Ủy ban nhân dân cách mạng các tỉnh.

Ngày 29/9/1975, Hội nghị Ban chấp hành Trung Đảng ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về “nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó Nghị quýết chỉ rõ:…”hợp nhhất các tỉnh thành đơn vị hành chính-kinh tế với quy mô cần thiết”. Về công tác cán bộ, Nghị quyết Trung ương chỉ đạo:”…điều động và phân bố lại cán bộ theo tình hình mới, nhằm đảm bảo lợi ích chung của cách mạng cả nước; nâng cao kiến thức kinh tế cho cán bộ quân đọi, chuyển một số ra làm kinh tế. ..”

Căn cứ Nghị quyết 24 của Trung ương, ngày 20/9/1975, Trung ương cục miền Nam ra Nghị quyết số 16/QĐ.75 về việc giải thể khu, sát nhập tỉnh. Đến tháng 01/1976, Trung ương có quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai trên cơ sở hợp nhất 3 tỉnh Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa - Long Khánh, gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc là thành phố Biên Hòa, Thị xã Vũng Tàu và các huyện: Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành, Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc, Duyên Hải.

Đến tháng 1/1976, ba tỉnh trên được Trung ương hợp nhất thành tỉnh Đồng Nai. Sau nhiều lần thay đổi ranh giới hành chính, từ năm 1995, địa bàn tỉnh Đồng Nai gồm 1 thành phố (Biên Hòa), 8 huyện (Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Tân Phú, Định Quán, Long Khánh, Xuân Lộc). So với hiện nay, địa bàn tỉnh Đồng Nai lúc đó rộng hơn, bao gồm các địa phương: toàn bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, huyện Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh), huyện Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa). Diện tích tự nhiên tỉnh Đồng Nai lúc thành lập là 8360 km2 , dân số trên 1.223.683 người. Toàn tỉnh có 154 đơn vị hành chính cấp xã (bao gôm xã, phường, thị trấn).

Khi thành lập tỉnh Đồng Nai, ông Lê Quang Chữ được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy.

Ngày 24/3/1976, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Quyết định số 21/QĐ-76 về việc công nhận Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đồng Nai theo đề nghị của Đại hội đại biểu nhân dân tỉnh Đồng Nai, gồm các vị sau đây:
- Chủ tịch: Ông Nguyễn Văn Lá, tức Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung)
- Các Phó Chủ tịch: Ông Nguyễn Văn Có, tức Nguyễn Văn Hòa (Năm Hòa)
Ông Lê Thành Ba (Ba Bùi)
Ông Hoàng Vĩnh Phú (Bảy Phú)
Ông Lê Đình Nghiệp (Năm Nghiệp)
- Ủy viên thư ký: Ông Nguyễn Văn Dinh (Năm Dân)
- Các Ủy viên khác: Ông Nguyễn Hoàng Vân (Mười Vân)
Ông Lê Văn Ngọc (Sáu Ngọc)
Ông Lê Ngọc Bạch (Chín Hồng)
Ông Hồ Sĩ Hành (Hai Huỳnh)
Bà Lê Thị Hoa (Năm Thường)

Để giúp việc cho Ủy ban nhân dân cách mạng lãnh đạo điều hành, tỉnh đã hình thành ngay bộ máy giúp việc ban đầu với 34 đơn vị quản lý Nhà nước và 5 đơn vị đoàn thể cấp tỉnh. Đến cuối năm 1976, bộ quản lý chuyên ngành của tỉnh có 39 Ty, ban ngành và tương đương, gồm: Văn phòng Uỷ banhành chính tỉnh; Ty Công nghiệp, Ty Giao thông vận tải, Ty Giáo dục, Ty Lâm nghiệp, Ty Nông nghiệp, Ty Thủy lợi, Ty Lao động, Ty Thương binh- xã hội, Ty Tài chính, Ty Thương nghiệp, Ty Văn hóa - thông tin, Ty Xây dựng, Ty Bưu điện, Ty Lương thực, Ty Thủy sản, Ủy ban Vật giá, Ủy ban Xây dựng cơ bản, ty Công an, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Liên hiệp công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Ủy Ban kế hoạch, Ủy Ban vật giá, Chi cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Ban Cải tạo nông nghiệp, Ban Liên hiệp xã, Ban Ngoại vụ-chuyên gia, Ban pháp chế, Ban Thanh tra, Ban Thi đua, Ban Tổ chức chính quyền.

Đúng 10 giờ 30 phút, ngày 30/4/1975, Bộ chỉ huy tiền phương gồm các đồng chí Phan Văn Trang, Nguyễn Việt Hoa, Hoàng Việt Thắng, Nguyễn Quý Nam và Trung đoàn 5 tiến vào tiếp quản tòa hành chính tỉnh Biên Hòa. Khu ủy miền Đông về đóng cơ quan tại dinh tên trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 3 (nay là Nhà văn hóa thiếu nhi tỉnh) để lãnh đạo.

Nhiệm vụ chủ yếu cấp bách trong thời gian đầu là tiếp quản vùng giải phóng, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội, ổn định đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên từng khu vực, nhằm từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo vệ an toàn các nhà máy, xí nghiệp. Trong ngày đầu tiên tiếp quản, Ủy ban Quân quản thành phố Biên Hòa chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho Ban an ninh triển khai kế hoạch ổn định trật tự trong thành phố; các lực lượng vũ trang (bộ đội, an ninh) được triển khai chốt chặn các đầu mối giao thông và các tuyến đường trọng yếu như ngã 3 Tam Hiệp, ngã 3 đi Vung Tàu, cầu Đông Nai, cầu Gành, cầu Rạch Cát; các đội thông tin của Ủy ban Quân quản tăng cường tuyên truyền chính sách 10 điểm của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam, chính sách hòa hợp dân tộc của Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền giao nộp vũ khí, đăng ký trình diện; lực lượng công binh Quân khu tập trung tháo gỡ bom, mìn; thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của địch còn gài lại; lực lượng an ninh Khu miền Đông phối hợp với bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ tích cực truy lùng, truy bắt và triệt phá các tổ chức phản động, tình báo của Mỹ cài lại; triệt phá các băng nhóm lưu manh chuyên nghiệp; các ổ chứa mại dâm, các đối tượng xì ke, ma túy...do chế độ cũ để lại; kêu gọi các công chức, viên chức chế độ cũ, nhất là ngành kinh tế, y tế, giáo dục và các cơ sở hạ tầng như điện, nước.. ra đăng ký làm việc trở lại sau một đợt học chính trị từ 2 đến 3 ngày ...Chỉ 3 ngày sau giải phóng, các cơ sở sản xuất điện, nước ở Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa-Vũng Tàu đi vào hoạt động, tình hình xã hội ổn định, mọi hoạt động của nhân dân trở lại bình thường.

Trong thời kỳ đầu mới giải phóng, do hậu quả của chiến tranh để lại, hàng trăm ngàn đồng bào từ nông thôn bỏ quê hương chạy về thành thị sống bằng con đường buôn bán, thêm vào đó hàng trăm ngàn ngụy quân, ngụy quyền của bộ máy chiến tranh và gia đình họ trước đây sống dựa chủ yếu vào viện trợ Mỹ, nay nguồn đó không còn, vì vậy tỷ lệ người thất nghiệp quá lớn, trong khi đó diện tích canh tác ở nông thôn phần lớn bị bỏ hoang, toàn tỉnh chỉ có gần 40.000 ha đất canh tác, bình quân lương thực đầu người đầu năm 1976 (bao gồm cả màu quy thóc) chỉ đạt 89 kg/ đầu người, thấp nhất cả nước…, cho nên tình trạng thiếu lương thực trở nên gay gắt, nạn đói xảy ra. Trước tình hình nạn đói đe dọa, đầu năm 1976, một mặt tỉnh phải xin Trung ương chi viện 35.000 tấn lương thực để cứu đói cho nhân dân, mặt khác phát động đợt tuyên truyền, vận động nhân dân ở đô thị chưa có việc làm trở về quê cũ sản xuất nông nghiệp, đi xây dựng vùng kinh tế mới. Bên cạnh đó, tỉnh chủ trương mở rộng khai hoang, phục hóa trồng các cây lương thực để khắc phục nạn đói. Đồng thời vận động nhân dân tham gia phong trào làm thủy lợi, đào vét kênh mương, xây dựng hồ chứa nước để thâm canh, mở rộng diện tích, nâng cao năng suất lao động. Kết quả chỉ trong vòng 2 năm 1976 đến 1977, Đồng Nai đã phục hóa hơn 44.456 ha đất sản xuát nông nghiệp. Nhờ đó, từng bước cân đối được lương thực trên địa bàn, khắc phục nạn đói, ổn định đời sống các tầng lớp đân cư.

Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp: ngay từ ngày đầu mới giải phóng, Ủy ban Quân quản đã ra lời kêu gọi công nhân bảo vệ nhà máy, xí nghiệp. Tiếp theo đó tỉnh thành lập Ban khôi phục sản xuất công nghiệp Biên Hòa để phục vụ tiếp quản trọn vẹn khu kỹ nghệ Biên Hòa; tổ chức điều hành, thực hiện các biện pháp cần thiết để nhanh chóng khôi phục sản xuất công nghiệp. Vì vậy, ngay sau ngày 30/4/1975 đã có 38/94 nhà máy trong khu kỹ nghệ Biên Hòa đi vào hoạt động; nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp ngành nghề truyền thống trở lại sản xuất bình thường…, giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ cho người lao động. Cùng với nhiệm vụ ổn định chính trị, trật tự xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai quan tâm sâu sắc đến xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục, y tế nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Ty văn hóa thông tin các tỉnh được thành lập, các đội thông tin cổ động lưu động đi xuống các huyện xã để tuyên truyền chính sách mới của cách mạng, phát động phong trào thu gom các loại văn hóa phẩm phản động, đồi trụy do chế độ cũ để lại. Thành lập Đài phát thanh giải phóng Biên Hòa, Báo Đồng Nai để thông tin đến quần chúng nhân dân, hướng dẫn dư luận quần chúng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới xã hội chủ nghĩa…

Ngành giáo dục miền Đông lúc bấy giờ đặt dưới sự chỉ đạo của Sở giáo dục khu Đông Nam bộ, bao gồm 5 tỉnh: Biên Hòa, Vũng Tàu, Bà Rịa - Long Khánh, Tân Phú và Thủ Dầu Một đã tiếp quản toàn bộ các cơ sở giáo dục do chế độ cũ để lại. Sở Giáo dục miền Đông, Ban Giáo dục các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa- Long Khánh, thị xã Vũng Tàu, Tân Phú mở các lớp bồi dưỡng chính trị cho 3.747 giáo viên, tập huấn nghiệp vụ, định hướng chương trình, nội dung giảng dạy cho 3.292 giáo viên; khôi phục 480 trường học các cấp, với 189.614 học sinh trở lại học đường. Ngày 21/9/1975, tỉnh đã tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học đầu tiên 1974-1975 dưới chính quyền cách mạng cho 3.199 học sinh đăng ký dự thi. Đồng thời đẩy mạnh thực hiện chương trình xóa mù chữ theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục. Chính quyền và nhân dân các tỉnh miền Đông đã nhanh chóng sữa chữa trường lớp bị hư hại do chiến tranh và chuẩn bị xây dựng thêm trường học cho các vùng kinh tế mới ở tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và Thủ Dầu Một.

TỈ NH
Cấp I
Cấp II, III
Số trường
Phòng học
Số trường
Phòng học
Thủ Dầu Một
211
763
16
189
Vũng Tàu
35
169
12
221
Bà Rịa - Long Khánh
123
600
-
-
Tân Phú
19
211
-
27
Biên Hòa
209
607
42
370
Tổng cộng
597
2350
100
1007

Về đội ngũ giáo viên, Sở giáo dục khu Đông Nam bộ đã vận động 7.047 giáo viên từng giảng dạy trước năm 1975 ra đứng lớp, gồm: 5.118 giáo viên cấp I, 1.432 giáo viên cấp II và 497 giáo viên cấp III. Hầu hết các tỉnh đều thiếu giáo viên (tổng cộng thiếu 1.441 giáo viên các cấp), nhưng đã nhanh chóng có những biện pháp khắc phục như: đào tạo giáo viên cấp tốc, vận động dạy thêm giờ, thêm buổi...

Ngày 17 - 6 - 1975, Ban bí thư TW Đảng đã có chỉ thị 221 - CT/TW về “Công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn giải phóng” và chỉ thị 222 - CT/TW về “Công tác giáo dục Đại học và Chuyên nghiệp ở miền Nam trong thời gian tới”.

Chỉ thị 221 - CT/TW Ban bí thư nêu rõ nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng miền Nam là “Nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động của nền giáo dục Mỹ - ngụy ở vùng mới giải phóng, tích cực góp phần xây dựng con người mới và cuộc sống mới, đáp ứng yêu cầu cấp bách và lâu dài của cách mạng trên các mặt kinh tế, văn hóa, quốc phòng”. Chỉ thị cũng chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể: Tích cực xóa mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa; phát triển mạnh và đều khắp các trường phổ thông; tiếp bước xây dựng ngành mẫu giáo; xây dựng thật tốt các trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, giáo viên;

Đồng thời, nêu lên vấn đề trước mắt về tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục là: Cải tạo cơ sở giáo dục cũ của Mỹ - ngụy; xây dựng bộ máy giáo dục các cấp; tiến hành điều tra cơ bản về giáo dục để có cơ sở chuẩn bị tốt cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục trong những năm tới; phát động phong trào quần chúng tham gia giáo dục.

Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND các tỉnh, ngành giáo dục các tỉnh khu Đông Nam bộ đã nhanh chóng triển khai thực hiện chỉ thị 221 - CT/TW của Ban Bí thư, khôi phục toàn bộ các cơ sở trường lớp do chế độ cũ để lại, cải tạo hệ thống tư thục, trường lớp; mở rộng mạng lưới trường học ở các vùng giải phóng cũ, vùng kinh tế mới, phát động phong trào toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ, xây dựng hệ thống trường lớp BTVH cho cán bộ và thanh niên, tách các trường mẫu giáo ra khỏi các trường phổ thông để hình thành trường mẫu giáo hoàn chỉnh, tiến hành bồi dưỡng và tuyển dụng lại đội ngũ giáo chức vùng mới giải phóng, khôi phục Trường trung học sư phạm Bà Rịa và xúc tiến việc xây dựng Trường cao đẳng sư phạm, Trường sư phạm mẫu giáo tại thành phố Biên Hòa để đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở cho tỉnh, xây dựng bộ máy giáo dục các cấp, triển khai công tác điều tra cơ bản để xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo những năm sau, tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền động viên toàn thể nhân dân tham gia xây dựng giáo dục, thành lập các “Ban vận động xóa mù chữ”, “Hội bảo trợ nhà trường”, “Hội cha mẹ học sinh”...

Sau 5 tháng chuẩn bị, ngày 19 - 10 - 1975, cùng với toàn miền Nam, các tỉnh miền Đông đã khai giảng năm học mang tính lịch sử 1975 - 1976. Sau đây là số học sinh các cấp so với năm học 1974 - 1975:


TỈNH
Học sinh cấp I
Học sinh cấp II
Học sinh cấp III
74 – 75
75 - 76
74 - 75
75 - 76
74 - 75
75 - 76
Thụ Dầu Một
Vũng Tàu
Bà Rịa - Long Khánh
Tân Phú
Biên Hòa
47.090
12.400
33.122
8.990
84.700
48.350
11.866
50.464
10.590
84.000
15.080
4.360
3.811
1.100
20.346
18.790
4.234
6.077
1.155
20.346
2.856
1.650
1.900
 -
6.445
5.056
1.445
2.900
 -
6.445
Tổng cộng
186.302
205.450
42.697
47.602
12.851
15.844

Như vậy, so với năm học trước ngày miền Nam giải phóng, học sinh các cấp của miền Đông Nam bộ, mà địa bàn chủ yếu là tỉnh Đồng Nai sau đó, hầu hết đều tăng. Ở cấp I, tăng hơn 10%; cấp II và III, tăng hơn 14%. Sở giáo dục khu Đông Nam bộ giải thích là do dân số trong khu vực tăng hơn trước, nhưng nguyên nhân chính là do đông đảo con em nông dân trước đây thất học nay được đi học lại.

Trước đó, ngành giáo dục đã tổ chức thi hết lớp Năm cho 19.457 học sinh và thi tuyển vào lớp Sáu. Kỳ thi tốt nghiệp lớp 12 năm học 1974 - 1975 cũng đã được tổ chức nghiêm túc cho 4.691 học sinh 4 tỉnh miền Đông. Tỉnh Biên Hòa là nơi có số học sinh thi hết lớp Năm (7.800) và hết lớp Mười hai (2.268) cao nhất các tỉnh.

Công tác bình dân học vụ và bổ túc văn hóa đã được ngành giáo dục đặc biệt chú trọng ngay sau khi tiếp quản các vùng tạm chiếm. Tỉnh có nhiều khó khăn như Tân Phú nhưng đã phát động được phong trào sôi nổi trong toàn dân tham gia xóa mù chữ và bổ túc văn hóa. Đến tháng 10.1975, tỉnh Tân Phú đã huy động 361 giáo viên dạy cho 525 học viên bổ túc văn hóa và 626 học viên mù chữ.

Sau ba năm học đầu tiên sau giải phóng (1975 - 1976, 1976 - 1977, 1977 - 1978), sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh Đồng Nai đã đạt được những thành tựu to lớn:
- Hoàn thành việc tiếp quản và cải tạo hệ thống trường lớp của chế độ cũ để lại.
- Công lập hóa 64 trường tư thục, bao gồm 4 trường mẫu giáo, 46 trường tiểu học, 14 trường trung học.
- Sắp xếp, thu gọn lại 78 trường tiểu học (chủ yếu là trường ấp) và 8 trường trung học có qui mô quá nhỏ để xây dựng thành trường có qui mô phù hợp.
- Tách 71 trường trung - tiểu học (C1+2+3 hoặc C1+2) để hình thành hệ thống trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông riêng biệt.
- Tách 96 cơ sở mẫu giáo gắn với các trường phổ thông để hình thành lại trường mẫu giáo độc lập.
- Sắp xếp lại 6 trường kỹ thuật, trong đó tập trung xây dựng 3 trường lớn ở Biên Hòa là Kỹ thuật Tân Mai, Trung học kỹ thuật Biên Hòa và Nữ công gia chánh Biên Hòa.
- Củng cố Trường trung học sư phạm Bà Rịa, hoàn thành việc đào tạo chuyển tiếp cho 305 giáo sinh đã học từ trước giải phóng.
- Xây dựng mới hệ thống trường phổ thông ở các vùng giải phóng cũ, vùng kinh tế mới của tỉnh, bao gồm 1 trường PTTH cho huyện Tân Phú, 17 trường tiểu học và trung học cơ sở cho các xã thuộc vùng kháng chiến cũ và kinh tế mới ở các huyện: Xuyên Mộc, Châu Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Long Thành, Xuân Lộc, Long Đất.
- Xây dựng Trường sư phạm cấp 2 và Trường sư phạm mẫu giáo Đồng Nai để đào tạo giáo viên cấp 2 và giáo viên mẫu giáo cho tỉnh. Xây dựng hai trường BTVH tập trung tỉnh, 4 trường BTVH tập trung và 8 trường BTVH tại chức tại các huyện và thành phố Biên Hòa. Mở các lớp xóa mù chữ rộng khắp trong toàn tỉnh.
- Xây dựng hoàn chỉnh bộ máy quản lý từ Sở đến các trường học bao gồm cơ quan ty, 11 phòng giáo dục (Biên Hòa, Châu Thành, Duyên Hải, Long Đất, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Vũng Tàu, Xuân Lộc, Xuyên Mộc) và 468 ban giám hiệu các trường học.
- Tuyển dụng lại 3.071 giáo chức của chế độ cũ, đào tạo mới 2.006 giáo viên THCS, tiểu học và mẫu giáo. Xin chi viện từ các tỉnh bạn 287 giáo viên, chủ yếu là giáo viên PTTH và sư phạm.
- Ngoài ra, các địa phương còn tổ chức đào tạo cấp tốc gần 500 giáo viên cho các trường vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
- Xây dựng mới 793 phòng học, trong đó có 95 phòng kiên cố, 698 phòng bán kiên cố và tạm thời.

Trong ba năm học này, ngành giáo dục cũng đã tổ chức thi tốt nghiệp cho 6.278 học sinh lớp 12, 17.843 học sinh lớp 9, 66.263 học sinh lớp 5 và 2.175 giáo sinh sư phạm của tỉnh. Mở gần 30 lớp xóa mù cho 4.753 học viên, hoàn thành về cơ bản xóa mù chữ cho cán bộ, thanh niên trong độ tuổi, được Nhà nước thưởng 3 huân chương Lao động hạng 3 về công tác xóa mù chữ (một cho toàn tỉnh, hai cho xã Ngãi Giao, huyện Châu Thành và phường Thống Nhất, thị xã Vũng Tàu).

Đến cuối năm 1978, hệ thống giáo dục - đào tạo Đồng Nai đã được xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện chương trình dạy học, sách giáo khoa thống nhất do Bộ giáo dục chỉ đạo. Hệ thống giáo dục của tỉnh lúc bấy giờ như sau:

NGÀNH HỌC
SỐ TRƯỜNG
PHÒNG HỌC
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
Mẫu giáo
Tiểu học
THCS
PTTH
BTVH
Kỹ thuật
Sư phạm
129
216
88
15
14
3
3
569
2.139
441
151
24
37
38
914
3.696
916
280
 -
73
59
30.577
189.271
40.087
7.481
5.721
547
1.746
Tổng cộng
468
3.399
6.065
275.430
Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, trong muôn vàn khó khăn, cả nước nói chung, Sông Bé (trước đây) nói riêng bắt tay vào kiến thiết đất nước. Đi cùng với đó, nền giáo dục cách mạng cũng sớm được điều chỉnh, không để việc học của học sinh bị gián đoạn. Giai đoạn này, vô vàn khó khăn. Cơ sở vật chất trường lớp thiếu thốn, mất cân đối, đội ngũ giáo viên thiếu trầm trọng. Ngay sau ngày đất nước thống nhất, ban điều hành của ngành giáo dục tỉnh đã tiến hành điều chỉnh, cải tạo cơ sở vật chất, sắp xếp lại mạng lưới trường lớp và tổ chức bộ máy các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ khung để hình thành các phòng giáo dục, giáo viên thiếu trầm trọng, để khai giảng năm học đầu tiên, Ty Giáo dục phải đào tạo cấp tốc đội ngũ giáo viên.

Ông Nguyễn Đức Danh, nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT Sông Bé nhớ lại, đội ngũ giáo viên giảng dạy được huy động từ nhiều nguồn, nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu của nền giáo dục mới, trong khi các trường sư phạm chưa hình thành. Trước tình hình trên, lãnh đạo tỉnh đã quyết định mở 3 lớp đào tạo giáo viên cấp tốc, gồm 1.234 giáo viên cấp I, 284 giáo viên cấp II. Cùng với đó, ngành tiến hành bồi dưỡng chính trị và nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên ở vùng mới giải phóng, nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới của nền giáo dục cách mạng. Sau khi tiếp quản các cơ sở giáo dục từ trước 1975, để kịp thời phục vụ cho việc phát triển sự nghiệp giáo dục những năm đầu sau giải phóng, ngành GD-ĐT đã tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và huy động nhiều nguồn lực đầu tư cho giáo dục, tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, song song với sắp xếp lại mạng lưới trường lớp và hình thành các cấp học. Để kịp thời đáp ứng nhu cầu học tập và quy mô phát triển giáo dục, trong 5 năm ngành đã xây dựng được 942 phòng học, trong đó 37% phòng học kiên cố và bán kiên cố. Đến năm 1985 tỉnh không còn xã trắng về giáo dục, đó là một cố gắng lớn của Đảng bộ và nhân dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.

Để thay đổi cuộc sống, con người cần có trình độ học vấn. Với mục tiêu nâng cao trình độ dân trí cho người dân, những năm đầu tiên sau giải phóng, tỉnh tập trung cho công tác xóa mù chữ. Năm học 1975-1976 toàn tỉnh xóa mù chữ cho 14.277 người. Đến tháng 12-1977 căn bản hoàn thành xóa mù chữ cho 30.992 người. Thực hiện Nghị quyết 221/CT-TW và Chỉ thị 115/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tỉnh Sông Bé đã có Chỉ thị số 03/CT-TV của Thường vụ Tỉnh ủy về “đẩy mạnh xóa mù chữ cho nhân dân lao động và bổ túc văn hóa cho cán bộ thanh niên”, ngành bổ túc văn hóa bắt đầu hình thành và phát triển. Năm học 1976- 1977 có 3 trường bổ túc công nông được thành lập, tiếp theo đó là sự ra đời của trường bổ túc văn hóa cán bộ tỉnh, các trường bổ túc văn hóa tập trung ở huyện chủ yếu là bổ túc văn hóa cơ sở. Đến năm 1985 toàn tỉnh có 14 trường bổ túc, đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ cho mọi đối tượng.

Số học sinh của trường nội trú được đưa về trung tâm TX.Thủ Dầu Một, tiếp quản cơ sở của bộ phận an ninh tình báo chế độ cũ tại đường Lý Thường Kiệt (nay là Trung tâm dạy nghề của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh) làm trường tạm. Trong thời gian này, đội ngũ giáo viên được tăng cường. Sau đó tỉnh tiếp quản một trường nuôi trẻ mồ côi của chế độ cũ (hiện nay là Bệnh viện Đa khoa TX.Bến Cát) lấy tên là trường Nội trú và chuyển toàn bộ học sinh trong chiến khu về trường tiếp tục học tập. Tháng 8-1976, học sinh trường Thiếu sinh quân cũng được gia nhập về trường Nội trú đồng thời tiếp nhận thêm con, em liệt sĩ vào học. Năm 1977, trường Nội trú Bến Cát đổi tên thành trường cấp 1, 2 Nguyễn Văn Lên. Do trường chỉ giảng dạy đến cấp 2 nên số học sinh học hết cấp phải ra trường cấp 3 Bến Cát học, nhưng vì chiến tranh mới kết thúc, phương tiện đi lại khó khăn, việc con em liệt sĩ tự đi học bên ngoài không bảo đảm an toàn nên lãnh đạo tỉnh quyết định chuyển nhóm học sinh học hết cấp 2 về trường Bổ túc công nông (sau có tên là trường Bổ túc văn hóa thanh niên thuộc phường Hòa Lợi, TX.Bến Cát hiện nay) và lần lượt từng nhóm học sinh học hết cấp được chuyển dần về trường Bổ túc công nông. Đến năm 1983, số học sinh còn lại được đưa về trường Bổ túc văn hóa thanh niên tiếp tục học tập, trường chính thức giải thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Trong 10 năm, bậc phổ thông cơ sở đã thành lập được 164 trường. Ngành học phổ thông trước giải phóng chỉ tập trung ở những địa bàn trung tâm và khu vực có điều kiện thuận lợi, sau 10 năm đã phát triển rộng khắp các địa bàn. Bậc THPT, các huyện thị đều có từ 1 - 3 trường. Chất lượng giáo dục ở 2 bậc học này có sự chuyển biến rõ rệt. Từ năm 1981-1985, tỉnh có 10 học sinh đoạt giải học sinh giỏi cấp toàn quốc. Thời gian này, phong trào thi giáo viên giỏi, viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học cũng được phát triển mạnh.




Nguồn
Đài Tiếng Nói Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh
Báo An Giang
Báo Bến Tre
Báo Bình Dương
Báo Cà Mau
Báo Cần Thơ
Kỷ yếu Chính quyền nhân dân tỉnh Đồng Nai 1945-2004, Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Đồng Nai
Địa chí Đồng Nai‎, ‎Tập 5: Văn hóa Xã hội‎, ‎Chương 7: Giáo dục‎, ‎4. Giáo dục Đồng Nai thời Độc lập - Xây dựng (1975 - 1998)‎ -

Lễ Phật Đản 8/ 5/ 63 Tại Huế

Mường Nhé - Điện Biên

Phóng viên Nguyễn Hùng của Bà Buồi Cỡn bị Chủ tịch huyện Mường Nhé Giàng A Dìn chửi mắng, he he :v





Một trò đểu giả của bọn chó chết là dùng một số hình ảnh, video ở nước ngoài, hình ảnh, video ở chỗ khác không liên quan tới sự việc Mường Nhé lồng vào nhau để tạo ra cái gọi là "The Muong Nhe Massacre May 6 2011" mấy tháng sau đó.



Cập nhật 6/5/2013

Chủ Nhật, ngày 05 tháng 5 năm 2013
TRĂNG NƠI CUỐI RỪNG TỔ QUỐC-tiếp

Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo.

Điện biên không ngoài cuộc đua chen lên thành thành phố, nhưng nhìn đâu cũng vẫn đậm mầu tỉnh lẻ, vắng lặng tẻ nhạt.

Cách Điện biên chỉ hơn trăm cây, để đến được những bản tận cùng giáp biên giới Lào của huyện Mường nhé, phải đi hết non ngày.

Rừng Tây bắc giờ sạch sẽ toàn cỏ lác, giống như rừng Tây nguyên. Người Mông đốt rừng làm nương, thi thoảng xót lại những cây đại thụ cô quạnh cháy xém.

Cứu rừng bằng cách định canh cho người Mông, nhưng những người làm chính sách ngồi tận thủ đô và đám chống phá, núp sau đạo giáo, lợi dụng triệt để những khoảng cách giữa thực tế và chính sách. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên bạo loạn Mường nhé hồi năm ngoái.
---------
 
Cập nhật 30/9/2013
 http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_TAILIEU_COBAN/Attachments/1092/cscodong.pdf
---------
Cập nhật 6/12/2013

SỰ DU NHẬP CỦA ĐẠO TIN LÀNH

TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MÔNG VÀ NHỮNG DIỄN BIẾN PHỨC TẠP Ở TÂY BẮC
 


                                                                                      TS. Phạm Văn Lực

                                                                    Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc

1.     Vài nét khái quát về Tây Bắc

Tây Bắc là vùng đất nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc lấy Thủ đô Hà Nội làm chuẩn. Cho đến nay tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về địa giới của khu Tây Bắc nhưng trong phạm vi của bài viết này chúng tôi đề cập đến Tây Bắc chủ yếu bao gồm các tỉnh: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Hoà Bình.

Tây Bắc một phần của lãnh thổ Việt Nam, một bộ phận của Tổ quốc Việt  Nam, là địa bàn sinh sống lâu đời của trên 20 dân tộc anh em: Thái, Mông, Lự, Hoa, Kinh, Mường, Tày, Nùng, Dao, La Ha, Khơ Mú, Kháng, Mảng, Lào, La Hủ… Theo số liệu thống kê năm 2009, Tây Bắc có khoảng trên 4,3 triệu dân. Các dân tộc Tây Bắc giàu truyền thống yêu nước và cách mạng có những đóng góp to lớn vào công cuộc lao động xây dựng đất nước và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Trong lịch sử Tây Bắc có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi đây được coi là vùng đất “Tam Mãnh” qua Lào vào Vân Nam (Trung Quốc) và Hưng Hoá. Đúng như Nguyễn Bá Thống đã nhận xét trong bài phú Thiên Hưng Trấn: “Qua ải Ai Lao, liên lạc tiện đường, biên giới Vân Nam khống chế mọi mặt. Đây là nơi xung yếu của Bách Man, cửa ngõ của Lục Chiếu, che giữ cho Trấn như giậu như phên, án ngữ miền thượng du làm then làm chốt… Lúa bát ngát ruộng, dâu, gai mơn mởn thành hàng. Lông (Thú), cánh (chim), ngà (voi), da tràn ngập sang lán quốc. Bạc, vàng, châu báu đầy dẫy chốn biên cương…” [10, tr.233]. Hiện nay, Tây Bắc có tầm chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và trong quan hệ giao lưu quốc tế.

Xuất phát từ tầm chiến lược đặc biệt quan trọng đó nên Tây Bắc đã trở thành đối tượng nhòm ngó, xâm lượccủa nhiều thế lực ngoại bang, nhất là trong giai đoạn hiện nay các thế lực đế quốc tay sai phản động đã lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định an ninh, chính trị. Vì thế, để ngăn chặn tình trạng truyền đạo trái phép, giữ vững an ninh chính trị ở Tây Bắc luôn được Đảng, Nhà nước cùng các cấp , bộ, ngành quan tâm đặc biệt.

2. Sự du nhập của đạo Tin Lành (Vàng Chứ) trong đồng bào Mông và những diễn biến phức tạp ở Tây Bắc

Đạo Tin Lành được tách ra từ đạo Gia tô thế kỷ XVI, sau các cuộc cải cách tôn giáo ở châu Âu; sau đó nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới và được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.

Khi đạo Tin Lành du nhập vào vùng đồng bào dân tộc H’mông thì tôn giáo này được gọi với tên “Vàng Chứ”, vì nó gắn bó mật thiết với tín ngưỡng truyền thống
của đồng bào Mông luôn ao ước muốn có một ông Vua (Vangx) tài giỏi, công tâm để dẫn dắt người Mông tới cuộc sống thật sung sướng. Với cách “phù phép” đây duy tâm và siêu hình đó những người “sáng tác” ra khái niệm “Vàng Chứ” (Vua chủ, Vương chủ) hay “Vàng Chứ ntux” (Vua chủ trời, Vương chủ trời) đã khéo léo Mông hóa Đức chúa trời với ông Vua trong tưởng tượng của người Mông để họ lôi kéo, lừa mị một bộ phận người Mông phải theo cái gọi là “Vàng Chứ” như theo vị vua mới của mình. Sự gá lắp đó đã lôi cuốn được một bộ phận người nông dân dân tộc Mông vốn hiền lành chân thật đang khao khát chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, có một cuộc sống thực sự độc lập – tự do – hạnh phúc, bởi đồng bào tưởng viêc theo “Vàng Chứ” giống như các cuộc “Xưng vua” khởi nghĩa chống sự áp bức trong lịch sử. Nhưng càng về sau thì nội dung của Tin Lành càng biểu hiện rõ rệt về đối tượng tôn thờ, kinh thánh, nghi lễ của đạo Tin lành… Điều đó có nghĩa là, về bản chất “Vàng Chứ” chính là Tin Lành.

Ở Tây Bắc, địa phương đầu tiên đón nhận đạo Tin Lành Vàng Chứ là huyện Sông Mã (Sơn La), Thào Bả Hụ là người “có công” đầu truyền bá đạo Tin Lành Vàng Chứ vào Tây Bắc [9]. Năm 1986, gia đình Hụ có con ốm chữa mãi không khỏi, sau khi nghe đài Manila (hay đài FEBC, phát từ Philipin) và lời tuyên truyền của những người đi buôn từ Yên Bái đến, Hụ đã cùng hai người H’mông ở đây sang nhà thờ Trạm Tấu (Yên Bái), gặp Sùng Bla Giống để học “Cách cúng mới”. Giống đã dậy họ hát thánh ca, đọc kinh thánh bằng chữ H’mông La tinh, các nghi lễ hành đạo và cung cấp một số tranh ảnh chúa Jesus…Sau khi trở về 15 ngày, Hụ bỏ bàn thờ tổ tiên, treo ảnh chúa và đọc kinh theo hướng dẫn của nhà thờ. Tháng 5/1986, Hụ đã vận động trưởng bản đồng ý cho truyền đạo trong dân bản và đã có 8/17 hộ trong bản tin theo, cuối 1986 lên đến 16/17 hộ và bắt đầu lan ra các bản H’mông trong toàn xã [9].

Từ Sơn La, đạo Vàng Chứ nhanh chóng phát triển sang các xã của huyện Điện Biên (tỉnh Lai Châu cũ). Năm 1986, 1987 ở các xã vùng cao Mường Lói tiếp giáp với vùng Mường Và, Mường Lạn (Sốp Cộp- Sơn La) đã có 183 hộ theo Vàng Chứ. Những người tích cực truyền đạo ở Tây Bắc là Hạng Chù Bá và Hạng A Dy ở xã Phì Nhừ (Điện Biên). Họ lợi dụng trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, đời sống kinh tế khó khăn của đồng bào để tuyên truyền lừa bịp, ép buộc nhân dân tin theo Vàng Chứ.

Năm 1988, đạo Vàng Chứ tiếp tục được truyền vào hai xã Ẳng Tơ và Mường Thín của huyện Tuần Giáo (tỉnh Lai Châu cũ). Tiếp đó năm 1989, đạo này phát triển rất nhanh, cùng một lúc vào 3 huyện Sìn Hồ, Mường Tè và Phong Thổ. Chỉ trong vòng 3 tuần lễ của tháng 10/1989, ở huyện Sìn Hồ đã có 11 xã với 29 bản và 533 hộ theo Vàng Chứ [6]. Đến 1990, đạo Vàng Chứ phát triển sang huyện Mường Lay, Phong Thổ... Chỉ sau vài năm truyền đạo, đến cuối 1990, toàn tỉnh Lai Châu (cũ) có 1.159 hộ ở 75 bản của 332 xã thuộc 6/7 huyện theo Vàng Chứ [6]. Năm 1991-1992 đạo Tin lành ở Lai Châu có chiều hướng suy giảm, thời điểm này chỉ có 3 huyện, 3 xã, 5 bản, 143 hộ theo Vàng Chứ [9].

Từ 1989-1990, đạo Tin Lành nhanh chóng lan tỏa ra khắp các địa phương của đồng bào Mông và một số dân tộc vùng cao khác ở Tây Bắc và các tỉnh miền núi phía Bắc:

+ Ở Lào Cai từ năm 1989-1990, nổi lên sự việc cúng đón Vàng chứ trong đồng bào dân tộc H’mông. Đầu tiên hiện tượng này diễn ra ở 3 huyện là Bảo Yên, Bắc Hà, Bảo Thắng sau đó phát triển ra các huyện Văn Bàn, Sa Pa, Bát Sát và Than Uyên. Theo báo cáo của Ban Tuyên giáo vào dân tộc tỉnh Lào Cai, đến tháng 6/1998 có 14.034 người H’mông và 165 người Dao theo Tin lành [8].

+  Ở Yên Bái từ cuối 1989, đầu những năm 1990 đạo Tin Lành Vàng Chứ từ tỉnh Lào Cai nhanh chóng lan rộng ở nhiều địa phương trong tỉnh, nhất là các huyện vùng cao có nhiều đồng bào Mông sinh sống như: Mù Cang Chải...

   Từ đầu những năm 2000-2001, hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép diễn ra ngày càng phức tạp và diễn ra trên diện rộng trong đồng bào Mông. Hiện nay (theo số liệu của Ban chỉ đạo Tây Bắc) ở Tây Bắc có 805 thôn bản, 242 xã, 42 huyện có đồng bào theo đạo Tin Lành, trong số tín đồ đạo Tin Lành, người Mông chiếm 96%. Qua khảo sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội (Khoá XI) tại 6 tỉnh Tây Bắc có tổng cộng 52.970 người theo đạo Tin Lành và 35.181 người theo Công giáo trong đó Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La là những tỉnh có đông đồng bào theo đạo Tin Lành [6].

       Có thể nói, trước khi có sự du nhập của đạo Tin Lành vào cuộc sống của các dân tộc Tây Bắc rất yên bình, về đời sống tâm linh phần lớn đồng bào dân tộc theo tín ngưỡng dân gian truyền thống thờ cúng tổ tiên, thần sông, thần núi, thần mưa, thần gió… mang đậm sắc thái văn hoá tín ngưỡng “phồn thực” của cư dân nông nghiệp, cầu mong cho mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu.

        Từ khi đạo Tin Lành Vàng Chứ du nhập vào Tây Bắc (1986), nhất là từ 1990 đến nay vấn đề truyền đạo trái phép có những diễn biến hết sức phức tạp; nhiều vụ “xưng vua”, “đón vua” và một số vụ lộn xộn có tính chất manh động đã diễn ra trên địa bàn Tây Bắc, như: Nổi lên là hoạt động lôi kéo, kích động đồng bào dân tộc Mông tụ tập đông người “Xưng vua”, “Đón vua”, thành lập ‘‘Nhà nước Mông’’, điển hình như vụ việc tại bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên vào tháng 5/2011), Mường Chè, Lai Châu...[8]. Thực trạng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:  

  + Thứ nhất, sự đói nghèo và lạc hậu của đồng bào các dân tộc, trong khi đó một bộ phận cán bộ có chức có quyền ở địa phương thoái hóa biến chất tham ô lãng phí, ức hiếp dân chúng... đã làm mất lòng tin của đồng bào các dân tộc nói chung, dân tộc Mông nói riêng.

 + Thứ hai, các cấp, các ngành, cán bộ và đồng bào các dân tộc chưa nhận thức đầy đủ quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo. Bộ máy tổ chức và cán bộ làm công tác tôn giáo tuy đã được kiện toàn, song chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới về công tác tôn giáo trong bối cảnh hội nhập quốc tế; do vậy việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập, kém hiệu quả.

 + Thứ ba trong quá trình truyền giáo các tôn giáo đã tranh giành đức tin từ công chúng bằng mọi cách, gây ra sự xáo trộn về tư tưởng, tâm lý của một bộ phận đồng bào các dân tộc, xâm hại đến giá trị văn hoá truyền thống, trong đó đồng bào dân tộc Mông chịu ảnh hưởng nặng nề của đạo “Vàng Chứ”, nhiều gia đình đã bỏ cả sản xuất, tụ tập mổ lợn, mổ bò ăn uống để đón “Vàng Chứ” về cứu thế con người thoát khỏi nghèo đói. Niềm tin mù quáng của một số người đã khiến họ trở thành nạn nhân của cái gọi là đạo “Vàng Chứ”. Hơn nữa, hệ thống tuyên truyền từ bên ngoài bằng tiếng Mông của đài Manila (Philippin), đài VOA và các vị chức sắc tôn giáo từ miền xuôi lên trực tiếp truyền đạo lại có hình thức truyền đạo giản đơn, thiết thực, kết hợp với làm từ thiện và tận dụng những nội dung của giáo luật gần gũi với tâm lý của đồng bào nên số tín đồ theo đạo này ngày càng đông.

 + Thứ tư âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực đế quốc tay sai phản động nhằm chống phá cách mạng Việt Nam thông qua chiến lược “diễn biến hoà bình” để chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước, quân đội, công an với nhân dân, chia rẽ giữa đồng bào miền xuôi với miền ngược, giữa người Kinh với đồng bào tôn giáo và đồng bào dân tộc thiểu số. Thủ đoạn của chúng được tiến hành lặng lẽ nhưng rất ráo riết trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội, quốc phòng, an ninh... Trong đó, lấy việc gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm mất ổn định tình hình ở các địa bàn chiến lược các tỉnh phía Bắc là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chúng.

3.  Một số giải pháp ngăn chặn hoạt động tôn giáo trái phép, giữ vững an ninh, chính trị  ở Tây Bắc

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình các tỉnh miền núi phía Bắc và trên địa bàn Tây Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TƯ về công tác tôn giáo; Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 01-CT/TTg về một số công tác đối với đạo Tin Lành. Như vậy Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tự do theo đạo và không theo đạo của mọi công dân, nghiêm cấm việc ép buộc đồng bào theo đạo hoặc bỏ đạo; đồng thời kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo hoặc đội lốt tôn giáo để kích động, lôi kéo đồng bào gây chia rẽ dân tộc, chống phá đất nước.

Để ngăn chặn việc truyền đạo trái phép, tăng cường củng cố Quốc phòng – An ninh, vùng chiến lược các tỉnh phía Tây Bắc, nhất là trên địa bàn Tây Bắc, mục tiêu, yêu cầu đặt ra là giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, không để bị động bất ngờ, không để bạo loạn xảy ra trong bất kỳ tình huống nào, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tập trung giải quyết nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, nhất là đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển KT-XH gắn với củng cố QP-AN của Đảng, Chính phủ như: Chương trình 135, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình quân dân y kết hợp,…. Tập trung huy động nguồn nhân lực, vật lực cho đầu tư phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc; ưu tiên đầu tư cho chương trình xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở những vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực xã hội cùng Nhà nước, và chính quyền các địa phương chăm lo tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của nhân dân; giải quyết những khó khăn, bức xúc của đồng bào. Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc Mông gắn với những chương trình cụ thể như: tập trung giải quyết đất sản xuất cho đồng bào, giúp họ thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao thu nhập; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ nhà ở, phát triển y tế, giáo dục; có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số, tạo nguồn nhân lực trí thức để phát triển lâu dài. Cùng với đó, cần đặc biệt quan tâm chăm lo đến đời sống văn hoá- tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số; tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào dân tộc thiểu số tổ chức các lễ hội truyền thống và giao lưu văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của từng dân tộc... Đó là động lực to lớn cho sự phát triển bền vững, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng để củng cố mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác chỉ đạo thực hiện tốt chính sách đối với tôn giáo đã được thể hiện trong Nghị quyết số 25/NQ-TƯ về công tác tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền chủ động đưa sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có nhu cầu tuân thủ sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng theo đúng quy định của pháp luật. Tuyên truyền, vận động chức sắc, tín đồ, nhà tu hành thực hiện tốt nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của người công dân, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; các cấp chính quyền và cơ quan làm công tác tôn giáo cần hướng dẫn để các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động đúng pháp luật, khuyến khích các tôn giáo phát huy nội dung tích cực của tôn giáo trên các lĩnh vực văn hoá, đạo đức, hướng thiện; thực hiện phương châm tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết hoà hợp đồng bào có đạo và không có đạo cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, đấu tranh chống lại âm mưu, hành động của các thế lực thù địch và các phần tử xấu lợi dụng tôn giáo để lừa bịp, lôi kéo đồng bào các dân tộc gây rối trật tự ở khu dân cư; kiên quyết vạch trần âm mưu, thủ đoạn của những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách tôn giáo, đi ngược lại chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Thứ tư, kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh đến huyện và xã, sắp xếp lựa chọn những người có năng lực, có trách nhiệm để tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền về nhiệm vụ công tác tôn giáo trong thời kỳ mới. Cần nhận thức đầy đủ nhiệm vụ của công tác tôn giáo không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn liên quan đến quốc tế. Đối với bộ phận đồng bào bị lôi kéo, kích động, cần cẩn trọng trong việc giải quyết các vướng mắc, lấy tuyên truyền, thuyết phục là chính, dựa vào vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng để cảm hoá đồng bào, tránh chủ quan, áp đặt khi chưa có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Thứ năm, tăng cường chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân tộc, chính sách dân tộc ở vùng Tây Bắc. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng, bởi thực hiện tốt công tác dân tộc, chính sách dân tộc sẽ tạo bước phát triển ổn định, bền vững về kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế cho vùng dân tộc và miền núi, giúp cho đồng bào “về thể xác được ấm no; thong dong về tình thần”.

 Một trong những giải pháp có tính chất mấu chốt để giải quyết vấn đề là phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở vùng Tây Bắc, sớm đưa vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trước mắt cần thực hiện tốt các chính sách 134, 135 và các chính sách khác, tạo điều kiện để đồng bào hoà nhập vào sự phát triển chung của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Bình Chính: Hưng Hoá xứ phong thổ lục (Bản dịch đánh  máy tại Phòng tư liệu Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp  Hà Nội).

2. Đinh Xuân Lâm (1979), Điện Biên trong lịch sử, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

3. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001). Đại cương lịch sử Việt Nam. Toàn tập. NXB GD. HN

4. TS. Thào Xuân Sùng (2008)- Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo hiện nay. Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Sơn La.

5. Nguyễn Trãi (1959): Dư địa chí (Bản dịch của Phan Huy Tiếp; Hà Văn Tấn chú thích và giới thiệu ).  Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội.

6. Lê Vui, Tình hình tôn giáo ở Tây Bắc: thực trạng và giải pháp

7. F. Savina (1931): Histoire des Miaos. Huong Cang.

8. Tài liệu điền dã tại Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Mù Cang Chải (Yên Bái) tháng 7/2009.

9. Tài liệu điền dã tại Sông Mã, Sốp Cộp, Thuận Châu, Mộc Châu (Sơn La); Tuần Giáo, Điện Biên, Mường Nhé (tỉnh Điện Biên); Lai Châu tháng 7/2009.


10. (1978) Thơ văn Lý-Trần (Tập 3). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội- Viện Văn học, Hà Nội.


Cập nhật 30/4/2014

Từ năm 1975 đến năm 1994, lợi dụng nước ta còn nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, thiên tai nặng nề và tác độc tiêu cực của những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã tiến hành nhiều biện pháp chống phá cách mạng như bao vây, cấm vận kinh tế, cô lập về ngoại giao; lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền…nhen nhóm các tổ chức phản động, lợi dụng ngọn cơ để chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ năm 1995 đến nay, sau những thất bại trong chống phá Việt Nam bằng những thủ đoạn cũ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã điều chỉnh chính sách và thủ đoạn chống phá cách mạng một cách quyết liệt hơn, trực tiếp hơn, phức tạp và khó lường hơn. 
Ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã lợi dụng những sơ hở của ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số để xuyên tạc, đã kích, gây hoại nghi, chia rẽ quần chúng nhân dân với Đảng, chính quyền. Từ đó sử dụng “ngọn cờ” nắm, kéo quân chúng, tạo ra xu hướng và lực lượng đối lập chống phá ta. Thực tế đã diễn ra vụ bạo loạn vào tháng 2 năm 2001; tháng 4 năm 2004 và vụ biểu tình tháng 4 năm 2008. trong khi đã đang giải quyết tình hình khiếu kiện, bóc gỡ cơ sở của FULRO, ngày 29/01/2001, bộ đội biên phòng Gia Lai bắt giữ 2 đối tượng hoạt động FULRO ở xã Ia Piat, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Các đối tượng FULRO nằm vùng đã huy động lực lượng đến đồn biên phòng biểu tình đòi thả hai đối tượng này, KSor Kơk cho rằng đây là thời cơ bạo loạn nên chúng thống nhất chỉ đạo bọn hoạt động trong nước đồng loạt nổi dậy ở Gia Lai (2/2/2001) và ở Đắc Lắk (3/2/2001). Việc chúng đồng loạt nổi dậy gây bạo loạn với quy mô lớn trên phạm vi rộng thể hiện rõ mục đích chính trị của bọn FULRO khi chúng giương các khẩu hiệu, băng rôn đòi “Nhà nước Đêga độc lập”, “Đêga tự trị”. 
Thất bại ở vụ bạo loạn tháng 2/2001 vẫn không làm chúng từ bỏ âm mưu, thủ đoạn. Chúng tiếp tục, tổ chức vụ bạo loạn tháng 4/2004. Được sự hỗ trợ từ bên ngoài, chúng tiếp tục khống chế, đe dọa cán bộ cơ sở, phát triển lực lượng vào nội bộ, lội kéo học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số tham gia. 
Cuộc bạo loạn ngày 10/4/2004 có sự xúi giục và chỉ đạo của Mỹ và các thế lực thù địch, với các khẩu hiệu kích động, li khai, tự trị, bài kinh. Mục tiêu của chúng là đòi “Nhà nước độc lập”. Không dựng lại ở đó, các thế lực thù địch ở bên ngoài tiếp tục chỉ đạo bên trong tiến hành biểu tình tháng 4/2008. Cuối tháng 3/2008 bọn FULRO lưu vong liên tục chỉ đạo, hối thúc số bên trong phải tổ chức biểu tình trên toàn Tây Nguyên. Chúng đã kích động quần chúng gây rối ở 11 điểm thuộc 7 huyện của 3 tỉnh Gia Lai, Đắc Lắk, Phú Yên. Trên cơ nắm vững tình hình, âm mư thủ đoạn của bọn chúng, ta đã kịp thời thực hiện các biện pháp vận động để giải tán đám đông, tuy nhiên nếu ta không có biện pháp kịp thời sẽ lan rộng, không còn tập trung ở một vùng nữa. 
Từ ngày 30/5 đến ngày 5/6/2011 trên địa bàn một số huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, một số phần tử cực đoan đã dùng nhiều thủ đoạn cưỡng bức hàng ngàn đồng bào dân tộc Mông từ nhiều nơi kéo về khu vực bản Huổi Khon, xã Nậm Kê, huyện Mường Nhé, để thực hiện âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động tư tưởng chống chính quyền, gây mất trật tự xã hội. 
Sau những thủ đoạn kích động, sử dụng đồng bào dân tộc thiểu số kém hiểu biết, chúng sử dụng lực lượng tinh vi hơn, xúi giục giáo dân nổi loạn. trong các ngày 30/8/2013 và 4/9/2013 hàng trăm giáo dân thuộc giáo sứ Mỹ Yên và vùng lân cận đã kéo đến bao vây trụ sở ủy ban nhân xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, trung băng rôn khẩu hiệu, gây mất trật tự công cộng. Sau đó học còn xúc phạm và hành hung 6 cán bộ của huyện Nghi Lộc và xã Nghi Phương trong giờ làm việc với những đòi hỏi hết sức vô lí. Vụ việc trên lập gây chú ý trong dư luận, không ít những cơ quan thông tấn, báo chí, đài phát thanh nước ngoài và các trang mạng vu khống, xuyên tạc, cố ý bóp méo sự thật như một kế hoạch tiếp ứng có bài bản của bên ngoài nhằm kích động, chống đối, gây mật ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. 
Trong chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam, Mỹ đã dội xuống hàng ngàn, hàng triệu tấn chất độc, nhất là chất độc da cam Dioxin. Không chỉ tàn phá môi trường mà nó còn để lại những di chứng vô cùng nặng nê đối với con người cho đến ngày. Bao nhiêu em bé ra đời tật nguyền, dị hình, dị dạng…; trong khi Liên Hợp Quốc ghi nhận và bầu Việt Nam làm chủ tịch Hội đồng Nhân quyền với số phiếu gần như tuyệt đối, thì ở đâu đó vì những mưu đồ xấu xa còn một số kẻ “cuồng ngôn” vẫn luôn miệng kêu gào, phá đám dựng lên cái gọi là “dân chủ”, “nhân quyền” ở Việt Nam. Chúng còn lợi dụng vào những cuộc biểu tình sinh viên yêu nước ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh…về vấn đề chủ quyền biển đảo ở Việt Nam để kích động, xuyên tạc rằng Chính phủ Việt Nam đàn áp dân chúng yêu nước, sợ kẻ thù.... Đặc biệt trong thời gian qua, chúng triệt để lợi dụng Internet thông qua các trang mạng xã hội, blogger… để tung tin, bịa đặt, xuyên tạc sự thật, bôi nhọ, vu cáo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng; cổ súy cho những đối tượng cơ hội, những hành vi chống phá… Tất cả những điều đó cho thấy các thế lực thù địch chưa bao giờ ngừng chống phá đất nước ta, mọi lúc, mọi nơi với thủ đoạn, hành vi ngày tinh vi, thâm hiểm, đa dạng, khó lường. 

29 tháng 4 2011

30/4 với những người bỏ Nước ra đi

Ngày 30/4 và chuyện "hòa hợp, hòa giải"

Ba mươi năm trước, ghe chở tôi và 22 người khác, sau 3 ngày đêm lênh đênh trên biển, tấp bến Budi, một làng chài ở phía Nam Thái Lan, giáp ranh Mã Lai. Ở đó vài tuần, lên trại tị nạn Songkhla. Ở Songkhla vài tháng mới thấy thảm cảnh của dân mình. Nếu 100 người may mắn đến trại thì chắc có 20 người đã bỏ mạng trên biển cả. Bỏ mạng vì chìm ghe, vì hải tặc sát hại, vì hải quân Thái Lan hay Mã Lai tàn sát, v.v… 
Phải tận cảnh chứng kiến những khuôn mặt hớt hãi nhập trại mới cảm nhận được sự kinh hoàng của những “thuyền nhân”. Có biết bao em bé lên bờ thành mồ côi vì cha mẹ và anh chị đều chết. Có nhiều chiếc ghe mà chỉ có một người duy nhất đến bờ. Có vài phụ nữ cứ lẩm bẩm chẳng biết nói gì, như bị ám ảnh bởi thảm cảnh vừa trải qua. Có ngườilấm lét nhìn đàn ông như sợ hung thần sát nhân. 
Tôi đọc đâu đó ước tính rằng có gần 300 ngàn người Việt bỏ mạng trong thập niên 1980s và đầu 1990s. Có lẽ chưa bao giờ mà lịch sử VN ghi nhận một sự mất mát to lớn như thế. Cũng chưa bao giờ trong lịch sử chúng ta có một làn sóng người bỏ quê ra đi đông đảo như thế. Lúc đó tôi ghét Thái Lan lắm; tôi thậm chí thề có ngày sẽ ... ăn thua đủ với cái nước này để đền bù lại những gì dân VN mất vào tay nước này. Nhưng ông bà mình nói đúng: "ghét của nào, trời trao của đó". Sau này chính tôi lại là người giúp Thái Lan nhiều hơn là giúp VN! Điều này dạy tôi một bài học: không nên thù oán ai. Tôi thành đệ tử không chính thức của Phật.

Sau 3 ngày đêm lên đênh trên biển, ghe chúng tôi gồm 23 người cập bến Budi. Budi, sau này tôi mới biết là một làng chài ở phía nam Thái Lan, giáp biên giới Mã Lai. Budi không phải là lựa chọn của chúng tôi. Thật ra, lúc ra đi, đâu ai biết ghe mình sẽ đến đâu. Chỉ mong rằng nếu may mắn thì sẽ đến một vùng đất nào đó thuộc các nước Đông Nam Á có trại tị nạn của Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc (UNHCR) hay được một tàu hàng ngoại quốc thương tình cứu vớt; còn nếu không may mắn thì sẽ bỏ mạng trên biển. Chúng tôi sẵn sàng chết. Nhưng ghe chúng tôi may mắn. Khi nhìn thấy đất liền từ xa, tài công quyết định mở hết ga hai cái máy dầu trực chỉ thẳng đến đó. Chưa đến nơi thì gặp thuyền đánh cá của người địa phương, họ lấy hết dầu, hết gạo, và dĩ nhiên là luôn tài sản trên ghe, rồi chỉ đường cho chúng tôi vào bờ. Gần đến bờ thì ghe hết dầu, và chúng tôi phải lội (nếu ai biết lội) và giúp nhau bồng bế vào đất liền.

Lên bờ. Mừng hết lớn. Sau 3 ngày đêm trên chiếc ghe vốn được đóng để đi sông (chứ không đi biển) mà sống sót như thế thì quả là quá may mắn. Đói. Khát. Nhọc nhằn. Chúng tôi mệt nhừ. Có vài chị khi lên bờ chỉ biết nằm lăn ra vì đói quá. Nhìn toàn cảnh thật là thảm thương, vì ai cũng mặt mũi đen sậm (sau mấy ngày phơi nắng biển), quần áo lếch thếch, chẳng có giầy dép gì cả. Riêng tôi thì chỉ còn cái quần đùi và cái áo sơmi đã biến thành màu đen sau mấy ngày gần buồng máy.

Lên đến bờ chúng tôi chẳng biết làm gì. Đây là chiếc ghe tị nạn đầu tiên từ Việt Nam ghé đến làng này, cho nên người dân trong làng chài cũng chẳng biết làm gì. Thế là họ chạy đi kêu cảnh sát đến giải quyết. Cảnh sát địa phương đến, và việc đầu tiên là họ tìm một chỗ cho chúng tôi tá túc. Ở xã đâu có nhà tù nào chứa đến 23 người, cho nên cuối cùng thì họ sắp xếp cho chúng tôi tạm trú ngoài trời, trong một vườn dừa tại một bờ biển cách chỗ chúng tôi đổ bộ chỉ chừng vài trăm mét. Vì chúng tôi là nhóm người Việt đầu tiên đã lạc đến làng chài này, dân làng địa phương tò mò kéo đến vây quanh kín mít để ... nhìn mặt. Khác với những con người hung bạo mà chúng tôi gặp trên biển cả, họ là những người dân chài hiền lành, chất phác, luôn có nụ cười trên môi. Mặc dù khác biệt về ngôn ngữ và trở ngại trong trao đổi bằng tiếng Anh, dân chúng ở làng này, nói chung, đã đối xử với chúng tôi trong tình người trong lúc hoạn nạn: khi mới lên bờ, họ mang quần áo, gạo và thức ăn cho chúng tôi sống qua ngày. Chúng tôi có được 3 cái mùng để ngủ ban đêm.

Tuy nhiên, những ngày đầu cũng xảy ra vài chuyện cười ra nước mắt. Khi đêm đến, hàng đoàn đàn ông con trai trong làng vận xà-rông kéo nhau tới ngồi xổm, hai tay chống lên cầm, phì phèo thuốc lá và … trố mắt nhìn chúng tôi như nhìn những sinh vật xa lạ! Có người còn bạo dạn giở trò sàm sở [hay thân mật] lại gần sờ tay chân đàn bà con gái, gây ra náo loạn trong nhóm. Đám đàn ông và thanh niên nhận thấy tình thế không mấy an toàn, nên chúng tôi quyết định phải bảo vệ phái yếu. Ban ngày, một nhóm người đi làm kiếm gạo, cá và nước mắm, còn một nhóm đàn ông thì ở lại để bảo vệ. Ban đêm, chúng tôi ngủ vòng ngoài, phụ nữ ngủ vòng trong. Ấy vậy mà đêm thứ hai có một tên nào đó lại gần đưa tay sờ mó gặp nhằm anh thanh niên kia, anh ta “dằn” cho một trận và tên đó chạy mất trong đêm tối..


...

Nhưng, qua tìm hiểu tôi mới thấy những phồn vinh, náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ quá khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Nhiều người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi không nghĩ là mình có thể quên được những câu chuyện thương tâm của nạn nhân bọn cướp biển Thái Lan. Nếu tôi phải dùng một từ ngữ mạnh, đó là: không bao giờ quên và cũng không bao giờ tha thứ. Có thể nói tội ác của người Thái đối với người tỵ nạn Việt Nam sánh tương đương với bọn Đức Quốc Xã đối với người Do Thái, với bọn Pol Pot với dân Campuchea. Thế giới đã nghe nhiều về “holocaust”, "killing field" (cánh đồng chết chóc) nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về "killing sea" (sát hải). Vùng biển Thái Lan là nơi đã từng chôn vùi biết bao thân xác của đồng hương ta. Sau này, tôi có viết một bài trên báo Sydney Morning Herald để nhắc thế giới về những thảm cảnh của người tị nạn Việt Nam ở Thái Lan trong thập niên 1980s mà tôi gọi là “killing sea”. Bài viết được trao giải thưởng gì đó (tôi quên) và tôi được tặng 500 đôla Úc!

Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự nhục nhã, nhưng bị chính người tị nạn hành hạ lại còn nhục nhã và đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa và dã man của những người Việt đối với người Việt. Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một anh thanh niên nọ bị tố cáo là "cộng sản", anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường. Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): "Đ M, muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?". Anh tôi lôi ra ngoài, chứ không thì chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến nổi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị tật. Đó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế. Ngày xưa, chính tôi cũng từng bị cảnh sát đánh vài dùi cui cảnh cáo, chứ không đến nổi quá tàn nhẫn như vậy.

Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi được dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội qui sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng nói Bắc kì nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản. Ông ta nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao ủy Tị nạn LHQ ghi chép ở Budi; thế thì cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm với chế độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng. Nhưng hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm kí hiệu cho tôi biết là đừng khai. Anh Ba Hà Nội ngồi cạnh tôi và có lẽ có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi là cứ lờ đi cái "lí lịch cộng sản" đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn. Nhưng không may mắn cho những người khác, trong đó có hai anh bạn của tôi, T và S trong tàu "Hải sản" từ Budi lên, những người đã thành thật khai báo là có làm việc sau 1975 như là tài công và thủy thủ. Hai anh bạn tôi, liền sau đó được "mời" lên Ban Trật Tự "làm việc". Cả hai bị đánh nhừ tử. Mặt mũi hai anh này bị sưng húp lên, mắt thì bầm, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T thề rằng sẽ có ngày trả thù bọn người mà anh ta cho là "lũ chó đẻ". Tôi ngao ngán cho số phận tị nạn. Hết bị người Thái hành hạ, giờ đến bị nhóm người đồng hương tự nhận là "yêu chuộng tự do" đánh đập. Sau lần T và S bị đánh, có một anh cựu sĩ quan đi chung thuyền với tôi, lân la tìm chỗ tôi trú ngụ và nói bâng quơ "Tao mà nói ra thì có thằng còn bị đánh nữa!" Ý anh ta muốn nói tôi và anh Ba Hà Nội. Tôi kinh tởm cho anh chàng sĩ quan này, vì anh ta là người "đi ké", và bị chê là hèn khi đi trên ghe và lười lao động khi ở Budi mà giờ này trở mặt mau như thế!

Có thể nói trại tị nạn Songkhla là một VNCH thu nhỏ. Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có "Ban Trật tự"; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được "đổi tên" thành "Ban Thông tin Văn hóa"; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành "cựu quân nhân", có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!) Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn và tàn bạo hơn. Theo qui chế của UNHCR lúc đó, chúng tôi, những người mới nhập trại, đáng lẽ được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được người em họ nhập trại trước tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Thằng em tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý là "Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được." Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày. Ở trại tị nạn, Ban Bưu Tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chận, ăn cắp hay nói đúng hơn là ăn cướp, tiền bạc của người tị nạn. Có nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của ban Bưu Tín này. Và nếu có tới người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chận. Trong khi các Ban có cơ hội ăn hối lộ, ăn chận đồng hương thì cũng có ban chuyên hành hạ đồng hương. Ban Trật Tự ở trại có lẽ là một nhóm người có thể nói là hung thần ác quỉ, là những người tay sai lưu manh cho bọn người Thái, chuyên khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không nương tay, và vô cùng tàn nhẫn. Có tên còn lập công với cảnh sát Thái bằng những phương pháp tra tấn "hiện đại", hay thậm chí dẫn gái cho bọn chủ Thái của chúng hành lạc. Không biết bao nhiêu người tị nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Thù oàn nối tiếp thù oán. Những người đánh đập đồng hương cũng đi tị nạn ở nước thứ ba, nên một số họ không may mắn trốn thoát nạn nhân của mình thì bị đánh đập dã man ngay tại Úc, tại Mĩ; còn số khác thì xa lánh cộng đồng, vì sợ gặp nạn nhân cũ sẽ trả thù.



Hôm nay, Anh Cát Lợi thiệt hại ít nhất sáu tỷ bảng, tương đương mười tỷ Oa - sinh - tơn tệ vì cái đám cưới khỉ gió nào đó.